Về Xu Thế Thoái Đảng Hiện Nay

Như chúng ta đã biết sau khi chế độ Muammar Gaddafi bị sụp đổ không một người dân Libya nào kể cả những quan chức và gia tộc của họ trước đây phục vụ cho chế độ tàn ác này nhận là mình đã từng ủng hộ và làm việc cho Gaddafi! Tại sao như vậy, vì một lẽ rất dể hiểu, thói đời người ta phù thịnh chứ không ai dại gì phù suy. Khi Gaddafi còn trên ngai vàng thì ai cũng muốn được chia phần cái khối vàng khổng lồ đó không cần biết đến lương tâm con người và trách nhiệm của công dân. Đến khi thế cuộc thay đổi một môi trường chính trị mới hình thành với những mối quan hệ mới và thế lực mới không ai muốn mình bị bỏ lại phía sau, bị gạt ra ngoài lề xã hội nên họ thẳng tay phủ nhận cái quá khứ một thời “vàng son” của mình, họ muốn tìm một vị thế trong xã hội mới thuận lợi hơn và an toàn hơn để tiếp tục cuộc chơi mưu tìm quyền lực và quyền lợi.   Tại Trung hoa trước công nguyên, khi nhà Tần suy vi, hào kiệt khắp nơi nổi dậy để tranh hùng, những thế lực mới được tập hợp và nỗi lên cướp chính quyền, không ai muốn chậm chân mất phần, hậu quả này là do sự tàn độc của Tần vương làm người dân căm hận, xã hội chia rẽ vì bất công, nhưng còn một điều quan trọng nữa là giới sĩ phu và hào kiệt đã nhìn thấy sự tồn tại của nhà Tần không còn hợp với lòng dân và thời cuộc nên đã bỏ nhà Tần mà tập hợp lại dưới ngọn cờ của những thế lực mới. Đây là quy luật muôn đời của chính trị.   Ngày hôm nay ở Việt nam chưa hội đủ những điều kiện như Libya hay nhà Tần trước đây nhưng những ai có viễn kiến đều nhìn nhận rằng chế độ CSVN sẽ sụp đổ là một điều chắc chắn vì chế độ này đã bộc lộ hết những cái phi nhân tính và phản khoa học của nó, đã hiện nguyên hình là một chế độ phản dân hại nước, bất công , tàn bạo và cực kỳ tham nhũng. Xã hội VN ngày hôm nay chia rẽ sâu sắc, mầm mống hận thù và nghi kỵ đã đầu độc mọi mối quan hệ, đảng CS đã hiện nguyên hình là một nhóm lợi ích là bọn tư bản đỏ cực kỳ tham lam và vô trách nhiệm câu kết với ngoại bang để duy trì quyền lực, là một sự sỉ nhục đối với dân tộc. Đảng CS hoàn toàn không có tương lai, hiện nay đảng CS chỉ có thể dùng quyền lợi như một miếng mồi để tập hợp lực lượng, như một chất keo để gắn kết hàng ngũ, bên cạnh việc dùng thủ đoạn cùng bạo lực để duy trì sự thống trị.   Không có chính nghĩa, không còn cái hào quang giả tạo được thêu dệt để mị dân, bế tắc về đường lối lãnh đạo, sụp đổ về lý tưởng và hoang mang về tương lai, đảng CS hiện nay chỉ nắm được quyền lực nhưng không nắm được lòng dân, chỉ biết dùng biện pháp đàn áp và khủng bố, bưng bít thông tin để kiểm soát tình hình, đây là một trò chơi nguy hiểm vì không thể kéo dài vĩnh viễn và có thể tạo phản ứng tức nước vỡ bờ bất cứ lúc nào, nhưng đảng CS không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp tục lao theo chính cái lao của họ, họ đã trở thành con tin của chính mình, họ bị thời cuộc xô đẩy nên chỉ có phản ứng đối phó chứ không làm chủ được thời cuộc, đảng CS đang ngồi trên lưng hổ muốn “hạ cánh an toàn” cũng không phải là điều dể, nguy cơ bị tiêu diệt luôn rình chờ chỉ cần một biến động lớn của thời cuộc là sụp đổ. Tham nhũng và lộng hành vừa là bản chất vừa là hệ quả của chế độ độc tài, họ dùng thế độc tôn quyền lực để tham nhũng và dùng tham nhũng nuôi sống độc quyền, tham nhũng và quyền lực dựa vào nhau để sống, không thể tách rời. Tham nhũng và lộng hành tại VN ngày hôm nay đã mất kiểm soát, nó như một chiếc xe lao dốc mà đứt thắng, chiếc xe chế độ đang lao về hố thẳm để kết thúc cuộc hành trình trong tủi nhục nhưng không có một ai, một cơ chế nào đủ khả năng và quyền lực để dừng lại hoặc chuyển hướng Ngày 28 tháng 11 vừa qua, cái gọi là quốc hội nước CHXHCN Việt nam bỏ phiểu thông qua cái gọi là bản tu chính Hiến pháp, hành động này là một sự sỉ nhục đối với người dân và là một trò hề đối với cộng đồng quốc tế, nó là giọt nước làm tràn ly dẫn đến xu thế thoái đảng đang và sẽ xãy ra trong thời gian tới. Việc thoái đảng hiện nay chưa thể xãy ra rầm rộ và chưa thể đánh sập đảng CS nhưng nó sẽ âm thầm tàn phá chế độ, nó sẽ tiếp tục diễn biến theo thời gian và thời cuộc mà thời cuộc hiện nay là vô cùng bất lợi cho đảng CS và chế độ vì nó ngầm chứa nhiều rủi ro có thể làm đổ vỡ trật tự quốc tế hiện nay, điều này giống như một trận địa chấn mạnh mà ngôi nhà chế độ CSVN đang lung lay tận gốc rể.   Từ khi Trung cộng trở thành cường quốc kinh tế thứ hai sau Mỹ, với tiền bạc dồi dào chế độ độc tài đại Hán này đã bộc lộ tham vọng bá chủ và mưu toan làm thay đổi cấu trúc an ninh khu vực và thế giới đã có từ sau đệ nhị thế chiến, buộc Mỹ phải chuyển trục sang vùng châu Á – Thái bình dương để sẵn sàng đối phó thì quan hệ Mỹ- Trung, Nhật- Trung đã trở nên căng thẳng chưa từng thấy, đây là một sự phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại vì một khi tương quan lực lượng thay đổi thì trật tự và chiến lược cũng phải thay đổi, và sự thay đổi này sẽ dẫn đến đối đầu là không thể tránh được chỉ còn là thời gian. Lãnh đạo của đảng CSVN đã nhìn thấy điều tất yếu này nên rất hoang mang lo sợ tìm cách đối phó, nhưng cái cơ chế do chính đảng CS đặt ra lại là một trói buộc không có tính uyển chuyển để thích nghi với thời cuộc vì thiếu những yếu tố quyêt định đó là tính dân chủ và tinh thần khoa học, hơn nữa những chuyển động quốc tế này nằm ngoài tầm với của đảng CSVN vì đảng CS chỉ là một quân cờ trong bàn cờ khu vực chứ không phải là người chơi cờ. Chính vì vậy đảng CSVN hiện nay đang thực hiện kế sách “án binh bất động” để chờ diễn biến thời cuộc đi đến đâu, nói chính xác hơn là đảng CS đang chờ xem quan hệ Mỹ- Trung, Nhật – Trung diễn biến thế nào trong thời gian tới, có tránh được nguy cơ chiến tranh hay không và một trật tự mới sẽ xác lập như thế nào. Nhưng cái viễn tượng về một trật tự mới lại hoàn toàn không thuận lợi cho đảng CSVN vì nó chưa hiển lộ nên vẫn chưa dẫn đến tình trạng thoái đảng rầm rộ, nó chỉ là một lời cảnh báo sớm cho những ai có viễn kiến. Những ngày vừa qua có một vài nhân sĩ trí thức từ bỏ hàng ngủ của đảng CS, chúng ta vui mừng vì điều đó nhưng lịch sử và đại cuộc không thể hình thành từ một vài cá nhân có thiện chí và tâm huyết với đất nước mà lịch sử và đại cuộc chỉ có thể hình thành từ một xu thế do đại vận khách quan định hình, khi đó sự thoái đảng mới thực sự là dòng đại giang đổ ra biển lớn không một thế lực nào ngăn chận nổi. Người xưa nói “tri mệnh thức thời duy tuấn kiệt” , quyết định bỏ đảng của những nhân sĩ trí thức trên chứng minh họ là những con người biết mình, hiểu thời thế và có viễn kiến, tất nhiên cái tâm với đất nước, danh dự của một con người cũng là động lực thôi thúc cho quyết định thoái đảng trên. “Trâu chậm uống nước đục” hy vọng những đảng viên CS đang còn chần chừ hiểu điều này, con tàu thời cuộc không đứng lại mãi để chờ đợi ai, chúng ta không kỳ vọng lương tri ở những người CS đang cúc cung phục vụ chế độ, chúng ta chỉ hy vọng rằng họ là những người thức thời và có viễn kiến để nhận thấy rằng đảng CSVN không có tương lai, chế độ CS không hợp lòng dân và không có chổ đứng trong một trật tự thế giới mới sẽ hình thành, nhận thức được như vậy sẽ giúp họ có những quyết định không quá muộn màng, cái gì phải bỏ thì nên bỏ sớm. Đừng để như những quan chức của chế độ Gaddafi khi chế độ sụp đổ rồi thì mới thanh minh rằng mình chưa bao giờ ủng hộ Gaddafi, như vậy là mất cơ hội vì quá muộn và không trung thực. Việt nam hậu CS phải là một chế độ dân chủ tự do, văn minh và nhân bản, không có sự kỳ thị chính kiến hay quá khứ, nhưng tâm hồn thanh thản vẫn là một điều kiện cho một cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Huỳnh ngọc Tuấn Nguồn: .vietthuc.org
......

Hết Bắc Hàn lại Bắc Kinh - Ổn định chính trị theo định hướng XHCN

Tin lãnh tụ Bắc Hàn Kim Chính Ân hạ thủ ông dượng kiêm cố vấn tối cao của mình là Trương Thành Trạch chưa rời các bản tin và bình luận khắp châu Á và thế giới, thì hôm nay lại có tin lãnh tụ Trung Quốc Tập Cận Bình giáng cho đối thủ của ông là Chu Vĩnh Khang tội âm mưu ám sát Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước. Ông Chu Vĩnh Khang khi còn là hung thần của chế độ.   Điều làm thế giới kinh ngạc là ông Chu Vĩnh Khang đang ngồi ghế Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị đảng CSTQ, với trách nhiệm Trưởng Ban Chính Pháp Trung Ương, tức cai quản toàn bộ ngành công an, an ninh, tòa án, trại tù, ....   Theo tin lọt ra ngoài, thì trong buổi họp Bộ Chính trị để lấy quyết định hạ bệ Bí Thư Tỉnh Trùng Khánh là Bạc Hy Lai, ông Chu Vĩnh Khang là người duy nhất bỏ phiếu chống. Thế lực quá lớn của họ Bạc trong đảng và quân đội đã khiến các lãnh tụ thuộc cả thế hệ Hồ Cẩm Đào và thế hệ Tập Cận Bình lo ngại. Họ quyết định giao cho cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo xuống tay trấn áp trong những tháng trước khi ông mãn nhiệm. Sau khi gia đình và toàn bộ mạng lưới nhân sự của Bạc Hy Lai bị ném vào tù và tước hết chức vụ, giới lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu bao vây Chu Vĩnh Khang - người mà họ cho là đã bảo kê và tiết lộ các ý định của Bộ Chính Trị cho họ Bạc.   Ông Khang bắt đầu bị "điều tra" vào tháng 5/2012. Sau đó, giới lãnh đạo Bắc Kinh cho rò rỉ các tin đồn ông Khang phạm tội tham nhũng. Nhưng loại tội danh này chỉ tạo phản ứng ngược và các chế diễu vì công luận vừa được báo New York Times tiết lộ về cái núi gia tài 2,7 tỉ mỹ kim của gia đình người cán bộ được xem là "sạch nhất" Bộ Chính Trị, Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Chắc chắn gia tài của các ủy viên khác khó có thể nhỏ hơn. Chính vì thế mà các tội danh của ông Chu Vĩnh Khang được rò rỉ ra cứ lớn dần để thăm dò dư luận, và đến nay thì khó có tội danh nào nặng hơn tội âm mưu ám sát nhân vật số 1 của đảng và nhà nước Trung Quốc. Lần này 2 nơi được dùng để rò rỉ tội danh mới là tờ China Post và Mingjing News. Theo giới phân tích thời cuộc thì nếu thấy phản ứng của phe nhóm còn sót lại của Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang yếu ớt, giới lãnh đạo hiện thời sẽ cho báo đài chính thức loan tải. Khi đó sẽ khó cho ông Khang thoát án tử hình.   Phe cánh ông Tập Cận Bình biết đây là loại tội danh khó chứng minh với công luận Trung Quốc, những người vốn đã mất tin tưởng vào hệ thống điều tra và tòa án Trung Quốc -- cả tội danh lẫn bằng chứng và bản án đều luôn là những sản phẩm do phe đang nắm quyền tạo sẵn. Nhiều tin tức cho thấy guồng máy của ông Tập Cận Bình đã thu tóm nhiều người cho khâu "nhân chứng". Hiện trong tay họ đã có các thư ký, cận vệ, tài xế và cả một người con trai của ông Chu Vĩnh Khang là Chu Bân. Xem ra không chỉ người dân Trung Quốc mới là nạn nhân của chế độ độc tài, toàn trị, và vô pháp luật. Ổn định chính trị dưới bóng CNXH thực chất là luật rừng xanh của thời ... cộng sản nguyên thủy: kẻ thua cuộc trở thành "món nhậu". Nguồn: DienDanCTM  
......

Việt Nam nên học tập tinh thần " Sự thật và hòa giải" của người cộng sản Nelson Mandela

Lễ tưởng niệm Nelson Mandela tại Sân vận động Soccer City Stadium, Soweto, ngoại ô Johannesburg ngày 10/12/2013 đã được truyền đi khắp thế giới. Chúng ta thấy hàng trăm nhà lãnh đạo trên khắp thế giới trong lễ tưởng niệm này, trong đó có tổng thống Mỹ Obama và và 3 cựu tổng thống Mỹ, Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon, Chủ tịch Cuba Raul Castro, tổng thống Iran. Trung quốc cử một đại diện cao cấp là Phó Chủ tịch nước Lý Nguyên Triều, Việt Nam cử một vị mang hàm Bộ trưởng nhưng không ai rõ tên tuổi. Tất cả các nhà lãnh đạo từ tả sang hữu, từ tư bản đến cộng sản đều ca ngợi hết lời Mandela, người khổng lồ của lịch sử.   Sáng cùng ngày, ở Việt Nam, một số trí thức tham gia Diễn đàn xã hội dân sự đã đến tưởng niệm tại Đại sứ quán Nam Phi tại Hà Nội, mang theo bài thơ của nhà thơ Bùi Minh Quốc “Mandela”. Sau đó vài giờ, Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng đến viếng tại đây với lời ghi chú Mandela là lãnh tụ kiệt xuất của các dân tộc bị áp bức.   2)      Rất ngạc nhiên khi không có báo chí Việt nam nào của Đảng nhắc đến Mandela đã là một người cộng sản. Trong thông cáo ngày 6/12/2013 của ANC (Đảng cầm quyền Nam Phi hiện nay) đã khẳng định Mandela không chỉ là nhà lãnh đạo của ANC mà còn là nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Nam Phi. Khi còn sống, nhiều người khẳng định Mandela là đảng viên cộng sản, tuy nhiên Mandela không chối bỏ mà cũng không khẳng định điều đó. Ông từng viết “There will always be those who say that the Communists were using us, but who is to say that we were not using them?”, tạm dịch “Sẽ luôn có những người nói rằng những người Cộng sản đã lợi dụng chúng tôi, nhưng ai có thể nói rằng chúng tôi không lợi dụng họ?” 3)      Mối tương duyên giữa Mandela và Đảng cộng sản Nam Phi hình thành từ những năm 50-60 của thế kỷ trước, Mandale bị truy đuổi theo Đạo luật ngăn chặn cộng sản của chế độ Apartheid (gần giống như Đạo luật 10-59 của Ngô Đình Diệm). Sau khi cho rằng đấu tranh bất bạo động không thể thành công, ông đã trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt phái đấu tranh bạo động của ANC. Ông đã liên minh với Đảng cộng sản Nam Phi để đấu tranh vũ trang, và trở thành nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Nam Phi nhưng không được Đảng cộng sản Nam Phi công bố. Phe chủ trương bạo động của ANC đã học tập chiến tranh du kích của những người nổi dậy Algeri chống thực dân Pháp, những người Algeri này lại học những người cộng sản Việt Nam đã biết cách thắng thực dân Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Suy rộng ra, Mandela có thể coi là “học trò đấu tranh vũ trang” của Cộng sản Việt Nam. Ông đã bị kết án chung thân vào năm 1964 vì tội bạo động chống chính quyền Apartheid. Ông cũng bị Mỹ, Anh quốc liệt vào danh sách những kẻ khủng bố. Hàng mấy chục năm tù, Mandela đã khiến một số người phương Tây khâm phục đã viết bài hát “Free Nelson Mandela” và đã trở thành bài hít nhất vào những năm 1980. Phong trào đòi tự do cho Mandela ở các nước Châu Âu và Mỹ mạnh mẽ như phong trào phản chiến chống Mỹ can thiệp ở Việt Nam (1960-1970). Phong trào này buộc chế độ Apartheid phải trả tự do cho Mandela. Sau khi Chris Hani lãnh tụ Đảng cộng sản Nam Phi và ANC bị ám sát chết và người bạn, đồng nghiệp Olive Tambo- Chủ tịch ANC chết vào năm 1993, Nam Phi rơi vào khủng hoảng trầm trọng, có khả năng xung đột giữa các màu da, nhà cầm quyền Apartheid và nhân dân Nam Phi nhận ra không ai khác ngoài Mandela có khả năng hàn gắn các chủng tộc của Nam Phi. Năm 1994, Nelson Mandela đắc cử tổng thống Nam Phi với 62% số phiếu bầu. Ông làm tổng thống đúng một nhiệm kỳ 5 năm, đặt cơ sở cho nền dân chủ đa chủng tộc ở Nam Phi, phục hồi và phát triển nền kinh tế thị trường của Nam Phi. Ông đã lập Ủy ban sự thật và Hòa giải để khép lại quá khứ. Sau khi thôi không làm Tổng thống, ông còn hoạt động tích cực 5 năm nữa và chỉ thực sự về hưu vào năm 2004. Lần xuất hiện cuối cùng trước công chúng của ông là vào 2010 (nhân dịp World Cup được tổ chức tại Nam Phi, việc đăng cai thành công chủ yếu nhờ vào uy tín và nỗ lực của Mandela). 4)      Những điều tạo nên sự khác biệt giữa Người cộng sản Mandela và các nhà lãnh đạo cộng sản khác.   (i) Mặc dù đã từng lãnh đạo bạo động, nhưng Mandela trở thành tổng thống sau một cuộc bầu cử dân chủ, hòa bình. Ông chỉ làm tổng thống một nhiệm kỳ. Trong khi hầu hết các nhà lãnh tụ cộng sản khai quốc trên thế giới làm lãnh đạo đất nước sau khi lật đổ bằng bạo lực chế độ cũ hoặc do kết quả của một cuộc chiến, và họ đều lãnh đạo hết đời hoặc cho đến khi bị thanh trừng.   (ii) Thay vì tìm cách duy trì sự thống trị độc đảng cho phe mình (ANC hoặc Đảng cộng sản), Mandela đã xây dựng một chế độ dân chủ đa đảng, các đảng đều có thể cạnh tranh với ANC, kể cả những đảng đối lập của người da trắng lẫn người da đen. Người ta giải thích có thể do Mandela là một luật sư, và ông hiểu một nhà nước dân chủ, pháp quyền không thể là một nhà nước độc đảng. Điều đó chưa chắc đã đúng, vì Phidel Castro trước khi trở thành lãnh tụ cộng sản Cuba đã là một luật sư tài ba.   (iii) Sau khi nắm quyền, Mandela đã không chủ trương quốc hữu hóa nền kinh tế như các nước cộng sản hoặc theo khuynh hướng cánh tả. Có người cho rằng ông đã nghe lời khuyên từ Lý Bằng (nguyên Thủ tướng Trung quốc, 1987-1998), với kinh nghiệm của Trung Quốc. Ông đã mời những chuyên gia kinh tế hàng đầu để xây dựng lại nền kinh tế thị trường. Với sự sát sao và kinh nghiệm của một luật sư, ông đã tham gia hoạch định chính sách kinh tế, phục hồi và phát triển nền kinh tế Nam Phi từ một đất nước bị thế giới bỏ rơi, tẩy chay, cấm vận.   (iv) Ông không công khai là đảng viên cộng sản, vì Đảng cộng sản của ông cũng đã nhận thấy hình mẫu chế độ Xô viết (dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản) không còn hấp dẫn cho quần chúng và thế giới, do sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu vào thời điểm ông được tự do và trở thành người lãnh đạo Nam Phi.   (v) Sự khác biệt lớn nhất là Mandela đã lập Ủy ban Sự thật và Hòa giải. Ủy ban này không nhằm mục đích trừng phạt kẻ thù của ANC và người da đen, mà nhằm làm sáng tỏ sự thật về những tội ác trong thời kỳ Apartheid, chủ trương hòa giải giữa những người đã theo chủ nghĩa Apartheid và gây tội ác với những nạn nhân của chủ nghĩa này, bồi thường cho nạn nhân của tội ác. Những người đã tham gia chế độ Apartheid vẫn được tiếp tục tham gia đời sống kinh tế chính trị của Nam phi, sau khi họ đã từ bỏ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Ủy ban Sự thật và Hòa giải không chỉ tìm sự thật về những tội ác của chế độ Apartheid và những người da trắng đối với người da đen, mà còn làm sáng tỏ những hành vi bạo lực quá mức của những thành viên của ANC và những người da đen (kể cả gây ra đối với người da trắng) trong thời kỳ Apartheid. Mandela không chỉ là người đấu tranh lật đổ chế độ Apartheid, ông trở thành người khổng lồ của lịch sử chính vì ông là người hòa giải vĩ đại. Ông sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã tù đầy ông hàng chục năm, sống hòa bình với họ, thậm chí tổng thống cuối cùng của chế độ Apartheid Nam Phi đã trở thành bạn thân của ông. Cái bắt tay giữa hai người đứng đầu của hai nước thù địch là Tổng thống Mỹ Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro trong lễ tang Mandela đã thể hiện các nhà lãnh đạo này đã biết học tập tinh thần hòa giải của Nelson Mandela.   Tinh thần sự thật và hòa giải của Nelson Mandela xứng đáng là tấm gương cho những người cộng sản Việt Nam cũng như những nhà chính trị, những người đấu tranh khác noi theo./ Nguồn: bolapquechoa.blogspot.de
......

Kim Jong Un làm Bắc Kinh nhức đầu

Khi Stalin thanh trừng các đồng chí trong Bộ Chính Trị, họ bị giam giữ, tra hỏi nhiều tháng trời, cuối cùng bị đưa ra tòa, ai cũng thú nhận tội chống đảng, tỏ ý hối hận, và xin lãnh tụ khoan hồng, sau cùng họ vẫn bị giết. Jang Song-thaek bị lôi xềnh xệch ra khỏi phòng họp   Mao Trạch Ðông thì bắt những đồng chí như Bành Ðức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ kéo dài những ngày tàn tạ trong cảnh quản thúc, vợ con nheo nhóc, bạn bè bỏ rơi. Các lãnh tụ cộng sản thường vẫn muốn làm nhục các đồng chí, họ không hài lòng nếu chỉ cách chức hay giết các đối thủ. Nhưng mức độ tàn ác của Kim Jong Un đã vượt qua cả Stalin lẫn Mao Trạch Ðông. Người bị thanh trừng phải bị làm nhục, trước công chúng, và đem chiếu phim cho cả thế giới coi.   Các lãnh tụ cộng sản thanh trừng lẫn nhau là chuyện bình thường. Nhưng ít thấy một cảnh thanh trừng nào lộ liễu và tàn nhẫn như được chiếu trên ti vi cho 25 triệu dân Bắc Hàn chứng kiến trước đây hai ngày. Nhà độc tài nho nhỏ Kim Jong Un đã quyết định cho đài truyền hình chiếu cuốn phim cậu ta hạ bệ ông chồng bà cô ruột, mà trong hai năm qua vẫn được coi như người bảo trợ, đóng vai ủng hộ cậu lên vai lãnh đạo đảng và nhà nước Bắc Hàn. Jang Song-thaek bị lính mặc đồng phục kéo ra khỏi ghế ngồi, lôi xềnh xệch ra khỏi phòng, trong một phiên họp của Bộ Chính Trị mở rộng. Hàng ngàn quan chức trố mắt nhìn theo, chắc ai cũng lo sợ không biết bao giờ đến lượt mình là nạn nhân. Tất cả những người trong phòng đều là đàn ông, cao tuổi, mặc áo kiểu Mao giống hệt nhau. Chỉ có một quan chức ngồi hàng ghế thứ ba cúi nhìn xuống bàn, làm như đang cắm cúi viết. Viên quan này chắc sẽ bị trừng phạt vì dám từ chối không chứng kiến thủ đoạn tàn nhẫn của “lãnh tụ quang minh,” danh hiệu chính thức của Kim Jong Un, tên chữ Hán là Kim Chính Ân, còn gọi là Cậu Ủn. Ông bố Kim Jong Il (Kim Chính Nhất) lúc còn sống vẫn được gọi là “lãnh tụ kính yêu,” còn ông nội Kim Il Sung (Kim Nhật Thành) được suy tôn là “lãnh tụ vĩ đại.” Triều đại nhà Kim đã truyền đến đời thứ ba, vẫn cương quyết đưa dân Bắc Hàn tiến tới chủ nghĩa xã hội!   Jang Song-thaek bị kết tội tham nhũng, lạm quyền, sống xa hoa, đánh bạc, dùng ma túy, bán rẻ tài nguyên quốc gia cho ngoại quốc, và thêm mắm thêm muối với tội ngoại tình vì “bị ảnh hưởng của lối sống tư bản!” Sau màn bắt giữ giữa phiên họp, đến những màn các thuộc hạ của Jang Song-thaek lên ti vi kể tội ông sếp cũ của họ, vừa kể lể vừa khóc lóc, họ khóc một cách thành thật vì không biết mình “tố khổ” như vậy đã đủ để được tha tội chết hay chưa.                                                                                                                Jang Song-thaek thời Kim Jong Il Hai năm trước, khi “lãnh tụ kính yêu” chết, Jang Song-thaek đã được ủy thác giúp đứa cháu nắm vững quyền bính. Jang Song-thaek, tên chữ Hán đọc là Trương Thành Trạch, là chồng bà Kim Kyong Yui, con gái út của “lãnh tụ vĩ đại,” tên chữ Hán đọc là Kim Kính Cơ. Cả hai vợ chồng đều được phong làm đại tướng, bà cô lên chức đại tướng cùng ngày với cậu cháu, trước khi ông anh Kim Jong Il chết. Trương Thành Trạch được anh vợ cho nắm chức trưởng ban tổ chức, phong thêm chức phó chủ tịch quân ủy trung ương, nắm guồng máy an ninh để phòng ngừa đám tướng lãnh có thể bất phục thằng con miệng còn hơi sữa; rồi trao cho nhiệm vụ săn sóc cho đứa cháu lên ngôi kế vị bố một cách an toàn. Ông chú đã làm tròn nhiệm vụ. Cậu Ủn được đưa lên làm chủ tịch quân ủy trung ương, chủ tịch nước, chủ tịch đảng, tổng tư lệnh quan đội, phong hàm “nguyên soái,” một cấp bậc ngang với chức thống chế, cao nhất trong quân đội. Cậu là người duy nhất mang cấp bậc nguyên soái, chỉ có một cấp cao hơn là đại nguyên soái, mà từ trước đến nay người duy nhất được phong đại nguyên soái là ông nội Kim Nhật Thành. Các tướng lãnh được triệu tập, đưa tay lên thề trung thành với cậu Ủn. Cậu cho nổ trái bom nguyên tử để cho dân Bắc Hàn thấy mặc dù họ đói rét những lãnh tụ của họ không sợ Mỹ vì có bom nguyên tử.   Chỉ sau hai năm, ông Ủn đã ra tay thanh trừng ông chú. Ðiều này cho thấy cậu ta đang lo lắng, không biết ông chú đang âm mưu những gì. Trong chế độ độc tài cộng sản họ không thể tin ai cả. Ðồng chí nào cũng có thể đâm sau lưng mình. Vụ bắt giữ Trương Thành Trạch làm nhiều người ngạc nhiên; nhưng tình báo Nam Hàn đã đoán trước. Ðầu năm 2011, có hai trăm người bị bắt ở Bắc Hàn. Họ đều nằm dưới quyền của hai ông phó chủ tịch quân ủy trung ương, một ông chính là Trương Thành Trạch. Vụ bắt bớ này được ghi nhận là để ngăn ngừa không cho hai ông già lấn quyền của “lãnh tụ quang minh.” Tháng 11 năm ngoái, hai người thân tín của ông chú đã bị bắt, bị kết tội tham nhũng lạm quyền, và gây chia rẽ trong đảng. Cả hai chắc đã bị xử tử. Ba ngày trước khi Trương Thành Trạch bị hạ nhục, một đài phát thanh ở Nam Hàn còn loan tin chính Trạch cũng bị xử tử rồi.   Nhưng tại sao Kim Jong Un phải đem trưng bày cảnh ông chú bị hạ nhục, cho cả thế giới cùng coi? Có thể bản tính cậu là hung dữ. Khi còn đi học ở trường trung học Liebefeld Steinholzli gần thành phố Bern, Thụy Sĩ, trong hai năm, cậu được các bạn bè nhận xét là học không giỏi, tính hiền lành, nhút nhát và không thích con gái, nhưng rất thích bóng rổ, coi Michael Jordan là thần tượng. Một đứa trẻ nhút nhát và kém thông minh có thể mang mặc cảm tự ti. Cho nên khi nắm quyền tối cao trong tay cậu Ủn phải chứng minh rằng mình dám làm những việc tàn ác hơn đời, cốt sao cho mọi người phải sợ mình. Nhiều nhà quan sát quốc tế coi đây là một đòn làm đảng cộng sản Trung Quốc mất mặt. Vì Trương Thành Trạch vốn liên lạc mật thiết với Bắc Kinh. Tháng Tám năm ngoái, ông chú sang thăm, đã được các lãnh tụ Trung Quốc đón tiếp long trọng, dùng những nghi thức vẫn dành cho Kim Chính Nhật khi còn sống. Ông gặp Hồ Cẩm Ðào, Ôn Gia Bảo, được đưa đi thăm các khu kinh tế đặc biệt chế tạo hàng xuất cảng; để ông lấy làm mẫu đem về áp dụng ở Bắc Hàn. Trung Quốc là nước đang nuôi chế độ cộng sản Bắc Hàn, cung cấp thực phẩm, nguyên liệu, và 70% số năng lượng đang dùng. Nếu Bắc Hàn chịu cởi trói cho kinh tế thì gánh nặng viện trợ sẽ được giảm đi. Tháng trước, hãng thông tấn Bắc Hàn loan báo sẽ mở 14 đặc khu chế xuất, đó là kết quả của chuyến đi trong sáu ngày năm ngoái của Trương Thành Trạch.   Ðối với các nhà quan sát quốc tế, việc hạ thủ Trương Thành Trạch báo hiệu lãnh tụ ông Ủn dám thách thức Bắc Kinh. Trong những lời kết tội Trương Thành Trạch có nói đến việc bán tài nguyên cho nước ngoài với giá rẻ, điều này nhắm vào Trung Quốc, là nước vẫn nhập cảng quặng mỏ từ Bắc Hàn nhiều hơn các nước khác, quan trọng nhất là quặng sắt. Ngay từ đầu năm ngoái, sau khi mới lên ngôi Kim Jong Un đã công khai than phiền là các tài nguyên quốc gia bị bán rẻ, trong lúc nguồn ngoại tệ khan hiếm. Cậu Ủn yêu cầu phải tăng giá các quặng mỏ, than, và đất hiếm (một nguyên liệu thiết yếu trong các sản phẩm điện tử mà Trung Quốc hiện đang là nước bán nhiều nhất trên thế giới nhờ khai thác các mỏ ở Mông Cổ, tàn hại môi trường sống tại xứ này). Quặng mỏ lâu nay vẫn được các công ty liên doanh Trung Quốc và Bắc Hàn khai thác. Những lời tuyên bố này được báo chí ở Bắc Kinh loan tin đầy đủ, gây bất mãn cho cả hai bên. Nhiều công ty Trung Quốc sau đó đã ngưng hoạt động ở Bắc Hàn. Trước cảnh Trương Thành Trạch bị hạ thủ và làm nhục, cộng sản Trung Hoa đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Báo chí loan tin đầy đủ, kể lể hết những tội được gán cho Trạch. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao chỉ biết nói vớt rằng đây hoàn toàn là việc nội bộ của nước cộng sản anh em! Nhưng chắc chắn Tập Cận Bình phải lo lắng. Vì cuộc thanh trừng này cho thấy chế độ Bắc Hàn không ổn định. Một lãnh tụ 30 tuổi mới lên ngôi hai năm đã phải ra tay tiêu diệt đối thủ của mình, tàn nhẫn và cách công khai như vậy, chứng tỏ bên trong còn nhiều mầm biến loạn. Ðiều đáng lo nhất là trong tình trạng bất an và tâm thần hoảng loạn, Kim Chính Ân có thể hành động một cách mù quáng để bảo vệ địa vị. Chắc sau vụ thanh trừng ông chú, cậu Ủn sẽ cho nổ thêm bom nguyên tử để dọa dân và dọa các nước láng giềng. Nhưng cậu có thể còn khiêu khích Nam Hàn với lời lẽ và hành động mạnh hơn trước để ra oai với dân. Nếu Nam Hàn và Mỹ phản ứng mạnh thì Bắc Kinh sẽ đối phó ra sao? Hiện nay Tập Cận Bình đang phải đối đầu với Nam Hàn và Nhật Bản trong vụ lập vùng phòng không bao gồm cả các hòn đảo của hai nước này; và cả hai nước phản ứng rất cứng rắn. Nay thêm một mối lo thứ ba trong vùng Bắc Á châu, do một đồng chí cộng sản gây vạ. Bắc Kinh sẽ không thể gửi quân sang cứu Bắc Hàn, như Mao Trạch Ðông đã làm trước đây hơn nửa thế kỷ. Dân Trung Hoa bây giờ không ngoan ngoãn nữa, họ sẽ không chấp nhận hy sinh cho một đồng chí con con của các lãnh tụ. Nhưng nếu chế độ cộng sản ở Bắc Hàn sụp đổ thì Bắc Kinh càng nhức óc. Hàng triệu dân Bắc Hàn sẽ chạy sang Trung Quốc tị nạn, thêm vào con số nửa triệu đã trốn sang sống trong vùng biên giới. Nếu Hàn Quốc lại thống nhất với Nam Hàn trong một chế độ tự do dân chủ thì Bắc Kinh càng lo. Không những Mỹ có thêm một đồng minh mạnh hơn ngay bên cạnh Trung Quốc, mà biến cố đó có thể khích động chính người dân Trung Hoa. Họ sẽ tự hỏi: Tại sao chúng tôi không được sống dân chủ tự do? Nguồn: Người Việt Online
......

Diễn Đàn XHDS viếng Nelson Rolihlahla Mandela tại Đại sứ quán Nam Phi

Nelson Rolihlahla Mandela từ biệt thế giới ngày 5/12/2013. Ông là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi cho dân tộc, cho đất nước Nam Phi và chấp nhận tù đày, gian khổ.   Câu nói nổi tiếng của ông, thấm đẫm tinh thần nhân văn mà nhiều người vẫn nhớ, sau 27 năm sống trong nhà tù, đó là: “Khi tôi bước ra khỏi cánh cửa về phía dẫn đến tự do, tôi biết rằng nếu không để lại cay đắng và hận thù phía sau, tôi vẫn sẽ còn ở trong tù”. Đây là điều mà mọi chế độ độc tài, mọi thể chế dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin lấy bạo lực làm động lực xã hội không bao giờ có thể nghĩ đến chứ chưa nói là thực hiện. Không cần nói đến những phần thưởng cao quý ông đã được phong tặng, chỉ cần nói đến tấm lòng và công lao của ông, đã làm phần lớn trái tim nhân hậu trên thế giới kính phục. Do vậy, ông ra đi, là một tổn thất lớn không chỉ có nhân dân Nam Phi mà còn là của những dân tộc đang sống dưới chế độ phi nhân tính, dưới các chế độ độc tài, toàn trị.   Ngày 10/12/2013, ngày Nhân quyền Quốc tế, nhóm các nhân sĩ trí thức tham gia Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự đã đến viếng ông tại Đại sứ quán Nam Phi. Đoàn do Tiến sĩ Nguyễn Quang A dẫn đầu cùng với Gs Chu Hảo, Gs Ts Nguyễn Đông Yên, Gs Hoàng Xuân Phú, Luật sư Trần Vũ Hải, Kỹ sư Blogger J.B Nguyễn Hữu Vinh. Ghi vào sổ tang dòng chữ như sau: “Chúng tôi, những người tham gia Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự Việt Nam kính cẩn nghiêng mình trước anh linh Nelson Mandela, người chiến sĩ vinh quang của phong trào dân chủ trên toàn thế giới”. Đặc biệt, đoàn còn ghi bài thơ của Nhà thờ Bùi Minh Quốc gửi từ Đà Lạt để kính viếng Nelson Mandela: MANDELA Từng ngày đêm ngục tối Từng đêm ngày tỏa sáng Tiễn đưa người, Nelson Mandela Hai mươi bảy năm ngục tù Hai mươi bảy năm kên tâm, bền chí Từng đêm từng ngày Từng ngày từng đêm Nghiền Lọc Bóng tối thành ánh sáng Từng đêm ngày ngục tối Từng đêm ngày tỏa sáng Thế giới – Đen – Mandela Từ ngục tối đêm ngày tỏa sáng Hai mươi bảy năm Hai mươi bảy năm kiên nhẫn Hai mươi bảy năm âm thầm rung chấn Cho một ngày Thế giới đen Mandela Chuyển sáng òa Cả Nam Phi đen bước ra ánh sáng Cả Nam Phi trắng bước ra ánh sáng Đen Trắng giao hòa Đen Trắng yên hòa Đại nghĩa thắng hung tàn yên ả Đại nghĩa thắng hung tàn trong từng giọt máu đỏ Đại nghĩa thắng hung tàn trong mọi tế bào da Đen, Trắng yên hòa Trong DÂN CHỦ TỰ DO Đà Lạt, 10.12.2013 Nhà thơ Bùi Minh Quốc Đại sứ Nam Phi đã tiếp đoàn và cảm ơn đoàn đã đến viếng Nelson Mandela, chia buồn cùng nhân dân Nam Phi. Ngày 10/12/2013, Ngày Quốc tế nhân quyền J.B Nguyễn Hữu Vinh Một số hình ảnh buổi viếng Nelson Mandela của Đoàn Xã hội Dân sự:   Nguồn: Diễn đàn Xã hội Dân sự
......

Về ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2013

Cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai gây biết bao đổ vỡ và tang tóc khắp nơi, với con số lên đến 70 triệu người tử vong đã cho thấy sự thất bại của Hội Quốc Liên được thành lập năm từ 1919 trong mục tiêu chính là ngăn ngừa chiến tranh và cũng đã cho nhân loại thấy ra rằng chính các chế độ độc tài chà đạp nhân quyền là nguyên nhân gây nên chiến tranh tang tóc cho loài người. Năm 1945, 50 chính phủ và hàng trăm các tổ chức phi chính phủ đã nhóm họp tại San Francisco lập ra một cơ cấu mới để thay thế Hội Quốc Liên, đó là Tổ chức Liên Hiệp Quốc (LHQ). Khởi đi từ đó một Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc được thành lập để soạn thảo một văn bản về Nhân quyền mang tính phổ quát hầu đáp ứng sự khao khát một hệ thống chuẩn mực mới về quyền con người trên toàn cầu.   Khoảng giữa năm 1946, văn bản về Nhân quyền sau nhiều lần được trao đổi tại LHQ để sửa chữa, bổ sung toàn diện, LHQ đã đề cử một Ủy Ban Đặc nhiệm gồm nhiều chuyên gia lỗi lạc về luật học, lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội… xem xét tiếp. Tháng 9 năm 1948, Ủy Ban Đặc Nhiệm đệ trình bản dự thảo tuyên ngôn cho Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.   Ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại cung điện Chaillot ở Paris, Pháp quốc, Đại hội đồng LHQ chính thức thông qua bản Tuyên ngôn Thế giới về Nhân Quyền với 100% phiếu thuận và 8 phiếu trắng.   Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền là một văn kiện đề cao các quyền phổ quát của con người, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo hay giới tính nam nữ. Là lý tưởng chung của nhân loại mà tất cả các quốc gia thành viên đều chấp nhận và có nghĩa vụ phải tôn trọng. Tuy nhiên nó không có hiệu lực pháp lý và giá trị cưỡng hành. Vì vậy vào ngày 16.12.1966, LHQ đã phải ban hành thêm hai Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền. Đó là Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị; và Công Ước Quốc Tế về Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa. Hai Công ước này kết hợp với bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã trở thành bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền của LHQ. Ngày 20.7.1977, tại phiên họp lần thứ 32 Đại Hội Đồng LHQ, CHXHCN Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên thứ 149 của LHQ. Và năm 1982 nhà nước CSVN cũng đã ký kết 2 Công ước về Quyền Dân Sự và Chính Trị và Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa. Như vừa đề cập ở trên, khi gia nhập Liên Hiệp Quốc có nghĩa là CSVN đã cam kết tôn trọng tinh thần của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc với 4 mục tiêu và 6 nguyên tắc hoạt động của tổ chức quốc tế này. Một trong những mục tiêu vừa kể của Liên Hiệp Quốc là: “Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo...“. Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc hoạt động của Liên Hiệp Quốc được quy định như sau: “Tôn trọng các nghĩa vụ và luật pháp quốc tế;...“ Tuy nhiên, ngay thời điểm gia nhập Liên Hiệp Quốc, CSVN đã nổi tiếng là một nhà cầm quyền chà đạp nhân quyền vô cùng thô bạo. Dù lúc đó thông tin đang bị bưng bít chặt chẽ nhưng cả thế giới cũng đều biết việc hàng trăm ngàn cán bộ, viên chức Việt Nam Cộng Hoà bị giam cầm nghiệt ngã mà không cần xét xử. Bên cạnh đó là sự kiện hàng triệu người Việt phải bỏ nước ra đi vì sự tàn bạo và vô nhân của chế độ đã làm rúng động lương tâm nhân loại; từ đó thế giới có thêm một từ ngữ mới “thuyền nhân“ (boat people). Cho đến nay, sau gần 40 năm là thành viên của Liên Hiệp Quốc và bức màn bưng bít thông tin đã bị sự tiến bộ của kỹ thuật truyền thông, đặc biệt là của internet, xuyên thủng tan tành; CSVN tuy không còn dám tái diễn những chính sách bạo tàn một cách lộ liễu trên quy mô hàng triệu người như trước đây, nhưng như thế không có nghĩa là chế độ đã bớt đi sự tàn ác, mà chỉ uyển chuyển, tinh vi hơn trong các hành vi chà đạp nhân quyền. Trong những năm gần đây, khi tù nhân chính trị được chế độ coi như một thứ con tin, một món hàng trao đổi với thế giới bên ngoài, thì những chiến dịch đàn áp nhân quyền của chế độ ngày càng dồn dập và có hệ thống hơn. Có thể nói rằng, kể từ khi trở thành thành viên LHQ cho tới nay, nhà cầm quyền CSVN chưa bao giờ tôn trọng những gì đã ký kết về quyền con người. Người dân VN luôn bị ngăn cấm, sách nhiễu, đàn áp, bắt bớ tù đày, rồi hình sự hóa chỉ vì họ thực thi một cách ôn hòa những quyền đã được ghi trong bộ luật Nhân Quyền của LHQ. Để nguỵ biện cho những hành động vi phạm nhân quyền của mình, nhà cầm quyền CSVN luôn viện cớ rằng vì dị biệt văn hóa, vì “nhận thức“ về nhân quyền Việt Nam khác biệt với nhân quyền của các nước tây phương, hoặc vì an ninh quốc gia, v.v.... Không những thế, nhà cầm quyền còn “thừa“ trơ trẽn để lập đi lập lại rằng tại Việt Nam không có ai bị bắt chỉ vì có chính kiến riêng, quan điểm chính trị khác, hay ủng hộ dân chủ,… dù rằng cả thế giới đều biết quá rõ về những người tù lương tâm đang bị giam cầm, trong đó rất nhiều người nổi tiếng trong dư luận thế giới như Linh lục Nguyễn Văn Lý, Blogger Điếu Cày, Tạ Phong tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Luật sư Cù Huy Hà Vũ, Luật sư Lê Quốc Quân,v.v…   Chính vì thế mà các tổ chức nhân quyền như Ủy Hội Nhân Quyền LHQ, Ân Xá Quốc Tế, Hội Bảo Vệ Ký Giả, Hội Ký Giả Không Biên Giới, Cơ Quan Theo Dõi Nhân Quyền, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam và Quốc Hội của nhiều quốc gia, như Liên Hiệp Âu Châu, Hoa Kỳ, Úc, Gia Nã Đại, v.v... đã nhiều lần chỉ trích, lên án Cộng Sản Việt Nam vi phạm nhân quyền và đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội phải trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm vì họ đã tranh đấu trong tinh thần bất bạo động và theo đúng luật Quốc Tế Nhân Quyền. Ngày 18.4.2013, Nghị viện Châu Âu đã ra nghị quyết về tình trạng nhân quyền của Việt Nam bày tỏ sự quan tâm đến những nhà báo và blogger bị kết án tù và đàn áp tại Việt Nam. Đồng thời cơ chế này cũng lên án các hành vi vi phạm liên tục quyền con người của nhà cầm quyền như đe dọa, quấy rối, tấn công, bắt bớ tùy tiện, kết án tù nặng nề qua những phiên tòa trí trá, thậm thụt đối với các nhà hoạt động chính trị, nhà báo, blogger, những người bất đồng chính kiến hoặc bảo vệ nhân quyền; dù rằng họ chỉ thể hiện quan điểm trên mạng Internet… Ngoài ra, nghị quyết này còn kêu gọi chấm dứt tình trạng thu hồi đất đai bất hợp pháp và đàn áp tôn giáo; cũng như kêu gọi nhà cầm quyền CS Việt Nam chỉnh sửa hoặc tháo gỡ những luật lệ hạn chế quyền tự do báo chí và tự do thể hiện chính kiến.   Ngày 19/04/2013, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã công bố báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tình trạng nhân quyền trên thế giới. Trong phần về Việt Nam, báo cáo này đề cập đến việc nhà cầm quyền CSVN vẫn hạn chế nghiêm ngặt các quyền chính trị của công dân, đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ, và tiếp tục kiểm soát Internet, đặc biệt là sử dụng điều luật về tội "tuyên truyền chống Nhà nước" như điều 88 để vu khống, để hạn chế các quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Mới đây, phán quyết của Ủy ban Giam giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc về trường hợp luật sư Lê Quốc Quân và quyết định của Ủy Ban này tố cáo việc bắt bớ, kết án và tiếp tục giam giữ một cách bất hợp pháp mười sáu nhà hoạt động xã hội và chính trị tại Việt Nam, đã tô đậm thêm những nét vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN ngay trước ngày kỷ niệm 65 năm bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền. Những sự kiện vừa kể cho thấy, vi phạm nhân quyền không là hiện tượng mà chính là bản chất của chế độ CSVN. Bởi thế nên chẳng lạ gì khi mà ngay cả những cuộc dã ngoại phân phối bản tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền cũng bị nhà cầm quyền coi là có “tội“ để ngăn cấm, bắt bớ. Tự thân là một chế độ vi phạm nhân quyền trầm trọng, chuyên xử dụng công an để sách nhiễu, khủng bố, tra tấn người dân và luôn bị thế giới lên án, nhưng chế độ CSVN vẫn xin làm ứng viên và trở thành thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016, và vẫn ký kết vào Công ước Chống Tra Tấn của Liên Hiệp Quốc. Chưa biết điều này sẽ ảnh hưởng đến hành vi ứng xử đối với các quyền con người của Hà Nội ra sao, nhưng chắc chắc là đã cung cấp thêm cho lực lượng đấu tranh cho tự do và nhân quyền tại Việt Nam những công cụ mới để đấu tranh cho các mục tiêu của mình.   Hướng tới ngày Quốc Tế Nhân Quyền năm nay, người Việt cần hành xử các "quyền đương nhiên" của con người. Đó là tự tìm đọc và quảng bá rộng rãi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, Công Ước về các quyền Dân Sự và Chính Trị, Công Ước Chống Tra Tấn đến mọi người khắp cả nước, dù nhà cầm quyền có cho phép hay không. Đây là việc làm được Ủy Hội Nhân quyền LHQ cổ vũ, mà Việt Nam đã trở thành thành viên vào ngày 7.11.2013 vừa qua thì nhà cầm quyền CSVN không có lý do gì để ngăn cấm. Nếu không thì Ủy Hội này sẽ trở thành “Ủy Hội Chà Đạp Nhân Quyền“ của LHQ nhiệm kỳ 2014-2016.   Đã đến lúc người Việt Nam phải khẳng định tập đoàn lãnh đạo CSVN không có quyền và không thể dìm mãi dân tộc Việt Nam sống dưới lằn mức giá trị con người mà Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã minh định, để cho nhà cầm quyền tự tung tự tác kéo cả dân tộc vào hố đen tụt hậu. Nguồn: viettan.org
......

Ngày Quốc tế Nhân quyền: ra mắt Mạng Lưới Blogger VN ở Sài Gòn và Hà Nội

Bạo lực ở Sài Gòn trong Ngày Quốc tế Nhân quyền Như Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) đã thông báo, vào tối thứ ba, 10/12/2013, MLBVN sẽ ra mắt chính thức bằng việc tổ chức các buổi gặp gỡ, cafe ở Hà Nội và Sài Gòn để các blogger có thể cùng nhau trao đổi về con đường trước mặt, cũng như những hành động tích cực nhằm cải thiện và phát triển nhân quyền tại Việt Nam.   Vì e ngại lực lượng an ninh ở hai thành phố sẽ có những phản ứng cực đoan, không có lợi cho tình hình chung, cũng như có thể gây phương hại đến hình ảnh của Nhà nước Việt Nam - thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền LHQ - cho nên MLBVN quyết định sẽ hạn chế thông tin chi tiết về địa điểm và thời gian của các buổi cafe gặp mặt.   Mặc dù vậy, ngay từ sáng sớm, lực lượng an ninh cùng “quần chúng tự phát một cách có tổ chức” - gồm dân phòng, thanh niên tình nguyện, phụ nữ tự quản, cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, v.v. - đã được huy động để bám sát những blogger được xem là thành viên nổi bật của MLBVN cả ở Hà Nội và Sài Gòn: Lê Dũng, Nguyễn Vũ Hiệp, Nguyễn Đình Hà, Nghiêm Việt Anh, Lê Thiện Nhân, Nguyễn Thu Trang... (Hà Nội), Nguyễn Hoàng Vi, Hoàng Dũng, Châu Văn Thi... (Sài Gòn). Đặc biệt nghiêm trọng là vào lúc 17h chiều, hàng chục dân phòng, phụ nữ tự quản đã bao vây nhà của blogger Nguyễn Hoàng Vi (Facebooker An Đổ Nguyễn), và khi Hoàng Vi cùng mẹ con chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) bước ra ngoài, định gọi taxi đến tham dự cuộc gặp mặt, thì họ xông vào đánh túi bụi. Họ giằng giật, túm tóc, lôi hai chị cùng cháu nhỏ vào trong nhà. Bé Gấu, con của Mẹ Nấm, chỉ mới 13 tháng tuổi, cũng bị đánh rất đau. Nguyễn Hoàng Vi bị 'quần chúng tự phát' hành hung http://www.youtube.com/watch?v=uiuo7eFJMVY Theo kế hoạch, buổi cafe ra mắt MLBVN diễn ra tại Sài Gòn từ 17h. Tuy nhiên, có lẽ vì biết trước như thế nên các “phụ nữ tự quản” đã bao vây nhà blogger Hoàng Vi từ sớm. Cùng với màn túm tóc, đấm đá, lôi kéo xô đẩy Hoàng Vi và mẹ con blogger Mẹ Nấm, cuối cùng họ khóa cửa, nhốt cả Hoàng Vi và mẹ con Mẹ Nấm trong nhà. Blogger Hoàng Dũng, hay tin các bạn mình bị hành hung và bị nhốt, đã cùng một nhóm bạn đến hỗ trợ và kết quả là anh cũng bị đánh rách mí mắt, chảy nhiều máu. Một blogger khác, Trần Hoàng Hận (trên tên Facebook là Go Find Freedom), bị đánh ngay gần nhà Hoàng Vi và tới khoảng 8h tối thì anh bị đưa về Công an Phường 17, Quận Gò Vấp, không lý do Buổi cafe tại địa điểm dự kiến bị buộc phải hủy. Mặc dù vậy, các blogger vẫn tiếp tục tổ chức gặp mặt, chỉ di chuyển sang một nơi khác. MLVN lên án những hành vi bạo lực của lực lượng an ninh - “quần chúng” nói trên, đặc biệt là khi những hành vi đó nhằm vào phụ nữ và trẻ em. Một lần nữa, chúng tôi cảnh báo: Việc làm của các vị đang gây mất trật tự xã hội, chia rẽ những người dân, phá hoại tình cảm công dân và làm tổn hại đến hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Từ Hải Phòng, Blogger Phạm Thanh Nghiên, là một thành viên của Mạng Lưới Blogger Việt Nam, đã bày tỏ sự phẫn nộ trước tin hai người bạn của chị là Mẹ Nấm và Nguyễn Hoàng Vi bị hành hung. Chị nói: Nhân danh một thành viên của Mạng lưới Blogger Việt Nam, tôi khẳng định: Việc hành hung phụ nữ và trẻ con là một hành vi vi phạm nhân quyền đáng xấu hổ, nhất là khi nó lại xảy ra trong Ngày Quốc tế Nhân quyền và Việt Nam vừa mới được nhận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Nó làm cho chúng tôi càng xác quyết niềm tin của mình với con đường đã đi như anh chị em chúng tôi đã bày tỏ trong lời giới thiệu Mạng Lưới Blogger Việt Nam là "Tranh đấu để bảo vệ nhân quyền, tự do, dân chủ, phẩm cách và giá trị của con người là mục tiêu, là khát vọng, và cũng là lý do duy nhất cho sự ra đời của Mạng Lưới Blogger Việt Nam. Khi nào các hành vi vi phạm nhân quyền ở Việt Nam còn tiếp diễn, thì Mạng Lưới Blogger Việt Nam vẫn còn lý do để tồn tại". Trong tình trạng bị quản thúc và cô lập, Phạm Thanh Nghiên đã gửi đến các bạn của chị biểu tượng của MLBVN với lời nhắn: "Niềm tin chiến thắng và lòng can đảm của các bạn sẽ xóa tan mọi sợ hãi". Hà Nội: Mạng Lưới Blogger VN chính thức ra mắt và tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc tế Nhân quyền 19h chiều 10/12, nhân Ngày Nhân quyền Quốc tế, một số thành viên của Mạng Lưới Blogger Việt Nam tại Hà Nội đã tổ chức buổi cafe - gặp mặt kỷ niệm ngày này, đồng thời chính thức ra mắt Mạng Lưới. Ban đầu, khác với tình hình trong Sài Gòn, nơi các blogger bị đàn áp trắng trợn ngay tại nhà, ở Hà Nội, buổi gặp diễn ra không có bạo lực. Mặc dù thành viên Mạng Lưới vẫn bị theo sát - có lẽ do lực lượng an ninh ý thức rất rõ rằng hôm nay là Ngày Quốc tế Nhân quyền - nhưng không ai bị chặn cửa, đánh đập rồi bị khóa nhốt trong nhà như ở Sài Gòn. Tuy nhiên, banner chào mừng Ngày Quốc tế Nhân quyền của Mạng Lưới Blogger Việt Nam bị lực lượng an ninh thu giữ không lý do. Trước đó vài ngày, những chiếc áo phông viền xanh lá cây với logo của Mạng Lưới cũng bị an ninh "cướp" mất - theo nghĩa là tịch thu không giải thích. Đúng giờ, khoảng hai chục blogger có mặt tại cafe Thủy Tạ ven hồ Hoàn Kiếm. Buổi ra mắt Mạng Lưới có sự tham dự của TS. Nguyễn Quang A - một trong các sáng lập viên của Diễn đàn Xã hội Dân sự, và một vị khách đặc biệt, cũng là blogger: “Ông Tây thuốc lào” Jonathan London. Jonathan London, sinh năm 1969, quốc tịch Mỹ, là một gương mặt blogger viết tiếng Việt mới nổi lên từ tháng 4 năm nay, với những bài phân tích chính trị và chính trường Việt Nam hết sức sâu sắc, trí tuệ và cả hài hước. Nổi bật hơn tất cả là, qua các bài viết của Jonathan, bạn đọc thấy tấm lòng đối với Việt Nam, của một người nước ngoài thực sự không có mong muốn nào khác ngoài việc được thấy một nước Việt Nam tự do, dân chủ, nơi các giá trị nhân quyền được tôn trọng và người dân hạnh phúc. Vài giờ trước khi bay sang Việt Nam hôm nay, Jonathan London đã viết riêng một bài cho Mạng Lưới nhân ngày ra mắt, trong đó anh nhấn mạnh: "Rõ ràng, nhân quyền cần thiết cho hạnh phúc của tất cả người dân Việt Nam. Quan điểm của tôi là nếu không có những tiến bộ lớn về nhân quyền, Việt Nam chỉ có thể thay đổi rất ít trong việc giải quyết các thách thức cấp bách nhất mà họ phải đối mặt ngày nay. Với chiếc ghế thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc mới giành được, trách nhiệm của chính quyền Việt Nam trong việc tôn trọng và thúc đẩy nhân quyền là rõ ràng hơn bao giờ hết". Thay mặt cho Mạng Lưới Blogger Việt Nam, cô gái 9x Đào Trang Loan (tức blogger Hư Vô) đọc bài phát biểu của Mạng Lưới nhân ngày ra mắt. "Chúng tôi tin rằng mọi công dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng và tự do bày tỏ quan điểm mà không bị can thiệp hay đối xử bất công; tin rằng chúng ta có quyền tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương cách như đã được xác định bởi Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Chúng tôi tin rằng mọi công dân Việt Nam phải được tôn trọng với những phẩm giá bẩm sinh, được đối xử trong tinh thần bác ái và được bình đẳng trong việc mưu cầu hạnh phúc cá nhân. Chúng tôi tin rằng mọi công dân Việt Nam phải có quyền quyết định vận mạng của mình và góp phần quyết định vận mạng của đất nước; và những quyền này không thể là đặc quyền, được giao phó hay bị giành riêng bởi một nhóm người, một tập thể nào trong xã hội". 20h. Mọi người đang trao đổi, trò chuyện vui vẻ thì... điện phụt tắt, và rồi cứ thế phập phù, lúc có lúc mất. Sau đó, công an và chủ nhà hàng bước vào, yêu cầu giải tán. Những chiếc camera, máy ảnh, máy quay phim, điện thoại từ phía công an lại giương cả lên, chĩa vào mặt những người tham dự, kể cả Jonathan London. Không muốn đôi co, nhất là khi điện đã bị cắt, mọi người ra về. Công an mặc thường phục, sắc phục, còn đi theo từng người một quãng xa để tiếp tục quay phim, chụp ảnh. Jonathan London lắc đầu, nói với họ: "Hiến pháp Việt Nam đảm bảo các quyền tự do, nhưng chỉ là trên giấy thôi". Song có lẽ không công an, dân phòng nào hiểu điều anh nói. Mạng Lưới Blogger Việt Nam mangluoiblogger.blogspot.com facebook.com/MangLuoiBlogger twitter.com/mangluoibloggermangluoiblogger@gmail.com nguồn: http://mangluoiblogger.blogspot.com/2013/12/
......

Nguyễn Tường Thụy tuyên bố rời bỏ Hội Cựu Chiến Binh

Tuyên bố về việc ra khỏi Hội Cựu chiến binh Tôi, Nguyễn Tường Thụy, Hội viên, sinh hoạt tại chi hội 56 thuộc Hội Cựu chiến binh xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Là lứa hội viên đầu tiên khi vận động thành lập Hội. Nay tuyên bố ra khỏi Hội Cựu chiến binh. Lý do: - Hội thực chất là cánh tay nối dài của Đảng CSVN, không có sự độc lập.   - Là một tổ chức lỏng lẻo, kết nạp cả những thành phần không thuộc đối tượng qui định theo điều lệ, sinh hoạt hình thức, không có tính chiến đấu, không biết bênh vực quyền lợi của hội viên. Hội viên không thiết tha sinh hoạt. - Tờ báo Cựu chiến binh của Hộiđã viết những bài xuyên tạc sự thật. - Tôi cảm thấy xấu hổ khi mang danh hội viên Hội Cựu chiến binh - mặc dù thực tế, tôi vẫn là cựu chiến binh .                                                                                                                Ngày 10/12/2013                                                                                                                      Chữ ký)                                                                                                                Nguyễn Tường Thụy     10/12/2013 NTT nguồn: facebook Nguyễn Tường Thụy  
......

Nguyễn Phương Uyên tuyên bố ra khỏi Đoàn

Ngày hôm nay, 10/12/2013, Nguyễn Thị Phương Uyên chính thức tuyên bố ra khỏi Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Nội dung lời tuyên bố của Phương Uyên như sau: Tôi tên Nguyễn Phương Uyên, là đoàn viên Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh gần 6 năm hoạt động. Nay tôi tuyên bố chính thức ra khỏi đoàn vì: Đoàn thanh niên là lực lượng tiên phong trong các công tác của xã hội với khẩu hiệu "ở đâu cần thanh niên có, ở đâu khó có thanh niên". Thực tế họ đã quay lưng bỏ chạy với trọng trách của họ. Và tôi cảm thấy họ không xứng đáng để tôi tiếp tục có mặt trong hàng ngũ của họ nữa.                                                                                                                         Ngày 10/12/2013                                                                                                                                Chữ ký                                                                                                                      Nguyễn Phương Uyên   Phương Uyên trong màu áo xanh tình nguyện đã rất tích cực tham gia các hoạt động trên tinh thần "Đâu cần thanh niên có đâu khó có thanh niên". (Trên thực tế, Phương Uyên đã làm được hơn: đâu nguy hiểm có thanh niên) Nguồn: ntuongthuy.blogspot.de
......

Khi nào một ngân hàng Việt Nam sụp đổ?

Nhiều ngân hàng tầm cỡ của Việt Nam đang đối mặt khủng hoảng, theo tác giả   Sài Gòn đang bước vào thời tiết đẹp nhất trong năm, nhưng hàng chục ngàn nhân viên ngân hàng lại đang tiếp nhận cơ hội bước ra đường. Kế hoạch sa thải hàng loạt của nhiều ngân hàng, trong đó có cả những ngân hàng lớn như Eximbank, Vietinbank, ACB, Techcombank… đã giáng một đòn khó hiểu đối với tầng lớp “cổ cồn trắng” trong khi chỉ còn hai tháng nữa sẽ đến cái Tết nguyên đán. 10-15% là tỷ lệ cắt giảm nhân sự của nhiều ngân hàng như thế. Một số ngân hàng khác, tuy không công bố, nhưng vẫn âm thầm kiên định chiến lược giảm thiểu các phòng ban. Gần Tết năm ngoái, một đợt sa thải cũng đã bộc phát, cho dù khi đó các ngân hàng còn đang cố giấu đi sự trả giá của họ.   Những vết khoét thấu xương Mặt thật của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phơi bày với những vết khoét mưng mủ đang thấm vào xương - giá trị còn lại của một thị trường đầu cơ tín dụng không giới hạn và bất chấp đạo lý trong quá khứ. Trừ một ít ngân hàng như SHB, BIDV… có lãi thật sự nhưng còn xa mới được xem là khả quan so với thời gian trước năm 2011, ít nhất 50% số ngân hàng ở Việt Nam chỉ lãi rất ít hoặc âm lợi nhuận. Nợ và nợ xấu vẫn đeo đẳng không khoan nhượng tại những ngân hàng đang phải ôm đống tài sản thế chấp không biết làm sao rũ bỏ của các đại gia bất động sản. Tuy thế, những báo cáo chính thức trước Quốc hội của Ngân hàng nhà nước - cơ quan vừa được nâng cấp thành Ngân hàng trung ương - vẫn không thừa nhận một mảng đen tối nào khác hơn tỷ lệ chỉ 5-6% nợ xấu. Thống đốc Nguyễn Văn Bình mới đây còn phô diễn một lời đánh đố đối với giới nghị sĩ: nếu Ngân hàng nhà nước không hỗ trợ và sắp xếp lại nợ cho các ngân hàng thương mại, hẳn là tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đã phải lên đến 12%. Nhưng cũng tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII vào tháng 11/2013, ông Bình đã lần đầu tiên phải nêu ra con số 300.000 tỷ đồng đã được Ngân hàng nhà nước chuyển từ nhóm nợ xấu lên nhóm nợ “chưa xấu”, theo một văn bản “đảo nợ” của cơ quan này vào tháng 6/2013. Trước đó vào tháng 4/2012, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện một động tác tương tự và giúp cho các ngân hàng thương mại cùng khối con nợ bất động sản tránh thoát một bàn thua trông thấy. Con số “tái cơ cấu nợ” khi đó là khoảng 250.000 tỷ đồng. Một năm rưỡi sau, bất chấp những báo cáo tô hồng về “nợ xấu đã được giải quyết một phần”, hoặc Công ty quản lý tài sản (VAMC) đã mua đến 30.000 -35.000 tỷ đồng nợ xấu của các ngân hàng, số nợ quá khó hoặc hầu như không thể thu hồi vẫn tiếp tục tạo thế xung kích, trong khi vẫn chưa có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy tình hình đỡ thê thiết hơn. Cứ gần hết mỗi quý, lãi vay ngắn hạn lại là thuốc độc đối với những con nợ đến hạn phải trả, trong khi hàng tồn kho bất động sản trung cấp và cao cấp vẫn không làm cách nào khiến túi tiền người tiêu dùng xúc động. Không bán được hàng và cũng chẳng có tiền trả lãi, một doanh nghiệp bất động sản hàng đầu như Quốc Cường Gia Lai thậm chí chỉ còn chưa đầy 2 tỷ đồng trong ngân quỹ. Cái chết của nợ xấu Cho dù có phải cắm mặt với sự thật, tỷ lệ nợ xấu 12% mà Thống đốc Nguyễn Văn Bình buộc phải thừa nhận là có thể xảy ra vẫn chỉ bằng 1/3 con số mà Ủy ban giám sát tài chính quốc gia lần đầu tiên buộc phải công bố vào giữa năm nay. Con số đó mang tính thực chất hơn nhiều: 35-37%. Đây cũng là con số khiến người ta phải liên hệ với hình ảnh tương phản đến mười lần về số liệu nợ xấu ở Thái Lan trước và trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997: 5% và 50%. Tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân vào tháng 4/2013, một nhóm chuyên gia độc lập và cả vài vị quan chức nhà nước đã lần đầu tiên tung ra con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam lên đến 540.000 tỷ đồng. Ít nhất 70% nợ xấu đó thuộc về hàng trăm dự án bất động sản đang hoàn toàn bất động ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Cơn bội thực nhà đất ở Việt Nam lại hầu như chưa có điểm kết thúc. Cho đến nay và sau hai năm ruỡi quay quắt trong mớ bùng nhùng thắt nút, vẫn không có bất cứ số liệu tổng hợp nào về tình hình tiêu thụ của các phân khúc căn hộ cao cấp và trung cấp được công bố bởi Bộ Xây dựng. Bất kể rất nhiều chiến dịch tuyên truyền có định hướng về “nền kinh tế đang thoát đáy” và “thị trường nhà đất đang dần phục hồi”, tâm lý người mua nhà đã thuộc về một độ trơ chưa từng thấy kể từ con sóng nhà đất đầu tiên vào năm 1995. Và dù không có bất cứ chỉ số niềm tin nào được Bộ Xây dựng thực hiện, tất cả đều phải thừa nhận là thị trường đã làm sụp đổ lòng tin. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng bất động sản chỉ mới bắt đầu. Giờ đây, câu hỏi đặt ra là sau hai cú đảo nợ vào tháng 4/2012 và tháng 6/2013, liệu đến giữa năm 2014 những kẻ “ngồi mát ăn bát vàng” có chấp nhận cho các những người “mong một buổi sáng không nợ nần” của nó được gia hạn thêm thời gian khất nợ? Nhưng giả định đó lại là điều rất khó hình dung, bởi bản thân nhiều ngân hàng Việt Nam hiện nay đang rơi vào tình trạng “ăn vào thịt của mình”. Tăng trưởng tín dụng cho vay là quá tồi tệ so với mong ước 15% từ đầu năm 2013. Cho đến nay, phần lớn ngân hàng chỉ có thể đạt 4-5% cho tiêu chí tăng trưởng này, so với “quyết tâm” của Ngân hàng nhà nước là 12%. Thậm chí trong một văn bản mới đây, thống đốc ngân hàng đã tháo khoán cho các ngân hàng được quyền cho vay với cả những doanh nghiệp đang chìm ngập trong nợ xấu - một hành động chưa từng có tiền lệ mà cũng diễn tả tâm trạng cực kỳ bế tắc của nhóm lợi ích từng là tác nhân gây ra nợ xấu khủng khiếp ở Việt Nam. Sụp đổ dây chuyền Song đảo nợ không thể là một phạm trù vĩnh viễn, khi thời điểm Minsky về đáo hạn các món nợ xương máu đã biến thành vết hằn trong tận xương tủy của thế giới tư bản dã man đến khó tả ở Việt Nam. Đơn giản là đến tháng 6/2014, nếu không thể thanh toán được các món nợ đáo hạn, không chỉ các con nợ bất động sản “chết” mà cả những ngân hàng đang ôm nợ và tài sản thế chấp cũng sẽ “băng hà” - như một câu châm ngôn trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. “Cứu doanh nghiệp cũng là cứu ngân hàng” - không ít doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hoặc có liên quan đến bất động sản đã nói tuột ra với báo giới. Hầu như chắc chắn, cuộc khủng hoảng ngân hàng đang lộ ra gót chân đen sì của nó, trước khi hiện hình tấm thân phì nộn trong cơn lên máu đầy cảm hứng tai biến cùng tứ chi tê liệt. Từ đầu năm nay, một số biểu hiện hỗn loạn không thể chối cãi đã hiện hình. Một trong những biểu hiện hết sức bất đắc dĩ như vậy là Agribank - Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Luôn giữ vững ngôi vị quán quân về thu hút tín dụng tiền gửi cùng số lãnh đạo ngân hàng bị bắt giam vì tham nhũng, Agribank là địa chỉ mà nợ xấu bất động sản có thể tạo ra một cơn địa chấn đủ lớn khiến dắt dây sang nhiều ngân hàng mang đặc thù về “sở hữu chéo”. Với tất cả những gì đã tích tụ, Agribank lại khá gần gũi với chân dung ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ vào tháng 10/2007. Người ta đang tự hỏi liệu có diễn ra một kịch bản sụp đổ tương tự như thế ở Việt Nam vào thời gian này của năm sau - cuối 2014? Thậm chí có thể sớm hơn, tức vào giữa năm 2014, khi một ngân hàng hạng trung hoặc nằm trong nhóm “G12” buộc phải tuyên bố phá sản do không thể thu hồi nợ xấu và cũng không đủ tiền để trả cho khách hàng. Và nếu sau đó có tiếp 3-4 ngân hàng không thể cầm cự, cơn động kinh nào sẽ xảy ra? Những gì mà VAMC đang làm hiện nay chỉ có ý nghĩa như một chiến dịch “đánh bùn sang ao”. Nhà nước chỉ mua lại nợ xấu bằng trái phiếu, tức bằng giấy chứ không hề biểu trưng cho “tiền tươi thóc thật”. Nhà nước cũng không có đủ can đảm để in thêm tiền rót cho chính hệ thống ngân hàng, vì ngay lập tức lạm phát và vô số hậu quả xã hội của nó sẽ tràn ngập. Một cái chết song trùng là hoàn toàn có thể xảy ra giữa khối con nợ và các chủ nợ, để đến lượt mình, các chủ nợ ngân hàng lại có thể kiến tạo một cuộc sụp đổ dây chuyền trong không bao lâu nữa. Khi đó, sẽ có ít nhất một phần ba số ngân hàng phải phá sản. Khác rất nhiều với đánh giá “kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi” của những tổ chức tài chính quốc tế danh giá như ngân hàng HSBC và thậm chí của cả IMF hay ADB, chưa có gì đáng gọi là “thoát đáy” dành cho nền kinh tế được mặc định bởi thuốc nhuộm “định hướng xã hội chủ nghĩa” cùng vô số nhóm lợi ích tung hoành. Màu sắc của nền kinh tế ấy cũng vì thế đã luôn “hồng” như báo cáo của Chính phủ, nhưng lại “xám” trong con mắt Quốc hội và quá “tối” trong sâu thẳm tâm khảm của dân nghèo. Tương lai khủng hoảng cũng vì thế lại trở nên sáng lạn hơn bao giờ hết. Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/12/131208_pham_chi_dung_banki...
......

Khởi Đầu Của Mọi Khởi Đầu

Ngô Mai Hương: Khởi Đầu Của Mọi Khởi Đầu (để tạ ơn các bằng hữu Úc châu nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền 2013) Tượng đài thuyền nhân Úc Châu Tôi rời Cali vào những ngày trời chớm lạnh và đến Úc Châu khi mùa hè vừa mới bắt đầu. Chuyến đi như là một cuộc trở về, trở về tới điểm khởi đầu. Mỗi người đều có điểm khởi đầu của mình. Điểm khởi đầu của tôi là một buổi chiều đầy mây tím, khi mặt trời chìm xuống qua đám lau sậy, khi tôi còn ngơ ngác trước hướng đi của tương lai, và lúc đó cũng là lúc chiếc ghe nhỏ đã lặng lẽ vào vùng nước lợ, chỗ giao tiếp của giòng sông và biển. Rời quê hương ở cái tuổi vừa có ý thức, tôi cũng như bao nhiêu người khác, có ai không từng đứng ở mũi tàu tha thiết nhìn lại hướng quê nhà khi biển đã mênh mông một màu xám trắng!   Ở Úc, tôi đã gặp lại những thuyền nhân, gặp lại chính mình của ba mươi năm về trước, những bắt gặp bất ngờ làm mình xúc động. Tôi có cảm giác như những thuyền nhân này chưa từng bỏ quên lời hứa của họ trên bến sông ngày nào. Tấm lòng của những người Việt ở đây đối với quê hương có cái gì đó làm mình rưng rưng, nó tha thiết và trong sáng quá! Tha thiết và trong sáng đến mức độ tôi có cảm tưởng như những đòn ly gián của cộng sản sẽ không, và khó có thể làm vẩn đục được các cộng đồng người Việt ở đất nước này. ***   Tôi đứng trên ngã tư đường William và Brisbane nơi tượng đài thuyền nhân Việt Nam của tiểu bang Tây Úc vừa được khánh thành một tháng trước. Nếu xuất phát từ điểm tôi đứng, con đường sẽ dẫn thẳng về Việt Nam. Bỗng dưng tôi nhớ hai câu thơ cuối trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu do Ngô Tất Tố dịch: “Gần xa chiều xuống đâu quê quán?/đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!” Nhìn hình tượng con tàu mong manh trên ngọn sóng, dáng dấp của những đoàn người vượt chết ra đi, ai mà không xốn xang! Mãi cho đến tận bây giờ, tôi vẫn thường tránh không nghe những câu chuyện về vượt biên. Có lẽ vì chuyện xảy ra trong thế hệ của mình, nó gần gũi quá, những đau thương nó thật quá! Những thế hệ sau này, khi nhìn những tượng đài thuyền nhân chắc cũng không thể nào hình dung hết được những gian nan mà cha mẹ họ đã trải qua. Tôi đã được đi thăm hai tượng đài một ở Perth, và một ở Brisbane. Tôi nghĩ nếu như hai tấm Bia Tỵ Nạn trên đảo Galang và Bidong không bị CSVN với tay qua giật sập một cách thảm thương, có lẽ không có nhiều tượng đài thuyền nhân được xây dựng ở khắp nơi trên thế giới như ngày hôm nay. Bidong và Galang là hai nơi tạm trú của người Việt trong khi chờ đợi để được đi định cư tại các nước khác. Người Việt ở hai nơi này đã dựng tấm Bia Tỵ Nạn ghi dấu đoạn đường họ đi qua và để tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên đoạn đường tìm tự do. Giật sập hai Bia Tỵ Nạn ở Bidong và Galang, CSVN đã không thể phá huỷ được nó mà ngược lại.   Rời quê hương trên những con tàu monh manh hơn ba mươi năm trước, người Việt vẫn chưa từng lìa bỏ quê hương của mình. Tôi đã ghé Adelaide, qua Perth, đến Brisbane để cảm nhận hết những tình cảm thật đơn sơ mà thắm thiết của người Việt ở đây dành cho quê hương. Ngay tại hai thành phố lớn là Melbourne và Sydney, cái gọi là “văn hoá vận” của VC vẫn chưa với tay tới được. Chưa có một đài truyền hình nào, trong nước được quyền phát sóng tại các nơi này. Nơi mà sự hiện diện của ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh đã đem được cả ngàn người cùng đến, cùng nghe, và cùng hát với chị những bài hát đấu tranh.   Cũng tại nơi chốn này, tôi tìm thấy mình lặng người đi vì xúc động trước tấm lòng của một đồng bào. Chị chưa một lần tham dự hết một buổi nói chuyện về tình hình đất nước của một tổ chức chính trị hay một buổi gây quỹ nào. Người phụ nữ này đã cho tôi một bài học đáng giá nhất trên đoạn đường đi của mình. Nói qua giòng nước mắt, chị bảo chị ít học, chỉ biết đóng góp cái phần nhỏ bé của mình cho những người đang đấu tranh trong nước. Chị cầu nguyện hằng đêm cho họ và mong sao Việt Nam đừng rơi vào tay Trung Cộng. Cái phần đóng góp thường là không minh danh, mà chị gọi là “nhỏ bé” đó, là một số tiền khá lớn, là cả một gia tài đối với chị. Tôi tự hỏi làm sao các con của chị có thể hiểu được rằng cha mẹ chúng đã phải mặc loại áo quần mua lại (second hand), dè xẻn từng đồng - để cho đi cái phần lớn nhất của mình.   Đã nói chuyến đi Úc này cho tôi cái cảm giác như một cuộc trở về! Như mình soi lại bóng mình trên những dấu chân của những người đi trước. Đầu tiên, chúng tôi có chút việc phải dừng chân tại Hawaii. Trong một ngày rảnh rang, một người bạn đã dẫn chúng tôi đi thăm mộ của một chiến hữu ngày xưa. Ngôi mộ của anh nằm trên một đồi thông, anh mất đi khi chỉ vừa qua tuổi bốn mươi. Nghe kể lại khi vừa đến Mỹ, vừa ổn định gia đình, anh bảo vợ: “bây giờ bà lo làm nuôi con đi, để tôi lo việc nước”. Anh mất sớm nên không hề biết rằng quê hương của anh nay đã thành một khối đau thương từ Bắc chí Nam. Trời mưa, nhang bị ướt, không cháy. Bạn tôi thắp một điếu thuốc đặt lên mộ bạn mình rồi lâm râm khấn vái: “hôm nay tụi tôi đến thăm ông nè, ông hút thuốc đi rồi phù hộ cho đất nước mình, phù hộ cho tụi tôi chân cứng đá mềm nghe ông”. Tôi cố tình đứng lùi lại phía sau lưng hai người đàn ông, quay đi để giấu những giọt nước mắt của mình. Cũng ở tại Hawaii, cũng trong chuyến đi này, vô tình tôi được chạm vào những kỷ vật rất riêng tư của một người ra đi vì đất nước khác. Đó là những đồ vật được gởi lại của anh Nguyễn Trọng Hùng, người đi trong chiến dịch Đông Tiến. Cái bóp da màu nâu cũ, một cây thánh giá, những lá thư của các con của anh và vô số những hình ảnh hạnh phúc của gia đình anh. Tôi chạm vào tình thương thiết tha của một người cha dành cho các con và cảm nhận được hết cả sự hy sinh to lớn của anh.   Nhớ ơn và trả ơn là truyền thống ngàn đời của người VN. Nguyễn Trọng Hùng đã trả ơn đất nước anh bằng tất cả những gì anh có thể làm trong hoàn cảnh lúc đó, khi thế giới đã quay mặt với đất nước VN. Khi mỗi chúng ta chỉ còn chính mình đối diện với những bất hạnh của quê hương. Có người cho rằng việc làm của các anh là chuyện hoang tưởng, đội đá vá trời. Để hiểu được một Trần Văn Bá, một Vũ Đình Khoa, một Nguyễn Trọng Hùng có lẽ người ta phải quay lại từ điểm khởi đầu. Họ làm tôi nhớ đến những công dân tuyệt vời của nước Pháp sau đệ nhị thế chiến. Câu chuyện được nghe kể lại từ một người bạn - Nước Pháp lúc ấy gần như kiệt quệ vì chiến tranh. Để xây dựng lại một đất nước từ đống gạch vụn đổ nát, đã có 32 gia đình thế phiệt, giàu có vào bậc nhất nước Pháp đã tình nguyện dâng hiến tất cả tài sản của họ cho công cuộc canh tân nước Pháp. Sau đó, nghe nói là trong số họ có những người đã hành nghề taxi để kiếm sống cho gia đình. Họ hoà mình vào cuộc sống bình thường đầy khó khăn như tuyệt đại đa số người dân Pháp vào lúc ấy. Họ chìm vào quên lãng, nhưng chính những người tài xế taxi đó đã làm nước Pháp đi lên với niềm tự hào. Một thống kê của năm 2013, do tổ chức quốc tế tranh đấu cho nhân quyền mang tên Walkfree, đã xếp hạng Việt Nam đứng thứ 15 trên thế giới về tổng số “nô lệ”. Một tiết lộ làm chúng ta giật mình và không khỏi xót xa! Chiến tranh đã kết thúc hơn ba mươi năm mà đất nước vẫn nghèo đói khổ nhục. Dân ta tiếng là cần cù, hiếu học, thông minh, nay trở thành những kẻ làm nô lệ, tôi đòi cho xứ người. Theo ước đoán của Walkfree có vào khoảng từ 240 ngàn đến 260 ngàn người Việt đang làm “nô lệ” cả bên trong VN và ở tại các quốc gia khác. Nếu quay lại từ điểm khởi đầu, khi cộng sản Bắc Việt vừa mới chiếm được miền Nam, ta khó có thể tin được chỉ trong một thời gian kỷ lục mà đất nước đi xuống như thế. Văn hoá xuống cấp, đạo đức suy đồi, và một dân tộc ngày nào từng kiêu hãnh về truyền thống chống ngoại xâm nay trở nên khiếp nhược đến thảm thương! *** Mọi thứ dường như đã sụp đổ, đã chạm đáy. Những công dân đầy nhân cách, mọi giá trị tốt đẹp dường như đã biến mất dưới mái nhà “xã hội chủ nghĩa”. Như bao nhiêu dân tộc lầm đường khác, người dân VN đang phải bắt đầu từ một kết thúc. Và khởi đầu của mọi khởi đầu vẫn là con người. Là giành lại chính mình - giành lại cuộc sống con người đúng nghĩa của chính mình. Tôi trộm nghĩ Kiến nghị 72, Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam, ... đang là những đấu trường để mỗi người dân Việt từng bước dài quay lại điểm khởi đầu danh dự ấy. Chúng ta hãy cùng nhau chứng tỏ với thế giới rằng người dân Việt Nam đang khao khát “được sống như một con người” mãnh liệt đến dường nào./. Ngô Mai Hương
......

Phụ nữ NQVN: Hãy cùng lên tiếng hỗ trợ những nữ nạn nhân Nhân quyền ở VN

Vợ ông Ngô Hào – Nạn nhân của sự vi phạm Nhân quyền nghiệm trọng Sài Gòn ngày 7 tháng 12 năm 2013 Ông Ngô Hào, một nhà bất đồng chính kiến 65 tuổi, chuyên viết bài cổ vũ cho dân chủ, đa nguyên đa đảng, cư ngụ tại thôn Lộc Đông – xã Hoà Thành – huyện Đông Hoà – tỉnh Phú Yên bị bắt ngày 7 tháng 2 năm 2013 và sau đó bị Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 Bộ luật Hình sự Việt Nam. Trở thành thành viên của Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam Sau phiên toà sơ thẩm ngày 11 tháng 9 năm nay, ông bị kết án 15 năm tù giam và 5 năm quản chế tại Toà án Nhân dân tỉnh Phú Yên. Hiện tại ông bị giam giữ tại Trại tạm giam tỉnh Phú Yên để chờ phiên toà phúc thẩm sẽ được mở ngày 23 tháng 12 sắp tới đây. Đáng quan ngại là từ khi ông Hào bị bắt giữ cho tới nay gia đình chưa được gặp mặt ông. Trao đổi trực tiếp với  bà Nguyễn Thị Kim Lan và anh Ngô Minh Tâm (vợ và người con lớn của ông), chúng tôi được biết gia đình bà Lan rất phẫn uất vì bản án bất công mà chính quyền áp đặt cho ông, họ lo lắng cho tình trạng sức khoẻ của ông nhưng vẫn tin tưởng và ủng hộ vì những gì ông viết là đúng đắn và là quyền tự do của công dân. Bà Lan hiện tại đang ở trong tình trạng sức khoẻ tồi tệ vì chứng ung thư vòm khẩu cái khiến bà không thể phát âm và nói dễ dàng như người bình thường, thỉnh thoảng bà phải lên Sài Gòn để được xạ trị. Bà sống trong một căn nhà ổ chuột – căn nhà mà theo lời anh Võ Văn Bửu  (một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo mà tôi được gặp đôi lần) là “nhà mà không phải là nhà”. Những ngày này bà phải chờ đợi thấp thỏm và sống cô đơn, nghèo khổ  trong cảnh bệnh tật và sự sách nhiễu liên tục của chính quyền địa phương. An ninh tỉnh Phú Yên đe doạ là nếu bà tiếp tục liên lạc với truyền thông nước ngoài và anh em bất đồng chính kiến trong nướ,  họ sẽ bắt nhốt luôn người con trai đang học đại học của bà. Không chỉ có thế, chính quyền còn lợi dụng sự thiếu hiểu biết về Nhân quyền của một người phụ nữ nông thôn để vừa đe doạ vừa thuyết phục  gia đình vận động ông Ngô Hào phải nhận tội. Đó là những hành xử mà an ninh tỉnh Phú Yên nhân danh chính quyền Việt Nam thực hiện. Thiết nghĩ, đó là những động thái hoàn toàn bất xứng với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền liên Hợp quốc. Người con lớn của ông bà – anh Ngô Minh Tâm hiện là sinh viên Đại học Bách Khoa Sài Gòn. Nhưng từ ngày cha anh bị bắt giữ đến nay, anh liên tục bị an ninh chính quyền Việt Nam khủng bố tinh thần, cụ thể là anh bị gọi lên làm việc  nhiều lần suốt năm nay, thậm chí vào những ngày anh phải thi cử đến nỗi người thanh niên này bị khủng hoảng tinh thần và phải nợ lại nhiều môn học. Tất cả xuất phát từ việc anh lên tiếng với truyền thông về sự việc của cha mình. Người con nhỏ Ngô Minh Trí sinh năm 1994 thì phải bỏ học đi làm xa quê để nuôi mẹ bệnh và gởi quà thăm nuôi cha mình. “Ngôi nhà” của vợ chồng ông Hào   Rõ ràng, không những cá nhân ông Hào bị kết án bất công vì những hành xử ôn hoà của mình mà cả gia đình ông đã và đang là những nạn nhân của chính sách vi phạm Nhân quyền trắng trợn của chính quyền Việt Nam. Tình trạng gia đình ông Ngô Hào chưa được sự quan tâm thích đáng của công luận trong và ngoài nước, nhưng nhiều anh chị em trong nước chúng tôi đã quan tâm trường hợp này từ lâu và đã có sự hỗ trợ về mặt pháp lý cũng như  tinh thần cần thiết cho gia đình họ. Nhưng nỗ lực của chúng tôi sẽ không bao giờ đủ để xoa dịu nỗi đau cho gia đình này. Nhưng đáng mừng là bà Nguyễn Thị Kim Lan hiện là thành viên của Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam. Đó là điều kiện thuận lợi để chúng tôi tiếp tục theo dõi trường hợp này. Chúng tôi khẩn thiết  kêu gọi sự chú ý của công luận đối với phiên toà xử ông Ngô Hào vào ngày 23 tháng 12 sắp tới. Và chị em Phụ nữ Nhân quyền  Việt Nam xin thay mặt người thành viên khốn khổ của mình kêu cứu với công luận trong nước và quốc tế về trường hợp bà Kim Lan vì những khó khăn về vật chất cũng như sự đau khổ về tình thần mà bà đang phải gánh chịu. Xin đồng hành với Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam lên tiếng và hỗ trợ cho những nữ nạn nhân Nhân quyền ở Việt Nam. © VNWHR | PNNQVN nguồn:/vnwhr.net
......

Sài Gòn: Bác Sĩ Nguyễn Đắc Diên công khai từ bỏ đảng CSVN

THÔNG BÁO CÔNG KHAI TỪ BỎ ĐẢNG Thành phố HCM ngày 6 tháng 12 năm 2013         Hưởng ứng lời tuyên bố từ bỏ Đảng của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo, TS Phạm Chí Dũng, tôi, Nguyễn Đắc Diên, Bác sĩ Nha khoa, đảng viên, số hiệu thẻ đảng 3444669, THÔNG BÁO CÔNG KHAI từ bỏ Đảng Cộng sản Việt nam.   Xuất thân trong một gia đình có truyền thống chống các kiểu thực dân và áp bức, sau 1954 tuy sống ở đô thị miền Nam nhưng gia đình tôi là cơ sở CM nội thành, đã được tặng thưởng Huân Chương Kháng Chiến Hạng Nhất theo QĐ số 801/HĐNN, có Giấy Chứng Nhận Người Có Công Với Cách Mạng. Thế nên đã một thời, tôi cũng từng tràn đầy nhiệt huyết với khát vọng đồng hành cùng Đảng xây dựng một đất nước công bằng dân chủ và văn minh. Song tất cả những gì mà Đảng Cộng sản đã thể hiện từ ngày Bắc Nam thống nhất khiến tôi đi từ thất vọng đến thất vọng khác.         Tôi không tin Đảng sẽ dẫn dắt dân tộc cập được bến bờ vinh quang bằng các cương lĩnh kiểu như cương lĩnh 1991, hiến pháp 2013. Bởi đó là những cương lĩnh u ám, những hiến pháp tiểu xảo.         Với thỏa ước Thành Đô 9/1990, Đảng đã đánh mất cơ hội ngàn vàng trong sự nghiệp bảo toàn chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ khi sống cạnh một nước lớn có tiền sử hàng ngàn năm áp chế dân tộc Việt.         Thay vì theo đường quan mà cộng đồng thế giới văn minh đã khai phóng để đi, Đảng lại liên tục quàng vào bụi rậm. Câu châm biếm "Đảng tiên phong đi trước, nhân dân tiếp bước theo sau, dân hỏi Đảng đi đâu, Đảng lầu bầu: đang định hướng" là hình ảnh vừa bi vừa hài, nhưng mà thực và sống.         Khi vào Đảng tôi đã từng thề, rằng tuyệt đối trung thành với Đảng. Nay, tôi thà phản bội lời thề trung thành với Đảng còn hơn phải theo Đảng mà phản bội lại quyền lợi dân tộc, dân sinh, dân chủ, dân quyền mà lẽ ra dân tộc tôi phải được hưởng từ 38 năm về trước.       Nhưng rồi có thể một ngày nào đó, khi Đảng thực sự hoàn lương, tôi lại phấn đấu xin vào Đảng. Bs. Nguyễn Đắc Diên ĐT: 0914002424 Email: dien1789@yahoo.com nguồn: /boxitvn.blogspot.com
......

RFA hỏi chuyện ông Phạm Chí Dũng về việc từ bỏ đảng CSVN

Thêm một đảng viên từ bỏ đảng Cộng sản Vừa có thêm một đảng viên Cộng sản tại Việt Nam công khai từ bỏ đảng. Đó là ông Phạm Chí Dũng, một nhà báo độc lập, người vào đảng từ năm 1993. Lý do ông nêu ra là Đảng Cộng sản không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi của đại đa số nhân dân. Gia Minh hỏi chuyện ông và ông cho biết: Ông Phạm Chí Dũng: Tôi cũng đau khổ khi nghĩ đến chuyện này anh ạ.Vấn đề là người ta đã đau khổ nhiều năm và còn lại những đau khổ thì vẫn phải tiếp tục nỗi đau khổ để chiêm nghiệm trong tương lai còn có những đau khổ tiếp nối nào. Khi phải bỏ Đảng Cộng sản đối với tôi đó là sự đau nhức giống như là anh Hiếu Đằng, anh ấy cũng rất buồn. Chiều nay, chúng tôi vào thăm anh ấy ở trong bệnh viện 115. Anh ấy đang bị cơn bạo bệnh ung thư tiền liệt tuyến hành hạ mà bác sĩ thì bảo là khó rồi. Khi thấy anh ấy nói về quá khứ, về hiện tại và cả tương lai mà giọng anh ấy nghèn nghẹn, không rõ nữa và ngân ngấn nước mắt. Lúc đó thì tôi có quyết định ngay. Từ bỏ không phải vì một công thức nhất thời mà tôi đã suy nghĩ từ lâu. Tôi làm điều đó và mong muốn cũng như anh Hiếu Đằng là mọi người còn có cốt cách, còn có lương tâm, còn có suy nghĩ, nhìn lại để thấu hiểu đằng sau, điều gì, nguyên nhân nào, những nguồn cơn nào đã đẩy đất nước đến tình trạng ngày hôm nay. Quá xấu, quá tệ, quá suy đồi. Tất cả mọi thứ đều xuống cấp một cách trầm trọng. Thật sự tôi cũng cầu mong những người Việt ở hải ngoại như các anh thấu hiểu được phần nào tâm trạng của người dân ở Việt Nam, một đất nước khốn khổ như thế nào - khó khăn từ kinh tế, suy thoái đến đạo đức. Vậy ai làm ra những điều đó? Không còn ai khác ngoài sự lãnh đạo toàn diện của đảng thôi. Đảng chỉ đạo làm được cái gì? Trong khi đó, người ta chấp nhận những đối trọng chính trị có phải tốt hơn không. Người ta có cơ chế tam quyền phân lập và đồng thời cơ chế này có thể giám sát người dân từ ngoài xã hội đến trong nội bộ để làm tốt hơn. Những người đảng viên cần nhận thức ra điều đó để thấy là đã đến lúc cần phải có cơ chế mới thay cho cơ chế cũ. Ai sẽ quyết định số phận của ĐCS Gia Minh: Như ông nói cái việc này cũng đã được ấp ủ suy nghĩ từ lâu nay và cần phải có một cơ chế mới thay thế cho cái cũ. Theo ông thì cơ chế như thế nào có thể đáp ứng được cho tình hình hiện nay mà mọi người cần nên theo ạ? Ông Phạm Chí Dũng: Dứt khoát là phải có đối trọng về mặt chính trị. Có điều là đối trọng như thế nào, đó là cơ chế hoàn toàn sương mù trong thời điểm hiện nay tại Việt Nam. Cho đến lúc này thì nhà nước Việt Nam mới đặt ra vấn đề nhà nước pháp quyền nhưng vẫn chưa thừa nhận chuyện tam quyền phân lập. Không tam quyền phân lập thì làm sao có được nhà nước pháp quyền. Thực ra chỉ là trò chơi chữ để người ta kéo dài thời gian. Kéo dài thời gian thì được lợi cho ai? Chẳng được lợi cho ai cả, lẫn nhà nước và người dân. Tất cả đều khủng hoảng từ xã hội đến kinh tế trong những năm sắp tới. Tất cả đều bị kéo theo. Vì vậy vấn đề là cần phải hành động ngay, cần phải giải quyết ngay. Rất may mắn là Việt Nam đã có một tiền lệ đó là kịch bản Myanmar. Vấn đề đặt ra là Myanmar có thuận tiện, thuận lợi và những ứng lợi nào đối với Việt Nam trong thời gian tới. Chính lãnh đạo nhà nước Việt Nam cần rút ra điều đó vì kết quả của Myanmar đã thấy rõ rằng chính quyền tổng thống Thein Sein gần như không mất gì cả. Họ giữ nguyên được quyền lực, quyền lợi và những chiến công mà không gặp phải sự phản đối của cộng đồng Myamar ở nước ngoài. Họ chỉ cần thêm một chút dân chủ và nhân quyền cho người dân mà thôi. Những người lãnh đạo Việt Nam nên nhìn đó để có được phương án và giải pháp tối ưu cho Việt Nam trong thời gian sắp tới. Còn lại như thế nào thì tùy thuộc vào bản lĩnh và trí khôn của họ. Tuy nhiên tôi e rằng trong hoàn cảnh này thì khó có thể có được sự sáng tạo đột biến nào trong giới lãnh đạo chính trị của Việt Nam Gia Minh: Vừa qua thì giới nhân sĩ trí thức cũng như một số tầng lớp người dân đã có ý kiến nhưng qua việc sửa đổi hiến pháp thì tất cả những ý kiến đều đã được không nghe. Vậy ông có thấy cần phải có những mức độ như thế nào nữa thì mới có thế tác động để có được mọi người đang mong đợi, thưa ông? Ông Phạm Chí Dũng: Không cần điều gì nữa anh ạ vì bản hiến pháp đã đóng khung và đã được đồng thuận 98%. Tuyệt đại đa số như vậy cho thấy Quốc hội không còn của dân, do dân và vì dân nữa. Đó không còn là đại diện do người dân bầu ra nữa. Tôi cho đó là tiền đề chấm dứt cho một triều đại. Vì thế sự kiến nghị đối với chính phủ, đối với nhà nước Việt Nam hiện nay không còn quá cần thiết nữa. Đặc biệt những vấn đề liên quan đến những vấn đề trọng yếu như là hiến pháp thì không có gì thay đổi cả. Điều này cho thấy một sự bảo thủ gần như là tuyệt đối và như vậy có thể dẫn đến cực đoan. Theo qui luật thì tất cả những gì cực đoan đều có thể nhanh chóng dẫn đến sự sụp đổ, càng cực đoan thì càng sụp đổ nhanh chóng. Tôi cho là giới lãnh đạo nhà nước Việt Nam đã biết tự quyết định số phận của họ, ngay từ bây giờ chứ không phải là dân chúng, nhưng trong những năm tới thì chính dân chúng sẽ là người quyết định số phận của họ. Còn giới nhân sĩ trí thức Việt Nam thì tôi cho là những vấn đề mà họ kiến nghị những tâm thư, những tâm huyết thư mà họ kiến nghị thì sắp tới thì chỉ có thể là chữa cháy thôi. Chữa cháy thì vẫn phải làm vì nhờ vào đó người dân sẽ hiểu, biết thêm thông tin. Đặc biệt là tầng lớp dân chúng, họ là những nạn nhân về môi trường và thiệt thòi về đất đai....Họ hiểu thêm và biết thêm về cách thức để đấu tranh để bảo vệ quyền sinh tồn, quyền sống của mình, đặc biệt là vấn đề nhân quyền mà vừa qua nhà nước Việt Nam đã chính thức tham gia vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Chính yếu là người dân. Và từ đó kết tựu với nhau để tạo ra những tiền đề, những manh nha hầu mong có thể dẫn đến một mô hình nào đó, một mảnh ghép nào đó của xã hội dân sự Việt Nam trong tương lai. Liệu có ánh sáng cuối đuờng hầm? Gia Minh: Những hành động như là công khai ra khỏi đảng Cộng sản Việt nam rồi kêu gọi thành lập xã hội dân sự...theo ông thì cần có thêm những gì và thời gian bao lâu nữa thì mọi người có thể đoàn kết chung tay để đạt được những điều mong muốn lâu nay, thưa ông? Ông Phạm Chí Dũng: Tôi thấy cần có một sự kết đoàn anh ạ.Chúng ta cần có một vòng tay lớn giữa những tầng lớp nhân sĩ trí thức và người dân. Điều đặc biệt là không nên bỏ qua thành phần trí thức trong đảng. Đó là nguồn lực và nhân lực chính có thể làm dịch chuyển cả một quả núi bị trì trệ như hiện nay. Tôi muốn nói là năm 2013 là một năm đặc biệt, khác hẳn với những năm trước. Khởi đầu của năm nay là nhóm kiến nghị 72 với những kiến nghị động trời liên quan đến những vấn đề nhạy cảm đặc biệt là liên quan đếnay đổi hiến pháp mà trước đây chưa từng xảy ra. Cho đến cuối năm tôi hy vọng thấy điều được coi là phát pháo hiệu nổ ra được coi là của anh Lê Hiếu Đằng khi anh ấy từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ có một cơn sóng nhỏ dẫn đến một rừng sóng trí thức đảng viên của đảng và người ta tự quyết định xem người ta còn có trách nhiệm đối với đảng hay là nên có trách nhiệm đối với nhân dân. Nếu những cơn sóng nhỏ kết tụ lại với nhau thì có thể dẫn đến một cơn sóng lớn và nó sẽ tốt hơn cho xã hội dân chủ của Việt Nam trong tương lai. Theo tôi thì ít nhất là hai năm nữa mới có thể nhìn ra được ánh sáng. Gia Minh: Trong giờ khắc mà có những trăn trở và khắc khoải và phải đi đến một quyết định mà ông cho rằng là đau khổ như thế thì ông còn có những tâm tư muốn chia sẻ gì với mọi người ạ? Ông Phạm Chí Dũng: Tâm tư thì tôi sẽ nói hết trong bức tâm thư nhưng điều mà tôi muốn nói thêm là các bạn trẻ ở lứa tuổi 20, 30 họ có thể lớn hơn nhiều. Những bạn trẻ đó có thể đã vào đảng, chưa vào đảng hoặc là đang cảm tình đảng hoặc đang được vận động vào đảng thì những bạn trẻ đó nên có những suy nghĩ và nhìn nhận lại. Vấn đề là thế này: chúng ta không chống đảng, chúng tôi ở trong nước chúng tôi không chống đảng nhưng chúng tôi nhìn nhận lại đảng xem là vai trò của đảng còn xứng đáng trong hiện tình đất nước như thế này hay không. 38 năm sau ngày đất nước thu về một mối, chưa bao giờ tình hình lại bi đát như hiện nay. Điều đó thì nguồn cơn tại ai, từ đâu. Các bạn trẻ thế hệ sau này lớn lên sẽ tiếp quản đất nước trong tương lai và các bạn cũng phải trả nợ cho đất nước trong tương lai. Đó là nợ công mà hiện nay ít nhất đã lên đến 95 % GDP. Do vậy các bạn cũng nên xem xét lại chọn lựa như thế nào cho xứng đáng: chọn lựa đảng cộng sản hay chọn lựa điều gì tốt đẹp hơn. Tôi không muốn nói là một đảng phái khác vì hiện nay chỉ có đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên ngoài đảng cộng sản ra bạn còn có thể lựa chọn điều gì khác? Các bạn có thể lựa chọn nhân dân hoặc các bạn có thể lựa chọn điều gì đó đại diện cho nhân dân chẳng hạn như Xã hội Dân sự, bất cứ điều gì có thể làm nên dân chủ ở Việt Nam thay vì một chế độ đóng kín. Gia Minh: Chân thành cảm ơn ông phạm Chí Dũng đã dành cho quý thính giả của đài Á châu Tự do cuộc nói chuyện này mặc dầu lúc này đã là 1:05AM rồi. Một lần nữa xin chúc ông khỏe ạ. nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Tâm huyết của công dân tự do Lê Hiếu Đằng

Luật gia Lê Hiếu Đằng trò truyện với Bauxite Việt Nam về quyết định ra khỏi Đảng Cộng sản.   BVN: Thưa anh, sáng sớm hôm nay thế giới mạng đã lan truyền rất nhanh lời tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam của anh sau hơn 40 năm ở trong đảng. Anh có thể cho biết vì sao anh chọn thời điểm này tuyên bố ra khỏi đảng? LHĐ: Việc tôi tuyên bố ra khỏi đảng là hệ quả tất yếu của bài viết của tôi trước đây khi nằm trên giường bệnh. Nhưng do hoàn cảnh, do gia đình mà mình chưa thực hiện được. Nhưng bây giờ đã đến lúc thấy cần phải làm. Mình đã tuyên bố thì việc đầu tiên là chính bản thân mình phải ra khỏi đảng đã, rồi đến những người khác sẽ xem, nếu thấy việc làm của mình mà chính đáng họ sẽ hưởng ứng. Với lại bây giờ thấy đảng đã tệ hại quá đi. Vừa rồi Quốc hội thông qua bản Hiến pháp tôi thấy đi ngược lại hoàn toàn nguyện vọng, ý kiến của nhân dân. Tình hình kinh tế xã hội ngày càng xuống cấp, không thể nào chấp nhận được một cái đảng như vậy. Mình là một thành viên của đảng, dù sao mình cũng có trách nhiệm. Bây giờ mình ra khỏi đảng thì mình không còn trách nhiệm gì nữa. Mình là một công dân tự do.Với tư cách là một công dân tự do, mình có phạm vi hoạt động rộng rãi hơn, không bị vòng kim cô ràng buộc, mình có thể hoạt động rộng rãi, có thể sử dụng được tất cả các quyền công dân để mình đấu tranh.   BVN: Thực ra có không ít đảng viên muốn bỏ đảng nhưng không biết vì lý do gì mà họ vẫn lần lữa không chịu ra, hoặc chỉ lẳng lặng bỏ sinh hoạt mà không tuyên bố ra khỏi đảng. Cũng có những người tâm huyết nói với nhau cần đợi một thời điểm thích hợp sẽ cùng tuyên bố ra đảng. Anh nghĩ thế nào về tâm sự ấy?   LHĐ: Về thời điểm nào thích hợp thì tôi cho rằng thời điểm này là thích hợp rồi. Chế độ này đã quá tệ, mọi lĩnh vực đều xuống cấp không thể nào cứu vãn được, mà các ông ấy vẫn chỉ đặt lợi ích của các tập đoàn, của gia đình và bản thân chứ không còn đặt lợiích của đất nước lên trên. Nhất là đối với người nông dân, cụ thể là vấn đề ruộng đất, người dân đã rất cực khổ mà mấy ông ấy vẫn rất vô cảm, có thể nói không có chút xúc động gì, không sửa chữa được gì hết mà còn tệ hại hơn. Vì thế tôi thấy không còn có thể chịu đựng được nữa. BVN: Như vậy có nghĩa rằng lâu nay các đảng viên có tâm huyết, các nhân sỹ trí thức vẫn cứ kiên trì chờ đợi xem đảng, hay nói đúng ra là bộ phận lãnh đạo của đảng, có tiếp thu những ý kiến xây dựng chân thành, mở ra con đường dân chủ hóa đất nước hay không, nhưng cho đến lúc này thì họ đã hoàn toàn thất vọng, không thể còn trông cậy vào sự sửa chữa của đảng nữa?   LHĐ: Đúng thế. Thời cơ vàng là sự sửa đổi Hiến pháp và Kiến nghị của 72 nhân sỹ trí thức, lẽ ra anh phải chú ý để có thay đổi, để tạo được không khí dân chủ, mà cơ bản nhất là chuyển một nhà nước chuyên chế, nhà nước toàn trị thành nhà nước dân chủ, để hòa vào dòng chảy của thế giới. Mà thế giới hiện nay đang chú trọng bảo vệ môi trường, bảo vệ nhân quyền, làm những việc thiết thân với con người hơn với CNXH rất xa xôi, mơ hồ không bao giờ có được, nói như ông TBT chờ100 năm nữa vẫn chưa có được. Thế thì tại sao lại bắt cả dân tộc phải chờ đợi?Bản thân các ông ấy đều cho con cháu đi Mỹ, đi Châu Âu du học, tức là đi theo Chủ nghĩa Tư bản, thế mà lại bắt cả dân tộc đi theo CNXH chẳng ra cái gì cả. Nó xa xôi, nó chỉ là hứa hẹn suông. CNXH đã tan tành trên ngay quê hương nó là Liên Xô.Lẽ ra mấy ông phải mở mắt ra chứ thế mà cứ nhắm mắt mà đi theo. Như thế chứng tỏ các ông ấy chỉ đặt quyền lợi của bản thân lên trên chứ không quan tâm gì đến quyền lợi của đất nước của dân tộc. BVN: Cũng có người nghĩ rằng thực chất thì đảng này đang xây dựng CNTB, tất nhiên là CNTB man rợ, CNTB thân hữu. Trong khi đó cứ tuyên bố theo CNXH, chủ nghĩa Mác-Lê nin, nhưng thực ra chỉ cốt để duy trì sự độc tôn, độc trị. Cũng có biện luận rằng làm như thế là để giữ ổn định cho xã hội, nếu bây giờ tuyên bố bỏ CNXH thì xã hội sẽ loạn. Cho nên họ cứ tuyên bố như thế nhưng thực chất thì họ đang tự động chuyển sang CNTB.Vậy thì có nên cứ lẳng lặng ủng hộ quá trình ấyhay là cần phải vạch ra cho rõ ràng, phải phê phán, phản đối, phải ra khỏi đảng? LHĐ: Đối với dân tộc, nói cái gì phải nói cho rõ ràng. Nói gì thì nói, CNTB man rợ nó còn tệ hơn trước đây. Tại sao anh lại không theo CNTB văn minh? CNTB cũng có mặt khiếm khuyết của nó nhưng lẽ ra phải không duy trì CNXH, CN Mác Lê-nin.Bây giờ có cái tệ hại là cứ dọa người dân là xã hội xáo trộn. Nhưng thực ra đôi lúc có sự xáo trôn một ít cũng rất cần thiết.   BVN: Con đường đấu tranh để chuyển hóa đảng cộng sản, chuyển hóa xã hội sang dân chủ bây giờ đã khác; ai cũng thấy là không thể dùng vũ lực lật đổ đảng cộng sản, mà phải chuyển hóa một cách ôn hòa theo con đường mà đảng vẫn lên án là “diễn biến hòa bình”. Có phải vì thế mà gần đây anh đã tham gia Ban cố vấn của Diễn đàn Xã hội Dân sự? Anh có thực sự tin rằng phát triển xã hội dân sựlà lối ra tốt đẹp cho đất nước hay không?   LHĐ: Bây giờ không hy vọng gì đảng và nhà nước thay đổi. Phải có yếu tố tác động đến mấy ông,phải xây dựng một xã hội dân sự mạnh đủ sức hạn chế quyền lực, tạo áp lực để mấy ông phải thay đổi. Bản thân tôi là đảng viên, cũng có nhiều bạn bè thân thiết, những đảng viên, những người lãnh đạo không cao lắm nhưng cũng là bậc trung, họ có những nhận thức tiến bộ, thấy được vấn đề, không mù quáng. Chỉ có những người chóp bu, ông nào cũng có lợi ích, có lĩnh vực để chia chác nhau làm cho đất nước khốn khổ vậy. Nông dân là lực lượng chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa rồi, lẽ ra họ phải được hưởng nhiều, bây giờ họ lại khổ nhất. Chỉ có quan chức và bà con của quan chức là hưởng lợi nhiều. Đa số người dân thì rất khổ, phải ly hương phải đi tìm sự sống. Cái này không thể chấp nhận được.   BVN: Vừa rồi theo anh nói có những đảng viên ở cương vị khá nhận thức được vấn đề nhưng cũng có nhiều người, nhất là những người ngoài đảng thắc mắc trong hàng mấy triệu đảng viên có phải những người có nhận thức tiến bộ chỉ là thiểu số, nếu không phải như thế thì tại sao đa số đảng viên lại không lên tiếng? Có phải là những đảng viên thường không có tiếng nói, không có tác động gì tới đường lối của đảng, tức là họ cũng nằm trong bộ phận bị trị mà như thế không hề đúng với cương lĩnh của đảng?   LHĐ: Đúng rồi. Tôi là đảng viên trong nhiều năm, sinh hoạt trong chi bộ tôi thấy các đảng viên, chi bộ, các cấp ủy chẳng có ý nghĩa gì, chỉ có mấy ông Bộ Chính trị, chóp bu quyết định thôi. Ban chấp hành Trung ương họp chẳng có ai dám nói gì đâu. Vừa rồi Quốc hội thông qua Hiến pháp chỉ có 2 người không bỏ phiếu thì có thể nói Quốc hội này là phản động, không phản ánh được ý chí nguyện vọng của nhân dân, nhất là vấn đề ruộng đất. BVN: Nhân việc anh tuyên bố ra khỏi đảng, anh có gì nhắn nhủ với các đồng chí cũ của anh, tức là các đảng viên đảng cộng sản? LHĐ: (Lặng im giây lát rồi vừa nói vừa khóc) Tôi có nhiều bạn bè là đảng viên, thực ra bây giờ tôi ra khỏi đảng rồi, không còn sinh hoạt đảng nữa. Lẽ ra bây giờ phải đoàn kết nhau lại để đấu tranh, phải có dũng khí, nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào, đất nước này ai lo? Thành ra tôi thấy thế này là không được, vì lợi ích cá nhân, gia đình, mà quên lợi ích đất nước thì không được, tôi thấy thế thì quá tệ hại. BVN: Ngoài ra anh còn muốn thông qua diễn đàn Bauxite Việt Nam để nhắn nhủ điều gì nữa?   LHĐ: Tôi muốn nhắn anh chị em đảng viên trong đảng còn tâm huyết thì không có thời điểm nào thuận lợi bằng thời điểm này để tỏ thái độ để đấu tranh. Nếu bây giờ cứ nói tình hình lúc này chưa chín muồi, hoặc là chưa đúng lúc, thì bao giờ mới đúng lúc, mới chín muồi? Chính mình phải tác động để tình hình chín muồi chứ không lẽ ngồi chờ sung rụng à? Quan điểm ấy rất là tiêu cực, mọi người phải tích cực lên, đấu tranh mạnh mẽ, kể cả không sợ bắt bớ tù đày. Chỉ có kẻ yếu mới thích bắt bớ tù đày. Nếu mạnh thì phải đối thoại. Thí dụ như trường hợp của tôi chưa có ai đến đối thoại với tôi. Tôi nói thêm bây giờ chính là lúc của nhân sỹ trí thức. Bao giờ cũng vậy, xã hội nào cũng vậy, thời kỳ nào cũng vậy,nhân sỹ trí thức phải đi đầu, phải giương cao ngọn cờ đấu tranh, phải dũng cảm, đừng có sợ. Bây giờ là mình phải phá tan không khí sợ hãi mà bao nhiêu năm, từ năm 1954 đến giờ, do mấy ông tạo nên. Bây giờ tôi thấy, ai cũng sợ, cái gì cũng sợ. Sợ ma, sợ quỷ, sợ cái quái quỷ gì… Mình là con người tự do, mình sợ cái gì. Mình không sợ vì mình là chính nghĩa, và như vậy mình làm việc đúng thì không thể ai nói gì, làm gì được mình hết. Đừng có nói chưa chín muồi. Tôi hy vọng nhân sỹ trí thức đừng có đặt vấn đề chưa chín muồi hoặc là chưa đúng lúc. Chín muồi là do tác động của xã hội dân sự. Xã hội dân sự mạnh lên thì sẽ có tác động. Mà muốn xã hội dân sự mạnh thì nhân sỹ trí thức phải làm.Vậy thôi.   BVN: Xin cảm ơn anh và xin nhanh chóng truyền tải tất cả những lời tâm sự chân thành và tha thiết của anh đến bạn đọc của Bauxite Viêt Nam và qua đó sẽ gửi đến rộng rãi những người dân trong xã hội, kể cả những đảng viên và những người lãnh đạo của đảng. Một lần nữa cảm ơn anh và xin chúc anh chóng phục hồi sức khỏe. Nguồn: Bauxite Việt Nam
......

Tâm thư từ bỏ đảng của Nhà báo Phạm Chí Dũng

Thụy My RFI - Nhà báo Phạm Chí Dũng, cây bút bình luận sắc bén đồng thời là tiến sĩ kinh tế, hôm nay 05/11/2013 vừa viết lá tâm thư chính thức từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam. Thụy My xin giới thiệu với bạn đọc ở đây: TÂM THƯ TỪ BỎ ĐẢNG Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 12 năm 2013 Tôi là nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, đảng viên từ năm 1993, viết tâm thư này nhằm khẳng định một quyết định khó khăn trong đời mình: Tôi chính thức từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống cách mạng, được đào tạo từ môi trường quân đội và nhiều năm công tác trong hệ thống chính quyền, đảng cùng nhiệm vụ bảo vệ an ninh, tôi đã từng tràn đầy nhiệt huyết đóng góp cho một đất nước xã hội chủ nghĩa công bằng và bác ái. Với trách nhiệm của một đảng viên, tôi đã chưa từng tham nhũng hoặc bị sa đọa lối sống. Song tất cả những gì mà đảng Cộng sản thể hiện vai trò “lãnh đạo toàn diện” trong ít nhất một phần tư thế kỷ qua đã khiến cho tôi, cũng như nhiều đảng viên khác, đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí lẫn tình cảm. Kết quả của cơ chế “lãnh đạo toàn diện” của đảng Cộng sản, mà thực chất là tư tưởng một đảng cố hữu, chính là nguồn cơn sâu xa và nguồn dẫn trực tiếp khiến cho xã hội Việt Nam rơi vào tình trạng không thể khác hơn là thảm cảnh như ngày hôm nay. Chưa bao giờ tham nhũng lại trở thành một quốc nạn ngập ngụa từ cấp trung ương đến tận cơ sở, từ trắng trợn đến vô liêm sỉ và dã man đến thế. Chưa bao giờ các nhóm lợi ích kinh tế và nhóm thân hữu chính trị, cũng như sự cấu kết giữa hai nhóm này lại biện chứng và sâu đậm đến mức bất chấp dân tình đến như vậy. Cũng chưa bao giờ hố phân hóa giàu nghèo trong xã hội ta lại thê thiết và tàn nhẫn như hiện thời. Những độc đoán về chính trị đã tất yếu dẫn đến hậu quả nạn độc quyền, đặc quyền và đặc lợi, trục lợi. Hậu quả ấy đã đẩy nền kinh tế vào thế vong tồn và cạn kiệt hầu hết các nguồn tài nguyên của đất nước. Cuộc trục lợi không thương tiếc đó đã, đang và sẽ dồn ép hậu quả khủng khiếp của nó lên đầu 90 triệu người dân Việt và toàn bộ lực lượng vũ trang. Chính vào lúc này, nền kinh tế Việt Nam đang đặt một chân vào vực thẳm khủng hoảng, và chỉ cần thêm ít năm nữa thôi, cơn ung hoại sẽ lan ra toàn thân để không thể một liều thuốc đặc trị nào còn tác dụng. Ung hoại kinh tế lại đang phá nát cơ thể đạo đức xã hội. Xã hội suy đồi toàn diện. Chưa bao giờ đạo lý và văn hóa người Việt, dân tộc Việt lại trở nên thảm thương và bĩ cực như giờ đây. Tình người và mối dây ràng buộc lỏng lẻo còn lại giữa con người với nhau luôn và sẽ phải đối mặt với nguy cơ cắn xé lẫn nhau. Ai và cơ chế nào đã gây ra thảm cảnh không thể cứu vãn như thế? Trong tâm trạng tuyệt vọng của một đảng viên, những người như tôi đã phải nhận chân rằng điều được xem là sự “lãnh đạo toàn diện” của Đảng Cộng sản đã thất bại, thất bại một cách cố ý và quá cay đắng. Không những không hướng đến tinh thần công bằng và bác ái, làm tròn nghĩa vụ một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, đảng Cộng sản hiện thời chỉ còn mang bóng hình và hơi thở của các nhóm lợi ích. Lời thề trung thành với đảng Cộng sản của tôi đã bị thực tế đau đớn thẳng thừng phủ nhận. Đảng và những người như tôi, tất cả đều sinh ra từ nhân dân và vì nhân dân. Nhưng một khi đảng đã không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số người dân, vì sao chúng tôi phải tiếp tục trung thành với đảng? Có sinh có diệt, những người lãnh đạo đảng Cộng sản ắt phải thấy quy luật trời đất đó đang ứng nghiệm vào chính họ. Bởi thái độ vô cảm, vô trách nhiệm và tư tưởng tư hữu bất chấp dân sinh, rất nhiều đảng viên cao cấp đã đẩy xã hội vào tâm thế phản lại ý nghĩa thiêng liêng của Tổ quốc. Đã đến lúc những người như tôi cần nhận chân rằng vai trò của đảng Cộng sản không phải là vĩnh viễn. Cũng không thể gìn giữ lòng trung thành tuyệt đối với một lý tưởng chỉ còn là câu chữ cửa miệng. Không nhằm mục đích chống đảng, tôi thành tâm cho rằng thái độ từ bỏ đảng Cộng sản là một trong những con đường ngắn nhất để gần gũi hơn với nhân dân và quyền lợi người nghèo. Trong tận cùng tâm thức, một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi. Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng Địa chỉ: 298/4 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 1, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh ĐT: 01235459338 Email: vietleminhquan@gmail.com __________________________________ ĐƠN XIN RA ĐẢNG Kính gửi: Đảng ủy Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM Tôi là Phạm Chí Dũng, đảng viên từ năm 1993, hiện công tác và sinh hoạt đảng tại Viện Nghiên cứu phát triển, trực thuộc Ủy ban nhân dân TP.HCM. Tôi làm đơn này đề nghị đảng ủy Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM hướng dẫn thủ tục và giải quyết cho tôi được ra khỏi đảng Cộng sản Việt Nam. Lý do: Tôi tự nhận thấy đảng Cộng sản không còn đại diện và phục vụ cho quyền lợi của đại đa số nhân dân, và điều đó đi ngược với tôn chỉ mục tiêu ban đầu của đảng cùng lời thề của tôi khi vào đảng. Do vậy tôi không còn phù hợp với vai trò và nghĩa vụ một đảng viên trong đảng Cộng sản. Trân trọng. Ngày 5 tháng 12 năm 2013 Người làm đơn Phạm Chí Dũng Thụy My RFI http://thuymyrfi.blogspot.fr/2013/12/tam-thu-tu-bo-ang-cua-nha-bao-pham-...
......

Phải có một thái độ mạnh mẽ, dứt khoát với đảng CSVN.

Ngày 28/11/2013, Quốc hội nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) biểu quyết thông qua Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992. Nội dung Hiến pháp "mới" chỉ khẳng định thêm tham vọng độc tài quyền lực cố hữu của đảng cầm quyền. Nguyện vọng của đa số nhân dân đã không được đáp ứng, ý kiến của nhiều người trí thức có tâm huyết đã không được lắng nghe, và lời kêu gọi của những người Cộng sản cấp tiến cũng đã không được quan tâm. Việt Nam đã không có được cơ hội để dân chủ hóa một cách hòa bình, và đảng CSVN đã cố tình bỏ qua thêm một cơ hội rất tốt để "hạ cánh an toàn". Trước thực trạng này, chúng ta cần phải có một thái độ mạnh mẽ, dứt khoát hơn với đảng CSVN. Nếu đảng CSVN nhân cơ hội kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII để chấp nhận ý kiến của giới trí thức và sửa đổi Hiến pháp, để dân chủ hóa đất nước từ Lập pháp sang Hành Pháp và Tư Pháp thì đảng Cộng sản sẽ được nhân dân, thế giới hoan nghênh. Với thiện chí đó, đảng CSVN mặc nhiên được tồn tại trong xã hội dân chủ sắp tới và vai trò tiếp nối sau này chỉ là khả năng thích ứng với xã hội dân chủ mà họ sẽ phải tự điều chỉnh. Nhưng thực tế diễn ra hoàn toàn trái ngược. Đảng CSVN đã hiến pháp hóa quyền lực lãnh đạo độc tôn của đảng cầm quyền ở mức độ cao nhất. Đảng CSVN đồng thời công khai thách thức cả thế giới khi vừa được chấp nhận vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc thì đã nhanh chóng khẳng định tính độc tài của chế độ một cách chính thức nhất. Thời gian sẽ chứng minh là các cam kết đã có với thế giới sẽ gây áp lực được với nhà cầm quyền, buộc họ phải nhượng bộ các đòi hỏi nhân quyền hay không. Nhưng kinh nghiệm quá khứ và thái độ sơ cứng của đảng CSVN hiện nay cho thấy là sẽ KHÔNG có bất cứ hy vọng gì trong thời gian tới, ngoại trừ một vài hành động để đánh lừa dư luận khi cần thiết như đã có. Vài "động thái" đầy mâu thuẫn với hiện trạng nhân quyền không thể được xem là bằng chứng cho sự tiến bộ nhân quyền của chế độ độc tài. Nhưng dù độc tài đến đâu, với nội dung bản Hiến Pháp vừa được thông qua một cách trâng tráo, và với tình trạng bảo thủ độc tài hiện nay, đảng CSVN sẽ phải tiếp tục đối đầu với vô số áp lực xã hội, kinh tế và chính trị. Đảng CSVN có thể kiểm soát nhà tù song không thể kiểm soát suy nghĩ và khát vọng của con người. Nhân dân Việt Nam ngày nay đã có đủ kinh nghiệm và kiến thức để nhận thức và hành động. Khi nhu cầu tự nhiên của xã hội bộc phát với nhiều hình thức đấu tranh chống tham ô, bất công khác nhau, với bản năng sinh tồn, nhân dân sẽ không ngần ngại hành động, kể cả bằng vũ lực như đã có ở nhiều nơi. Một khi mất ổn định chính trị, tình trạng "tức nước vỡ bờ" sẽ xảy ra và khả năng kiểm soát của đảng cầm quyền sẽ có thể mất đi nhanh chóng. Sự sụp đổ của chế độ sẽ khởi đầu từ đó. Muốn chấm dứt chế độ độc tài toàn trị và xây dựng một chính thể dân chủ đa đảng, chúng ta cần khẳng định một số nguyên tắc không thể thiếu trong tiến trình đấu tranh giải trừ tình trạng độc tài toàn trị hiện nay. Đó là: Muốn có Dân Chủ thì phải chấm dứt tình trạng độc đảng một cách dứt khoát -- yêu cầu không thể thiếu, và không thể tương nhượng. Đấu tranh ngoại vận hay phát triển xã hội dân sự là nhu cầu không thể thiếu của Việt Nam nhưng đó không phải là giải pháp duy nhất. Nói cách khác, đó là những yếu tố CẦN nhưng chưa ĐỦ. Thế giới chỉ có thể giúp lên tiếng can thiệp cho một vài trường hợp vi phạm nhân quyền nổi tiếng nhưng không phải sự lên tiếng nào cũng có kết quả. Danh sách nhiều người đấu tranh dân chủ tiêu biểu đang bị cầm tù nhiều năm qua chứng tỏ thực tế đầy bi quan này. Giá trị dân chủ đang được công nhận một cách phổ quát trên thế giới nhưng sẽ không có nước nào hy sinh quyền lợi nước họ cho công cuộc dân chủ hóa Việt Nam.  "Quốc tế" chỉ thay đổi thái độ và tỏ thái độ hậu thuẫn tích cực khi họ nhìn thấy sự thay đổi gần kề của chế độ chính trị Việt Nam. Hơn nữa, quốc nạn Việt Nam bao gồm nhiều vấn đề vượt ra khỏi phạm vi nhân quyền thuần túy. Để ngăn ngừa cảnh tang thương, đổ vỡ cho đồng bào và đất nước, chúng ta không nên khích động bạo lực, chiến tranh hay khủng bố song dân chủ không thể có chỉ bằng hình thức kiến nghị, kêu gọi hay chỉ trích suông. Đối với những chế độ độc tài đã chiếm và giữ chính quyền bằng bạo lực, Dân chủ chỉ có thể giành lại khi đa số nhân dân nước đó sẵn sàng đối đầu với sự đàn áp bằng bạo lực. Ngày nào chúng ta còn khoan nhượng với chế độ độc tài, ngày đó đảng cầm quyền sẽ tiếp tục không nhân nhượng. Ngày nào còn tiếp tục kỳ vọng chế độ độc tài sẽ tôn trọng nhân quyền, vì bất cứ lý do gì, là ngày đó chúng ta còn vô tình cho tập đoàn thống trị thêm cơ hội để tiếp tục tồn tại. Những nghiên cứu, phân tích về chủ nghĩa và bản chất chế độ Cộng sản đã đủ. Cơ hội hòa bình dành cho đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã đủ. Điểm còn thiếu là một quyết tâm sắt đá: đảng CSVN phải dứt khoát trả lại quyền lãnh đạo đất nước cho toàn dân, hoặc bị giải thể. Trong tinh thần xiển dương nhân bản và dân chủ, chúng ta luôn tránh tất cả hình thức trả thù báo oán nhắm vào toàn bộ cán bộ, đảng viên Cộng sản. Bởi lẽ, phần lớn cũng là nạn nhân của một hoàn cảnh chính trị. Mục tiêu của chúng ta là chấm dứt chế độ độc tài toàn trị để thành hình một chính thể dân chủ đa đảng, thì vấn đề chỉ là thay đổi cơ chế và thành phần lãnh đạo quốc gia. Chúng ta sẽ không lật đổ chế độ đương quyền như họ đã làm với chế độ VNCH vào năm 1975. Chính phủ mới cần phải lưu dụng quân đội, công an và bộ máy hành chánh đang có để có thể có đủ điều kiện ổn định tình hình quốc gia một cách nhanh chóng, đồng thời tránh gây những mâu thuẫn, đổ vỡ có thể làm phương hại đến an ninh quốc gia và sự phát triển của đất nước sau đó. Vấn đề đáng quan tâm của giai đoạn chuyển thể là làm sao loại trừ được các thành phần xấu trong quân đội, công an và chính quyền để những người tốt trong các bộ phận này có thể hành xử chức năng chuyên môn hầu phục vụ quốc gia, thay vì đảng Cộng sản. Khi đảng cầm quyền đã hoàn toàn không trân trọng thiện chí hòa bình của những người đấu tranh dân chủ ôn hòa thì con đường duy nhất là giải thể bộ máy độc tài đó, chứ không kêu gọi sửa sai hay đổi mới gì nữa! Lâm Thế Nguyên  (ĐVDVN) Nguồn: www.vidan.org
......

Đảng Cộng Sản và con Cáo Cộ

Khi còn nhỏ, mỗi khi tôi khóc làm nũng thì bố mẹ và chị gái tôi cùng những người lớn thường dọa tôi: “Khóc là con Cáo Cộ nó bắt kìa”. Tôi chẳng biết Cáo Cộ là con gì, hình thù thế nào. Nhưng theo như người lớn nói thì tôi nghĩ rằng nó rất hung dữ và có thể bắt trẻ con để ăn thịt nên tôi rất sợ. Tôi sợ Cáo Cộ hơn cả sợ bố, mẹ, anh, chị. Thậm chí chỉ cần người lớn trạo giọng và nói “ Cáo Cộ” là tôi đã sợ tè cả ra quần.   Khổ nỗi tại Việt Nam bây giờ người dân còn phải sợ nhiều và sợ hơn con Cáo Cộ của tôi rất nhiều lần. Họ sợ từ công an, đến bác sỹ và mọi loại người dính tới Nhà nước. Mỗi khi bất đắc dĩ mà người dân phải rơi vào tay họ thì chắc chắn sẽ từ hao tiền tới mất mạng. Ai không tin cứ thử cách đơn giản này. Xin cứ gặp bất cứ người dân nào hiện đang sinh sống bình thường ở bất kỳ miền nào và chi hỏi họ một câu: Bạn sợ nhất điều gì? Xác suất cao câu trả lời sẽ theo thứ tự: thứ nhất là sợ công an, thứ hai bác sỹ, thứ ba chính quyền. Dưới sự lãnh đạo độc quyền “tài tình” của Đảng Cộng sản, những thành phần trên đã thực sự trở thành những con “ Cáo Cộ” mà khi nghe nhắc tới nhiều người đã phải tè... trong lòng.   Thời gian vừa qua khi tôi ra tù thì được tin Quốc hội Việt Nam đưa vấn để sửa đổi hiến pháp 1992 ra để cho dân góp ý. Tôi cứ nghĩ rằng ít nhiều đây cũng là cơ hội để quần chúng nhân dân đưa ra những ý kiến đóng góp thật lòng của mình để góp phần xây dưng một văn kiện pháp lý quan trọng cho vận mệnh của đất nước. Tôi đã được xem qua một số bản kiến nghị của một số cá nhân và tập thể và thấy rằng những đóng góp sửa đổi này thật sâu sắc và hợp tình hợp lý, thể hiện tinh thần trách nhiệm với tương lai đất nước. Điển hình như bản kiến nghị 72 hay bản kiến nghị của Hội đồng Giám mục Việt nam, ... Nhưng, như chúng ta đã biết, ngay sau mỗi bản kiến nghị góp ý mang tính sâu xa và phù hợp thực tiễn, nguyện vọng của nhân dân xuất hiện, lập tức các đại diện Đảng, Nhà nước, Quốc hội lại có những lời phát biểu mang tính uy hiếp đe dọa nhân dân và xem những người có ý kiến góp ý chân tình là đối tượng “suy thoái” cần phải ngăn chặn xử lý. Sau cùng thì ông Tổng Lú lại thẳng thắn khẳng định rằng: Hiến pháp là cương lĩnh thứ hai của Đảng cộng sản. Vây nếu Hiến pháp là cương lĩnh của Đảng thì sao ông Nguyễn Sinh Hùng lại dám vượt mặt Đảng để đưa ra dân lấy ý kiến? Nếu là cương lĩnh của Đảng thì chỉ Đảng của các ông bàn thảo thôi chứ; sao lại lừa mỵ nhân dân và quốc tế như vậy?   Và sau những nạt nộ đó, đảng viên lại im bặt; đại biểu Quốc hội lại im bặt; nhân dân nói chung cũng im bặt. Ấy mới biết rằng trẻ con sợ Cáo Cộ thế nào thì nhiều người dân Việt Nam ngày nay cũng sợ Đảng cộng sản như vậy. Loài cáo thường ẩn mình trong bụi rậm để chờ khi con người sơ hở là chúng đột nhập để bắt gà bắt vịt; còn Đảng Cộng sản hôm nay thì nấp mình trong cái chủ nghĩa Mác-Lê và bản Hiến Pháp độc quyền để tìm mọi cơ hội ăn cướp của nhân dân. Điều hơi lạ là: trong khi trẻ con nghe tới Cáo Cộ thì sợ rúm vì không biết mặt mũi loài cáo thế nào, nhưng  người lớn thì đã thấy quá rõ bộ mặt của Đảng Cộng sản rồi sao vẫn còn sợ?   Có phải người ta sợ vì chúng có khả năng cướp nhà, cướp đất của dân, ăn chặn cả tiền xương máu của người đã chết? Chẳng còn gì mà chúng không đục khóet của nhân dân. Chúng nhượng  cả đất đai, tài nguyên, biển đảo cho ngoại bang để kiếm lời…   Nhưng nếu cứ ngồi yên trong sợ hãi chúng ta sẽ tiếp tục mất thêm nhiều nữa. Đất nước mất thêm lãnh thổ, chủ quyền. Dân mất thêm từ tài sản đến tính mạng. Đã đến lúc chúng ta học lại cái tiến trình đã giúp mình vượt qua nỗi sợ Cáo Cộ khi còn nhỏ. Đối với tôi, nhận thức 'bất kể loài cáo nào, dù to lớn tới đâu, thì chúng vẫn chỉ là loài cáo, không thể hơn người được' đã giúp tôi vượt qua nỗi sợ. Và nay, với cùng hướng suy nghĩ đó, tôi thấy rằng: Dù núp dưới danh nghĩa hay mỹ từ gì thì lãnh đạo Đảng cộng sản vẫn đang là kẻ cướp đối với dân tộc Việt Nam. Họ cướp đi tất cả những gì đương nhiên thuộc về mỗi người Việt Nam, mà quan trọng nhất là các quyền con người và đặc biệt quyền tự cai trị lấy đất nước của mình qua lá phiếu dân chủ. Càng ngày lãnh đạo đảng càng khó che giấu bản chất "kẻ cướp" của họ trước mắt tập thể đảng viên và nhân dân bất kể nỗ lực của Ban Tuyên giáo, của guồng máy tuyên truyền, của cả trăm ngàn dư luận viên và công an mạng, .... Đã đến lúc chúng ta cần thấy rõ nỗi sợ trong lòng những người biết họ chỉ là những "kẻ cướp" ở đất nước này. Xin hãy làm người lớn thật sự, đứng thẳng lưng trên quê hương CỦA CHÚNG TA. Đừng cứ mãi sợ Đảng như trẻ con sợ Cáo Cộ nữa. Thanh hóa 2/12/2013 Nguyễn Trung Tôn ĐT 01628387716
......

Hội phụ nữ đầu tiên thực sự bảo vệ phụ nữ

(VNWHR | PNNQVN) - Ngày 25 tháng 11 hằng năm được chính thức công nhận là “Ngày quốc tế loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ” từ ngày 17 tháng 12 năm 1999 theo Nghị quyết số 54/134 của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc.   Ngày 25 tháng 11 vừa qua, để kỷ niệm Ngày quốc tế này, Tổng thứ ký Liên Hiệp quốc Ban Ki-moon đã “hoan nghênh nỗ lực đồng loạt kêu gọi chấm dứt việc sử dụng bạo lực theo ước tính nhắm vào một phần ba số phụ nữ trên thế giới”, “cổ vũ các nhà lãnh đạo nỗ lực ban hành và áp dụng luật pháp cũng như góp phần thay đổi não trạng”…   Và khoảng thời gian ngắn ngủi từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 10 tháng 12 (Ngày quốc tế Nhân quyền) hằng năm được mệnh danh là “16 ngày hành động” chống lại việc sử dụng bạo lực đối với phụ nữ. Quả thật là một sự sắp xếp thích đáng khi kết nối Ngày quốc tế xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ và Ngày quốc tế Nhân quyền bằng 16 ngày dành riêng cho phụ nữ này.   Thực vậy, cũng trong ý nghĩa đó, cuộc vận động cho quyền lợi của phụ nữ khắp thế giới không thể tách rời khỏi nỗ lực vận động bảo vệ Nhân quyền phổ quát. Quyền của nữ giới sẽ không bao giờ được tôn trọng và đảm bảo trong một xã hội mà Nhân quyền nói chung bị chà đạp. Vì thế, cuộc vận động cho Nhân quyền của phụ nữ Việt Nam là một mảng vô cùng quan trọng, gắn bó mật thiết với mọi nỗ lực vận động cả quốc nội và hải ngoại cho Nhân quyền ở Việt Nam. Trong bối cảnh đầy ý nghĩa đó, ngày 25 tháng 11 năm 2013 vừa qua, tổ chức xã hội dân sự có tên Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam chính thức được thành lập, không ngoài mục tiêu bảo vệ tất cả phụ nữ Việt Nam- những người là nạn nhân của những vụ vi phạm Nhân quyền đang ngày một trở nên nghiêm trọng hơn tại xứ sở này. Mặc dù, đã đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò thứ yếu trong những đổi chác mang tính chính trị của ngoại giao quốc tế, Nhân quyền vẫn là giá trị phổ quát có khả năng gắn kết mọi cá nhân trên khắp thế giới bất chấp sự khác biệt về giới tính, chủng tộc, quốc gia, thể chế chính trị… Dó đó, ngày hôm nay, cuộc vận động cho Nhân quyền, đặc biệt là quyền của phụ nữ ở Việt Nam trở nên đặc biệt chính đáng và đầy uy tín quốc tế. Như chúng ta đã biết, với sự tồn tại và hoạt động trên danh nghĩa và chỉ nhằm phục vụ quyền lợi của Đảng cộng sản Việt Nam, Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam chưa và sẽ không bao giờ thực sự mang giá trị tự thân đáng tự hào của một hội đoàn dân sự. Và việc hình thành những tổ chức dân sự thay thế vai trò của Hội này, nhằm gánh vác sứ mệnh bảo vệ quyền lợi của phụ nữ Việt Nam là một vấn đề mang tính lịch sử, cấp thiết và không thể tránh khỏi. Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam là một tổ chức dân sự đầu tiên như thế. Chúng ta có thể điểm lại vài nét trong bức tranh vi phạm Nhân quyền và chà đạp nhân phẩm phụ nữ rộng lớn của chính quyền Việt Nam. Công an cưỡng chế thu hồi đất lôi kéo những phụ nữ dân oan trần truồng giữ đất như súc vật; quản giáo ngược các nhà nữ bất đồng chính kiến trong tù; dân phòng, an ninh thường phục đánh đập những nhà hoạt động nữ trong các cuộc biểu tình ôn hoà hay dã ngoại Nhân quyền; công an phường làm nhục người nữ đối kháng trong đồn công an phường… Đó là những sự kiện làm tổn thương lương tâm nhân loại và thực sự bất xứng đối với vị trí của một chính quyền là thành viên của Liên Hiệp quốc và có những cam kết quốc tế về bảo vệ Nhân quyền. Sự ra đời của Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam vừa trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc bất chấp thực trạng Nhân quyền tồi tệ ở quốc gia này, là một phép thử kiểm tra thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam đối với các tiếng nói đòi tự do nhân quyền sau sự kiện này. Thứ hai, đây cũng là cơ hội cho nhà cầm quyền để điều chỉnh cách xử sự của họ, không phải vì thành tâm mà vì vận mệnh của chính họ. Mặc dù vậy, chúng ta không bao giờ nên chủ quan đối với một nhà cầm quyền có bề dày về những kinh nghiệm giả trá và lừa bịp cả với người dân Việt Nam lẫn công luận quốc tế. Bản lĩnh, sự khôn ngoan và tình yêu dành cho nhau của những người phụ nữ Việt Nam sẽ giúp chúng ta cùng nhau vượt qua những khó khăn phía trước, nhưng chúng ta không thể hoạt động hiệu quả mà không có sự ủng hộ quốc tế. Như chúng ta đã biết, Uỷ ban Nhân quyền của Liên hiệp quốc đã hoàn toàn thất bại trong cố gắng trung thành và theo đuổi mục tiêu mà nó đề ra ban đầu. Năm 2003, sự kiện Lybia dưới chế độ độc tài Gaddafi được bầu làm chủ tịch Uỷ ban này là một sự sỉ nhục không chỉ đối với Uỷ ban Nhân quyền mà còn là tai tiếng đối với cả cái thiết chế quốc tế Liên Hợp quốc. Nếu Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc hôm nay không muốn đi vào lịch sử như một sự thất bại tiếp theo, Hội đồng này phải thay đổi triệt để. Bất cứ sự nhượng bộ nào của Hội đồng này đối với các chế độ độc tài sẽ biến nó trở thành sân chơi của những thế lực cơ hội chính trị tầm quốc tế và giá trị Nhân quyền cao quý sẽ bị chà đạp ở chính nơi nhận nhiệm vụ quan sát và bảo vệ nó. Với nhu cầu đó, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do phải lãnh đạo Hội đồng Nhân quyền và thay đổi thực trạng này. Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về Quyền lực mềm, mà Quyền lực mềm ấy còn là gì nếu không có các giá trị Tự do, Dân chủ, Nhân quyền? Thời gian phía trước chính là cơ hội cho chính phủ các quốc gia tự do nói chung và Hoa Kỳ nói riêng thể hiện thái độ của mình một cách rõ ràng. Trở lại vấn đề của chúng ta, với tôn chỉ hoạt động độc lập và chỉ liên quan đến lĩnh vực Nhân quyền, trong tình hình chính sự quốc nội đầy thù địch với những nhà hoạt động bảo vệ Nhân quyền, Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam nhận thức rõ những thách thức mà tổ chức dân sự này phải đối mặt. Dù một mặt chủ động xây dựng nội lực, Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam vẫn liên lạc chặt chẽ và kêu gọi chính phủ các quốc gia tự do hãy hành động có trách nhiệm sau khi đã bầu cho Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền. Đặc biệt chúng ta sẽ chờ xem các động thái của Hoa Kỳ với tư cách là người đàn anh của thế giới tự do; vì chỉ mới đây, vào chính ngày thành lập Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã tuyên bố:” Ngày này là thời điểm để chúng ta tái khẳng định quyết tâm biến lời nói thành hành động, và chúng ta cam kết góp phần giúp thế giới thoát khỏi những hành xử tàn bạo đã tước đoạt cuộc sống bình đẳng và nhân phẩm từ những người đồng hương của chúng ta (phụ nữ)”. Sài Gòn ngày 3 tháng 12 năm 2013 Huỳnh Thục Vy Nguồn:  © VNWHR | PNNQVN  
......

Ông Lê Hiếu Đằng Tuyên Bố từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam

TUYÊN BỐ Tôi tên LÊ HIẾU ĐẰNG là ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VN, hơn 40 tuổi đảng. Nay tôi tuyên bố công khai ra khỏi đảng CSVN vì: ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân. Tôi xin xác định đây là quyết định của tôi.             Ngày 04.12.2013                          Lê hiếu Đằng                               (chữ ký) Đôi lời: Vậy là phát pháo lệnh đã nổ! Trước khi bản Dự thảo Hiến pháp sửa đổi được Quốc hội thông qua, công luận thừa biết màn hài kịch lố bịch sẽ có cái kết ra sao, người ta chờ đợi một phản ứng mạnh mẽ nào đó, ví như một cuộc biểu tình. Nhưng đã không xảy ra. Phải chăng lòng người đã quá mệt mỏi? Hay nỗi sợ hãi bị đàn áp, trong lúc thiếu sự gắn kết và những “ngọn cờ”? Và Lê Hiếu Đằng đã nhận lãnh vị trí đó, dù cho có thể sẽ là một “ngọn cờ cảm tử”. Thử nhìn lại, khi ông tung ra bài viết Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh…, bộ máy tuyên truyền của ĐCSVN hoảng hốt tới đâu. Đến những tờ báo thuộc loại có phần “gần dân”, chẳng bao giờ thèm tham gia những cuộc “đánh hôi” của đám báo “lá … chuối chùi khu” như Nhân dân, Quân đội nhân dân, vậy mà cũng được lôi vào trận. Rồi vài tay chân đã lộ hoặc chưa lộ mặt của đảng cũng nháo nhác kêu la, chửi rủa. Nếu đó là cú đòn nhứ, làm cho đảng vội vã tung hết binh lực, thì cú đòn lần này, chắc chắn sẽ làm đảng khó trở tay, nhất là ngay giữa lúc bữa tiệc hân hoan mừng Hiến pháp mới vừa được bày biện. Nó sẽ như cái tát vào ngay giữa những cái miệng bóng nhẫy đang nhồm nhoàm gặm dở khúc sườn, đùi. Ban bí thư sẽ chụm đầu bàn bạc, Ban Tuyên giáo sẽ có những chỉ thị ngầm, …? Liệu có nên công khai phản công như lần trước, hay nín lặng, vì không khéo thì “lợi bất cập hại”? Không lẽ lại lần nữa phải huy động cỗ máy khổng lồ chỉ để chống lại một Lê Hiếu Đằng đơn độc, đang mắc trọng bệnh? Hay là để dành binh lực, chờ cú đòn nặng hơn, của một tập thể, chẳng hạn? Cho nên, sẽ phải bóp đầu, căng tai nghe ngóng, phán đoán xem liệu hiệu ứng của cú đòn này sẽ lan tỏa tới đâu. Bởi vì Một phong trào bỏ đảng nếu như được dấy lên, ngay vào lúc này, sẽ là cái giá phải trả đau đớn nhất, mối đe dọa lớn nhất trong lịch sử 83 năm vinh – nhục của ĐCSVN. BT   Nguồn: diendanxahoidansu
......

Cú đánh lừa không hoàn hảo

Bản Hiến pháp 2013 đã được thông qua, với tuyệt đại đa số phiếu có mặt 486/488 = 97% phiếu bầu. Lãnh đạo đảng và Quốc hội kiên định đi theo ý của mình, bất chấp lời yêu cầu hoãn bỏ phiếu để lấy thêm ý kiến của công dân, thảo luận thêm cho kỹ vì khá đông trí thức trong nước cho rằng bản dự thảo còn nhiều điều cũ kỹ, giáo điều, có một số điểm còn lùi lại so với Hiến pháp 1992, chưa đạt mức đổi mới cần thiết. Bộ Chính trị và Ban Thường trực Quốc hội vẫn tự tin mình là Vua tập thể, như cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nhận định, tự cho ý mình là ý Trời, toàn dân phải cúi đầu vâng lệnh. Như thế, Quốc hội đã thông qua với tỷ lệ gần tuyệt đối 100%, không có phiếu chống nào, chỉ có 2 phiếu trắng. Một cuộc bỏ phiếu hoàn hảo, mỹ mãn, chỉ có dưới thời Xô Viết của Stalin, thời Mao, thời họ nhà Kim/Bắc Triều Tiên.   Các vị lãnh đạo đảng, nhà nước, Quốc hội vui vẻ, hài lòng, hân hoan ra mặt. Họ mở đại tiệc trưa 30/11. Theo mạng của Đảng Cộng sản ngày 29/11, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cao hứng tuyên bố rằng: ”Đây là cuộc họp rất quan trọng. Hiến pháp là đạo luật cơ bản làm nền tảng chính trị cho đất nưóc. Các đại biểu đã tận tụy hết mình, với tinh thần khoa học, đã lắng nghe, tìm hiểu, tiếp thu, chắt lọc tinh hoa trí tuệ của đồng bào, chiến sỹ, bà con ở nước ngoài, các cấp các ngành của hệ thống chính trị để hoàn thiện bản Hiến pháp này.“ Thay mặt Ban Thường vụ Quốc hội, ông Uông Chu Lưu mở ngay cuộc họp báo, tán tụng tiếp: ”Qua cuộc thông qua Hiến pháp mới, ý đảng là lòng dân, lòng dân khẳng định niềm tin, ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân đối với đảng lãnh đạo.” Bà Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Doan huênh hoang: “Cuộc thông qua Hiến pháp hết sức dân chủ, cởi mở, việc dự thảo rất công phu, phản ánh trí tuệ của toàn dân. Việc thi hành Hiến pháp bắt đầu từ ngày 1/1/2014 sẽ đặt cơ sở cho bước phát triển mới của đất nước.” Họ vui mừng, hớn hở ra mặt vì trong thâm tâm ngỡ rằng họ đã hoàn thành một cuộc đánh lừa hoàn hảo. Thế nhưng thời thế đã khác, và cũng đã có những đánh giá khác hẳn. Nhiều trí thức đã không ngạc nhiên, tỏ ra thất vọng. Họ cho rằng với những người lãnh đạo hiện nay tất là phải như thế. Chỉ là một sự đánh tráo khái niệm, một cuộc lừa dối quy mô, đổi rất nhiều câu chữ thứ yếu để không thay đổi gì thực chất, nhằm kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê lỗi thời, kiên định chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa xã hội mơ hồ, kiên định chế độ toàn trị độc đảng, kiên trì kinh tế nhà nước là chủ đạo, kiên trì sở hữu toàn dân về đất đai. Chính 5 điều kiên định đó mới cần thay đổi, dứt khoát vứt bỏ. Một cuộc phản biện lập tức diễn ra quyết liệt trên các blog tự do, đặc biệt là trên Diễn đàn Xã hội Dân sự, một cuộc phản biện sâu sắc, mạnh mẽ, triệt để, thấu lý đạt tình hơn.   Phản biện dữ dội nhất là lần này là về thái độ sai lầm của lãnh đạo không còn úp mở, công khai đặt đảng đứng trên nhân dân, Hiến pháp tuân theo Cương lĩnh của đảng. Rõ ràng nhất là Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) của đảng vừa duyệt bản Hiến pháp xong là đưa ngay ra buộc Quốc hội bỏ phiếu, như đóng kịch, vì 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên, phải tuân theo kỷ luật của đảng. Đảng chủ đã tiêu diệt dân chủ. Quốc hội thực chất là “Đảng hội”. Đảng đã cưỡng ép Quốc hội, nên Hiến pháp thực chất là bản “hiếp pháp”. Theo mạng Dân làm báo ngày 30/11, Giáo sư Tương Lai nhận xét rằng Quốc hội khóa XIII đã phạm tội đối với đất nước, dân tộc do những hệ quả nguy hiểm nó mang lại. Công dân Nguyễn Lân Thắng đề nghị giải tán Quốc hội do sai lầm cao ngạo dám tự đặt mình cao hơn nhân dân.   Hiến pháp mới không mảy may mang chất nhân dân, do dân, vì dân, nên sau khi ông Uông Chu Lưu khẳng định đã tiếp thu, nghiên cứu, sàng lọc, rút ra tinh hoa trí tuệ của nhân dân để đưa vào Hiến pháp mới, một nhà báo hỏi ông đã tiếp thu những ý kiến nào hay nhất của nhân dân thì ông phó chủ tịch Quốc hội tịt mít, không nói nổi. Công luận biết rõ một loạt ý kiến xác đáng nhất, tâm huyết, khoa học nhất trong kiến nghị của 72 trí thức được 14.785 công dân tán đồng đã bị vứt vào sọt rác, thậm chí còn bị chụp mũ là lạc hậu, trái đạo đức, phản động.   Trong cơn suy thoái của đảng CS về mọi mặt, về quản lý kinh tế tài chính cũng như về điều hành ngành y tế giáo dục, về tính cương trực cầm quyền cũng như về duy trì đạo đức xã hội, chưa bao giờ uy tín của đảng, của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, của chính phủ, Quốc hội lại xuống thấp như hiện nay, bị cả xã hội chê trách, coi thường. Cũng đúng vào lúc các tổ chức quốc tế và Liên Hiệp Quốc yêu cầu VN phải tỏ ra biết phục thiện bằng việc làm trong tôn trọng nhân quyền khi vừa mới được vào Hội đồng Nhân quyền. Bô Chính trị đã tính sai một nước cờ khi quyết định ép Quốc hội thông qua một dự thảo cực kỳ bảo thủ, lạc hậu đến ghê người. Ngay đoạn mở đầu đã ca tụng chủ nghĩa Mác - Lênin, cứ như hơn 20 năm về trước. Họ đã khinh thường nhân dân, miệt thị trí thức, lườm nguýt thanh niên, thù ghét nông dân, bóp chết nhà kinh doanh vừa và nhỏ, đàn áp người dân chủ, yêu nước, vậy họ định sống hòa thuận yên ổn với ai?   Với thái độ bịt chặt tai, nhắm nghiền mắt không thèm nghe tiếng dân, đặt dân dưới chân của đảng, bắt dân phủ phục thi hành từ ngày 1/1/2014 bản hiến pháp được thảo tuân theo cương lĩnh của đảng, thực sự đảng đã bắt dân hàng phục mình. Đây là một cuộc chiến tranh không tuyên bố, sau một cuộc phản bội tưởng như hoàn hảo, trót lọt. Thật ra đây chỉ là một quả lừa vụng về, dại dột, không đúng lúc. Và nhân dân đã và đang trả lời. “Hội không đồng ý với Hiến pháp” lập tức xuất hiện. Chỉ trong vài giờ đã có vài trăm công dân ghi tên tham gia. Hàng loạt công dân tuyên bố “bất tuân dân sự”. Một đảng khinh miệt dân, một nhà nước coi dân và trí thức dân tộc như cỏ rác còn xứng đáng cầm quyền, còn đáng được tôn trọng không? Một đảng rắp tâm phản bội nhân dân đến thế ắt nhân dân biết phải ứng xử lại ra sao cho phải lẽ. “Hội phụ nữ nhân quyền“ cũng đàng hoàng xuất hiện. Tổ chức thúc đẩy nhân quyền chuẩn bị xuất hiện. Người dân bật dậy, từ đất dấy lên, mời gọi, vẫy nhau. Mọi người hãy nghĩ đến sức dân. Sức Ngu Công dời núi. Nguyễn Trãi, Chu Văn An đã bàn về sức dân. Chèo thuyền lật thuyền là sức dân. Thánh Gandhi đã chỉ rõ sức dân, tay không, ý chí vững bền là vô địch. Mandela gọi số đông thức tỉnh có tổ chức là phép nhiệm mầu, sức công phá mạnh hơn vũ khí, bạo lực. Huống gì sức mạnh của dân tộc gắn với sức mạnh của thời đại sẽ làm tăng thêm sức công phá cường quyền, tăng thêm phép nhiệm màu.
......

Tiền và máu!

“Ưu điểm” của chế độ CHXHCN hôm nay: Cái gì cũng có thể bán và không có gì không mua được!   Trong nghìn chuyện quái đản xảy ra ở Việt Nam lâu nay, bây giờ lại có thêm một chuyện quái đản nữa, là có lẽ rồi đây, thanh niên có thể tránh chuyện đi lính bằng cách đóng tiền, nói rõ là từ nay thanh niên Việt Nam sẽ góp đồng tiền thay việc góp máu cho quốc gia. Một trung tướng CSVN, cũng là dân biểu Quốc Hội, chủ nhiệm Ủy Ban Quốc Phòng-An Ninh, ông Trần Ðình Nhã, đã có dự thảo như thế để sửa đổi “Luật Nghĩa Vụ Quân Sự”.   Phải chăng đây là một hình thức hợp thức hóa cho những tệ nạn lo lót tiền để khỏi phải đi “nghĩa vụ” cho phường đội, huyện đội và những người trong hội đồng tuyển “nghĩa vụ quân sự” lâu nay, cũng như người ta đã có ý kiến đề xuất cho hợp thức hóa nghề mãi dâm.   Chuyện này hẳn có lợi cho một lớp người có đặc quyền, đặc lợi tham ô có tiền, lớp người làm thương mãi buôn bán, mánh mung trục lợi từ nhân dân, sẽ dùng tiền để che chở cho con cháu họ khỏi ra chiến trường. Số phận “anh hùng” từ nay sẽ dành cho đám quần chúng nghèo hèn, hẩm hiu này, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, không có tiền đóng cho đảng và chính phủ, chỉ có phần máu và thân xác nhỏ nhoi, cống hiến cho tổ quốc thay cho lớp có tiền. Cuối cùng chỉ có nhân dân khốn khổ phải phơi thây, còn nơi ấm cúng và chỗ ngồi tốt lành dành cho con cái đảng. Dù chính sách của Cộng Sản lâu nay vẫn tìm cách chỉ trích, bôi xấu chế độ tư bản, thực dân xâm lược hay chế độ tự do miền Nam thế nào đi nữa, nhưng đứng trên cương vị của một công dân phục vụ cho tổ quốc, chế độ CSVN hiện nay còn phải mở mắt học hỏi thêm nhiều bài “công dân giáo dục” và đạo làm người của những phe mà họ cho là kẻ thù. Tôi xin kể chuyện hai gia đình “kẻ thù” điển hình mà có lẽ chiến sử Cộng Sản ghi rõ hơn ai hết về tư cách phục vụ cho tổ quốc của những thanh niên “anh hùng” không hề núp bóng ô dù, không hề có chuyện “hy sinh đời bố, củng cố đời con!” Chúng ta đã biết mặc dù mang cấp bậc đại tướng trong quân đội Pháp, Jean de Lattre de Tassigny có con trai là Thiếu Úy Bernard, được đưa đến chiến trường Ðông Dương năm 1949, một nơi được xem là có những trận chiến ác liệt, và đã tử trận tại Ninh Bình trong một cuộc tấn công của Việt Minh, năm 1951, khi mới 23 tuổi. Ông nội và cha của Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ John McCain đều từng là đô đốc bốn sao của Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng gia đình này không phải là cái dù, để cho Thiếu Tá McCain khỏi phải bay dưới hỏa lực phòng không của Hà Nội và bị bắn rơi năm 1967. Nhìn về phía VNCH, Ðại Úy Phi Công Phan Quang Tuấn bị bắn rơi tại mặt trận Quảng Trị, trong khi thân phụ ông, Bác Sĩ Phan Quang Ðán, một thời là quốc vụ khanh và bộ trưởng, thừa quyền lực để mang con trai về một nơi an toàn. Phan Xuân Hiệp, sĩ quan Nhảy Dù, rồi Biệt Ðộng Quân, đụng trận, bị thương ở chiến trường Cheo Reo, Phú Bổn, là con trai của con trai Tướng Phan Xuân Nhuận, chỉ huy trưởng BÐQ. Về phía Cộng Sản miền Bắc, nơi mà “ra ngõ gặp anh hùng,” “danh tướng” Võ Nguyên Giáp, có hai người con trai đều không dính líu gì đến súng đạn. Con trai trưởng tên Võ Ðiện Biên, một cái tên rất “ấn tượng,” sinh năm 1954, nhưng xong trung học phổ thông, khoảng năm 1971, trong khi thanh niên miền Bắc đang đổ máu, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” ông con này đã được bố gửi sang học ở Học Viện Kỹ Thuật Hàng Không Giucopxki ở Liên Xô. Học viện này là trung tâm hàng đầu đào tạo cán bộ cho ngành khoa học hàng không và nghiên cứu hàng không vũ trụ. Ra trường, trở về phục vụ cho quân đội, nói cho oai, nhưng lại nằm trong một cái vỏ bọc bằng nhung được gọi là ngành khoa học công nghệ... Bây giờ Võ Ðiện Biên là giám đốc công ty cổ phần Ðông Sơn, chuyên cung cấp các thiết bị máy móc kỹ thuật cho các cơ quan, doanh nghiệp. Con trai út là Võ Hồng Nam (1956), tốt nghiệp Ðại Học Bách Khoa, hiện là giám đốc công ty cổ phần máy tính truyền thông Hồng Nam. Năm 1984, ông Võ Hồng Nam sang Hungary làm thực tập sinh kỹ sư công nghệ ở liên hiệp vi điện tử MEV, Buddapest, rồi kỹ sư lập trình ở viện nghiên cứu máy tính và tự động hóa Buddapest. Về nước, ông trở thành giám đốc công ty này, một doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Chính vì điều gì cũng nhân danh nhân dân, nhất là nhân dân thuộc loại bần cùng, đói khổ nên nhân dân phải chịu nhận vinh dự chết cho tổ quốc, để những “con ông, cháu cha” những kẻ quyền lực và có tiền ung dung ra ngoại quốc hay được điều động về trung ương, giữ những chức vụ béo bở. Nếu đóng tiền để khỏi đi lính, thì rồi đây chính phủ sẽ ấn định bao nhiêu cho mỗi người để gọi là đủ: $500, $1,000 hay $10,000 cũng là quá rẻ để nằm trong chăn ấm, nệm êm, tránh được chuyện xa nhà, nỗi nhọc nhằn tập luyện tại quân trường, và những nguy hiểm lúc đất nước có chiến tranh. Chỉ còn lại là đám “nhân dân anh hùng” đi bộ đội cho có cơm ăn và sẵn sàng chết cho đứa có tiền. Chúng ta thường mỉa mai lên án những lực lượng lính đánh thuê cho một đất nước không phải của mình, như Quân Ðoàn Lê Dương Pháp (FFL) mà toàn bộ binh lính được tuyển mộ từ nước khác, như 400 người Nga đang chiến đấu như lính đánh thuê ở Syria, như Blackwater, đoàn lính đánh thuê thiện chiến của Mỹ... “Quân đội Cụ Hồ” rồi đây sẽ là một đoàn quân đánh thuê: Không phải là thứ đánh thuê cho một quốc gia khác, mà đây là đánh thuê cho giai cấp, giai cấp bần cố nông đánh thuê cho giai cấp cầm quyền, tư bản, là những kẻ bỏ tiền ra để mua máu người khác thay vì phải đổ máu của mình ra. Những người nghèo không có tiền đóng cho chính phủ sẽ cầm súng đánh thuê cho những kẻ có tiền bỏ ra thuê! Ðó là “ưu điểm” của chế độ hôm nay: Cái gì cũng có thể bán và không có gì không mua được! Nguồn: nguoi-viet.com
......

Nghị Định 95 của Chính Phủ VN: Tiếp Tay Cho Thế Lực Bóc Lột Lao Động Việt Nam tại Đài Loan

Ngày 22 tháng 08 năm 2013, Chính Phủ Việt Nam đã ban hành Nghị Định Số: 95/2013/NĐ-CP “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”. Trong đó, Quy định đưa người lao động Việc Nam đi làm việc ở nước ngoài tồn tại nhiều điều bất cập, đặc biệt là những quy định về hình thức xử phạt, mức xử phạt đối với người lao động đi làm ở nước ngoài:   Chương IV, Điều 35, khoảng 2 quy định phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với lao động “Bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng.”   Câu hỏi mà chúng ta cần đặt ra ở đây là dựa vào đâu mà Chính Phủ đưa ra mức phạt hành chính nặng như vậy? Chính Phủ có hay không đứng trên lập trường của những người lao động nghèo để suy nghĩ và đưa ra quyết định trên? Chính Phủ có trả lời được câu hỏi vì sao người lao động bỏ trốn hay không?   Chính sách đưa người lao động đi làm ở nước ngoài của chính phủ Việt Nam là nhằm mục đích giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước v.v. Từ năm 1998, lựa chọn thông qua các công ty mô giới để được đi lao động ở các nước có nền Công nghiệp phát triển như Đài Loan, Nhật, Hàn, CH. Séc… là con đường thoát ly sự nghèo khó của nhiều người lao động Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, do người lao động phải trả chi phí mô giới quá cao, họ thường lâm vào tình trạng nợ nần nhiều năm. Do vậy họ dễ dàng bị rơi vào tình trạng bị cưỡng ép lao động ở các nước tiếp nhận lao động. Họ sống và làm việc như những nô lệ thời Trung Cổ. Trong khi đó, người lao động không nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan ngoại giao Việt Nam tại các nước tiếp nhận người lao động khi người lao động bị xâm phạm quyền lợi. Nước nhận lao động Mức quy định/người Mức thu trên thực tế/người Taiwan 4.500 USD 5.000 - 7.000 USD Japan 4.000 USD 5.000 - 10.000 USD South Korea 1.500 - 2.700 USD 3.000 USD - 4.000 USD Biểu giá quy định và mức thu vượt phổ biến theo thống kê của Báo Tuổi Trẻ (19/02/2013)   Với đa số người lao động, họ cố gắng vay mượn và bỏ ra một số tiền lớn như vậy để được đi làm ở nước là với hi vọng được làm việc trong điều kiện an toàn, khỏe mạnh, có mức lương cao hơn ở Việt Nam. Không một người lao động nào mong muốn sẽ trở thành một “người bất hợp pháp.” Vậy thì nguyên nhân vì sao người lao động bỏ trốn?   Thứ nhất, như chúng tôi đã nêu trên, chi phí mô giới để được đi lao động ở nước ngoài trên thực tế các công ty mô giới thu là quá cao. Hiện tượng này đã được các NGOs giúp đỡ công nhân Việt Nam ở nước ngoài phổ biến, các cơ quan báo chí trong và ngoài nước phản ánh. Thế nhưng, cho đến nay, hiện tượng các công ty mô giới lộng hành, bát nháo phí mô giới vẫn chưa được khắc phục.   Thứ hai, người lao động, sau khi rời Việt Nam, họ bị mô giới Việt Nam bỏ rơi, chối bỏ hết trách nhiệm mà đáng lý ra, theo quy định của pháp luật Việt Nam, các công ty mô giới Việt Nam phải chịu trách nhiệm. Chính Phủ Việt Nam đã làm gì? Hơn nữa, trên đất khách, người lao động hoàn toàn không có sự bảo vệ của Chính Phủ Việt Nam: “Việt Nam vẫn duy trì vị trí tùy viên lao động ở 9 quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam nhiều nhất, nhưng lại không có sứ quán ở một số nước nơi có những báo cáo về nạn mua bán người Việt Nam. Tại một số quốc gia có đại sứ quán của Việt Nam, các cán bộ ngoại giao còn phản ứng chưa thỏa đáng trong việc bảo vệ người lao động di cư, và Chính phủ xác nhận rằng các cán bộ ngoại giao chưa được tập huấn đầy đủ và giám sát về vấn đề này. Chính phủ không công bố số liệu về các trường hợp trong đó cán bộ lãnh sự quán hoặc cán bộ ngoại giao đã xác định hoặc hỗ trợ người Việt Nam bị cưỡng ép lao động tại nước ngoài. Các quy định của Chính phủ không cấm các công ty tư nhân giữ hộ chiếu của người lao động ở nước tiếp nhận lao động, và các công ty Việt Nam cũng đã giữ giấy thông hành của người lao động, đây được coi là một hành vi tiếp tay cho nạn mua bán người. Mặc dù về nguyên tắc người lao động có quyền khởi kiện các công ty xuất khẩu lao động, nhưng trên thực tế không có dấu hiệu nào cho thấy các nạn nhân được bồi thường tại các tòa án Việt Nam trong các vụ kiện này.” (Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, 2013)   Thứ ba, trong nhiều trường hợp (ở đây, chúng ta lấy ví dụ của người Việt đi lao động ở Đài Loan) người lao động Việt Nam không chỉ chịu sự áp đặt và bóc lột của cả các công ty mô giới và chủ thuê, theo các NGOs giúp đỡ công nhân nước ngoài tại Đài Loan, các công ty mô giới kết hợp với chủ thuê để cố tình ép người lao động bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tiền cọc chống trốn chạy của người lao động. Thứ tư, tại nước tiếp nhận lao động, người lao động phải tuân theo những quy định về luật pháp dành cho người lao động nước ngoài - công nhân cổ xanh, của nước họ đang làm việc. Chưa phải nói đến vấn đề kỳ thị văn hóa trong đời sống hằng ngày mà người lao động phải chịu đựng, họ còn bị kỳ thị và phân biệt đối xử ngay trong các điều luật của chính phủ nước nhận lao động. Thí dụ, Chính Phủ Đài Loan đưa ra chính sách tuyển lao động nước ngoài đến Đài Loan là việc không phải vì lý do Đài Loan thiếu hụt nguồn lao động, mà Đài Loan thiếu lao động trong các ngành nghề thuộc nhóm 3D (Dirty, Dangerous and Demeaning – Bẩn thiểu, Nguy hiểm, Hạ thấp phẩm giá), những ngành nghề mà công nhân bản địa không tình nguyện làm.   Nay, Chính Phủ Việt Nam không đứng trên lập trường bảo vệ quyền lợi của người lao động để giải quyết vấn đề. Chính Phủ chưa tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân của hiện tượng chạy trốn của các lao động Việt Nam ở nước ngoài. Ngược lại, chính phủ Việt Nam lại đưa ra mức phạt hành chính cao hơn mức phí mô giới người lao động phải đóng theo quy định. Trong khi đó, các công ty mô giới mới thực sự là đối tượng đáng bị thanh trừng chứ không phải người lao động nghèo khổ. Trong khi đó, nếu chúng ta đem so sánh mức phạt với mức lương tối thiểu của một người lao động trong nước 1.150.000/ tháng thì hình phạt công nhân bỏ trốn thực sự không giải quyết được vấn đề mà sẽ tiếp tay dung dưỡng chế độ “nô lệ lao động”.   Quy định mới này, chỉ có thể uy hiếp tinh thần của người lao động, đẩy người lao động vào thế tiến thoái lưỡng nan, tiếp tục chấp nhận nằm trong tình trạng bị cưỡng ép lao động.   Nói cách khác, quy định mới với mức phạt hành chính cao như thế này, Chính Phủ Việt Nam chẳng phải đang tiếp tay cho các công ty mô giới tiếp tục lộng hành?   Người lao động không tình nguyện làm nô lệ, họ không còn con đường nào khác nên mới chọn con đường chạy trốn. Nay, với mức phạt bất hợp lý này, người lao động có con đường nào khác là chấp nhận tình trạng bị cưỡng ép lao động? Như vậy chẳng phải Chính Phủ Việt Nam đã vi phạm Nhân Quyền? Theo linh mục Nguyễn Văn Hùng, người nhiều năm làm việc và giúp đỡ các nạn nhân bị cưỡng ép lao động ở Đài Loan, Cha cho biết, điều mà chính phủ Việt Nam cần làm bây giờ để khắc phục tình trạng chạy trốn của công nhân làm việc ở nước ngoài là: - Học hỏi các nước Đông Nam Á khác như Philippine, thu phí mô giới với mức phù hợp. - Đào tạo, trang bị người lao động với những kiến thức cần thiết để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của chính người lao động trước khi đi làm ở nước ngoài.   - Kết hợp với chính phủ Đài Loan, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng ứng phó cho người lao động khi người lao động rơi vào trường hợp bị bóc lột hay cưỡng ép lao động.   - Hợp tác với các Tổ Chức Phi Chính Phủ, Tôn giáo tại các nước có lao động người Việt, như Giáo Hội Công Giáo Giáo Phận Tân Trúc Văn Phòng Trợ Giúp Công Nhân Cô Dâu Việt Nam, Trung Tâm Hy Vọng, Hiệp Hội Lao Động Quốc Tế Đài Loan, v.v… để lấy tư liệu các công ty môi giới Việt Nam vi phạm quy định chính phủ, đưa ra tòa khởi tố. Đồng thời cung cấp thống kê các công ty môi giới VN bị khởi tố, cấm giấy phép kinh doanh của những công ty đó. - Thông báo cho người lao động danh sách những công ty vi phạm pháp luật, để họ không bị lừa đảo. nguồn: Taiwanact.net
......

Trịnh Hội: Những Điều Chúng Ta Cần Làm

Tất nhiên tôi cũng biết có rất nhiều điều chúng ta cần làm. Và mỗi người cuối cùng đều phải quyết định điều gì cần phải làm ngay và điều gì có thể gác sang một bên đợi đến khi rảnh rỗi làm tiếp. Nhưng hôm nay tôi muốn nhắc đến một vấn đề - liên quan đến hai chữ Việt Nam – mà tôi nghĩ ai cũng cần phải làm ngay. Đặc biệt là đối với những người còn quan tâm đến tình trạng nhân quyền ở trong nước và chúng ta có thể làm gì để cải thiện nó. Ls Trịnh Hội Đó là việc Việt Nam sẽ phải ra điều trần trước Liên Hiệp Quốc ở Geneva vào ngày 28 tháng 1 năm 2014 sắp tới. Theo đúng tiến trình Universal Periodic Review (UPR) mỗi 4 năm mới có một lần như tôi đã trình bày trước đây. Đây là một cơ hội hy hữu để các tiếng nói của công dân và các tổ chức xã hội dân sự được lắng nghe một cách chính thức và có hệ thống hẳn hoi ngay tại diễn đàn lớn nhất và có sự tham dự của tất cả các nước. Đặc biệt là phần trình bày của nước phải điều trần trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc mà chính họ cũng vừa mới được gia nhập: Việt Nam.   Đương nhiên vào ngày 28 tháng 1 đại diện cho Việt Nam sẽ thông cáo cho cả thế giới biết rằng chính phủ Việt Nam đã đạt được những thành tích lẫy lừng về nhân quyền đến độ nào. Họ cũng sẽ cố chứng minh cho thấy trong 4 năm vừa qua chính phủ Việt Nam đã và đang tiếp tục ủng hộ và bảo vệ quyền làm người của mọi công dân đến ngần nào. Và thế thì làm gì có cái gọi là tù nhân lương tâm Việt Nam! Nhưng sự thật có phải vậy không?   Giáo dân Thái Hà ở Hà Nội thắp nến cầu nguyện cho Luật sư Lê Quốc Quân. Cả tôi và bạn thừa biết.   Đã đến lúc chúng ta không chỉ lên các báo, đài tiếng Việt, các trang mạng truyền thông xã hội để nói cho nhau nghe về những điều tàn tệ đang xảy ra ở Việt Nam. Một nhà giáo Đinh Đăng Định đang bị ung thư nhưng vẫn phải ngồi tù vì tội “tuyên truyền”. Một Lê Quốc Quân và những tù nhân khác đang tiếp tục bị ngược đãi vì không được phép có luật sư đại diện làm kháng cáo mà phải tự biên, tự viết trong ngục tù trong vòng 15 ngày kể từ ngày bị xử, theo đúng Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự hiện hành. Những sự thật hiển nhiên như vậy. Những điều luật mơ hồ, bất cập. Một hệ thống pháp lý từ trên xuống dưới phải phục tùng Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tất cả cần phải được trình bày cho cả thế giới nghe. Một cách bài bản. Có hệ thống. Và hoàn toàn từ tốn. Đã đến lúc chúng ta không thể và không chỉ nói cho nhau nghe. Để sau đó tất cả đều phải nhẫn nhịn, không dám lạm bàn. Vì đây là một cơ hội hiếm có và cũng là điều mà ai cũng có thể làm được. Đối với những anh em trong nước, các bạn có thể đích thân tìm đến các toà đại sứ ở Hà Nội để thông báo cho họ về điều này. Chưa hẳn ai cũng biết sáng ngày 28 tháng 1 sắp tới đây là phần điều trần của Việt Nam ở Geneve. Cũng chưa hẳn họ biết là chúng ta cần họ làm gì. Đối với các cá nhân, hội đoàn ở hải ngoại, chúng ta nên phát động một phong trào vận động các nước thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, liên lạc, tiếp xúc với họ để nói lên, thứ nhất, những gì đã xảy ra ở Việt Nam trong 4 năm qua. Và thứ hai, quan trọng hơn, yêu cầu họ đặt thẳng vấn đề với chính phủ Việt Nam. Điều gì họ hứa họ sẽ làm và điều gì họ sẽ chối bỏ. Ít nhất ra thế giới cũng sẽ có cơ hội thấy được bộ mặt thật của nhà cầm quyền Hà Nội.   Nếu làm được như vậy tiếng nói của chúng ta, của những người đang thật sự quan tâm về tình trạng nhân quyền ở quê nhà, sẽ được đi xa hơn, được nhiều người nghe hơn và chắc chắn sẽ trở thành tiếng nói chính thức ngay tại buổi điều trần sáng ngày 28 tháng 1 năm 2014. Riêng đối với VOICE và các tổ chức phi chính phủ đang cùng hợp tác, chúng tôi sẽ cùng đưa ra 4 Đề nghị (Recommendations) sau:   1 - Việt Nam huỷ bỏ những điều khoản mơ hồ và bất cập trong Bộ Luật Hình Sự theo đúng các quy ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đặc biệt là các điều khoản liên quan đến an ninh quốc gia như điều khoản 79 (hoạt động lật đổ nhà nước), 88 (tuyên truyền chống phá chế độ) và 258 (lợi dụng các quyền tự do dân chủ làm tổn hại lợi ích nhà nước).   2 - Việt Nam sửa đổi và ban hành luật công nhận quyền của tất cả mọi công dân được xét xử công bằng và được luật sư bảo vệ ngay từ lúc bị bắt cho đến khi hồ sơ kết thúc mà không cần phải xin phép bất kỳ một tổ chức hay toà án nào.   3 - Việt Nam tôn trọng và tạo điều kiện cho mọi công dân tham gia vào các hoạt động xã hội dân sự theo như các biểu quyết của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua mà Việt Nam giờ là thành viên.   4 - Việt Nam thực thi những cam kết mà chính họ đã hứa vào năm 2009 trong tiến trình UPR đầu tiên nhưng trong 4 năm vừa qua họ đã không thực hiện. Đọc đến Đề nghị 4 chắc có lẽ một số bạn sẽ ồ lên bảo: năm 2009 tụi nó cũng hứa đó mà có làm đâu. Vậy thì tiếp tục vận động để làm gì, mất cả công lẫn của? Thưa bạn, nếu nghĩ như thế thì chúng ta sẽ không thể tranh đấu để thay đổi được bất kỳ điều gì trong xã hội. Chúng ta phải làm vì chúng ta không còn một sự lựa chọn nào khác. Thứ nhất, chúng ta phải nói thay cho những người không có tiếng nói hiện đang phải ngồi tù. Thứ hai, chúng ta phải nói để thế giới biết được sự thật về những gì đang xảy ra ở quê hương chúng ta. Và thứ ba chúng ta phải nói vì đó là điều cần phải làm. We do it because it’s the right thing to do. Thế không biết có ai muốn cùng tôi đi vận động không nhỉ? http://www.voatiengviet.com/content/nhung-dieu-chung-ta-can-lam/1801990....
......

Cho ta gửi một mảnh trời xanh biếc.

Thế là đã đến tháng 12, tuyết đã rơi trên những vùng cao ở Châu Âu. Người ta đã mở chợ bán những mặt hàng đón Giáng Sinh và năm mới. Ở những siêu thị lớn, các cây thông khổng lồ đang được dựng lên và trang trí ....và thế là đã xa quê hương gần 8 tháng rồi.   Sống ở đây trong an bình đến êm ả. Cái yên bình không những ở trong lòng mà nó còn ở bên ngoài cửa sổ, những con chim nhởn nhơ kiếm ăn trên bãi cỏ, lối đi. Chúng đỉnh đương phớt lờ người đi lại. Nhất là bọn quạ , chúng đi lại vênh váo và ngạo mạn. Ở quê hương 40 năm, mình chưa hề nhìn thấy con quạ bao giờ, dù đi ngược xuôi khắp đất nước rất nhiều..   Những con chim bồ câu thì khỏi nói, chúng là loại quá thuần mặc dù ở đây chúng sống tự do không nuôi như ta làm chuồng. Nhưng giống chim hoang dã như chích chòe, quạ, én , vịt trời, le le, thiên nga thì chúng cũng nghênh ngang tự tại ung dung mà chẳng lo gì cả.   Không hiểu vì sao, ở đến tháng thứ ba, khi hạn visa trong cuốn hộ chiếu hết. Người ta cấp cho tôi một cái thẻ. Tôi không hiểu cái thẻ nói gì. Ông Giắc cứ dẫn tôi đến sở ngoại kiều, ở đó họ chỉ tôi ký vào đâu tôi ký và nhận cái thẻ đi về.  Đến khi có một người Việt xem và thốt lên ngạc nhiên lúc nhìn cái thẻ. Đó là thẻ cư trú có thời hạn. Nó có nghĩa là tôi có thể cư trú lại đây nếu tôi muốn, chỉ cần tôi kiếm được việc làm, chứng minh mình có thể sống mà không nhờ ai trợ cấp. Với điều kiện ấy tôi xin gia hạn cư trú thoải mái ở đây.   Bây giờ trong đầu tôi ám ảnh bởi lũ chim xứ này. Gần 20 năm trước trong khu kiên giam đặc biệt của một trại tù, tôi bị nhốt cách ly. Người ta xây khu kiên giam biệt lập, xung quanh là bức tường cao vút. Kiên giam là nhà tù trong nhà tù. Để ra được sân trại giam tù nhân thường chỉ một lần mở khóa, còn tù ở kiên giam phải 3 lần. Ở trong khu kiêm giam không nhìn thấy gì và thậm chí không nghe thấy gì cả. Một mình tôi ở căn buồng rộng đến 60 mét vuông trống vắng. Cả đời tôi chưa bao giờ được ở một mình trong căn phòng diện tích như thê, thật xa xỉ trong khi các bạn tù khác phải khéo léo để thu xếp đồ đạc của mình trên diện tích bằng 2/3 cái chiếu đơn. Ở đây là thiên đường của sự tĩnh mịch, nhưng nếu sự tĩnh mịch được nuôi dưỡng bằng song sắt phi 12 và những bức tường dày 30 cm cao 6 mét hết ngày này qua ngày khác thì nó lại là địa ngục. Sự tĩnh mịch chỉ tồn tại trong nửa tháng đầu tiên, sau đó là sự âm u.   Ngày hai lần, cán bộ trực trại mở khóa để thằng tù bếp lẻn vào nhanh như con sóc, nó ném vào buồng giam một túi nilo vo nắm cơm bằng quả cam xã Đoài, đôi khi nắm cơm bằng quả cam Bố Hạ. Vì tù thiếu chất C, nên tôi hay ví nắm cơm là quả cam. Tôi phát hiện thấy đôi khi có vài con chim sẻ xà xuống khoảng sân trước mặt buồng giam kiếm ăn, chúng nhặt cái gì trên khoảnh sân trống trơn ấy, có gì ăn được lọt qua khoảng tường cao 6 mét kia vào đây cho chúng, khi mà con người ở đây cũng đói lả triền miên. Chúng sà xuống giây lát và bay đi, để lại cho kẻ sau hàng song sắt phi 12 tiếc nuối khoảnh khắc sinh động của sự sống. Tôi dành cơm để vất ra sân, mấy ngày đầu hạt cơm khô đi, không có con vật nào đến. Rồi vài ngày sau lũ chim nhảy xuống và nhặt hạt cơm. Đến tối lại có mấy con chuột từ cống chui ra nhặt hạt cơm. Hàng ngày tôi có thể thấy lũ chim ríu rít ngoài sân. Những tháng ngày biệt giam đó tôi có lũ chim làm bạn. Bởi thế tôi nhìn lũ chim ở đây, lũ chim trên đường phố Paris, Berlin, Gienevo, Budapet, Oslo..... chúng béo mượt và dạn dĩ khiến tôi chạnh nhớ lũ chim sẽ nhỏ bé năm nào trong khu kiên giam.   Tôi cầm tấm thẻ được quyền cư trú có hình tôi ngắm, bỗng tôi chợt thấy đè trên ảnh mình là ảnh của những người anh, người bạn, người em bạn mình lần lượt hiện lên. Lê Quốc Quân, Lê Văn Sơn, Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ,....những người anh em quen biết hiện đang ở trong tù.   Tôi ngồi đây giữa Châu Âu, ngắm lũ chim béo mọng nhơn nhở. Những người anh em kia của tôi đang nằm sau song sắt phi 12 của nhà tù giữa mùa đông lạnh giá tê tái đang đến. Đôi khi tôi tự dằn vặt mình như có lỗi với họ, mặc dù chúng tôi là bạn và con đường đi của mỗi người có khác nhau. Tôi ưa thành một nhà văn hơn là một người hoạt động xã hội. Chẳng phải tôi hèn, mà thiên hướng bẩm sinh trong người nghiêng về phía viết tào lao phù phiếm nhiều hơn những câu chữ cần sự nghiêm túc, chính xác như luật. Nhưng quả thật cảm giác ngồi hưởng tự do ở đây trong khi những người bạn đang trong chốn lao tù là cảm giác rât day dứt, nhất là mình đã từng trải qua nhà tù, biết rõ về nơi đó. Ngày mai 2 tháng 12 năm 2013 là ngày sinh nhật tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Thế là đã hơn 3 năm tù và 4 lần tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đón sinh nhật của mình trong nhà tù, chẳng phải ở căn biệt thự cổ giữa trung tâm Hà Nội đầy đủ tiện nghi. Con người ấy đã dấn thân chấp nhận cuộc sống đầy đủ để tiến vào con đường đòi hỏi công bằng, đòi quyền con người cho nhân dân và chủ quyền cho  đất nước.   Bản án 7 năm tù dành cho những phát biểu , bài viết của anh là một sự bất công. Không nói đến bất công so với quốc tế với tiêu chí tự do ngôn luận. Mà nó bất công ngay với cả cách hành luật vốn dĩ đã bất công ở Việt Nam. Với những gì mà tiến sĩ nói thì bất công lắm như thường lệ cũng chỉ khép anh vào điều 258 là cùng. Thế nhưng sự bất công vốn có sẵn trong hệ thống lại được cộng thêm sự thù hằn cá nhân, lợi ích nhóm đã đẩy tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ sang một tội danh nặng nề hơn để kết án anh 7 năm tù đằng đẵng. 7 năm hay 12 năm sẽ trôi đi, nhưng những vết nhơ trong lịch sử ngành tư pháp Việt Nam vì những bản án  bất công thế này sẽ còn mãi mãi đến nhiều đời sau. Khi hưởng sự tự do, mới thấm thía sự mất mát của những con người dù xác định phía trước là nhà tù, vẫn hiên ngang bước tới, chấp nhận rời xa hạnh phúc cá nhân để lên tiếng vì một tương lai tốt đẹp và tươi sáng cho dân tộc, đất nước. Và anh, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, con của bộ trưởng Cù Huy Cận là người như thế đó. Nếu khi này còn ở Việt Nam, tôi sẽ mang một lẵng hoa có dòng chữ '' chúc mừng sinh nhật tiến sĩ  Cù Huy Hà Vũ ''  đến nhà anh, gõ cổng chính vào giữa buổi sáng để trao chị Dương Hà, nhờ gửi giúp đến anh lời chúc mừng anh sớm trở về với gia đình, bình an và mạnh khỏe. Nhưng năm trước thì được, năm nay ở xa, xin gửi về sinh nhật anh bài hát để bày tỏ ít tình anh em. Ai trở về xứ Việt. Ca sĩ ; Lâm Thúy Vân. http://www.youtube.com/watch?v=oqW9PLgpR34 Bloger Người Buôn Gió 1 Tháng 12 2013  
......

Ngô Nhân Dụng - Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam

Chính quyền cộng sản nước ta mới được vào ngồi trong Hội Ðồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc; mặc dù cả thế giới biết họ vẫn liên tục vi phạm tất cả những quyền làm người trong những năm qua. Nhưng khi biết các chính quyền cộng sản độc tài ở Cu Ba, Trung Quốc cũng được vào ngồi trong đó, thì chúng ta có thể hiểu. Theo quy tắc của Liên Hiệp Quốc, Châu Á được cử 13 nước vào trong hội đồng gồm 47 nước, các nước Á Châu cứ thế thay phiên nhau, mua bán và trao đổi lá phiếu với nhau, chính quyền nước nào cũng đến lượt được vô ngồi trong hội đồng này, sau khi đã ký giấy cam kết sẽ thi hành các điều khoản trong những tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền.   Vì vậy, nhiều người Việt trong nước thấy đây là một cơ hội để công khai đòi hỏi chính quyền cộng sản phải tôn trọng quyền làm người, thực hiện đúng các điều họ đã cam kết. Tại Sài Gòn, một nhóm 40 nhà trí thức đã ký kiến nghị yêu cầu thành lập những hội đồng để thúc đẩy nhân quyền. Ngoài những tên tuổi quen thuộc hay ký tên trong các bản tuyên bố, có nhiều người tư cách đáng kính trọng mà ít khi thấy ký kiến nghị, như nhà báo Huy Ðức và Giáo Sư Ðào Công Tiến. Họ đề nghị hãy lập những “hội đồng nhân quyền,” lập ngay trong guồng máy nhà nước, trong các tổ chức được nhà nước bảo trợ hoặc cho phép. Ðặc biệt họ còn đề nghị tổ chức những nhóm bảo vệ nhân quyền của nhân dân nữa. Họ muốn các nhóm đó sẽ lo phổ biến, truyền đạt kiến thức, tổ chức hội thảo về nhân quyền cho dân Việt Nam hiểu; đồng thời, “cập nhật và quảng bá thông tin về tình hình thực thi nhân quyền tại Việt Nam, dựa vào “14 điều cam kết” mà chính quyền đã ký kết khi nộp đơn ứng cử vào Hội Ðồng Nhân Quyền. Ðây là một ý kiến đáng hoan nghênh; nếu nó được thực hiện mà không để chìm vào quên lãng như bao nhiêu sáng kiến đã đưa ra trong mấy năm qua. Nhưng một nhóm phụ nữ Việt Nam còn tiến bộ hơn 40 nhà trí thức ở Sài Gòn. Họ không viết kiến nghị xin cho tổ chức những nhóm bảo vệ nhân quyền. Chính họ đứng lên tổ chức lấy; 34 người họp lại, tự đặt lấy danh hiệu là Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam!   Những vị trong nhóm 40 nhà trí thức có tên tuổi đã làm kiến nghị trên đây chắc chắn phải hoan nghênh sáng kiến mới này. Phải hoan nghênh ngay lập tức và ủng hộ hết mình. Bởi vì khi đề nghị tổ chức những nhóm bảo vệ nhân quyền của nhân dân, thì chính họ cũng là nhân dân, chứ có ai không phải là nhân dân đâu? Toàn là những người đã trưởng thành, có trí tuệ và tin tưởng vào giá trị của những quyền con người; chính mình là nhân dân. Tự mình tổ chức được thì tại sao phải xin ai cho phép, hay chờ coi có ai làm giúp cho mình? Hồi còn sống, Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ đã nói một câu đầy ý nghĩa, rằng người dân không thể xin ai ban cho tự do dân chủ mà phải tranh đấu đòi tự do dân chủ. Ông Nguyễn Hữu Thọ hồi đó chỉ nói mà không thấy làm gì. Ông đang làm phó chủ tịch nhà nước, tức là làm quan chứ không còn làm dân nữa; cho nên ông chỉ cổ động người khác thôi. Bây giờ chính các bà, các cô trong nhóm Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam đang thực hiện câu nói của ông Thọ. Cô Huỳnh Thục Vy là một trong chín người đầu tiên vận động thành lập Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam. Cô nói rằng những nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền trong nước luôn đóng vai thụ động, bị động trước những việc đàn áp của chính quyền. “Từ nay, chị em chúng tôi muốn chủ động.” Rất nhiều người đã tự đóng vai chủ động trong việc bảo vệ quyền làm người của họ, trong đó có hai phụ nữa. Mẹ con Bà Phạm Thị Lài đã khỏa thân để ra đứng giữa mảnh đất đang bị chính quyền cướp chiếm giao cho nhà đầu tư khai thác. Họ đau đớn sau khi chồng bà phải tự tử vì không giữ được mảnh đất sinh nhai. Bà Ðặng Thị Kim Liêng đã tự thiêu khi quyền sống, quyền cư trú bị xâm phạm chỉ vì cô con gái bà là Tạ Phong Tần chống Trung Cộng xâm lăng và bị đàn áp. Ông Ðoàn Văn Vươn tự mình bảo vệ đất đai và công lý cho gia đình mình, dù phải bạo động, khi bị đám tham quan chiếm đoạt. Các bà Phạm Thị Lài, Ðặng Thị Kim Liêng không có khả năng dùng chất nổ, nhưng họ chứng tỏ tinh thần bất khuất không khác gì. Nếu tất cả mọi người dân Việt Nam đều can đảm, không chịu khuất phục như hai bà, thì chắc chắn nước ta không lo sẽ bị nước láng giếng phương Bắc bắt nạt mãi.   Người Việt Nam không quên rằng những cuộc khởi nghĩa đầu tiên “chống Trung Quốc xâm lược” đều do phụ nữ lãnh đạo. Hai Bà Trưng ở Mê Linh cầm đầu cuộc dấy binh kéo theo 65 thành cùng nổi dậy chống quân Hán. Hai thế kỷ sau, bà Triệu Thị Trinh ở Cửu Chân được quân và dân suy tôn là Bà Vua, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô. Hai Bà Trưng và Bà Triệu là những phụ nữ dưới 30 tuổi; riêng Bà Triệu tuổi mới ngoài 20. Các cô Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, Trịnh Kim Tiến cũng bắt đầu biết tranh đấu cho quyền làm người vào lớp tuổi đó. Các nữ tướng của Hai Bà Trưng ngày nay còn được dân thờ làm thần trong các làng, thần phả ghi lại sự tích cho biết đa số họ còn trẻ dưới 20 tuổi; trẻ hơn cả cô Nguyễn Phương Uyên.   Cho nên chúng ta có thể tin tưởng vào vai trò đứng đầu sóng ngọn gió của 35 người phụ nữ mới thành lập Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam. Họ đủ trí sáng suốt, thông minh, và thừa can đảm để lãnh đạo công cuộc tranh đấu cho quyền làm người của dân Việt Nam.   Bà Dương Thị Tân, vợ của nhà báo tự do Ðiếu Cày đang bị tù, đã nhắn với các quốc gia trong Liên Hiệp Quốc, qua một nhân viên Tòa Ðại Sứ Úc tại Hà Nội, bà nói rằng: “Quý vị biết Việt Nam có một hồ sơ nhân quyền tồi tệ nhưng quý vị đã bỏ phiếu cho Việt Nam vào Hội Ðồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì quý vị phải chịu trách nhiệm về lá phiếu của mình. Từ nay trở đi, nếu có một trường hợp người Việt Nam nào, đặc biệt và phụ nữ Việt Nam, bị sách nhiễu hoặc bỏ tù thì người đó chính là nạn nhân của Hội Ðồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc.” Câu nói này cần được dịch sang đủ các ngôn ngữ trên thế giới để phổ biến.   Cô Huỳnh Thục Vy biết sẽ phải vận dụng các phương pháp đấu tranh như thế nào. Trước hết là phải quảng bá cho thế giới biết tổ chức mới này. Cô nói: “Chúng tôi đã có những kênh liên lạc cần thiết với các tổ chức phi chính phủ (NGO) bảo vệ Nhân quyền quốc tế, với các tòa đại sứ và các báo đài. Việc lên tiếng với giới truyền thông và các nhà ngoại giao là việc vô cùng quan trọng.” Vận động ngoại giao quan trọng thật. Bởi vì chính quyền cộng sản Việt Nam không sợ dân chúng mà chỉ sợ dư luận thế giới tạo áp lực cắt bớt viện trợ hoặc đầu tư. Dùng công an chó săn đánh đập, bắt bớ người dân thì dễ, nhưng không thể đánh hay bắt những người cho tiền hoặc đem tiền đến nước ta làm ăn! Nếu thiếu viện trợ và bị giới đầu tư tẩy chay thì công cuộc kiếm tiền, làm giầu cho gia đình các quan chức sẽ bị đình trệ! Khác với 40 nhà trí thức Sài Gòn chỉ viết kiến nghị xin lập ra các hội đồng nhân quyền mà không nói rõ các hội đồng này phải làm gì nếu chính quyền không tôn trọng quyền làm người của dân; 35 phụ nữ biết công việc của họ là phải làm gì. Và họ nêu lên những việc rất cụ thể và hữu ích.   Cô Huỳnh Thục Vy nói đến những việc làm như: “Trợ giúp tài chính, viếng thăm thân nhân của người bị đàn áp là việc tiếp theo. Cuối cùng nếu một người bị bắt, chúng tôi sẽ tìm kiếm luật sư và vận động các nhà ngoại giao các quốc gia tự do tạo áp lực chính quyền trả tự do cho người bị bắt.”   Những công việc trên đây là việc chung của tất cả mọi người dân Việt Nam, ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Cộng sản ở bên Nga, bên Tàu đều phải hỗ trợ những nhà tranh đấu đòi dân chủ tự do ở trong nước và gia đình họ. Phải tạo dư luận trên trường ngoại giao khắp thế giới để đòi chính quyền cộng sản tôn trọng những điều họ cam kết khi xin vào ngồi trong Hội Ðồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Vì vậy, chúng ta cần nhiệt liệt hưởng ứng những người đang đi tiên phong, Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam. Họ là những bà Aung San Suu Kyi của nước Việt Nam. Nguồn: diendantheky.net
......

Người Trung Quốc Lập Xóm, Lập Phố Và Sẽ Lập Gì Nữa?

Đôi lời: Đã từ nhiều năm nay, có một tài liệu tiết lộ những bí mật kinh hoàng, được lưu truyền trên mạng, rồi rất nhiều người dân, trong đó có cả các cán bộ đảng viên, đã tự in ra, phát tán, trao đổi, bán tín bán nghi, rồi lo lắng. Tài liệu đó chứa nội dung được cho là ghi lại một cuộc bàn bạc giữa cơ quan tình báo hai nước Trung – Việt về một kế hoạch trong nhiều năm, để ngấm ngầm đưa Việt Nam dần trở thành một khu tự trị của Trung Quốc. Nghe như chuyện giả tưởng! Thế nhưng, hãy thử nhìn vào bao nhiêu diễn biến liên quan trong nhiều năm qua, những hiện tượng tuy mới là bề nổi, không thể kể hết, trong một xã hội bị bưng bít thông tin bậc nhất thế giới, cũng đã khiến ta vô cùng lo ngại, để mà suy ngẫm. BT (diendanxahoidansu)   Dân trí Thứ Bẩy, 30/11/2013 – 07:38 (Dân trí) – Tại phiên thảo luận về Dự án Luật nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam chiều 28.11, các đại biểu Quốc hội nêu lên một vấn đề rất đáng lo ngại, lao động nước ngoài, đông nhất là từ Trung Quốc, nhập cư vào Việt Nam, đang “lập xóm, lập phố ở một vài địa phương”. (Minh họa: Ngọc Diệp) Theo đại biểu Trần Ngọc Vinh, có hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu như Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, Xi măng Ninh Bình, Tây Ninh, bauxite Lâm Đồng… Nói là lao động nước ngoài chung chung, nhưng ai cũng biết chủ yếu là người Trung Quốc. Họ có mặt từ các tỉnh biên giới phía Bắc vào đến Cà Mau, lên tận Tây Nguyên, rải dài các tỉnh duyên hải miền Trung, các tỉnh Đông Nam Bộ. Có những nơi, họ sống theo xóm, theo phố. Dân mình cũng lập phố đưa biển hiệu như phố Tàu. Mới đây, báo chí đưa tin phố Tàu ở Bình Dương là một ví dụ. Người Trung Quốc sang Việt Nam bằng con đường du lịch, rồi ở lại làm việc cho các công trình của nhà thầu Trung Quốc. Số lao động được cấp phép và không được cấp phép khó nắm được hết. Chỉ riêng ở khu kinh tế Vũng Áng, chỉ có 1.100 người nước ngoài được cấp phép lao động, nhưng tại đây có đến 2.600 lao động nước ngoài, trong đó lao động Trung Quốc là 1.526 người. Các nhà thầu Trung Quốc nhận thầu tại Việt Nam, họ tìm cách đưa người của họ sang để “tranh” việc làm. Lao động phổ thông trong nước thất nghiệp ngày càng cao, nhưng kiếm một chỗ làm ở các nhà thầu Trung Quốc là rất khó. Ở các thành phố, bác sĩ Trung Quốc (chưa biết thật giả) sang mở phòng khám chui lấy tiền dân mình, để lại nhiều hậu quả kinh hoàng, nhưng không hiểu vì sao chỉ chuyện này thôi cũng không quản được. Ở các dự án bauxite Tây Nguyên cũng vậy, lao động Trung Quốc sang lập thành khu vực riêng biệt, làm việc và sinh sống trên cao nguyên. Ngoài giờ làm việc, đàn ông Trung Quốc cũng chẳng ngại gì mà không tìm vợ Việt Nam khi có cơ hội, thế là gia đình Hoa – Việt ngày càng nhiều, người Trung Quốc cắm rễ trên đất Việt Nam với tư cách là chàng rể. Lấy vợ, sinh con rồi cất nhà, sinh sống ở Việt Nam. Từ lao động bất hợp pháp thành công dân hợp pháp. Với việc đưa dân sang lao động như các nhà thầu Trung Quốc đang làm, chỉ cần chục năm nữa, người Trung Quốc ở Việt Nam sẽ nhân lên gấp nhiều lần hiện nay, lúc đó sẽ không chỉ là xóm, là phố, mà cả khu người Hoa khắp đất nước này. Các nhà quản lý không thể không nhận thấy phương cách “gặm nhấm” trên đất theo cách này của họ. Lê Chân Nhânhttp://dantri.com.vn/blog/nguoi-trung-quoc-lap-xom-lap-pho-va-se-lap-gi-...
......

'Ngày tang khốc cho dân tộc Việt Nam'

28/11/2013, ngày mà QH khóa VI thông qua bản Hiến pháp sửa đổi (HP), với tỉ lệ tán thành gần tuyệt đối 9, 59% đã tiếp nối bữa tiệc mừng kéo dài của một nhóm quyền lợi gần như vô giới hạn, nhưng lại là một ngày tang khốc cho tự do và nhân quyền của người dân Việt Nam.   Tại điều 4 của HP này quy định đặc quyền cho đảng cộng sản VN là lực lượng lãnh đạo xã hội, với chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế thì đó là một sự thụt lùi hoàn toàn về dân chủ so với HP 1946 cách đây đã gần một thế kỷ bởi chính điều này sẽ biến tất cả những quy định khác về tự do và nhân quyền của người dân VN ghi trong HP và các bộ luật khác trở thành giả hiệu. Trong lời nói đầu của HP ghi rằng”nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”. Điều đó có đáng tin?   Ông Uông Chu lưu, Phó chủ tịch QH đã trả lời PV báo Tuổi trẻ(ngày ( 29/11/2013): “… quá trình tham gia, quá trình chỉ đạo sửa đổi Hiến pháp thì có thể nói rằng đây là một quá trình thể chế hóa cương lĩnh, cụ thể hóa những điểm lớn, những mục tiêu lớn mà Đảng đã đề ra”.   Thực tế là người dân có góp ý về dự thảo HP, nhưng đây là HP của QH, dưới chỉ thị trực tiếp của đảng, và HP đã gạt ra ngoài những điều cơ bản nhất để bảo vệ cho quyền lợi nhân dân, chẳng hạn như quyền sở hữu về đất đai, và quy định đảng CS là lực lượng lãnh đạo xã hội VN như trên. Trong các chương quy định về quyền tự do và quyền con người, nghe có vẻ kêu, nhưng lại chốt đuôi một “thòng lọng” khiến tiếp nối tình trạng lạm dụng và vô hiệu hóa các quyền đó như đã xảy ra lâu nay : “ công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Người dân VN đã quá cay đắng khổ ải với câu “Theo quy định của pháp luật” này. Nghĩa là, sẽ tiếp tục thảm trạng muôn thuở tạo điều kiện cho nhà cầm quyền ban hành vô số luật và văn bản dưới luật trái HP để hạn chế quyền của người dân, tạo lợi ích cục bộ và kẽ hở cho tham nhũng, tiếp tục ưu tiên những tập đoàn, doanh nghiệp độc quyền thụt két nhà nước hàng tỷ USD, đẩy VN tới bên bờ vực của sự vỡ nợ khốn đốn khi nợ công đến nay đã vượt 95% GDP, có người cho rằng là 105%, ( ngưỡng an toàn là dưới 60%) nếu tính cả phần nhà nước bảo lãnh cho Vinashin như thực tế đã diễn ra ngày một trầm trọng nhưng trong HP vẫn quy định “doanh nghiệp nhà nước là lực lượng chủ đạo…”.   Chủ nhiệm UB Pháp luật của QH Phan Trung Lý nhận định, việc ban hành các văn bản hướng dẫn không đảm bảo nhiều yếu tố về thời hạn, tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, quy trình, thủ tục ban hành văn bản cũng bị vi phạm. Việc này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, làm mất ý nghĩa thực tiễn của các văn bản pháp luật. Không chỉ ban hành chậm, trong số 1.761 văn bản của Bộ trường, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, đã có 223 văn bản có dấu hiệu vi phạm…, không đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật…Trong một số trường hợp là do ijc ích cục bộ của bộ, ngành((theo Đầu tư và chứng khoán, 22/10/2013).   Tình trạng vi hiến của các Bộ ngành và vô số tổ chức, cá nhân nắm quyền lực khác đã diễn ra kể từ khi có mặt thể chế độc tài, ngày càng nghiêm trọng và không thể khắc phục được, dù ở các bộ ngành đều có những bộ phận phụ trách pháp chế. Vi hiến là một tội rất nặng, mang tính bất tuân luật pháp và phá hoại đất nước, nhưng những người soạn và ban hành những văn bản vi hiến, phạm luật lại không hề hấn gì, vẫn ngang nhiên tồn tại, vi hiến và thăng tiến tiếp. Biết tình trạng đó, nhưng HP này vẫn bỏ ra ngoài đề xuất về cơ chế bảo hiến, chẳng hạn như Tòa án HP, nghĩa là các tổ chức và cá nhân có quyền lực cứ tiếp tục vi phạm khi họ muốn. 'Dung dưỡng tham nhũng'   Thực tế đã chứng minh, môi trường thể chế ấy đã sinh ra và dung dưỡng vô số những kẻ lạm dụng – tham nhũng. Đó là loài “đỉa – người” đang hút kiệt xương máu của nhân dân.   Theo báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, việc xử lý hành vi tham nhũng cẫn còn tình trạng lạm dụng để xử lý kỷ luật hành chính, không khởi tố vụ án, đình chỉ vụ án. Tham nhũng trong các cơ quan tư pháp cũng diễn ra nghiêm trọng, chiếm 10% các vụ án tham nhũng đã phát hiện trong toàn quốc (kể từ 1/10/2010 đến 30/4/2013) . Theo một khảo sát quốc tế trong năm 2011, người lao động thu nhập thấp (dưới 2 đôla/ngày) chiếm 18,2% dân số VN (16,1 triệu người), người lao động thu nhập 5 đôla/ngày chiếm đến 70,4% dân số (63,1 triệu người). Tổng số khoảng 79,2 triệu người so với khoảng 89,2 triệu dân tại Việt Nam, theo TBKTSG Online. Số dân nghèo ấy cho đến năm 2013 thì càng kiệt quệ thêm do khủng hoảng kinh tế, do lạm phát phi mã, cao nhất Châu á(?), do hàng chục ngàn doanh nghiệp phá sản, ngừng kinh doanh mỗi năm và do thất nghiệp, đặc biệt do lũ lụt gây ra bởi thiên tai và thủy điện xả lũ “hủy diệt” nhiều mạng người và tài sản, môi trường sống của người dân. Trong khi đó, giá của các mặt hàng độc quyền như điện, xăng dầu, giáo dục, y tế, dịch vụ, các loại phí, lệ phí đều tăng phi mã. Đã thế trên đầu mỗi người dân, tỉ lệ nợ công cũng tăng vụt. Tính đến ngày 24/11/2013, mỗi người dân VN, kể cả đứa trẻ mới sinh ra, cũng phải gánh trên vai mình hơn 18.000.000đ nợ cho một chính phủ hoạt động kém hiệu quả và để tham nhũng tràn lan, ở mức một trong những nước đứng đầu thế giới về chỉ số tham nhũng. Theo TS Vũ Quang Việt- nguyên Vụ trưởng vụ Tài khoản Quốc gia của cơ quan thống kê Liên hiệp quốc, thì nợ công VN lên tới 105% GDP, vượt xa so với con số báo cáo của CP và vượt xa ngưỡng an toàn(65%) cho một nền kinh tế, vẫn theo TBKTSG Online. Cứ 3 tháng, người dân VN, thông qua ngân sách quốc gia, lại oằn lưng trả khoảng 1 tỉ USD tiền nợ công thay cho những kẻ “hút máu” của đất nước. Trong đó, khối doanh nghiệp nhà nước, được ưu đãi mọi cơ hội từ cơ chế, sự độc quyền, vốn…đã đem lại những khoản nợ khổng lồ. Báo cáo của nhóm chuyên gia trong Ủy ban kinh tế của QH kết luật rằng khu vực DNNN “có quy mô lớn nhưng hoạt động kém hiệu quả đã góp phần kéo dài giai đoạn suy thoái kinh tế của Việt Nam hiện nay”. Thế nhưng những con nợ kếch xù ấy vẫn được QH ưu đãi tiếp trong HP “DN nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.  'Không đáng ngạc nhiên' Tỉ lệ tán thành thông qua HP gần như tuyệt đối ấy không đáng ngạc nhiên. Nó đã được “cài đặt” từ trong thành phần của QH, khi hơn 90% ĐBQH là đảng viên cộng sản, và hầu hết đều đang nằm trong hoặc dính dáng tới hệ thống quyền lợi của bộ máy thể chế hiện tại. Họ chọn bỏ phiếu ưu tiên cho quyền lợi mình và nhóm mình.   Có thể thấy rõ, HP độc đảng là bấu víu sống còn của hệ thống tham nhũng VN. Để tha hồ tham lam, cấu kết cướp bóc và hành ác với dân bằng mọi giá để thu lợi riêng, để không phải chịu trách nhiệm về bất cứ việc gì, họ phải bằng mọi giá có được một HP hỗ trợ cho thể chế khiếm khuyết bằng mọi giá. Những tiếng nói trung chính trong QH cực kỳ hiếm hoi và bị át đi bởi dàn đồng ca rầm rộ cho quyền lợi riêng, quyền lợi nhóm mà đi ngược lại quyền lợi của nhân dân và đất nước.   Khi HP ấy được thông qua, đó là lúc tiếng kèn xung trận của lũ tham nhũng, dối trá, vô trách nhiệm, bán nước, tàn hại đất nước cũng vang lên chói tai, cố tình át tiếng khóc và tiếng kêu của hàng chục triệu dân lương thiện. Khi đó sẽ tiếp tục là tháng năm dằng dặc của những người nông dân bị cướp đất, là những đêm đen tham nhũng, những lãnh đạo thụt két công quỹ, tiếp tục những doanh nghiệp nhà nước độc quyền bóp chết những doanh nhiệp tư nhân, tiếp tục sự tăng giá vô tội vạ nhằm vét máu mỡ của dân để chi tiêu vô độ, những dự án ma, những kẻ rút ruột hàng ngàn hàng ngàn tỉ, của nạn nhà chức trách kết hợp côn đồ ăn hiếp dân lành, là nạn suy đồi đạo đức và văn hóa, là nạn bằng giả tràn lan, vô số người hành nghề y tế đợi dân ốm đau để xâu vào moi móc tiền bạc như giống diều quạ ăn trên xác chết… Đó sẽ là bản trường ca như nhiều người đã nhận định: cả VN chỉ có một Tổng biên tập là Ban tuyên giáo trung ương” nên sự thật lại tiếp tục bị bưng bít, tiếp tục vô số vụ oan án vì bức cung ép cung , chạy án và án bỏ túi. Và những “trái bom nước” sẽ tiếp tục nổ trên đầu người dân, mà những kẻ vận hành điềm nhiên một tay tận diệt rừng quốc gia, một tay bỏ tiền vào túi riêng, một tay “bấm nút bom nước nổ” giết hàng loạt dân và tận diệt tài sản, môi trường sống của họ mà không thèm báo trước để họ chạy tìm đường sống nhưng vẫn được nhà chức trách bảo kê bằng câu “xả lũ đúng quy trình”.   Không phải không tiên liệu trước điều này, nhưng những ai còn chưa vô cảm, còn quan tâm đến tương lai đất nước vẫn không thể không thêm một lần chít chiếc khăn tang khốc cho tự do và nhân quyền của người VN. 'Đỉa – người, thể chế'   Làm sao có thể không buồn đau khi chính HP này đã khước từ thời cơ tránh cho VN họa ngoại xâm, nguy cơ nội loạn, diệt trừ được loài đỉa – người tham nhũng đang đeo bám hút máu trên cổ người dân VN để làm lành mạnh thể chế?!   Làm sao không là tang khốc cho đất nước, trước việc kéo dài những “lỗi hệ thống, lỗi thể chế” dẫn tới hàng trăm hàng ngàn con đỉa – người kếch xù đeo bám vĩnh viễn hút máu trên cổ người dân?!   Loài đỉa thật chỉ hút máu no thì tự rơi xuống, chúng chỉ kiếm máu đủ nuôi bản thân chúng mà thôi. Nguy hại hơn, những con đỉa – người đó hút máu không biết thế nào là no chán, chúng không ngơi tích trữ hàng kho máu, hồ máu, sông máu cho lũ con cháu nhiều đời sau. Chúng hút máu no kễnh mà không rụng xuống, vì chúng đã biến thành “ma cà rồng” và được nâng đỡ bảo vệ bởi những khiếm khuyết thể chế. Và ngay cả so sánh những kẻ đó với ma cà rồng cũng là xúc phạm cả ma cà rồng, vì ma cà rồng dù ác nhưng cũng chỉ hút máu đủ no nuôi thân chúng trong vài ngày rồi đến lúc đói lại mới lại đi hút máu tiếp. Điều gây phẫn nộ đối với người VN là có cơ sở từ công lý đương nhiên. HP không có quyền loại trừ sự tồn tại của Đảng Cộng sản hoặc ép buộc một nhóm người nào đó từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê nin, nhưng tuyệt đối không được phép quy định quyền lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng sản hay bất kỳ đảng phái khác, vì ngoài đảng này, HP không được tước đoạt quyền bình đẳng của hơn 90% người VN khác.   Hơn 90% người VN này hiện đang chưa chọn là đảng viên Cộng sản, không lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lê nin làm nền tảng, vì thế, không có lý do gì lại chấp nhận sự lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản. Nhiều người trong số họ có thể không biết đến HP, nhưng họ biết thực tế nhỡn tiền rằng, ngay cả những nước vốn là cái nôi kếch xù của cộng sản như Đông Đức, Liên Xô và khối Đông Âu, sau khi theo đuổi chủ nghĩa này trong hơn nửa thế kỷ, cũng đã phải ghê sợ từ bỏ ngay từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước. 'Chờ Quốc hội thật'   Bởi vậy mới càng đau xót rằng, người VN dù đã đổ bao xương máu để dựng lên và nuôi dưỡng thể chế này, nhưng chưa bao giờ có được một thành phần QH đủ khách quan và công bằng. Muốn có một QH “sạch” như vậy, ngoài việc được ứng cử và bầu cử một cách tự do và dân chủ không giả hiệu, họ phải khước từ mọi chức vụ trong các cơ quan công quyền…. Đây là điều tối thiểu phải có đối với một QH – nghị viện đúng nghĩa, mà HP Mỹ và nhiều nước phát triển trên thế giới đã quy định và bảo vệ như con ngươi của mắt mình: “Không một Thượng nghị sĩ nào hoặc một Hạ nghị sĩ nào trong suốt nhiệm kì của mình, có quyền được bổ nhiệm giữ một chức vụ hành chính nào thuộc thẩm quyền Hiệp Chúng Quốc sẽ được thành lập sau này, và có một số lương bổng sẽ được tăng gia trong nhiệm kì đó; và không một người nào đã giữ bất cứ một chức vụ nào trong chính phủ Hiệp Chúng Quốc có quyền được là một nhân viên của bất cứ viện nào trong hai viện, trong khi hãy còn giữ chức vụ trong chính phủ, theo Phụ bản 1: Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa kỳ ngày 4/3/1789. Tu chính án Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cũng quy định: “Nghị viện sẽ không thảo một đạo luật nào để thiết lập một tôn giáo hoặc để cấm đoán tự do tôn giáo; để hạn chế tự do ngôn luận hoặc tự do báo chí; hoặc để hạn chế quyền của dân chúng được hội họp ôn hòa và đưa lên chính phủ các điều thỉnh cầu bày tỏ những nỗi bất bình của họ”. Từ ngày lập quốc đến nay, VN đã luôn bỏ qua điều kiện tối thiểu này nên dẫn tới một QH mà theo đánh giá của nhiều chuyên gia là sau khi thông qua HP 2013 đã “có tội với người dân và đất nước VN”.   Những quy định được nhiều người bất bình cho là “cưỡng đoạt” quyền lợi của nhân dân” trong HP mới đã ngay lập tức gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trên mạng truyền thông xã hội trong và ngoài nước, dù còn nằm trong đe dọa của Nghị định 72 và Nghị định 174/2013/NĐ-CP – hai Nghị định được ban hành dồn dập gần đây mà nhiều luật gia và Tổ chức nhân quyền, Hội Văn bút quốc tế …và nhiều nước cho là vi hiến, ngược lại những cam kết quốc tế về tự do ngôn luận và quyền con người.   Bên cạnh đó, một “Hội những người phản đối HP mới” đã được thành lập và ngay lập tức có tới hơn 1.000 thành viên được công bố công khai trên mạng Internet. 'Dân mạnh hơn súng' Nhiều nhân sĩ trí thức và những người ủng hộ cũng đã đưa ra “Bản tuyên bố phản đối HP mới”:   “… Như vậy, Quốc hội khóa XIII đã tự chứng tỏ không đại diện cho nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc; hiến pháp này không thật sự là hiến pháp của nhân dân và người dân có thể sử dụng quyền bất tuân dân sự của mình…”. Bản tuyên bố này yêu cầu Đảng, CP và QH tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân, không để cho những quy định dưới HP vô hiệu hóa những quyền này và làm mọi việc để sắp tới có một cuộc bầu cử QH trung thực, đồng thời kêu gọi những người có lương tri trong giới cầm quyền cùng nhân dân cả nước, kiều bào nước ngoài”tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước kiên cường, đoàn kết và hợp sức đấu tranh bằng các phương thức ôn hòa để thực hiện các quyền con người và quyền công dân của mình, để thúc đẩy tiến trình cải cách chính trị nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng và lạc hậu, phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia”. Người VN biết 28/11/2013 là ngày tang khốc cho tự do và nhân quyền VN, nhưng là để lương tri người người tiếp tục tỉnh thức, để không ngã lòng và tiếp tục kiên trì cho lẽ sống cùng chung tay phấn đấu cho công lý và bình đẳng cho mọi người VN. Đương nhiên lịch sử sẽ ghi nhớ và phán xét về trách nhiệm của họ trước Tổ quốc, trước nhân dân vì đã chối bỏ mệnh lệnh của thời đại, tiếp tục tước đoạt thời cơ cho nhân dân VN có được một thể chế lành mạnh hợp tự nhiên, đã được quy định ngay trong Tuyên ngôn độc lập và HP 1946.   Bằng việc tiếp tục đặt cho mình vị trí độc tôn, qua HP và lần 'sửa mà không đổi' này, đảng cộng sản VN cũng đã tự triệt tiêu mọi cơ hội cho chính đảng này tự cắt bỏ những khối ung thư trong cơ thể mình để thoát khỏi tình trạng nguy ngập toàn diện hiện nay và để có năng lực cạnh tranh. Nên nhớ, gươm súng là một sức mạnh, nhưng lịch sử loài người đã chứng tỏ lòng dân cuối cùng cũng mạnh hơn gươm súng. Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, nhà văn, nhà báo đang sinh sống tại Hà Nội. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese/
......

Người việt cộng Xấu Xí

Bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa. Bởi chúng ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề. Cách đây đã lâu, tôi đọc “người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Đài Loan), chưa bàn tới hay/dở/đúng/sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách. Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn “Người Mỹ xấu xí”, “Người Nhật Bản xấu xí”, rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” & nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ… Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này? Một đất nước mà hơn phân nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng mình có quay cóp một cách hoàn toàn không có chút tự trọng (đó là được hỏi, còn báo chí không cần hỏi vẫn có những hình ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy thì thi cái gì? Thi xem ai quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó còn có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay không thi thì năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su-Ju” của nó là nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đình, nhà trường, xã hội – những nền tảng đã cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận được với Su-Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung hô! Chính là những đứa trẻ sẵn lòng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế… trước thần tượng. Một dân tộc gì đã sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế? Con nít nó học cha anh mà ra, chúng ta đã nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao? Đừng ai đổ thừa cho ai. Vì trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xã hội, xã hội đổ cho cha mẹ & nhà trường. Tóm lại, đừng đổ nữa. Hãy biết hốt về mình đi! Tất cả chúng ta là người lớn, chúng ta đều có lỗi. Bởi người lớn có hơn gì? Một xã hội mà người ta đang sẵn lòng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc bất kể lương tri. Làm quan thì chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại bang để duy trì sự thống trị trước nhân dân. Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường & trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có,… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm”. Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình”. Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình? Đơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân & gia đình nó – nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này? Đừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ Đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động”. Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,... Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa? Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức: Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh & ức hiếp bên dưới. Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?! Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của nhân dân! Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sàigòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan. Bọn công bộc đó đã đẩy 2 mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa thân ở giữa đường để đòi lại công bằng. Vì trong tay họ còn có gì để chống lại chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai thèm đoái tới?      Bọn công bộc đó đã đẩy đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công quyền vì không còn sức để chịu đựng…      Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi. Đáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội – thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.        Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,… không còn một lựa chọn nào khác. Không biết làm gì khác, không có phản ứng gì khác!        Vì chúng ta lương thiện. Kẻ không lương thiện có những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như một sự kết tinh cao cấp hơn của một xã hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.       Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.     Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật. Tôi đọc tin một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và chút ít tài sản. Tôi đọc tin bọn chủ & lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng. Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt. Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp! … còn rất nhiều tin. Một dân tộc gì mà độc ác và hèn hạ thế? Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó. Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc”.        Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói mình đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu,thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” một cách đúng nghĩa. Vì hãy quên những hình tượng cách mạng cao đẹp trong văn chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Đó không phải là văn chương, nó là thuốc pháo, tìm cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết & chết. Không hơn không kém. Các bạn có tìm kiếm giống tôi không? Và các bạn có tìm thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta chỉ có 3 loại:      - Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.      - Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?      - Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi! Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi. Còn những thứ hổ lốn lai căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, vì đó là nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu mình đi, không cần suy nghĩ nữa làm gì cho mệt óc. Vậy cái gì đã gây nên nông nỗi? Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản. Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng sản. Nhưng cộng sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, thì chúng ta cũng tệ không kém! Nghe nói cụ Tản Đà có câu: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn! Cho nên quân ấy mới làm quan. Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại. Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế? Ngoài sự cấu kết quyền lực – quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa? Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đã hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ,… Vì những người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,… thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì mà họ không dám làm?      Còn những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng mình, giúp đỡ mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa vào đâu để tìm lại niềm lạc quan mà sống, mà tranh đấu để tự tìm lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đã ban cho mỗi chúng ta? Tôi có cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất – nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không? Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta. Chúng ta - những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ mình lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách, nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực, một nền nghệ thuật có thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng. Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói: Đời chúng mày chỉ cần độc lập – tự do – hạnh phúc.      Chúng ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản gì?      Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân mình, một con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những gì mà một con người có lương tri cần phải hành động. Bạn có đang tự hào vì mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu trĩ mang trong mình một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” đã từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à?      Ta thắng Mỹ để có một xã hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi… Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm nhục?     Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Đông”, “bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn”,... để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Đĩ” chưa từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?       Còn dân việt nam thì sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa. Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử. Bổ sung:     Sau khi bài này được upload, tôi (Hanwonders) nhận được khá nhiều comments và cả messages. Không biết phải đánh giá như thế nào về những comments hỏi ngược lại tôi với một thái độ khinh khỉnh, qua nhiều câu chữ khác nhau, nhưng đại khái cùng 1 ý: "Vậy bạn có hèn không?" He...he...       Tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại 1 điều, suốt cả bài viết, tôi không gọi những người hèn là "các bạn", tôi gọi là "chúng ta". Như vậy có dễ hiểu hơn chưa nhỉ?      Tôi không thích tự nhận hay gán ghép. Tôi chỉ nói lên những suy nghĩ của mình, còn đánh giá tôi hay đánh giá chính mình, các bạn cứ tự làm lấy. Thiết nghĩ, đâu cần phải tranh luận chuyện ai hèn, ai không hèn ở đây!      Biết hay không biết mới là quan trọng. Mà cái sự khổ sở để đi từ cái "không biết/chưa biết" đến cái "biết" nó sẽ là một quá trình gian nan mà mỗi người phải tự thân trải nghiệm. Không ai giúp ai được đâu.       Và tôi hiểu, cái "biết" của tôi nó cũng chỉ giới hạn trong tầm nhân sinh quan nhỏ bé của cá nhân tôi mà thôi. Còn bạn, hãy tiếp tục giữ lấy niềm lạc quan của bạn. Con cừu vẫn có được niềm hạnh phúc mỗi ngày được gặm cỏ non, uống nước suối, ngắm bầu trời xanh, chờ đến ngày xẻ thịt mà! Đúng không? Hạnh phúc vẫn khắp quanh ta! Những con cừu không biết "tự sướng", không biết "thủ dâm tinh thần" thì quả thực là ngu còn hơn... cừu! He he... Bổ sung tiếp: "... Ông bảo xã hội nào cũng có những điều bẩn thỉu. Tôi công nhận điều ấy. Nhưng xã hội bẩn thỉu nhất ông có biết là xã hội nào không?    Là xã hội mà thằng ăn cắp không cho rằng nó phạm pháp, nó đang làm điều xấu, người lương thiện thì run sợ, thằng bất lương lại coi việc nó làm là bình thường và kẻ vô liêm sỉ như ông thì vênh vang tự đắc: ta là số đông. Chính là xã hội này đây..." (tríchcomment@khongnoibiet). "....Chị Hân đã "chẩn" được bệnh mà không tìm được thuốc chữa chỉ vì chưa có... đám đông! Cái mà tưởng là bất trị đó rồi cũng sẽ bùng vỡ chỉ... đau là càng kéo dài hơn thì càng tang thương hơn và vực lại được cũng bị khó khăn lâu dài hơn! Sự thực trước sau thì cũng quan nhất thời, dân vạn đại; với 1 đời người thì thấy lâu dài nhưng với lịch sử thì vẫn là quá ngắn. Chả thế mà dân tộc và đất nước đã từng bị một ngàn năm Bắc thuộc. Chả lẽ chế độ bạo ngược thời xưa ít bạo ngược hơn chế độ bây giờ? Chả lẽ người việt nam xưa ít hèn, ít khổ hơn người việt nam bây giờ?? Nhưng thú thực là entry chị viết quá hay, quá đúng và đầy nghẹn ngào. Không phải đơn giản là cao hứng nhất thời mà là cả một sự trăn trở đớn đau! Soi gương nên cũng thấy mình!..."...(trichnhuhoa) (Source: blog Hanwonders, từ Viet nam)
......

Nguyễn Thanh Giang - Đây là tư cách uỷ viên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hợp Quốc?

Nhà báo, nhà văn, tiến sỹ Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn ra Hà Nội thăm thú bạn bè, họ hàng và lấy tư liệu bổ sung cho bản thảo cuốn sách viết về xã hội dân sự. Sau khi đã đến thăm Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Trọng Vĩnh …anh gọi điện hẹn 9h sáng nay (29 /11/2013) đến thăm tôi. Lý do gặp gỡ không có gì hệ trọng cả. Có lẽ chỉ vì lâu nay mới “văn kỳ thanh”, nay nhà văn muốn “kiến kỳ hình” để vấn an và chia sẻ bớt nỗi tủi phận của một ông già đã gần tám mươi. Hẳn là Phạm Chí Dũng, cũng như mọi người bình thường, không ai nghĩ rằng còn có thể đến để bàn bạc mưu sự gì lớn lao đối với một người như tôi lúc này. Ts.Nguyễn Thanh Giang Tôi mừng vì thấy có người từ xa còn đoái hoài đến mình. Tuy chưa gặp mặt bao giờ nhưng từng đọc, từng nghe nên tôi đánh giá cao tầm nhận thức của Phạm Chí Dũng nên nhắn tin rủ một số bạn bè đến cùng nghe chuyện của anh.   Không ngờ quan chức Đảng đối xử với chúng tôi tệ hại quá. Họ cử mấy chục công an vây ráp nhà tôi. Họ chặn từ đầu ngõ xa. Ai đến đều bị xua về. Người năn nỉ cũng không được vào, người tức giận quát tháo họ cũng chỉ trơ trơ. Không giảng giải, không thuyết trình lý do. Một vài người khách lọt vào được đến cổng nhà tôi liền bị năm sáu công an, sắc phục có, thường phục có chặn lại. Người nhà ra đón, họ bảo không được mở cổng. Tôi ra mở cổng “Mời bác và anh em công an cùng vào nhà xơi nước, đừng đứng ngoài này vừa lạnh vừa làm cho hàng xóm nhìn không đẹp mắt”. Họ không vào, cũng không trả lời, chỉ dứt khoát yêu cầu khách của tôi phải ra về! Tôi thương và thấy khổ tâm đối với mấy ông bạn già của tôi quá. Vì lời mời của mình mà các vị đã phải lặn lội trên dưới chục kilomet rét mướt đến đây thế này! Không biết những ai bị bắt nhưng chắc chắn Phạm Chí Dũng và Lê Quốc Quyết (em Lê Quốc Quân) đã bị điệu lên đồn công an cách nhà tôi hơn một kilomet. Họ câu lưu Pham Chí Dũng để thẩm vấn suốt sáu tiếng đồng hồ. Khi tôi gọi được vào mobil của Dũng thì nghe anh phàn nàn anh rất mệt mỏi và đang trên đường ra sân bay trở về Sài Gòn. Anh cho biết họ đã quần thảo anh bằng những câu hỏi rất vô nghĩa lý để cuối cùng đưa cho anh một quyết định cảnh cáo, trong đó yêu cầu không được tiếp xúc với các đối tượng: Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân. Sao lại trâng tráo ngang ngược đến vây! Cho đến bây giờ tôi vẫn là một người Việt Nam bình thường, được Luật pháp và Hiến pháp bảo vệ cho được hưởng mọi quyền lợi của một công dân kia mà. Tôi không những chưa hề phạm pháp mà trong suốt cuộc đời công tác chưa hề bị bất kỳ hình thức kỷ luật nào.   Cấm cản một cách tùy tiện, vô lý như vậy tức là họ đã ngang nhiên chà đạp lên Luật pháp và Hiến pháp Việt Nam, trong khi đó Điều 4 Hiến pháp có ghi: ĐCSVN hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật. Tuổi già không còn đòi hỏi gì nhiều về quyền con người. Không nói đến điều to lớn như tự do ngôn luận, một chút yêu cầu được chia sẻ thông tin, trao đổi tình cảm thiết nghĩ là quyền con người tối thiểu của chúng tôi sao cũng bị tước đoạt một cách dã man như thế!. Phải chăng đấy là tư cách của một tân ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc?! Hà Nội 29 tháng 11 năm 2013 Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội Mobi: 0984 724 165 Nguồn: danluan.org
......

Ban Tuyên Giáo Trung Ương CSVN báo động về Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự

Theo tin tổng hợp từ nhiều nguồn, Ban Tuyên giáo Trung ương đảng CSVN đang chỉ thị cho các cấp ủy gấp rút tổ chức học tập nội bộ về sự ra đời của Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự (http://diendanxahoidansu.wordpress.com) Một dẫn chứng về sự báo động này là phần trích từ tài liệu sinh hoạt chi bộ cho tháng 11/2013 sau đây. CẢNH GIÁC, ĐẤU TRANH, KHÔNG THAM GIA DIỄN ĐÀN CÓ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH Thời gian gần đây, các thế lực thù địch và các đối tượng cơ hội chính trị đã khởi xướng cái gọi là "Diễn đàn xã hội dân sự", với việc cho công bố trên Internet "Tuyên bố về thực thi quyền dân sự và chính trị", qua đó kêu gọi mọi người hưởng ứng, ký tên ủng hộ "Tuyên bố" để gửi lên lãnh đạo Đảng và Nhà nước đòi "chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta". Đây là một phần nằm trong âm mưu lâu dài của thế lực thù địch, nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ ta, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt nam. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương về chủ động đấu tranh ngăn chặn những hành động chống phá của các thế lực thù địch, đồng thời làm tốt công tác chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đề nghị các cấp ủy chi bộ cần đề cao trách nhiệm của mình trong việc tuyên truyền, nhắc nhở để cán bộ, đảng viên và nhân dân thuộc phạm vi lãnh đạo của mình thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của các thể lực thù địch, đối tượng cơ hội chính trị thông qua sử dụng Internet, mạng xã hội, blog cá nhân để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời kiểm tra, kiểm soát, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân không ký tên ủng hộ, và tham gia cái gọi là "Diễn đàn xã hội dân sự". Đối với những nơi phát hiện có người ký tên ủng hộ, tham gia "Diễn đàn xã hội dân sự" cần có biện pháp phù hợp, kịp thời để vận động, thuyết phục, hoặc tác động đến gia đình, người thân làm cho họ thấy việc làm sai trái của mình, từ đó tẩy chay, không tham gia vào "Diễn đàn xã hội dân sự". http://diendanctm.blogspot.de/2013/11/ban-tuyen-giao-trung-uong-bao-ong-...
......

Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam

Lý do Phụ Nữ Nhân Quyền ra đời Ngày 15 tháng 11 vừa qua, Xã hội dân sự Việt Nam vừa có thêm một thành viên mới: đó là một nhóm có tên gọi là:  “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”. Trong cuộc vận động cho Nhân quyền ở Việt Nam, sự đóng góp của nữ giới là quan trọng và không thể chối cãi; nhưng họ lại là đối tượng bị tổn thương nhiều nhất trước sự đàn áp của chính quyền. Có lẽ nhiều người không quên được hình ảnh blogger Huỳnh Thục Vy bị lôi kéo giữa công an trong các cuộc biểu tình, blogger Nguyễn Hoàng Vi bị xúc phạm thân thể, bị đánh chảy máu mũi trong đồn công an , gần đây nhất luật sư Lê thị Công Nhân bị công an hành hung ngay giữa đường phố Hà nội. Đã đến lúc những người phụ nữ này phải tự lên tiếng cho chính họ. Vì thế, Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam ra đời. Một trong những vận động viên của Phụ Nữ Nhân Quyền, chị Dương thị Tân, người vợ củ của người tù lương tâm Điếu Cày  cho chúng tôi biết lý do Phụ Nữ Nhân Quyền ra đời: “Trong bối cảnh hiện này, phụ nữ luôn luôn là những người dễ bị tổn thương nhất. Khi mà những gì người ta cần xúc phạm, người ta cần khủng bố thì người ta nắm vào chổ yếu của chị em phụ nữ. Người phụ nữ trong gia đình, nhất là gia đình của các tù nhân chính trị là những người luôn luôn hứng chịu những cảnh đau thương, thiệt thòi, mất mát nhiều nhất. Và, một điều nữa là khi mà Việt Nam đã tham gia vào Hội đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì cái điều đầu tiên là họ cần phải tôn trọng Nhân quyền , nhất là Nhân quyền của chị em phụ nữ. Đó là cái lý do mà chúng tôi nhóm lại với nhau để trước hết là bảo vệ cho chính các chị em phụ nữ đó và sau nữa là bảo vệ gia đình của họ.” Blogger Hoàng Vi, một trong những người đã từng bị xúc phạm thân thể và nhân phẩm trong đồn công an, cho biết lý do cô tham gia vào Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam : “Lý do khiến cho em tham gia vào Phụ Nữ Nhân quyền Việt Nam là vì em cũng đã từng trải qua những xâm phạm về quyền Tự do. Cá nhân em, em cũng đã từng bị tước đoạt những cái quyền căn bản của em, và thậm chí là bị xâm phạm thân thể và nhân phẩm một cách rất nặng nề cho nên khi Phụ Nữ Nhân quyền Việt Nam ra đời, em cần phải tham gia để cùng mọi người lên tiếng bảo vệ quyền của phụ nữ.” Qua các quá trình bị đàn áp, sách nhiễu tại nhà riêng và các nơi công cộng, một ý tưởng liên kết lại để tự bảo vệ mình đã nhen nhúm, từ đó cuộc vận động âm thầm bắt đầu. Blogger Huỳnh Thục Vy, một trong những người tham gia từ đầu kể lại quá trình vận động như sau: “Chúng tôi đã manh mún ý tưởng này từ lâu nhưng do hoàn cảnh khó khăn về nhân lực trong số chị em phụ nữ chúng tôi lẫn những sách nhiễu rình rập từ phía chính quyền nên ý tưởng này mới thực sự hoàn chỉnh từ cách nay vài tháng thôi, chúng tôi đã có liên hệ với các NGO quốc tế và các toà đại sứ của các quốc gia dân chủ  đặt tại Việt Nam và đặc biệt là họ đều đồng ý với chúng tôi là có một sự thiếu vắng một tổ chức bảo vệ Nhân quyền cho nữ giới ở Việt Nam và họ cũng hứa sẽ đồng hành với chúng tôi trong cuộc vận động tự vệ này”. Liên kết để đấu tranh Một xã hội dân sự mới ra đời tại một nước độc đảng như Việt Nam vẫn luôn luôn là một sự thăm dò phản ứng của nhà cầm quyền cũng như xã hội chung quanh, chị Dương Thị Tân chia sẻ những khó khăn và thuận lợi trong quá trình vận động: “Về khó khăn thì những người đại diện trong cơ quan công quyền chưa có 1 thái độ gì cho đến ngày hôm nay. Chưa có thái độ gì chứ mình cũng không dám chắc là không có thái độ gì. Mình chỉ dám nói là chưa có động thái gì. Còn thuận lợi thì mình gặp rất là nhiều sự hưởng ứng, hỗ trợ tinh thần rất tốt từ những nơi mà mình yêu cầu cái sự hỗ trợ, yêu cầu sự quan tâm.” Và nếu, trong tương lai sẽ có gặp khó khăn từ nhà cầm quyền thì họ cũng đã chuẩn bị cho mình những tư thế sẵn sàng, blogger Nguyễn Hoàng Vi chia sẻ: “Từ  trước đến giờ thì những người phụ nữ đấu tranh cho Nhân quyền ở Việt Nam vẫn luôn luôn gặp những cái rủi ro, những cái nguy hiểm và em thấy rằng mọi người đều vượt qua những rủi ro, nguy hiểm đó và tiếp tục đấu tranh; bây giờ đã đến lúc mọi người ngồi lại với nhau, liên kết lại với nhau, gắn bó lại với nhau để mà đấu tranh về vấn đề nhân quyền , em nghĩ mọi người trong ban vận động của hội thì đều sẵn sàng đối thoại với nhà cầm quyền và sẵn sàng đón nhận những cái gì mình không mong muốn mà do họ gây ra.” Bên cạnh đó, Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam sẽ mở đầu một hướng đấu tranh khác, chủ động hơn. Cô Huỳnh Thục Vy, một trong 9 vận động viên nói rằng: “Trước nay, những nhà đấu tranh bảo vệ Nhân quyền ở Việt Nam luôn bị động trước những đàn áp của chính quyền. Nhưng từ nay chị em chúng tôi muốn chủ động đối phó với tình huống. Chúng tôi đã có những kênh liên lạc cần thiết với các NGO Nhân quyền quốc tế, các Toà Đại sứ và các báo đài. Việc lên tiếng với truyền thông và các nhà ngoại giao nước ngoài là việc đầu tiên nhưng vô cùng quan trọng. Sau đó thì tuỳ tình huống chúng tôi sẽ xử lý. Trợ giúp tài chính, viếng thăm thân nhân của người  bị đàn áp là việc tiếp theo. Cuối cùng nếu một người bị bắt, chúng tôi  sẽ tìm kiếm luật sư và vận động các nhà ngoại giao các quốc gia tự do áp lực chính quyền Việt Nam  trả tự do cho người bị bắt.” Phụ Nữ Nhân quyền khởi đầu với 35 thành viên là người trong nước, nhưng chị Tân cho biết Phụ Nữ Nhân quyền không phân biệt thành phần xã hội và sẽ không có biên giới địa lý cho những phụ nữ từ 18 tuổi trở lên muốn trở thành thành viên: “Hôm qua thì đã có một số chị em ở bên ngoài gọi về muốn xin tham gia vào Phụ Nữ Nhân quyền. Chúng tôi sẽ mở rộng rất nhiều ra mọi hướng, kể cả là cho những người phụ nữ đang làm việc cho nhà nước, nhưng họ có ý thức bảo về quyền con người, họ có ý thức bảo về chị em phụ nữ bị xâm hại, họ có ý thức bảo vệ quyền cho phụ nữ thì chúng tôi vẫn mời gọi. Và đương nhiên là chúng tôi có mời gọi chị em phụ nữ ở hải ngoại tham gia cùng chúng tôi vấn đề này.” Phụ Nữ Nhân Quyền không phải là tổ chức duy nhất của phụ nữ Việt Nam, bên cạnh đó, Việt Nam cũng có Hội phụ Nữ Liên Hiệp Việt Nam thành hình từ năm 1976. Tuy nhiên, Hội này không đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp phụ nữ bị đàn áp vì đấu tranh cho Nhân quyền , cô Huỳnh Thục Vy nói: “Cũng như tất cả chúng ta đều biết là Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam là một tổ chức xã hội nằm dưới một tổ chức lớn hơn, tức là Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là cánh tay nối dài của đảng Cộng sản Việt Nam, nên những điều mà họ làm, những mục tiêu mà họ hướng tới là quyền lợi của đảng Cộng sản chứ không phải quyền lợi của chị em phụ nữ Việt Nam, bởi vậy chúng tôi rất là mong muốn có một tổ chức mà chị em chúng tôi có thể ngồi lại với nhau để suy nghĩ tìm cách bảo vệ nhau, bảo vệ quyền lợi thực sự  bất chấp quyền lợi đảng, của bất cứ đảng phái chính trị nào khác. Chúng tôi chỉ làm để bảo vệ nhân quyền của chính mình.” Trong một chuyến đi vận động, nói với Nhân viên Toà đại sứ Úc tại Hà Nội, chị Tân đã nói: “Quý vị biết Việt Nam có một hồ sơ Nhân quyền tồi tệ nhưng quý vị đã bầu cho Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc thì quý vị phải có trách nhiệm với lá phiếu của mình. Từ nay trở đi, nếu có một trường hợp người Việt nam nào, đặc biệt và phụ nữ Việt Nam, bị sách nhiễu  hoặc bỏ tù thì người đó chính là nạn nhân của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc.” Sự ra đời của Phụ Nữ Nhân Quyền là một thách thức và cũng là một cơ hội để Việt Nam chứng tỏ mình xứng đáng với vai trò  thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc trong 3 năm sắp tới. © Tường An, thông tín viên RFA  
......

Trí thức Sài Gòn kiến nghị tổ chức Hội đồng thúc đẩy nhân quyền

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 11 năm 2013 Kính gửi: CHỦ TỊCH NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM CHỦ TỊCH QUỐC HỘI THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Đồng kính gửi : BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH V/v Tổ chức Hội đồng Thúc đẩy nhân quyền Ngày 12 tháng 11 năm 2013, Việt Nam được bầu vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Trước đó 5 ngày (ngày 7/11) Việt Nam ký kết tham gia Công ước chống tra tấn của Liên hiệp quốc, đồng thời Cam kết 14 điều khi nộp đơn ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Trước sự kiện này, một số cơ quan Đảng – Nhà nước, hệ thống báo chí, truyền thông chính thức loan tải thông tin bình luận đó là một thành tựu to lớn của nhân quyền Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý‎ của Nhà nước các cấp niềm hãnh diện của Đất nước, của Nhân dân ta. Nhiều tác giả, từ những góc nhìn, tầm nhìn khác nhau đã đưa ra những thẩm định đa dạng, nhiều chiều. Trong đó có những viên chức cao cấp của nhà nước, như ông Trần Văn Hằng, Chủ nhiệm Ủy Ban đối ngoại của Quốc hội đưa ra nhận định : “Đây là đòn đánh mạnh vào các đối tượng mà bấy lâu nay cố tình bôi nhọ, vu cáo chúng ta”. Nhiều ý kiến khác lại cho rằng Việt Nam và một số ít nước khác tuy có vi phạm nghiêm trọng Nhân quyền cũng được bầu vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc là tạo điều kiện cho các nước này phấn đấu. Trước tình hình này, chúng tôi một số nhân sĩ, trí thức, những người quan tâm đến thời cuộc, đang cư trú, sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy: Hàng chục năm qua, trên các báo đài chính thống hiếm khi đăng tải toàn văn các Công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia là thành viên, đặc biệt là các Công ước của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền mà dư luận rất quan tâm như Công ước về Quyền dân sự và chính trị, Công ước về cấm tra tấn… Trên thực tế, các văn bản quan trọng này, chúng tôi chỉ nghe thấy tên, một vài trích dẫn để diễn giải theo ý kiến chủ quan của người cầm quyền. Đây lại chính là điều “cấm kỵ” đã được quy định trong Công ước. Chúng tôi hy vọng kể từ nay, các quyền dân sự và chính trị, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và các quyền cơ bản khác của công dân… cần phải được thực thi đúng theo tinh thần “Tuyên Ngôn Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ” và các “Công ước quốc tế nhân quyền” của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết, hoặc đã là thành viên và đặc biệt mới đây là “14 điều cam kết” mà chính phủ Việt Nam ký khi nộp đơn ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi hiểu rằng, kể từ nay, Việt Nam không chỉ hãnh diện vì được bầu vào một trong hai tổ chức quyền lực bậc nhất của Liên hiệp quốc [Hội đồng Bảo An LHQ, Hội Đồng Nhân Quyền LHQ] mà vấn đề có ý nghĩa quan trọng là Nhà nước Việt Nam phải bằng hành động cụ thể có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ của Nhà nước và của dân được quy định công khai, minh bạch với những chủ trương, chính sách, giải pháp, trong đó có những văn bản pháp quy nhằm đảm bảo cho 90 triệu người dân ở trong nước được hưởng và thực hiện đầy đủ các quyền ghi trong các Công ước mà Việt Nam đã ký kết, tham gia là thành viên . Chúng tôi hiểu rằng, đường lối ngoại giao đúng đắn và bền vững chính là sự nghiêm chỉnh thực thi những cam kết quốc tế và khu vực thể hiện công khai trong đời sống xã hội của đất nước, thành tựu đạt được của ngoại giao là nhằm góp phần to lớn thúc đẩy xây dựng, phát triển mọi mặt xã hội của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho nhân dân. Điều này không chỉ là nghĩa vụ chính trị mà còn là nghĩa vụ đạo đức của người cầm quyền. Để nhân quyền của mỗi người dân được thực thi và để sự hãnh diện của nhà nước đúng tầm với trách nhiệm đã cam kết, chúng tôi, những người quan tâm đến thời cuộc, đang cư trú, sinh sống tại Thành phố Hồ chí Minh muốn nói lên nguyện vọng bức xúc của các tầng lớp nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, kiến nghị: 1/ Nhân ngày 10 tháng 12 năm 2013, Ngày Nhân quyền do Liên Hiệp Quốc khởi xướng, Nhà nước, các tổ chức chính trị -xã hội, các tổ chức xã hội tổ chức mit- tinh, xuống đường chào mừng sự kiện trọng đại Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc nhằm vinh danh thắng lợi và đề cao ý thức trách nhiệm thực thi nhân quyền của chính quyền các cấp và các tầng lớp nhân dân. Công bố thành lập “Hội Đồng Nhân Quyền của nhà nước”, “Hội Đồng Nhân Quyền của Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp” và tại các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội cùng đồng thời cho thành lập các “Nhóm tổ chức xúc tiến Nhân Quyền của nhân dân”. 2/ “Hội Đồng Nhân Quyền của nhà nước”, “Hội Đồng Nhân Quyền của Mặt trận tổ quốc các cấp” cùng các “Nhóm tổ chức xúc tiến Nhân Quyền của nhân dân” có các nhiệm vụ chính như sau: a) Phổ biến rộng rãi toàn văn các văn bản về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết, tham gia… cụ thể là Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước chống tra tấn, cam kết 14 Điều khi ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền và Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước Quốc tế ( Luật số: 41/2005/QH11). b) Chủ trì phối với các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, rà soát, phát hiện các văn bản qui phạm pháp luật của Việt Nam qui định khác với qui định của Điều ước quốc tế về cùng một vấn đề, nghiêm túc phổ biến một cách minh bạch và công khai cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, áp dụng theo qui định của Điều ước quốc tế (khoản 1 Điều 6: . Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước. Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện Điều ước quốc tế ). c) Kịp thời cập nhật và quảng bá thông tin về tình hình thực thi nhân quyền tại VN. d) Tiếp xúc, phối hợp giữa Hội Đồng Nhân Quyền nhà nước, Hội đồng nhân quyền của các đoàn thể, Nhóm xúc tiến nhân quyền của nhân dân với các cấp chánh quyền trong nước và các cơ quan của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc để trao đổi thông tin và xử lý thông tin về nhân quyền. e) Phổ biến, truyền đạt kiến thức, tổ chức hội thảo về nhân quyền cho nhân dân. g) Vận động trợ giúp, chia sẻ, góp phần khắc phục hậu quả đối với những trường hợp nhân dân bị vi phạm nhân quyền. Chúng tôi đồng ký tên: 1. Huỳnh Tấn Mẫm, Bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc VN Tp HCM. 2. Trần Quốc Thuận, Luật sư, nguyên Phó chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội. 3. Lê Công Giàu, nguyên Phó bí thư thường trực Thành đoàn TNCS tpHCM, nguyên Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC), TPHCM. 5. Lê Văn Oanh, Chủ nhiệm Khối Trí thức, CLB Truyền thống kháng chiến TP HCM. 6. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư Pháp TPHCM. 7. Nguyễn Văn Kết [Tư Kết], nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa-Thông tin TPHCM. 8. Bùi Tiến An, cựu tù Chính trị Côn Đảo, nguyên Cán bộ Ban Dân vận Thành Ủy TPHCM. 9. Hà Thúc Huy, PGS.TS, GS Đại học TPHCM. 10. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Khu Du lịch Bình Quới. 11. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó tổng biên tập Báo Sài Gòn Giải Phóng. 12. Tô Lê Sơn, Kỹ sư, TPHCM. 13. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã Hội Học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS. 14. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức TPHCM. 15. Trần Công Thạch, Hưu trí, TPHCM. 16. GB Huỳnh Công Minh, Linh mục Tổng giáo phận Sài Gòn, TPHCM. 17. Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch UB Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), cựu tù chính trị Côn Đảo, TPHCM. 18. Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nghiên cứu viên văn hóa, TPHCM. 19. Nguyễn Mai Oanh, Chuyên gia Nông nghiệp nông thôn, TPHCM. 20. Nguyễn Xuân Nghĩa, Tiến sĩ, Giảng viên TPHCM. 21. Trần Văn Long, nguyên Tổng thư ký UB vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (trước 1975), nguyên Phó bí thư Thành đoàn TNCS TPHCM. 22. Lê Thân, nguyên CB Phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ TP Đà Lạt, cựu tù chính trị Côn Đảo. 23. Hồ Ngọc Nhuận, Nhà báo, Ủy viên UBTW MTTQ VN, Phó chủ tịch UB MTTQ TPHCM, nguyên Giám đốc chính trị Chủ bút nhật báo Tin Sáng, TPHCM. 24. Tống Văn Công, Nhà báo, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động, TPHCM. 25. Nguyễn Thế Thanh, Nhà báo, Cán bộ hưu trí, TPHCM. 26. Lưu Trọng Văn, Nhà báo, TPHCM. 27. Lê Phú Khải, Nhà báo, nguyên Phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam thường trú tại miền Nam. 28. Trần Minh Quốc, Hội viên CLB Truyền thống kháng chiến TPHCM, Thường trực khối Thanh niên. 29. Nguyễn Đắc Diên, Bác sĩ nha khoa, TPHCM. 30. Đào Duy Chữ, Tiến sĩ, nguyên Phó chủ tịch Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam,TPHCM. 31. Hồ Hiếu, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên CB Phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ TP Đà Lạt, nguyên Chánh văn phòng Quận ủy quận 1, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy TPHCM. 32. Phan Văn Thuận, Doanh nhân, Giám đốc công ty Phú An Định, TPHCM. 33. Trần Văn Mỹ, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giảng viên Đại học Sài Gòn, TPHCM. 34. Nguyễn Lê Thu An, cựu tù chính trị CônTPHCM Đảo, nguyên Tổng biên tập Báo Điện ảnh TPHCM. 35. Nguyễn Lê Thu Mỹ, cựu chiến sĩ biệt động khu Sài Gòn- Gia Định, CB hưu trí. 36. Nguyễn Văn Lê, nguyên Chánh Văn phòng Khu đoàn Sài Gòn-Gia Định, nguyên Chánh Văn phòng Ban Dân Vận TPHCM. 37. Trần Văn Nhiệm, nguyên Phó Giám đốc Sở Lao Động-TB và XH TpHCM. 38. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TPHCM. 39. Huy Đức. Nhà báo. TPHCM. 40. Hoàng Lại Giang, nhà văn. TPHCM.http://huynhngocchenh.blogspot.de/2013/11/tri-thuc-sai-gon-kien-nghi-to-...
......

Toàn Dân Hãy Đồng Thanh Thét Lớn: Phản Đối Hiến Pháp Mới Của ĐCS!

Xin mọi công dân VN hãy ghi nhớ: 28 Tháng 11 năm 2013 là một ngày ô nhục của Dân tộc VN! Ngày mà Tổ Quốc VN lại một lần nữa bị giặc nội xâm là tập đoàn cầm đầu ĐCSVN, thái thú của giặc ngoại xâm Bắc triều, siết chặt hơn nữa chế độ đô hộ cực kỳ khắc nghiệt của tập đoàn đó lên đầu, lên cổ Dân tộc ta. Chế độ đô hộ đó đã được tập đoàn cầm quyền thiết lập từ tháng 8 năm 1945, đến nay đã trên 68 năm rồi. Ngày nay, chế độ đô hộ đó đang ngày càng rệu rã, ngày càng bị nhân dân ta chán ghét, nên nhóm cầm đầu ĐCS lại bịp bợm bày trò lấy ý kiến dân để sửa đổi Hiến pháp. Nhưng, tất cả những ý kiến xây dựng của nhân dân đều bị họ vứt bỏ hết để đưa ra một bản Hiến pháp cực kỳ phản dân chủ, thực chất là phản dân tộc và phản động, rồi giao cho cái Quốc hội bù nhìn của họ thông qua và áp đặt cho toàn Dân tộc.   Bản Hiến pháp mới của ĐCS được thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 thực chất là một sợi dây thòng lọng siết chặt hơn nữa vào cổ nhân dân ta. Vì Hiến pháp mới một lần nữa khẳng định quyền lãnh đạo toàn diện - tức là quyền làm chủ thật sự và quyền thống trị tuyệt đối - của ĐCSVN đối với Đất nước và Nhân dân ta, mặc dù không ai chấp nhận cái quyền ấy! Đó là một hành động trắng trợn chà đạp lên mọi nguyên tắc của một chế độ dân chủ đích thực. Những lời lẽ “của dân, do dân, vì dân” mà họ thốt lên chỉ là lừa bịp để che đậy quyền lực của một nhúm nhỏ trong ĐCS được độc tài thống trị nước ta. Hãy thấy trước rằng, với Hiến pháp mới này, chẳng bao lâu nữa nền độc tài toàn trị tập thể sẽ có thể chuyển thành nền độc tài toàn trị cá nhân, dù cá nhân đó chẳng có chút tài cán, đạo đức gì cả!   Nhưng để duy trì và bảo vệ được một nền độc tài toàn trị đó thì tập đoàn cầm quyền cần phải ghi rõ trong Hiến pháp bắt buộc các lực lượng vũ trang, tức là quân đội và công an, do nhân dân đóng thuế để nuôi dưỡng phải trung thành trước hết với ĐCS, chứ không phải trung thành trước hết với Tổ quốc và Nhân dân. Đây là một ý đồ thâm độc của họ là dùng các lực lượng vũ trang của nhân dân để đàn áp nhân dân khi cần bảo vệ chế độ độc tài toàn trị của một người hay một nhúm người có thực quyền trong ĐCS. Trong Hiến pháp mới, tập đoàn cầm quyền vẫn ngoan cố không chịu trả lại quyền sở hữu đất đai cho người dân vốn đã có từ xưa, để giai cấp cầm quyền từ trung ương đến các địa phương tha hồ thao túng đất đai của người dân, tha hồ tham nhũng, tha hồ làm giàu trên mồi hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân. Còn những điểm khác về mặt kinh tế trong Hiến pháp mới cũng nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho bọn cầm quyền, bọn cường hào ác bá mới, bọn tỷ phú “đỏ”, tức là con cái, họ hàng, bà con, bạn bè của “lãnh đạo”, tha hồ xâu xé, cướp đoạt tài sản quốc gia.   Tóm lại, Hiến pháp mới sẽ củng cố hơn nữa chế độ độc tài toàn trị phi nhân, phản dân chủ và khẳng định quyền thống trị muôn năm của băng đảng tham nhũng, thối nát đối với toàn dân. Như vậy thì nguy cơ mất đất, mất biển, mất đảo... sẽ trở thành một sự thật cay đắng đối với toàn Dân tộc. Vì mọi người đều biết chính lãnh đạo ĐCSVN từ lâu đã tạo điều kiện thuận lợi cho bọn lãnh đạo ĐCS phương Bắc thực hiện chính sách bành trướng xuống nước ta, đặc biệt là từ sau Hội nghị Thành Đô (1990), một lần nữa họ lại quàng vào cổ Tổ quốc ta sợi dây thòng lọng của Trung Quốc. Với Hiến pháp mới, hiểm họa mất nước lại càng tăng lên rõ rệt, nhất là lúc này Trung Quốc đã và đang lũng đoạn nền kinh tế văn hóa Việt Nam, đã và đang nắm hầu hết các công trường trọng điểm trên đất nước và những khối người đông đảo của họ đã và đang thâm nhập sâu vào các vùng xung yếu của Tổ quốc ta. Chính vì thế, lúc này hơn bất cứ lúc nào, vì trách nhiệm công dân trước vận mệnh của Tổ quốc, toàn dân Việt Nam hãy đứng lên đồng thanh thét lớn: PHẢN ĐỐI HIẾN PHÁP MỚI CỦA ĐCS ÁP ĐẶT CHO DÂN TA! Ngày 27 tháng 11 năm 2013 Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
......

LỢI DỤNG LUẬT PHÁP ĐỂ CHỐNG TỰ DO NGÔN LUẬN

Viết blog đã thế chỗ viết báo để trở thành nghề nguy hiểm nhất ở Việt Nam trong thời đại Internet. “Quả thực là nguy hiểm. Nhưng nó không phải là một nghề, bởi vì blogger chúng tôi chưa bao giờ được trả tiền cho những gì chúng tôi viết cả”, J., một blogger trẻ tuổi ở Hà Nội, nói. Là quản trị viên của một diễn đàn trực tuyến lớn chuyên về các vấn đề chính trị và xã hội, J. thừa hiểu những rủi ro mà những blogger như anh phải đối mặt hàng ngày: tin tặc, bài viết hăm dọa của các dư luận viên được trả tiền bởi chính phủ, và, tệ hơn cả, là khi công an phát hiện ra họ là các blogger “chống chính quyền”. “Blogger không được trả lương như nhà báo”, J, nói, “nhưng chúng tôi làm những việc như truyền thông chính thống làm, hay chính xác hơn, những gì truyền thông chính thống không làm được, đó là: vạch trần những sự thật mà chính quyền không muốn công chúng biết. Làm việc này, chúng tôi đối mặt với sự sách nhiễu của công an, bị bắt và bị tù”. J. không nói quá. Theo đánh giá vào tháng 9-2013 của tổ chức International Society for Human Rights (ISHR), ít nhất 263 công dân Việt Nam, bao gồm cả blogger, đã bị tống giam từ năm 2005 bởi các cáo cuộc “xâm phạm an ninh quốc gia” và “vi phạm trật tự quản lý hành chính”. Trong số những người bị bắt, 68 người bị truy tố theo Điều 88 Bộ luật Hình sự với hành vi “tuyên truyền chống nhà nước” và 40 người bị truy tố theo Điều 258 với cáo buộc “lạm dụng các quyền tự do dân chủ, xâm hại lợi ích nhà nước”. Đằng sau những con số này là những người dám nói lên tiếng nói của mình. Trên thực tế, blogger chính trị ở Việt Nam đã trở thành những nhân vật quen thuộc trên truyền thông chính thống vì họ đưa tin về việc bắt bớ hoặc xét xử những người mà trước đó chẳng ai biết nhưng bây giờ thì bị xử theo Điều 88 hoặc 258. Những điều luật này tỏ ra là công cụ đe dọa hữu hiệu để chính quyền bịt miệng những tiếng nói bất đồng từ công chúng. “Cái còng”   Các blogger ví von một cách giễu cợt rằng Điều 88 như một chiếc còng, vì số 8 trông giống như thứ công cụ hỗ trợ mà công an sử dụng. Cụ thể, điều luật này quy định những ai làm ra, lưu trữ hoặc phổ biến thông tin, kể cả “tài liệu và/hoặc văn hóa phẩm”, chống nhà nước, sẽ bị kết án từ 3 đến 12 năm tù. Tuy nhiên, điều luật này không đưa ra định nghĩa rõ ràng về những nội dung có thể bị cho là “chống nhà nước”. Hơn nữa, thẩm quyền giải thích pháp luật ở Việt Nam nằm ở nhiều cơ quan khác nhau, từ lực lượng công an, cơ quan điều tra, đến viện kiểm sát, tòa án, hay thậm chí là các bộ ngành, mặc dù theo pháp luật Việt Nam, chỉ có Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền đó.   Trước khi có Điều 88, đã từng tồn tại Điều 82 của Bộ luật Hình sự năm 1985 vốn có tính trấn áp như bất kỳ bộ luật hình sự kiểu Xô Viết nào. Điều 82 nhắm đến việc trừng phạt hành vi “tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội”, với khung hình phạt nặng nề tương tự, từ 3 đến 12 năm tù. Không có thống kê công khai nào về số người bị giam giữ và cáo buộc theo Điều 82. Vào năm 1999, Bộ luật Hình sự mới được ban hành đã chuyển đổi Điều 82 thành Điều 88, thay thế từ “chủ nghĩa xã hội” bằng từ “chính quyền”. Giờ đây điều luật này sử dụng ngôn ngữ ít trừu tượng hơn nhưng không có nghĩa là ít mơ hồ và ít chung chung hơn. Không chỉ giới hạn trong những hoạt động có tính lật đổ một cách rõ ràng, Điều 88 đã và đang được sử dụng để bịt miệng những tiếng nói đòi hỏi chính quyền trong sạch hơn, trách nhiệm hơn – những điều mà nếu chính quyền lưu ý thì thực ra có thể giúp chính quyền mạnh hơn. Giải thích khái niệm “chính quyền”   Một trong những người tù nổi tiếng bị tống giam theo Điều 88 là Cù Huy Hà Vũ, tiến sĩ luật và là con trai của một đồng chí thân cận của nhà lập quốc Hồ Chí Minh. Vào năm 2009, Cù Huy Hà Vũ đệ đơn kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vì đã khởi động một dự án khai mỏ lớn có thể gây hại cho môi trường. Ở các nước khác, một đơn kiện như thế có lẽ là bình thường, nhưng nó lại được coi là một sự kiện gây sốc trong lịch sử Việt Nam.   Vũ còn gửi nhiều bài viết và trả lời phỏng vấn các hãng truyền thông nước ngoài, trong đó ông thẳng thắn chỉ trích Đảng Cộng sản cầm quyền và kêu gọi xây dựng một nền dân chủ đa đảng cho Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do, Vũ nói: “Hiện nay ở Việt Nam người ta sử dụng ngân sách vô tội vạ và rất nhiều tiền từ ngân sách nhà nước chi vào những việc thậm chí có thể gọi là mafia.... Để có được chế tài đối với những kẻ cướp ngày... thì cách duy nhất là phải có chế độ đa đảng tại Việt Nam”.   Tại một trong những bài viết đăng trên mạng Bauxite Việt Nam, Vũ vận động cho thể chế tam quyền phân lập, chỉ trích cái mà ông gọi là chính phủ, tòa án và quốc hội “đồng lòng hại dân”.   Năm 2010, Cù Huy Hà Vũ bị bắt và bị truy tố theo Điều 88. Ông sau đó bị mang ra xét xử tại một phiên tòa gồm toàn các thẩm phán là đảng viên cộng sản, điều đó càng củng cố lập luận của ông là dưới một hệ thống như thế thì ngành tư pháp không thể vô tư. Năm 2011, Vũ bị kết án 7 năm tù giam. Phiên tòa Cù Huy Hà Vũ gửi một thông điệp mạnh mẽ rằng, dưới hệ thống pháp luật Việt Nam, Đảng Cộng sản và các đảng viên cao cấp của nó như Thủ tướng là bất khả xâm phạm, và được miễn trừ trách nhiệm pháp lý. Quan trọng hơn có lẽ là, bản án này đã làm rõ rằng những hành vi như vậy sẽ được giải thích một cách hợp pháp là “tuyên truyền chống nhà nước”. Kết quả này là có thể dự đoán được trong một chính quyền độc đảng, và các blogger có lẽ cũng biết rủi ro đó. Tuy nhiên, Nguyễn Phương Uyên, một sinh viên ở thành phố miền Nam Long An, nhận ra rằng, ngay cả khi phát ngôn vì Việt Nam và phản đối các hành vi hung hăng của một nước khác, cụ thể là Trung Quốc, trong tranh chấp ở vùng biển Đông Nam Á, cũng có thể khiến cô vào tù. Cô bị bắt vào ngày 14-10-2012, chỉ hai ngày sau sinh nhật lần thứ 20 của cô, và bị cáo buộc theo Điều 88. Theo cáo trạng của Uyên và bạn cô là Đinh Nguyên Kha, “tội” của họ là làm tờ rơi, biểu ngữ và cờ giấy mang các thông điệp sau: - “Tuổi trẻ yêu nước Long An đấu tranh cho tự do và nhân quyền”, - “Tuổi trẻ yêu nước quyết tâm diệt cộng sản, giải phóng dân tộc”, và - “Long An trung dũng kiên cường toàn dân chống cộng suốt đời tự do”.   Bên cạnh đó, Uyên viết một khẩu hiệu bằng máu: “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông”. Bản cáo trạng cho rằng khẩu hiệu này là “nội dung không tốt về Trung Quốc”. Có thể lập luận rằng những khẩu hiệu như thế không hề đối lập với “chính quyền nhân dân”, mà là nhắm đến một chủ nghĩa (ý thức hệ). Tuy nhiên, thật khó để xác định được làm thế nào một sự chỉ trích nhằm vào Trung Quốc lại có thể được diễn giải thành chống chính quyền Việt Nam. Vào tháng 5-2013, phiên tòa sơ thẩm áp đặt án tù 6 năm dành cho Nguyễn Phương Uyên và 8 năm dành cho Đinh Nguyên Kha. Mức án đã giảm xuống tại phiên phúc thẩm với 3 năm án treo dành cho Uyên và 4 năm tù giam dành cho Kha. Cả phiên sơ thẩm và phúc thẩm đều không cho bạn bè và gia đình vào dự, kể cả bố mẹ của Uyên và Kha. Tự do có điều kiện So với “cái còng”, Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999 có vẻ ít nghiêm khắc hơn với các hình phạt bao gồm cảnh cáo và cải tạo không giam giữ đến 3 năm. Trong những trường hợp nghiêm trọng, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 đến 7 năm.   Mặt trái của Điều 258 này là nó mơ hồ hơn, chung chung hơn, và Nhà nước công an trị có thể dùng Điều 258 để bắt bao nhiêu người cũng được nếu muốn. Người vi phạm Điều 258 bao gồm những “Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.   Điều 258 bắt đầu với một danh sách rất cụ thể các quyền không được phép “lạm dụng”. Nhưng mặt khác, nó cũng để ngỏ việc diễn giải “những quyền tự do dân chủ khác” vốn không được liệt kê ban đầu. Nghiêm trọng hơn, nó không định nghĩa thế nào là “lạm dụng” hay “lợi ích của nhà nước” là gì để mà không xâm phạm. Trên thực tế, Điều 258 bao trùm một phạm vi các hành vi rộng hơn cả Điều 88, vốn chỉ giới hạn chỉ trong các hành vi có thể bị coi là “tuyên truyền”. Sau sự bùng nổ của blog và truyền thông xã hội ở Việt Nam, đã có sự gia tăng việc bắt bớ và các cáo buộc theo Điều 258.   Một số vụ việc xảy ra trong năm 2013 thể hiện sự leo thang sử dụng Điều 258 ở Việt Nam khi nước này chạy đua vào ghế thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016:   - Ngày 5-5: hai blogger bị giam giữ ngay sau khi phân phát các bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Công an cáo buộc họ đã lợi dụng quyền tự do dân chủ nhằm xâm phạm lợi ích của nhà nước. - Từ 26-5 đến 15-6: ba blogger bị bắt, hai trong số họ là các blogger và nhà báo nổi tiếng Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào. Blogger thứ ba, Đinh Nhật Uy, là anh trai của Đinh Nguyên Kha – người đang bị tạm giam theo Điều 88. Gia đình Uy và Kha, do đó, đâm ra nổi tiếng một cách đáng buồn vì có hai con trai đi tù, người vì vi phạm an ninh quốc gia, người vì xâm hại trật tự công cộng.   - Vào tháng 10, công an một lần nữa sử dụng Điều 258 để bắt giữ hai người, Thào Quán Mua và Hoàng Văn Sang ở tỉnh miền Bắc Tuyên Quang vì họ khiếu kiện tập thể phản đối chính quyền đã đàn áp Dương Văn Mình, một giáo phái được thành lập vào năm 1989. Đầu tháng 6, cảnh sát phá hủy các nhà đòn xây dựng trái phép của giáo phái nói trên theo yêu cầu của Ủy ban Tôn giáo của chính phủ. Theo pháp luật Việt Nam, các tổ chức tôn giáo phải đăng ký trước khi hoạt động. Do đó, vụ việc này bị cho là sử dụng Điều 258 để chống lại quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Suy đoán rộng Bản cáo trạng của Đinh Nhật Uy bị rò rỉ trên cộng đồng mạng vào tháng 10 và gây ra một làn sóng phẫn nộ vì những lập luận trẻ con của nó: “Vào khoảng năm 2010, Đinh Nhật Uy được người bạn tạo cho tài khoản Facebook có nickname là Đinh Nhật Uy. Thời gian đầu, Nhật Uy chỉ sử dụng tin nhắn cho bạn bè. Nhưng từ khoảng tháng 11/2012, sau khi em ruột là Đinh Nguyên Kha bị khởi tố về tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thì tài khoản Facebook này mới được Đinh Nhật Uy sử dụng thường xuyên để đăng tin, chia sẻ hình ảnh, liên kết, nhắn tin...” “(Thông qua Facebook) Đinh Nhật Uy còn đăng những thông tin xấu, sai sự thật đối với Nhà nước, tổ chức, cá nhân... Những hình ảnh, bài viết nêu trên có nhiều lượt người vào xem. Nhiều lượt người chia sẻ, đánh giá “like”, nhiều lượt người vào bình luận, trong đó có nhiều bài bình luận với lời lẽ nói xấu, bôi bác, xúc phạm đến Nhà nước, tổ chức và công dân... Ngày 2-1-2013, đăng địa chỉ liên kết bài viết: “Lật tẩy bộ mặt thật của Giải nhân quyền Hellman/Hammett” trên trang trandaiquang.net (Trần Đại Quang là tên của Bộ trưởng Công an Việt Nam, trang trandaiquang.net có vẻ là một website thân chính phủ), Uy nhận xét: ‘Chuyện như vầy cũng bịa ra được. Chỉ lừa được lũ đầu tôm chung chạ thôi mấy chú ơi’. Phía dưới có 18 lượt người thích và 07 lượt người bình luận, trong đó có những bình luận có tính chất xúc phạm”. Bằng việc bỏ tù Uy 4 tháng và sau đó áp hình phạt 15 tháng tù treo cho anh, trên thực tế, nhà nước không chỉ nhắm tới một cá nhân mà còn gửi lời cảnh báo tới tất cả những người sử dụng mạng xã hội rằng họ là những tội phạm tiềm năng của Điều 258. Cáo buộc chống lại Đinh Nhật Uy không nói cụ thể quyền nào đã bị anh “lợi dụng”, nhưng có vẻ đó là quyền tự do ngôn luận. Khi đối mặt với sự cấm đoán mơ hồ và rộng như thế, ai đó có thể hỏi: Công dân Việt Nam được phép làm hay nói những gì để không bị quy cho là “lợi dụng” quyền của mình? Ranh giới của “lợi ích nhà nước” là gì?   Chưa có câu trả lời, vì Điều 258 trao cho nhà chức trách sự tự do gần như không có giới hạn trong việc sử dụng pháp luật chống lại việc thực thi các quyền công dân. Chỉ khi nào nhà nước giải thích thế nào là “lợi dụng”, thế nào là xâm phạm “lợi ích” nhà nước, thì sự lạm dụng pháp luật này mới bị giới hạn. Các blogger Việt Nam, trong đó có “J.”, hiểu rằng những hạn chế sẽ ngày càng bị xiết chặt hơn nếu họ tiếp tục im lặng. Tuân theo những hạn chế này có thể đồng nghĩa với việc họ không bị bỏ tù, nhưng không có nghĩa là họ được tự do. Bản tiếng Anh/ English origin: http://www.phamdoantrang.com/2013/11/the-laws-of-state-impunity.html Nguồn: http://www.seapa.org/wp-content/uploads/IDEI-2013-report.pdf Theo blog Đoan Trang  
......

Tuyên Cáo Thành Lập “Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam”

Cho đến thế kỷ 21- thời đại của tri thức và dân chủ tự do, Việt Nam vẫn còn là quốc gia có một hồ sơ dày cộm về đàn áp Nhân quyền. Nhân quyền được coi là thước đo quan trọng để định hình mức độ văn minh và là điều kiện tiên quyết tạo ra phúc lợi tinh thần và giá trị nhân văn cho con người. Thế giới ngày hôm nay đã và đang đề cao Nhân quyền trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Tuy nhiên hiện nay người dân Việt Nam vẫn chưa có cơ hội thụ hưởng Nhân quyền theo dúng ý nghĩa tốt đẹp và nhân bản nhất của nó. Bằng chứng là nhiều người bảo vệ Nhân quyền ở Việt Nam vẫn đang tiếp tục bị đàn áp bằng nhiều hình thức, đặc biệt là những người phụ nữ.   Trong bối cảnh đó, thiết nghĩ, việc hình thành và phát triển các tổ chức xã hội dân sự bảo vệ Nhân quyền là điều cần thiết và khẩn cấp. Các tổ chức này không chỉ quan trọng đối với lợi ích của mỗi cá nhân người dân mà còn thiết thực đối với việc xây dựng nền tảng thăng tiến xã hội.  Vì thế, chúng tôi-những người quan tâm về nhân quyền nói chung và nhân quyền của  nữ giới nói riêng cùng nhau cho rằng việc thành lập Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam (http://vnwhr.net/) là sự cần thiết để đại diện một cách độc lập, công bằng và vô vị lợi cho toàn thể những người phụ nữ đã, đang và sẽ bị tổn thương về Nhân quyền, lập nên một tổ chức sinh hoạt dân sự có tên gọi là Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam nhằm:   Gắn kết các cá nhân phụ nữ chịu thiệt thòi và dễ bị tổn thương từ các vụ việc vi phạm Nhân quyền. Lên tiếng và có những hành động bảo vệ thiết thực đối với những người phụ nữ đã và đang bị xâm phạm phẩm giá và các quyền con người cơ bản. Chia sẻ và tuyên truyền những kiến thức nhằm nâng cao trình độ hiểu biết của phụ nữ Việt Nam về quyền con người và về vai trò của phụ nữ trong một xã hội tôn trọng nhân quyền.   Tôn chỉ của Phụ nữ Nhân Quyền Việt Nam không gì quan trọng hơn là nâng cao nhận thức của từng cá nhân trong xã hội về phẩm giá con người và những quyền con người cơ bản của chính mình cũng như của người khác, từ đó góp phần thúc đẩy một xã hội tôn trọng nhân quyền.   Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam là một tổ chức xã hội dân sự, phi chính trị cam kết góp vai trò của mình vào mục tiêu kiến tạo một xã hội Việt Nam tôn trọng nhân quyền, và là một bộ phận không tách rời trong phong trào bảo vệ nữ quyền trên thế giới. Ngày 25/11/2013. Ban Vận Động (theo thứ tự ABC)     Dương Thị Tân     Huỳnh Thục Vy     Lê Thị Công Nhân     Mai Phương Thảo     Nguyễn Hoàng Vi     Nguyễn Ngọc Như Quỳnh     Nguyễn Thị Yến Trang     Phạm Thanh Nghiên     Trần Thị Nga ____________________ LỜI KÊU GỌI HỖ TRỢ “PHỤ NỮ NHÂN QUYỀN VIỆT NAM”   Chị em thân mến, Chúng ta được sinh ra làm con người, chỉ riêng điều đó khẳng định giá trị tự thân và quyền bình đẳng cố hữu của chúng ta khi so sánh với những người đồng loại khác. Mỗi cá nhân trong xã hội loài người được phân biệt dựa vào vai trò, nhiệm vụ chứ không phải dựa vào phẩm giá. Do đó, với tư cách là những thực thể hiện hữu có phẩm giá, chúng ta có những quyền bất khả xâm phạm mang tính phổ quát. Và chừng nào chúng ta còn được xác định là con người, chúng ta không thể nào chấp nhận sự bất bình đẳng về Nhân phẩm, Nhân quyền và vai trò xã hội. Ngày nay, dù nhân loại đã đạt được những thành tựu không thể chối cãi, ở nhiều nơi trên thế giới nói chung và ở nhiều vùng đất Á Đông của chúng ta nói riêng, phụ nữ vẫn đang là đối tượng của những hành xử bất công trong sự thông đồng đáng xấu hổ giữa các định chế văn hoá và pháp luật. Như chị em đã biết, nền văn hoá cũ và cái não trạng mất cân bằng của nó đã mặc định những giá trị bất công và mang tính kỳ thị đối với phụ nữ. Vị thế dễ bị tổn thương dành cho nữ giới vẫn được duy trì cho đến ngày nay, bất chấp những tuyên bố hoa mỹ của chính quyền về quyền bình đẳng giới tính. Pháp luật và các định chế chính trị của Việt Nam không những không có khả năng bảo vệ quyền tự do của người dân mà còn là công cụ tước đoạt các Nhân quyền không thể chuyển nhượng.Trong bối cảnh đó, hoàn cảnh của nữ giới còn tồi tệ hơn nhiều lần. Và thực tế cho thấy, chị em phụ nữ chúng ta, trong cuộc đấu tranh bảo vệ Nhân quyền và lợi ích chính đáng của mình đã chịu nhiều đàn áp, sách nhiễu không kém nam giới và nhận lãnh những hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều từ chính sách đàn áp ấy, cả về vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta nên làm gì khi Nhân quyền của chính chúng ta bị xâm phạm? Chúng ta nên làm gì khi lợi ích vật chất và tinh thần của chúng ta bị tước đoạt bởi Nhà cầm quyền? Chúng ta phải làm sao khi lòng tự hào được làm một con người và sự tự tôn trong tư cách người phụ nữ bị chà đạp trong đồn công an, trên đường phố, trong công xưởng? Chúng ta phải làm gì khi phải chịu những đau khổ tinh thần khó chữa lành khi chứng kiến những người thân yêu của chúng ta bị đàn áp, sách nhiễu, tù đày trong cuộc đấu tranh cho tự do và Nhân quyền hay bị tra tấn, bắt giữ vì sự lộng hành của công an? Chúng ta phải làm gì khi đối mặt với thực tế rằng tương lai con cái chúng ta vô cùng ảm đạm vì cha mẹ chúng là đối tượng của sự đàn áp? Chúng ta nên đối phó thế nào khi danh dự của mình bị bôi nhọ bởi báo chí Nhà nước? Tất nhiên, chúng ta không thể cam chịu. Trong tinh thần tôn trọng Nhân phẩm và Nhân quyền, trong sự thấu hiểu những thiệt thòi mà chị em chúng ta đã và đang chịu đựng trong một thể chế mà pháp luật không nhằm bảo vệ Nhân quyền và Dân quyền, trong niềm khát khao Tự do và Công lý, trong mong ước được dấn thân cho cuộc đấu tranh bảo vệ Nhân quyền mà đối tượng đặc biệt là phụ nữ, chị em chúng tôi-những phụ nữ đã từng có kinh nghiệm bị tước đoạt Nhân quyền-bất chấp sự khác biệt về quan điểm, hoàn cảnh và địa lý, đã ngồi lại với nhau trong cùng một mục tiêu bảo vệ Nhân quyền của nữ giới, đặc biệt là những người phụ nữ vì lên tiếng cho Nhân quyền mà bị đàn áp và thành lập nên một tổ chức dân sự có tên là PHỤ NỮ NHÂN QUYỀN VIỆT NAM (http://vnwhr.net/). Tất cả chị em phụ nữ Việt Nam chúng ta có quyền được sống trong một xã hội tự do, an toàn, thịnh vượng nhưng thực tế thì ngược lại. Và lưu ý rằng, Tự do và Nhân quyền là những giá trị không thể có nhờ cầu xin, chờ đợi. Chúng ta phải lên tiếng vì các vụ đàn áp và kêu cầu chính quyền phải tôn trọng nhân quyền. Và chỉ khi Nhân quyền và lợi ích của những người phụ nữ được tôn trọng, lợi ích của gia đình và con cái chúng ta mới được bảo vệ.   Vì vậy, chúng tôi tha thiết kêu gọi sự ủng hộ và tham gia của tất cả những chị em phụ nữ Việt Nam quan tâm đến vấn đề Nhân quyền không phân biệt thành phần xã hội. Chúng tôi cũng trân trọng đón nhận sự yểm trợ của những quý ông tôn trọng Nhân quyền của nữ giới và yêu quý phụ nữ. Sự tham gia và yểm trợ của tất cả quý vị không những tạo điều kiện thuận lợi cho Hội chúng tôi lên tiếng bảo vệ chị em phụ nữ, mà còn giúp thăng tiến Nhâm phẩm, Nhân quyền và Tự do của tất cả người dân Việt Nam nói chung trong một thời đại mà Nhân quyền là giá trị được cổ vũ hàng đầu bất chấp sự khác biệt về văn hoá, địa lý và chính trị. Thay lời kết, chúng tôi xin kính gởi lời chúc bình an và lòng yêu quý đến tất cả chị em phụ nữ Việt Nam cũng như gởi lời cảm tạ đến tất cả người Việt Nam quan tâm đến Nhân quyền trên khắp thế giới. Xin đồng hành với chúng tôi trong cuộc vận động khó khăn này. Ngày 25/11/2013 Ban Vận Động _________________ Thành viên 1. Bùi Thị Nữ, Sài Gòn 2. Dương Thị Tân, Sài Gòn 3. Dương Thị Xuân, Hà Nội 4. Đinh Phương Thảo, Sài Gòn 5. Đinh Thị Nguyễn Thảo Quỳnh Như, Sài Gòn 6. Huỳnh Khánh Vy, Quãng Nam 7. Huỳnh Phương Thảo, Quãng Nam 8. Huỳnh Thị Hưởng, Quãng Nam 9. Huỳnh Thị Thu Hồng, Quãng Nam 10. Huỳnh Thục Vy, Sài Gòn 11. Lê Ngọc Hồ Điệp, Sài Gòn 12. Lê Thị Công Nhân, Hà Nội 13. Lê Thị Phương Anh, Quãng Trị 14. Mai Thương Thảo, Hà Nội 15. Ngô Thị Hồng Lâm, Bà Rịa-Vũng Tàu 16. Nguyễn Hoàng Vi, Sài Gòn 17. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nha Trang 18. Nguyễn Nữ Phương Dung, Sài Gòn 19. Nguyễn Thảo Chi, Sài Gòn 20. Nguyễn Thị Ánh Ngân, Bà Rịa-Vũng Tàu 21. Nguyễn Thị Cúc, Sài Gòn 22. Nguyễn Thị Huyền Trang, Hà Nội 23. Nguyễn Thị Huyền Trang, Sài Gòn 24. Nguyễn Thị Kim Liên, Long An 25. Nguyễn Thị Kim Thanh, Bình Dương 26. Nguyễn Thị Nga, Hải Phòng 27. Nguyễn Thị Thu Hiền, Hà Nội 28. Nguyễn Thị Yến Trang, Sài Gòn 29. Phạm Thanh Nghiên, Hải Phòng 30. Phạm Thị Anh Kiều, Lâm Đồng 31. Tạ Minh Tú, Bạc Liêu 32. Trần Thị Nga, Hà Nam 33. Trần Thị Tô, Nghệ An 34. Trịnh Kim Tiến, Sài Gòn 35. Vũ Minh Khánh, Hà Nội nguồn: http://vnwhr.net/
......

Đang có chiến dịch trả thù các tù nhân chính trị trong trại giam?

Vào lúc 11h15 ngày 25/11/2013, gia đình bà Nguyễn Thị Hóa nhận được một cuộc điện thoại thông báo “anh Nguyễn Đình Cương đã tuyệt thực sang ngày thứ 6 trong trại giam. Lý do: Để phản đối việc anh bị biệt giam và không cho người nhà thực hiện việc thăm gặp và gửi đồ lưu ký cho anh theo luật pháp qui định”. Tù nhân lương tâm Nguyễn Đình Cương đang tuyệt thực trong tù vì không được gặp thân nhân thăm nuôi. Sau khi tìm hiểu, gia đình bà Nguyễn Thị Hóa cho chúng tôi biết: Vào ngày 20 tháng 11 năm 2013, gia đình đã lặn lội ra Hà Nam để thăm nuôi anh Cương nhưng các viên công an ở đây nhất quyết không cho gặp, không cho gửi quà, với lí do: anh Cương vừa mới bị kỷ luật xong.   Nghe viên công an này giải thích vô lí, em trai anh Cương là anh Nguyễn Cao Cường đã chất vấn lại: tại sao Anh tôi đã bị kỷ luật xong, sao trại giam lại không cho thực hiện việc thăm gặp và gửi quà và thuốc chữa bệnh?   Viên cai ngục lí nhí giải thích: chúng tôi đang theo giỏi anh Cương có hướng kỷ tốt hay không? Nếu anh Cương chấp hành tốt sau khi bị kỷ luật thì gia đình mới được thăm gặp”.   Mặc dầu trong III mục và 10 Điều của nội qui trại giam nơi đây hoàn toàn không có bất cứ qui định nào như viên cai ngục đã giải thích nhưng trại giam Nam Hà đã ngang nhiên vi phạm pháp luật.   Theo thông tin từ các tù nhân trong trại giam Nam Hà và theo những lời chia sẻ của anh Cương với mẹ, em trai và em dâu trong những lần thăm gặp trước thì quan điểm của anh là vì anh không có tội nên anh không nhận tội, không tuân thủ những áp đặt với cái gọi là “cải tạo” của nhà cầm quyền. Do vậy, trại giam đã dùng rất nhiều thủ đoạn để trả thù anh.   Xin cũng được nhắc lại, đây không phải là trường hợp hy hữu về cách trả thù hèn hạ của các trại giam đối với những tù nhân chính trị. Cũng tại trại giam này, vì điều kiện giam giữ khắc nghiệt nên anh Hồ Đức Hòa (người bị kết án 13 năm tù giam) đang bị mắc các bệnh nghiêm trọng như: loét dạ dày, tụt huyết áp, viêm gan B… nhưng không được điều trị. Và vào ngày 18/7/2013, blogger Lê Văn Sơn (người bị kết án oan sai cùng với 13 TNCG & TL khác) đã bị các viên cai ngục đánh trọng thương và đưa đi biệt giam. VRNs _ Vinh nguồn: chuacuuthe.com
......

Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa bước vào giai đoạn cuối của chế độ?

Ngày 28/11/2013 được tiên đoán sẽ là ngày đẹp, ngày vui đối với lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam như ông Nguyễn Sinh Hùng tuyên bố sau khi Quốc hội bỏ phiếu thông qua bản dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992. Tuy nhiên, đối với dư luận chung thì kể từ ngày 28/11 trở đi, đảng CSVN sẽ bắt đầu tiến trình phân hóa do hậu quả chấn thương từ cuộc bỏ phiếu này. Hai Hội Nghị Rối Trí Trong hai tháng 10 và 11 năm 2013, đảng Cộng sản Việt Nam đã có hai Hội nghị thu hút nhiều sự chú ý của dư luận. Hội nghị Trung ương đảng 8 khóa 11 từ ngày 30/9 đến 9/10 và kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 13 từ ngày 21/10 kéo dài đến đầu tháng 12. Tuy bản chất của hai Hội nghị có khác nhau, nhưng mục đích chính vẫn là tập trung vào việc tìm ra những giải pháp để cứu nguy tình trạng xuống cấp nhanh chóng của bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước. Qua hai cuộc họp nói trên, người ta thấy là thành phần ưu tú nhất đang nắm trong tay vận mệnh của đảng Cộng sản và đất nước Việt Nam hoàn toàn hết sáng kiến, loay hoay và rối trí. Rối trí là vì lãnh đạo đã không dự kiến được những bước chuyển hóa quá nhanh của thời cuộc, chỉ lo đến số phận của riêng họ trên hết, không dám tin vào bất kỳ mô thức nào, và vì thế chỉ biết cố kiềm chế xã hội đi theo khuôn khổ của những chủ trương đã lỗi thời. Chỉ cần nhìn vào cách lãnh đạo Hà Nội hành xử lúng túng trong việc để các đại biểu Quốc hội thảo luận và thông qua bản dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992, đã biểu hiện một sự cực kỳ lo lắng của bộ chính trị về kết quả bỏ phiếu. Mặc dù ai cũng biết là nội dung dự thảo hiến pháp sẽ được thông qua vào ngày 28 tháng 11 tới đây, nhưng tỷ số bỏ phiếu sẽ không còn “nhất trí” như những lần tu sửa trước. Tác động tạo ra hiện trạng này chính là nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam đã không còn là một khối. Nó đã bị chấn thương trầm trọng từ khi Hà Nội đưa ra việc kêu gọi góp ý dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 vào đầu năm nay rồi lại tung ra các mẹo vặt để chận đứng và phỉ báng các đóng góp nghiêm chỉnh là "suy đồi đạo đức chính trị". Họ thẳng tay ném bỏ những tiếng nói chung đầy tâm huyết vì tương lai đất nước, trong đó, có bản lên tiếng yêu cầu quốc hội hoãn bỏ phiếu thông qua của thành phần trí thức, cựu cán bộ khởi xướng Kiến nghị 72. Chính thái độ khinh thường này đã làm giao động tinh thần của khá nhiều đảng viên vốn thờ ơ trước đây. Đây là nguy cơ mà lãnh đạo Hà Nội đang rất lo ngại cho sự tồn vong của chế độ hiện nay. Nguy Cơ Bùng Vỡ Nội Bộ Cách đây hơn 2 thập niên, sau khi khối Liên Xô tan rã vào năm 1991, đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra bốn nguy cơ làm thước đo sự tồn vong của chế độ. 1/ Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. 2/ Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng XHCN. 3/ Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. 4/ Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cứ mỗi 10 năm, Hà Nội lại lượng duyệt các nguy cơ này một lần. Tại Hội nghị 8 khóa IX vào tháng 7 năm 2003, Trung ương đảng dưới thời ông Nông Đức Mạnh làm Tổng bí thư đã dành ra nhiều ngày đánh giá về cái gọi là chiến lược bảo vệ tổ quốc và bốn nguy cơ nói trên. Mặc dù lúc đó vấn đề tham nhũng, sự lên tiếng cổ súy dân chủ hóa của một số đảng viên có tạo ra sự nhức nhối cho chế độ, nhưng lãnh đạo lại coi sự tụt hậu kinh tế là nguy hiểm nhất nên đã tập trung vào việc xây dựng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty với ước mơ đưa Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp tiên tiến vào năm 2020. Mười năm sau, Hội nghị 8 vào đầu tháng 10 năm 2013 vừa qua, cục diện đã hoàn toàn thay đổi. Mặc dù kinh tế đang gặp khó khăn vì những khuynh loát của các nhóm lợi ích, nhưng theo đánh giá của ông Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu lúc bế mạc Hội nghị 8, nguy cơ sinh tử nhất của chế độ hiện nay, không phải là kinh tế mà chính là hiện tượng tự diễn biến trong nội bộ. Ông Nguyễn Phú Trọng cho rằng chính nó là chỗ dựa để cho bên ngoài tấn công vào đảng CSVN và là mảnh đất để thế lực thù địch gieo mầm diễn biến hòa bình. Tuy lãnh đạo Hà Nội xem đó là vấn đề, nhưng giải pháp chọn lựa của họ cũng lại tiếp tục loay hoay giống như 10 năm trước. Thay vì chấp nhận một số cải cách chính trị theo trào lưu dân chủ hóa toàn cầu, Hà Nội lại cương quyết ngăn chận mọi xu hướng hình thành tổ chức chính trị đối lập, tiếp tục cố thủ trong lô cốt độc tài bằng hai biện pháp phòng và chống tham nhũng, phê và tự phê hoàn toàn mang tính hình thức. Hai biến cố lớn xảy ra trong lúc Hà Nội kêu gọi góp ý tu sửa hiến pháp là sự kiện ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên cao cấp có 45 năm tuổi đảng kêu gọi bỏ đảng Cộng sản, tham gia lập đảng đối lập, và sự kiện một số trí thức tuyên bố thành lập diễn đàn xã hội dân sự để làm cầu nối cổ súy cho sự phát triển các đoàn thể xã hội dân sự tại Việt Nam, vốn bị chế độ coi là điều cấm kỵ trong nhiều thập niên qua. Tự thân hai biến cố nói trên là những chuyển biến bình thường trong một xã hội mở; nhưng vì Hà Nội cố tình kiềm chế, thậm chí còn phơi bày những chủ trương phi lý và độc đoán qua việc dùng bộ máy truyền thông của đảng tấn công vào các đoàn thể xã hội, khiến cho nhiều đảng viên chán nản và sẽ lặng lẽ bỏ đảng Cộng sản ra đi. Ba Kịch Bản Của Nội Bộ Đảng. Ngày 18 tháng 11 vừa qua, sau khi nghe ông Phạm Trung Lý, trưởng ban soạn thảo dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 trình bày về cách tiếp thu, chỉnh lý những ý kiến đóng góp của các đại biểu, ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Quốc hội tuyên bố rằng ngày 28 tháng 11 sẽ là “ngày đẹp”. Ông Nguyễn Sinh Hùng cho đây là “ngày đẹp” vì nghĩ rằng chính ông và bộ chính trị sẽ không còn phải sống trong tâm trạng hồi hộp khi “hộp giun” của bản hiến pháp đã được đóng lại. Nhưng muốn biết viễn cảnh của “ngày đẹp” 28 tháng 11 và tương lai đảng Cộng sản Việt Nam ra sao, chỉ cần nhìn vào sự biến thái về nội dung của các Hội nghị Trung ương đảng trong 2 năm 2012 và 2013 sẽ thấy. Hội nghị Trung ương 5 và 6 tập trung vào những xung đột thượng tầng lãnh đạo với sự tấn công nhằm triệt hạ uy tín lẫn nhau giữa hai người đứng đầu đảng và chính phủ. Kết quả là bất phân thắng bại. Hội nghị Trung ương 7 và 8 tập trung vào các vấn đề nội bộ, qua đó các phe tạm thời ngưng chiến để tập trung vào việc củng cố lô cốt độc đảng hầu có thể chuẩn bị suông sẻ đại hội đảng lần thứ 12 vào đầu năm 2016. Chính vào lúc Bộ chính trị muốn kiềm chế xã hội để tổ chức thành công đại hội đảng kỳ 12 trong hai năm tới, thì sự kiềm chế này đang dẫn đảng Cộng sản Việt Nam vào một trong ba kịch bản. Tức Nước Vỡ Bờ: Đây là hiện tượng nhiều hỗn loạn nhất khi mà các phe nhóm lãnh đạo vì những kèn cựa quyền lực mà không dám lấy những quyết định quan trọng, thả nổi và tạo ra tình trạng bùng vỡ từ trong đảng ra ngoài xã hội. Đây là tình huống bùng nổ như Tunisia, Ai Cập khi mà người dân và các đảng viên xé rào, bất chấp lệnh lạc từ trung ương. Đảo Chánh Nội Bộ: Đây là hiện tượng mà một phe tìm cách liên kết với các thế lực bên trong hay bên ngoài đảng, tạo phản bằng một cuộc truất phế phe đang nắm quyền để giành lấy quyền lực. Ngay lúc này còn nhiều người cho rằng xác suất đảo chánh khó xảy ra vì phe nhóm nào cũng quá yếu, chưa đủ điều kiện ra tay. Nhưng tình hình này sẽ thay đổi nhanh sau vụ bỏ phiếu thông qua Hiến Pháp nói trên. Chấp Nhận Thay Đổi: Đây là hiện tượng mà lãnh đạo CSVN phải thoái lui, chấp nhận một số thay đổi trước các đòi hỏi của lực lượng dân chủ. Dư luận cho rằng việc Hà Nội cử ông Nguyễn Thiện Nhân, ủy viên bộ chính trị sang nắm Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc là chuẩn bị cho thế vớt vát để vẫn kiểm soát các đoàn thể quần chúng dù phải chấp nhận nhượng bộ. Dấu hiệu rõ nhất là khi họ bị đẩy vào thế chấp nhận sự hình thành và hiện hữu công khai của xã hội dân sự. Trong ba kịch bản nói trên, kịch bản chấp nhận thay đổi mang tính "hạ cánh an toàn" nhiều nhất cho giới lãnh đạo Hà Nội; nhưng với bản chất độc tài toàn trị, CSVN vẫn không muốn tiến hành vì vẫn ôm tham vọng độc tài vĩnh viễn. Họ biết là khi có thay đổi chính là lúc khởi đầu của sự sụp đổ. Tóm lại, đảng Cộng sản Liên Xô đã tan rã sau 70 năm thống trị (1921-1991), và đã tan rã từ bên trong sau cuộc đảo chánh bất thành của phe giáo điều vào mùa hè năm 1991. Năm 2015 tới đây, đánh dấu đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền thống trị cũng vừa đúng 70 năm (1945- 2015). Đảng CSVN đã có nhiều cơ hội thay đổi để cứu chính họ và cứu đất nước nhưng họ đã không làm. Những suy thoái trong nội bộ đảng, cùng với sự xung đột giữa các phe nhóm trong bộ chính trị hiện nay, cho chúng ta thấy là đảng CSVN khó tránh khỏi cuộc đổ vỡ từ bên trong nếu họ tiếp tục cố thủ trong lô cốt độc tài, tiếp tục quay lưng lại với tất cả những áp suất thay đổi cấp thời của xã hội bên ngoài lẫn hàng ngũ đảng viên bên trong. Lý Thái Hùng Ngày 24/11/2013
......

Người đặt quá khứ cộng sản sau vạch đậm lịch sử

“Chúng ta có thể khác nhau, chúng ta có thể tranh cãi, nhưng chúng ta không thể căm thù nhau. Chúng ta không cần thiết đi tìm kẻ thù, mà sẵn sàng hợp tác với nhau trong công việc.” Tổng thống Ba Lan Bronislaw Komorowski đã nhắc lại lời nói trên đây của ông Tadeusz Mazowiecki trong điếu văn đọc tại quốc tang, tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng, ngày 03-11-2013. Đây là những phẩm giá đạo đức mà Tadeusz Mazowiecki đã gìn giữ, thực hiện trong suốt cuộc đời làm báo, hoạt động chính trị của mình. Tadeusz Mazowiecki là Thủ tướng không cộng sản đầu tiên của Ba Lan kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Sau khi chế độ độc tài cộng sản Ba Lan phá sản, ông là một trong những người chủ chốt đặt nền móng để xây dựng một chế độ tự do dân chủ, thay thế cho chế độ độc tài cộng sản, đã tồn tại gần nửa thế kỷ. Ông là Thủ tướng của những tháng năm chuyển đổi lịch sử của dân tộc Ba Lan. Tuổi trẻ Tadeusz Mazowiecki sinh ngày 18-04-1927 tại Plock, một thành phố cổ nằm trên bờ sông Wisla, phía tây bắc thủ đô Warsaw. Bố ông, một bác sĩ nổi tiếng của thành phố. Mẹ ông đứng đầu quỹ giúp những người nghèo của bệnh viện, nơi bố ông làm việc. Cả bố mẹ ông đều thuộc dòng dõi gia đình quý tộc. Tuổi trẻ của T. Mazowiecki đã trải qua những năm tháng chiến tranh đau thương. Ông hồi tưởng lại: “Từ cửa sổ của bệnh viện, nơi tôi làm công việc chạy giấy tờ, tôi nhìn những đoàn người Do Thái bước đi dưới mũi súng của bọn SS, họ đi về đâu chúng tôi không biết. Những phụ nữ bế trên tay những đứa trẻ đang khóc. Chúng tôi đã không thể cho chúng dù chỉ một mẩu bánh mì.” Năm 1944, một người anh của ông bị bọn Hitler bắt và đưa đi mất tích. Tốt nghiệp trung học năm 1946, T. Mazowiecki vào học khoa luật trường Đại học Tổng hợp Warsaw. Xuất thân từ một gia đình trí thức, ngoan đạo, có truyền thống hoạt động xã hội, giúp đỡ nhân đạo, ông đã tham gia Caritas Academica, nghĩa hội của các sinh viên Công giáo, hoạt động giúp đỡ các sinh viên nghèo, những sinh viên có khó khăn trong học tập. Cũng năm 1946, ông gia nhập Đảng Lao Động (Stronnictwo Pracy), một đảng hoạt động từ trước chiến tranh, nhưng ra khỏi đảng sau một thời gian ngắn. Trong những năm 1947-1948 ông là Chủ tịch Hội xuất bản của Hội Sinh viên. Hoạt động trong chế độ cộng sản Trong những năm 1948-1960, Tadeusz Mazowiecki tham gia các tổ chức có liên hệ với nhà thờ Ki Tô Giáo Ba Lan.   Đầu tiên là hội PAX, được thành lập năm 1947, giữ vai trò trung gian giữa nhà thờ và chính quyền cộng sản. Trong các buổi thảo luận ông đã từng phát biểu những hoài nghi của mình đôí với nền tảng xã hội chủ nghĩa. Ông phê phán những người lãnh đạo hội thiếu dân chủ và quá nhượng bộ đối với chính quyền. Mùa xuân năm 1955, ông đã rời bỏ PAX và chức Tổng Biên tập tuần báo WTK của nó. Sau khi rời bỏ PAX, ông cộng tác với các tạp chí khác, có liên hệ với nhà thờ như các tuần báo văn hóa xã hội Tygodnik Powrzechny, tạp chí chính trị - xã hội Po Prostu. Ông gửi đăng các bài viết về sự cần thiết bảo vệ những quan điểm riêng và tham gia các hoạt động xã hội. Năm 1956, ông cùng một số trí thức Công giáo đứng ra tuyên bố thành lập Câu Lạc Bộ Trí Thức Ki Tô Giáo Ba Lan (OKPIK) xuất bản tạp chí Con Đường (Droga), do ông làm Phó Tổng biên tập. Chính quyền đã giải thể OKPIK và cấm tạp chí Con Đường lưu hành.   Nhóm trí thức Công giáo trẻ mà T. Mazowiecki là thành viên chủ trương làm việc công khai với chính quyền. Mục đích của họ là mở rộng hoạt động của nhà thờ trong xã hội, một số thành viên còn hy vọng tiến tới thành lập đảng độc lập, mang truyền thống Cơ Đốc Giáo. Họ đã tham gia ứng cử vào Quốc hội, với tư cách đại diện cho nhóm trí thức nhà thờ. Liên tục từ 1961 đến 1972,trong 3 khóa III, IV và V, Tadeusz Mazowiecki là đại biểu của khu vực bầu cử thành phố Wroslaw. Trong cả ba khóa, ông đều là thành viên của Ủy ban Giáo dục và Khoa học. Trên diễn đàn Quốc hội, ông công khai phê phán các chủ trương phát triển văn hóa, giáo dục sai lệch của chính quyền và đòi hỏi đưa chương trình giáo dục tôn giáo vào nhà trường. Ông bỏ phiếu chống lại luật tụ tập đông người và nghị quyết lên án chính quyền Do Thái... Năm 1966, ông là tác giả của bản chất vấn về nguyên nhân khủng khoảng trong quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ. Nội dung của tuyên bố được phổ biến rộng rãi. Ông đưa ra giải pháp thương lượng. Sau sự kiện tháng 12-1970, công nhân Gdansk biểu tình phản đối tăng giá thực phẩm, đốt trụ sở Đảng Cộng sản tỉnh, công an đã bắn chết 16 người, ông đề nghị thành lập ủy ban điều tra độc lập của Quốc hội. Trước những hoạt động đối lập của ông trong Quốc hội, tháng 02-1972, chính quyền cộng sản đã loại ông ra khỏi danh sách ứng cử viên của Quốc hội khóa VI. Từ năm 1975, T. Mazowiecki là Phó Chủ tịch Câu Lạc Bộ Trí Thức Công Giáo (KIK). Đầu năm 1976, chính quyền cộng sản thay đổi Hiến pháp. Nhà nước dân chủ nhân dân được họ thay bằng nhà nước xã hội chủ nghĩa, họ còn ghi thêm vào Hiến pháp: “Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan là lực lượng lãnh đạo xây dựng xã hội chủ nghĩa”, “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với nhân dân Liên Xô”... Ông và các trí thức của câu lạc bộ đã ký bản tuyên bố phản đối sự thay đổi trên đây.   Tháng 05-1977, ông cùng một số trí thức đã tuyệt thực trong nhà thờ thánh Macin ở Warsaw để phản đối chính quyền bắt giam các thành viên của Ủy ban Bảo vệ Công nhân và tiếp tục giam giữ các công nhân tham gia đình công ở Radom, Ursus. Tháng 11-1977, ông cùng một số trí thức đã tổ chức lớp huấn luyện: “Những người Cơ Đốc Giáo với quyền con người”. Dấn thân cùng Công Đoàn Đoàn Kết   Ngày 20-08-1980, Tadeusz Mazowiecki cùng 64 trí thức nổi tiếng đã ra lời kêu gọi ủng hộ các cuộc đình công của công nhân nhà máy đóng tàu mang tên Lenin tại Gdansk. 22-08-1980 ông cùng với giáo sư Bronislaw Geremek đã vượt qua nhiều trở ngại của hệ thống an ninh cộng sản, đến được nhà máy đóng tàu Lenin, mang theo lời kêu gọi nói trên. Theo đề nghị của Lech Walesa, T. Mazowiecki đảm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng Cố vấn bên cạnh Ủy ban Đình công của các xí nghiệp toàn quốc. Ông trực tiếp giúp đỡ việc thương lượng với chính quyền cộng sản. Sau khi kết thúc đình công, ông trở thành cố vấn chính của Lech Walesa và Ủy ban Toàn quốc của Công Đoàn Đoàn Kết (C Đ Đ K). Tháng 02-1981, ông được chỉ định làm Tổng Biên tập tuần báo Tygodnik Solidarnosc của C Đ Đ K. Tạp chí này đã ra số đầu tiên vào ngày 03-04-1981. Trước sự phát triển rộng lớn của C Đ Đ K, chính quyền cộng sản, sau khi họp bàn với Khối Quân sự Warsaw, ngày 13-12-1981 đã ban bố tình trạng chiến tranh. Toàn bộ chính quyền được đặt dưới sự cai quản của Hội đồng Quân sự Cứu nguy Dân tộc, C Đ Đ K bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. 10.000 người bị bắt giữ, đưa vào 49 trung tâm giam giữ tạm thời, 5.000 người bị kết án tù. T. Mazowiecki bị bắt ngày 13-12-1981 tại tại thành phố Sopot, gần Gdansk. Sau khi ông bị bắt giữ, nhiều báo chí nước ngoài đưa tin ông đã bị giết. An ninh cộng sản đã đưa ông giam giữ ở các nơi khác nhau, ngày 23-12-1982 ông được thả tự do. Từ đây cho đến hết những năm 80, ông trở thành cố vấn gần gũi nhất của Lech Walesa.   Từ tháng 2 đến tháng 12-1987 ông ra nước ngoài. Ông đã qua các nước Bỉ, Pháp, Đức, Ý và Áo. Tại các nước, ông đã tiến hành gặp gỡ các nhà chính trị, lãnh đạo các công đoàn, vận động phong trào quốc tế ủng hộ, để C Đ Đ K trở lại hoạt động hợp pháp. Đặc biệt ông đã gặp Giáo hoàng John Paul II tại Roma trước khi ngài trở về thăm Ba Lan. Tháng 02-1988, ông trở thành ủy viên chính thức trong tổ cố vấn của Ủy ban Thường trực của C Đ Đ K. Tháng 05-1988, với tư cách là người đươc ủy nhiệm toàn quyền của Hội đồng Giám mục Ba Lan, ông đứng làm trung gian trong cuộc thương lượng giữa công nhân đình công của nhà máy đóng tàu mang tên Lenin và chính quyền cộng sản. Cuộc thương lượng đã thất bại, ông ở lại với công nhân cho đến khi cuộc đình công kết thúc.   T. Mazowiecki là người luôn chủ trương đấu tranh bằng phương pháp bất bạo động để đi đến thương lượng. Ông là một trong những người chủ chốt vận động, tổ chức và tham gia Hội nghị Bàn tròn giữa chính quyền công sản và các lực lượng đối lập, nòng cốt là C Đ Đ K. Hội nghị Bàn tròn họp từ 06-02 đến 05-04-1989, ông là một trong những người chủ chốt thương lượng những thỏa thuận về hoạt động của công đoàn và bầu cử tự do. Đường vạch đậm   Theo thỏa thuận của Hội nghị Bàn tròn, ngày 04-06-1989 đã tiến hành bầu cử tự do một phần số đại biểu của Hạ viện và toàn thể 100 thượng nghị sĩ. C Đ Đ K đã chiếm 99 trong 100 ghế của Thượng viện và 161 ghế của Hạ viện. Liên minh của C Đ Đ K và hai đảng khác trong Quốc hội đứng ra lập chính phủ, Đảng Cộng sản trở thành thiểu số, đối lập. Ngày 24-08-1989, theo sự giới thiệu của Lech Walesa, Quốc hội đã bầu Tadeusz Mazowiecki làm Thủ tướng.   Trong diễn văn nhậm chức đọc tại Quốc hội ngày 12-09-1989 ông nói:”Chúng ta đặt quá khứ lại sau vạch đậm. Từ đây, chúng ta chỉ chịu trách nhiệm trước các hoạt động để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng khoảng hiện nay.” Chính quyền cộng sản đã để lại một xã hội chia rẽ, một nền kinh tế kiệt quệ. Chỉ trong một thời gian ngắn, chính phủ của của ông đã tiến hành hàng loạt các cải cách, đặt nền tảng cho thay đổi thể chế chính trị. Thay đổi phù hiệu quốc gia và tên nước (từ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan thành Cộng hòa Ba Lan). Ngày 20-02-1989 thay đổi Hiến pháp, bỏ những chương mục phục vụ cho lợi ích riêng của Đảng Cộng sản, đưa vào Hiến pháp nội dung mới về nền tảng chính trị, kinh tế, những khái niệm về tư hữu... Nhờ những thay đổi này, chính phủ đã tiến hành chuyển đổi nền kinh tế. T. Mazowiecki đã chọn ông L. Balcerowicz, một giáo sư kinh tế trẻ, từng là đảng viên cộng sản giữ chức Phó Thủ tướng, phụ trách tài chính, kinh tế. “Kế hoạch Balcerowicz” chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa đã hãm được siêu lạm phát, kết cấu lại nền kinh tế, tiến tới kinh tế thị trường và tư nhân hóa. Tadeusz Mazowiecki là người luôn hiểu rõ tình thế và coi trọng hòa giải dân tộc. Ông nhận chức Thủ tướng trong giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Kinh tế suy sụp, xã hội chia rẽ, hàng vạn quân lính Liên Xô thuộc Hiệp ước Warsaw vẫn đang đóng giữ trên lãnh thổ Ba Lan, bộ máy bạo lực của chế độ cộng sản xây dựng trong 45 năm vẫn còn đó (theo sự thỏa thuận của Hội nghị Bàn tròn, hai Bộ Quốc phòng và Nội vụ vẫn do phe cộng sản nắm giữ). Ông tuyên bố đặt quá khứ cộng sản sau vạch đậm là để trước mắt, tập trung sức lực cho tương lai, để hòa giải dân tộc, tạo điều kiện để người dân sau nhiều năm sống trong chế độ độc tài cộng sản chuyển sang chế độ tự do dân chủ. Mâu thuẫn bắt đầu phát sinh giữa nhóm cánh tả và cánh hữu trong ban lãnh đạo C Đ Đ K. Nó bắt nguồn từ việc đánh giá các hoạt động của chính phủ. Walesa và cánh hữu muốn chính phủ cải cách nhanh, rộng hơn và cứng rắn đối với những người cộng sản. Mazowiecki là con người phong nhã, nhưng luôn có quan điểm rõ ràng, ông đã từng tuyên bố khi nhận chức Thủ tướng, rằng ông sẽ không là một Thủ tướng bù nhìn. Ông đã bảo vệ những việc làm của chính phủ, vì nó phù hợp với tình hình và lợi ích của đất nước. Mâu thuẫn đã dẫn đến cả Lech Walesa và Tadeusz Mazowiecki cùng ra tranh cử Tổng thống đối đầu nhau. Mazowiecki đã thất bại, ông chỉ được 18,08% số phiếu. L.Walesa trở thành Tổng thống đầu tiên của Ba Lan do các cử tri bầu trực tiếp. Sau này, L. Walesa và T. Mazowiecki đã gặp nhau hòa giải, hai người trở lại mối quan hệ bạn bè. Tiếp tục hoạt động chính trị Ngày 04-01-1991, T. Mazowiecki thôi giữ chức Thủ tướng. Lúc này ông đã là Chủ tịch của Liên minh Dân chủ (UD), một đảng mới thành lập. Ngày 27-10-1991, trong cuộc bầu cử Quốc hội hoàn toàn tự do đầu tiên, UD dẫn đầu số phiếu được bầu nhưng đứng ở vị đối lập trong Quốc hội. T. Mazowiecki trúng cử đại biểu. Ông là ủy viên Ủy ban Hiến pháp và Quốc phòng. Ông là một trong những người biên tập chính của bản Hiến pháp hậu cộng sản của Ba Lan – đó là bản hiến pháp dân chủ hiện nay, đã được đa số cử tri bỏ phiếu tán thành qua trưng cầu dân ý. Cũng năm 1991, T. Mazowiecki được Liên Hợp Quốc cử làm phái viên đặc biệt tại Bosnia và Hercegowina. Khi nhận nhiệm vụ ông đã tâm niệm rằng ông không chỉ viết những bản báo cáo trên giấy trong các khách sạn sang trọng, ông muốn giúp những người dân tránh khỏi những cuộc tàn sát chủng tộc, những vi phạm quyền con người và trừng phạt các tội phạm. T. Mazowiecki lặn lội đến các nhà tù của cả hai phe Serbia và Bosnia, lắng nghe các tù nhân và chất vấn các cai tù về tra tấn, hành hạ tù nhân. Ông đến tận các địa điểm xẩy ra tội ác, phỏng vấn các nạn nhân và thu thập tài liệu, chứng cớ. Ông viết các báo cáo về tội ác chiến tranh và những vi phạm về quyền con người và đề xuất biện pháp ngăn chặn. Năm 1995, sau những báo cáo của ông, các cường quốc và Liên Hợp Quốc đã không làm gì để ngăn chặn tàn sát chủng tộc, để hai thành phố Srebrenica và Zepa rơi vào tay người Serbia, T. Mazowiecki đã gửi đơn lên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc tuyên bố từ chức để phản đối. Có lẽ ông là quan chức cao cấp đầu tiên của Liên Hợp Quốc từ chức để phản đối hoạt động của tổ chức này. Từ năm 1910 cho đến khi qua đời, ông là cố vấn vể đối ngoại của Tổng thống Ba Lan. Nhân dân và bè bạn thương tiếc Sự ra đi của Tadeusz Mazowiecki đã gây xúc động mạnh trong nhân dân, bạn bè, các chính khách, các nhà hoạt động chính trị thế giới và Ba Lan. Chỉ trong một ngày, thi hài của ông quàn trong nhà thờ nhỏ của phủ tổng thống, đã có 5000 người đến viếng. Trong lễ cầu nguyện cho ông tại nhà thờ thánh Jan Chrzeciel ngày 03-11, hàng ngàn người dân đã đến dự, đứng chật hết nhà thờ và xung quanh, cầu nguyện cho linh hồn ông, Trong điện chia buồn gửi Tổng thống Ba Lan, Tổng thống Mỹ Barack Obama viết: “T. Mazowiecki đã đem đến cho những người phụ nữ, đàn ông hi vọng về tự do, cho họ cơ hội đòi hỏi những quyền cơ bản của con người. Còn những đóng góp của ông cho một châu Âu tự do và thống nhất sẽ không bao giờ bị quên lãng. Nhờ lòng dũng cảm và sự kiên trì của những con người như T. Mazowiecki, Ba Lan đã trở thành một quốc gia vững mạnh trong khu vực và trên thế giới, là một ví dụ quan trọng cho các quốc gia chuyển đổi sang tự do, dân chủ.”   Đạt Lai Lạt Ma, lãnh tụ tinh thần của những người dân Tây Tạng, nói: “Tôi kính trọng ông, ông là con người của sự lãnh đạo có trách nhiệm và đức khiêm tốn.”   Bà Angela Markel, Thủ tướng Đức, viết: “T. Mazowiecki đã đấu tranh cho tự do dân chủ, dẫn đến chiến thắng các chế độ độc tài và thống nhất châu Âu”. Cựu Thủ tướng Helmut Kohl thì nói: “Người Đức phải biết ơn T. Mazowiecki, ông đã ủng hộ chúng ta sau khi bức tường Berlin sụp đổ và thiết lập mối quan hệ mới Ba Lan - Đức”. Cựu Tổng thống Lech Walesa đánh giá: “T. Mazowiecki là Thủ tướng đầu tiên sau Hội nghị Bàn tròn. Thời gian đã chứng tỏ rằng ông đã là một Thủ tướng tốt nhất thời kỳ đó”. Cựu Tổng thống Ba Lan Aleksander Kwasniewski – một trong những người chủ chốt, đại diện cho chính quyền cộng sản trong Hội nghị Bàn tròn; sau khi Đảng Cộng sản tự giải thể, ông đứng ra thành lập đảng mới, thắng cử hai nhiệm kỳ tổng thống – nói: “T. Mazowiecki đã là Thủ từớng của một chính phủ đặc biệt – chính phủ của liên minh dân tộc rộng rãi. Ông đã thực hiện cải cách kinh tế, dân chủ hóa nhà nước, cải cách bộ máy chính quyền các cấp. Ông là một mẫu chính trị gia ngày một hiếm – đặt công việc lên trên quyền lợi cá nhân.” Đúng như mong muốn của ông, Tadeusz Mazowiecki đã được mai táng tại một nghĩa trang bình thường tại ngoại ô Warsaw, bên cạnh người vợ thân yêu của ông. Một con người nhân hậu, giàu lòng vị tha, giản dị và khiêm tốn, hết lòng vì con người như ông, chắc linh hồn ông đã được về chốn thiên đàng với Chúa.   Với lòng biết ơn vô hạn, bài viết này như là nén hương thắp cầu nguyện cho linh hồn ông – bài viết của một người Việt Nam tha hương, tha hương vì muốn được sống trong một xã hội tự do dân chủ, một xã hội mà “con người, hai tiếng ấy vang lên một cách tự hào”, một xã hội mà những người như ông đã ước mơ và tranh đấu. Warszawa, tháng 11-2013 Đ. M. Đ. Tài liệu tham khảo: ·Nhật báo Wyborcza Ba Lan. ·Encyklopedia, Mediasat Poland, Krakow 2005. Nguồn: boxitvn.blogspot
......

VIỆT NAM KÝ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ THỰC HIỆN

VIỆT NAM KÍ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ CHỐNG TRA TẤN: CỨ KÍ NHƯNG KHÔNG BAO GIỜ THỰC HIỆN Qua tin nhắn trong thế giới mạng, anh Cùi Các gửi cho tôi câu hỏi: Ngày 7. 11. 2013, Việt Nam đã kí kết là thành viên Công ước quốc tế chống tra tấn. Đây có phải là nhà cầm quyền Việt Nam thể hiện quyết tâm ngăn chặn, tiến tới loại bỏ tra tấn hay chỉ nhằm kiếm lá phiếu và đã kiếm được trong cuộc bỏ phiếu ngày 12.11. 2013 vào Hội đồng Nhân quyền LHQ? Nhà văn Phạm Đình Trọng   Suy nghĩ rằng Nhà nước Cộng sản Việt Nam kí Công ước quốc tế chống tra tấn với mong muốn cùng loài người văn minh ngăn chặn, loại bỏ tra tấn trong đời sống xã hội, trong hoạt động của bộ máy công cụ Nhà nước là một suy nghĩ ngây thơ, nhẹ dạ, không hiểu gì về Nhà nước Cộng sản Việt Nam.   Cứ nhìn vào Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Nhà nước cộng sản Việt Nam đã kí từ năm 1982 nhưng từ đó những quyền Dân sự và Chính trị thông thường của người dân Việt Nam, những quyền con người tối thiểu và quyền công dân cơ bản của người dân Việt Nam như quyền được mưu cầu kiếm sống, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền lập hội .  .  ., không những không được cải thiện, không được bảo đảm mà còn bị xâm phạm, bị tước đoạt nhiều hơn, nghiêm trọng hơn. Trong các Quyền Con Người thì Quyền được mưu cầu hạnh phúc, mưu cầu có cuộc sống tốt đẹp là quyền đương nhiên của con người có mặt trên đời. Để mưu cầu cuộc sống tốt đẹp, con người phải có quyền tư hữu. Điều quan trọng bậc nhất trong quyền tư hữu là quyền tư hữu đất đai. Nhưng Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai ra đời năm 1987 đã tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân khi cả Hiến pháp và Luật đất đai đều ghi: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Quyền mưu cầu cuộc sống tốt đẹp của người dân đã bị mất khi quyền tư hữu đất đai của người dân không còn nữa! Trong các quyền công dân thì quyền ứng cử, bầu cử người quản lí, lãnh đạo Nhà nước và xã hội là quyền lớn nhất, quan trọng nhất. Nhưng điều 4 Hiến pháp năm 1980, rồi Hiến pháp năm 1992 đều ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam.  .  . là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” đã tước đoạt quyền công dân của người dân trong ứng cử, bầu cử chọn ra lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.   Hiến pháp thông thường và đúng nghĩa phải là một khế ước xã hội được cả xã hội chấp nhận nhằm xác định trách nhiệm và quyền hạn các pháp nhân trong xã hội, bảo đảm cuộc sống lành mạnh, ổn định cho cả xã hội và cho từng cá thể trong xã hội, là văn bản pháp lí cao nhất xác nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân của người dân.   Hiến pháp của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã làm điều ngược lại. Hiến pháp 1992, điều 17: “Đất đai, rừng núi, sông hồ .  .  . đều thuộc sở hữu toàn dân” và điều 18: “Nhà nước thống nhất quản lí toàn bộ đất đai theo qui hoạch và pháp luật, .  .  .” Điều 17 và điều 18 tước đoạt quyền tối thiểu của con người trong mưu cầu hạnh phúc cùng với điều 4 tước đoạt quyền công dân trong bầu cử, ứng cử, đã làm cho toàn bộ các điều khác của Hiến pháp trở nên vô nghĩa và toàn bộ nội dung Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam Cộng sản chỉ để bảo đảm quyền thâu tóm xã tắc vào tay đảng Cộng sản, quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản, tạo điều kiện tốt nhất cho đảng Cộng sản tham nhũng đất đai, tham nhũng của cải, tham nhũng quyền lực, tham nhũng hạnh phúc của nhân dân, tham nhũng tài nguyên của đất nước, tham nhũng cả máu của anh hùng liệt sĩ, tham nhũng cả lịch sử của dân tộc.   Chỉ nêu hai dẫn chứng đủ thấy với những Công ước quốc tế cam kết tạo dựng một xã hội văn minh, Nhà nước Cộng sản Việt Nam cứ kí, cứ cam kết. Những văn bản mà một xã hội văn minh phải có, Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều có. Nhưng có chỉ để tô lớp phấn son rực rỡ cho bộ mặt xã hội cộng sản Việt Nam. Kí chỉ để chứng tỏ với thế giới rằng Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng là Nhà nước văn minh, tiến bộ. Quay về trong nước, đóng cửa lại hành xử với dân, cai trị xã hội, họ lại hiện nguyên hình là Nhà nước bạo quyền Cộng sản, không khác bao nhiêu chế độ bạo chúa trung cổ. Trong Nhà nước Việt Nam Cộng sản công an trị, người dân bị tra tấn đến mức người vô tội cũng phải nhận tội giết người để khỏi bị tra tấn đến chết, phải ngồi tù mười năm trời đến khi kẻ giết người ra đầu thú, người dân vô tội mới được minh oan. Người dân bị đánh chết trong đồn công an diễn ra thường xuyên trên khắp đất nước như: Anh Nguyễn Văn Khương bị đánh chết trong trụ sở công an huyện Tân Yên, Bắc Giang. Ông Hoàng Văn Ngài bị đánh chết trong đồn công an thị trấn Gia Nghĩa, Đắc Nông. Anh Nguyễn Phú Trung bị công an xã Thủy Xuân Tiên huyện Chương Mỹ, Hà Nội đánh chết vất xác ra đường. Ông Nguyễn Mậu Thuận bị đánh chết trong trụ sở công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội. Anh Nguyễn Công Nhựt chết bí ẩn trong đồn công an huyện Bến Cát, Bình Dương. Ông Trịnh Xuân Tùng bị công an đánh gãy cổ ngay giữa bến xe Giáp Bát, Hà Nội dẫn đến cái chết đau đớn cho ông Tùng và nỗi đau, nỗi bất an cho cả xã hội .  .  . Nhà nước Cộng sản Việt Nam kí Công ước quốc tế chống tra tấn thì sẽ chấm dứt thảm cảnh công an tra tấn, ép cung, dẫn đến án oan, dẫn đến những cái chết tức tưởi đang diễn ra trên khắp đất nước ư? Không! Chữ kí của Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong công ước quốc tế chống tra tấn hoàn toàn không mang lại điều tốt lành đó vì hai lẽ. Một. Nhà nước bạo lực.   Mọi Nhà nước cộng sản đều phải tồn tại bằng bạo lực chuyên chính vô sản. Không có văn bản nào cho phép nhưng thực tế cho thấy Nhà nước bạo lực chuyên chính vô sản cho phép các cơ quan thực thi pháp luật không cần biết đến pháp luật, mặc sức đứng trên pháp luật. Đảng đứng trên pháp luật đã được thú nhận bằng câu nói thản nhiên trên diễn đàn của ông Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng trước đám quan chức của đảng rằng Hiến pháp chỉ là văn bản pháp lí đứng hàng thứ hai sau cương lĩnh của đảng. Khế ước xã hội thiết thực bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ cuộc sống bình an của chín mươi triệu dân còn phải lép vế đứng dưới cương lĩnh viển vông, hão huyền, sáo rỗng của ba triệu đảng viên Cộng sản thì những Công ước quốc tế xa vời mà Nhà nước Cộng sản đã kí kết chỉ là mớ giấy lộn với Nhà nước chuyên chính vô sản!   Suốt hơn nửa thế kỉ đứng trên pháp luật, những người có quyền lực, nhất là những người nắm giữ sức mạnh bạo lực Nhà nước Cộng sản đều có nhận thức hợm hĩnh, ngạo ngược rằng: “Pháp luật là tao! Tao là pháp luật!” Tao là pháp luật thì tao muốn bắt ai thì bắt, muốn đánh ai thì đánh, muốn cho ai đi tù cũng được, muốn bắt ai chết thì phải chết. Đứng trên pháp luật, Nhà nước Việt Nam Cộng sản không những tùy tiện sử dụng sức mạnh bạo lực Nhà nước, công an – tòa án – nhà tù, đối với dân mà Nhà nước đó còn sử dụng cả bạo lực côn đồ, xã hội đen đàn áp dân. Công an cùng côn đồ xã hội đen xông vào đánh những nông dân Văn Giang giữ đất không chịu để đất bị thu hồi bất công, đánh cả nhà báo đến chứng kiến vụ việc. Công an cùng côn đồ xã hội đen dùng sức mạnh bạo lực đánh đập, xô đẩy những người dân khiếu kiện đất đai ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng Hà Nội, đẩy bà Nguyễn Thị Nhung ngã ngửa dẫn đến cái chết tức thì, oan uổng cho bà và bạo lực Nhà nước, bạo lực côn đồ giết bà Nhung hoàn toàn vô can, những kẻ giết người là công cụ bạo lực Nhà nước đó không ai bị truy tố. Trong Nhà nước chuyên chính vô sản, tính mạng người dân nhẹ như không, rẻ như bèo, chẳng hơn gì tính mạng con ong, cái kiến thì công cụ bạo lực nhà nước tra tấn dân chỉ là chuyện nhỏ. Trong Nhà nước chuyên chính vô sản, bạo lực Nhà nước được ngang nhiên sử dụng với người dân ngay trên đường làng, ngay giữa phố đông, ngay trong vườn hoa không gian văn hóa công cộng thì sau cánh cổng sắt, giữa bốn bức tường trong trụ sở công an, trong buồng kín nhà giam âm u, công cụ bạo lực Nhà nước tra tấn người bị bắt giam chỉ là chuyện vặt thường ngày.   Trong Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có quyền lực cấp cao, chỉ có một nhóm hơn mười người trong Bộ Chính trị đảng Cộng sản mới được là con người, mới có cái tôi. Còn lại tất cả đều là bầy đàn, đều là công cụ. Đến Quốc hội, Chính phủ cũng chỉ là bầy đàn, là công cụ thực thi những quyết định của nhóm quyền lực tối cao. Nhân dân chỉ là công cụ thí nghiệm không có điểm dừng trong công cuộc mò mẫm xây dựng chủ nghĩa xã hội hư vô, không tưởng. Nhân dân chỉ là vật hi sinh, là nơi cung cấp sức lực, của cải và máu xương cho quyền lực tiến hành những cuộc chiến tranh liên miên với bên ngoài và những cuộc đấu tố bất tận trong nội bộ nhân dân. Để khuất phục người dân cam chịu chấp nhận sự lãnh đạo Nhà nước và xã hội của đảng Cộng sản, bạo lực chuyên chính vô sản không phải chỉ tra tấn thân xác người dân mà còn tra tấn cả tinh thần. Dùng người dân đấu tố người dân để chia rẽ, phân hóa nhân dân. Những cuộc đấu tố vu oan giá họa cho người dân trong cải cách ruộng đất đã đẩy hàng chục nghìn người dân lương thiện phẫn uất phải tự tìm đến cái chết bằng tự treo cổ, tự rạch bụng, tự cắt mạch máu. Những cuộc đấu tố ngậm máu phun người từ cải cách ruộng đất vẫn đang tiếp diễn đến tận hôm nay và hình thức đấu tố ngày nay còn tinh vi, phong phú, hiện đại hóa lên rất nhiều.   Đấu tố ở cơ quan nơi làm việc. Đấu tổ ở khu phố nơi sinh sống. Đấu tố trên báo chí. Đấu tố trên truyền hình. Cuộc đấu tố vu khống bỉ ổi ở tổ dân phố để ngăn chặn luật sư Lê Quốc Quân ứng cử vào Quốc hội. Báo Nhân Dân, báo Quân Đội Nhân Dân, báo Công An vu khống những tiếng nói chính đáng của người dân khẳng định độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, đòi dân chủ là phản động, là thế lực thù địch. Đài truyền hình Hà Nội làm clip vu khống trí thức, thanh niên, sinh viên biểu tình chống Tàu Cộng xâm lược là tụ tập đông người gây rối trật tự công cộng. Đài Truyền hình quốc gia làm clip vu khống xúc phạm danh dự, xúc phạm nhân phẩm công dân và gia đình công dân Cù Huy Hà Vũ.  .  . Người dân kiện sự vu khống phi pháp, vô liêm sỉ thì cả hệ thống tư pháp Nhà nước cộng sản chạy trốn, lẩn tránh như chuột chạy lụt và những cuộc đấu tố khủng bố, tra tấn tinh thần người dân chân chính, lương thiện vẫn đang tiếp diễn trong xã hội.   Công cụ bạo lực Nhà nước Cộng sản Việt Nam tra tấn tinh thần, tra tấn thân xác người dân, theo dõi, giám sát cuộc sống dân sự của từng người dân, Nhà nước Cộng sản Việt Nam thực sự là một Nhà nước cảnh sát hung bạo , dã man giữa thời đại văn minh. Hai. Con người công cụ.   Để có sức mạnh bạo lực chống nhân dân, chống lại xu thế dân chủ hóa của thời đại, Nhà nước Cộng sản Việt Nam dùng tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân tổ chức bộ máy công cụ bạo lực khổng lồ với những con người công cụ hung hãn và cuồng tín “chỉ biết còn đảng còn mình”.   Với Nhà nước nào công an cũng chỉ là công cụ bạo lực Nhà nước. Điều khác nhau là: Với Nhà nước dân chủ, công cụ bạo lực đó chỉ để chống lại tội phạm, chống lại cái ác, bảo vệ pháp luật, bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo vệ người dân lương thiện. Còn trong Nhà nước độc tài đảng trị, công cụ bạo lực được phát triển lớn chưa từng có, được trang bị tối tân, với chức năng chủ yếu bảo vệ sự thống trị xã hội của đảng độc tài. “Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình”, cái slogan chữ lớn treo cao ở bộ Công an đã thú nhận điều đó và thực tế đã chứng minh điều đó.     Bảo vệ sự tồn tại của đảng độc tài thì phải chống lại cả nhân dân, chống lại cả sự phát triển tất yếu của xã hội, chống lại cả xu thế thời đại nên đất nước nghèo, trẻ con đói cơm rách áo còn phải ngồi học trong lớp học rách nát, xiêu vẹo, ba, bốn người bệnh còn phải chen chúc trên một giường bệnh trong các bệnh viện ngay giữa thủ đô nhưng lực lượng công an công cụ bạo lực của đảng vẫn được trang bị cả xe bọc thép, cả máy bay lên thẳng, trang bị cả máy phá sóng vô tuyến điện hiện đại nhất. Công cụ công an chỉ để bảo vệ đảng, chỉ để trấn áp dân, tước đoạt quyền tư do dân chủ của người dân. Chỉ vài chục người dân tập hợp biểu tình phản đối Tàu Cộng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, giết hại dân Việt đánh cá trên biển Việt Nam, đảng độc tài cũng giật lo sợ vội huy động hàng ngàn công cụ bạo lực Nhà nước ra đàn áp cuộc biểu tình yêu nước của người dân, vu cho người biểu tình tội gây rối trật tư, dùng sức mạnh bạo lực Nhà nước bắt bớ, đánh đập dân. Còn tội phạm xã hội thì thả nổi. Lực lượng công an công cụ bạo lực đông chưa từng có  nhưng chưa bao giờ lưu manh, trộm cắp, cướp của giết người lộng hành như hôm nay. Con người công cụ bạo lực chuyên chính vô sản của Nhà nước Cộng sản Việt Nam hành xử với dân giữ đất ở Văn Giang, Hưng Yên, ở Dương Nội, Hà Đông, hành xử với dân oan ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hà Nội là hành xử côn đồ, mất tính người. Công an phường Thụy Khuê, Hà Nội cướp soong nồi, lều bạt của người dân Hà Nội giúp dân oan H’ Mông từ trên núi cao Tây Bắc về Hà Nội khiếu kiện đất đai nhiều ngày đêm màn trời chiếu đất ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng. Anh Trương Văn Dũng cùng người dân đến đồn công an phường Thụy Khuê đòi lại đồ bị cướp đã bị công an phường Thụy Khuê đánh gãy xương sườn. Những kẻ mang sắc áo công an đánh người dân lương thiện như vậy thực sự là những tên côn đồ. Những tên công an công cụ bạo lực của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng, đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, đánh chết ông Hoàng Văn Ngài, đánh chết anh Nguyễn Phú Trung .  .  . càng bộc lộ rõ tính côn đồ, thú vật, không còn mảy may chút tính người. Vì sao những kẻ ăn cơm của dân, mặc áo của dân, nhận đồng lương hậu hĩ từ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân lại có hành vi côn đồ, sắt máu, mất tính người với dân như vậy? Nhà nước cộng sản Việt Nam không còn có chỗ đứng trong qui luật, trong tiến trình lịch sử, không còn có chỗ tồn tại trong lòng dân. Nhà nước đó chỉ tồn tại được trong không gian bé nhỏ, mong manh bằng sức mạnh mềm là tuyên truyền lừa dối và bằng sức mạnh cứng là bạo lực. Tuyên truyền lừa dối không còn hiệu quả, không còn lừa bịp được ai nữa. Chủ nghĩa Cộng sản lầm lạc, sai trái đã gây quá nhiều tội ác man rợ, đã kéo lùi lịch sử quay lại thời lãnh chúa trung cổ, cả hệ thống Cộng sản thế giới đã sụp đổ, đã bị ném vào sọt rác lịch sử thì không còn người nhẹ dạ tin vào chủ nghĩa Cộng sản. Sức mạnh mềm không còn sử dụng được nữa, chỉ còn biết trông cậy vào sức mạnh cứng, chỉ còn tồn tại bằng sức mạnh bạo lực. Đổ vô tội vạ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân ra xây dựng bộ máy công cụ bạo lực, Nhà nước Cộng sản Việt Nam coi bạo lực là thần hộ mệnh, họ phải quan tâm đến sự trung thành của từng con người công cụ bạo lực, biến con người thành con thú bằng cách:   - Tuyển chọn con người công cụ từ lớp người có lịch sử gắn bó sống còn với đảng và Nhà nước Cộng sản, lớp người nhờ có đảng và Nhà nước Cộng sản mới có được cuộc sống mở mày mở mặt hôm nay. Gắn bó bằng quá khứ cùng khổ. Gắn bó bằng hiện tại hào phóng lấy tiền thuế của dân chuyển thành đặc ân, đặc quyền, đặc lợi, thành bổng lộc, chức tước, hàm cấp ra ban phát cho con người công cụ. Chưa bao giờ lực lượng công cụ lại đông đúc, hùng hậu như hôm nay. Chưa bao giờ những con người công cụ bạo lực lại thăng quan tiến chức mau lẹ, lại có nhiều tướng tá được hưởng quá nhiều đặc ân, đặc quyền, đặc lợi như hôm nay. Và cũng chưa bao giờ những con người chỉ là công cụ bạo lực lại có vị thế lớn trong xã hội như hôm nay, lại lộng hành, chà đạp lên pháp luật, là nỗi bất an, đe dọa, khủng bố tinh thần, đe dọa mạng sống của người dân như hôm nay. - Những con người công cụ đó, phần cứng, phần con người sinh vật, con người thân xác được nuôi dưỡng bằng bổng lộc hậu hĩ thì phần mềm, phần con người xã hội lại được nuôi dưỡng bằng mớ lí luận đấu tranh giai cấp lệch lạc, bạo lực và tội ác.   Lí luận đấu tranh giai cấp trao cho đảng cộng sản sự độc tôn thống trị xã hội là kéo xã hội trở lại thời phong kiến bầy đàn tối tăm. Thời phong kiến vua tự cho mình là người được mệnh Trời trao cho việc cai trị, chăn dắt dân, được quyết định vận mệnh, quyết định sự sống còn của người dân, quyết định cả sự sống còn của đất nước. Người dân chỉ là bầy đàn, không có cá nhân, không có quyền con người, quyền công dân. Lí luận lệch lạc, sai trai về đấu tranh giai cấp trao cho đảng Cộng sản sứ mệnh lịch sử độc tôn thống trị xã hội, trao cho đảng Cộng sản quyền quyết định vận mệnh người dân, vận mệnh đất nước, coi người dân chỉ là bầy đàn, không được có những quyền con người, quyền công dân cơ bản như phần trên đã dẫn chứng.   Con người khác con vật ở trái tim và khối óc, ở tình yêu thương con người và trí tuệ sáng tạo. Chính tình yêu và trí tuệ sáng tạo là động lực thúc đẩy xã hội loài người phát triển. Nhưng con người công cụ bạo lực chuyên chính vô sản lại được nhồi nhét những điều sai trái, điên rồ rằng: đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, rằng giai cấp nông dân và giai cấp công nhân đói khổ là do giai cấp địa chủ và tư sản bóc lột. Giai cấp công nhân với bộ tham mưu là đảng Cộng sản là giai cấp độc tôn thống trị thế giới, là giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh tiêu diệt giai cấp bóc lột, giành lại cuộc sống, giành lại thế giới. Thay yêu thương bằng bạo lực, thay trí tuệ bằng cơ bắp là nội dung cốt lõi của học thuyết đấu tranh giai cấp bạo liệt. Chỉ có con vật mới dùng sức mạnh bạo lực thanh toán nhau để tồn tại, cá lớn nuốt cá bé. Học thuyết đấu tranh giai cấp đã kích thích, khuyến khích bản năng bạo lực ở phần con trong con người. Con người công cụ hung hãn, tàn bạo, mất tính người là vì thế.   Loài người đã bước vào nền văn minh mới, nền văn minh tin học. Nền văn minh tin học lại đưa loài người vào thời dân chủ hóa mạnh mẽ và triệt để. Chống lại xu thế dân chủ hóa, Nhà nước độc tài đảng trị đã quá lỗi thời và tội lỗi chỉ có thể tồn tại bằng bạo lực chống lại nhân dân. Nhà nước bạo lực sử dụng những con người công cụ sắt máu và cuồng tín thì việc tra tấn tinh thần, tra tấn thân thể người dân không phải chỉ diễn ra nhà giam âm u mà diễn ra hàng ngày ngay dưới ánh sáng mặt trời, ngay trên đường phố, ngay giữa quảng trường.  P.Đ.T. Nguồn: diendanxahoidansu.wordpress.com
......

Hội Đồng Luật Sư Pháp Quốc đòi thả Luật sư Lê Quốc Quân

Conseil National des Barreaux   Hội Nghị của Luật Sư Đoàn Quốc Gia qua cuộc họp ngày 15 tháng 11 năm 2013, phản đối bản án ngày 02 tháng 10 năm 2013 của Tòa án Nhân dân Hà Nội giành cho Luật sư Lê Quốc Quân, một luật sư và blogger Việt Nam, bị xử phạt 30 tháng tù giam và khoản tiền phạt 59,000 mỹ kim. Ông bị tước quyền hành nghề luật sư vĩnh viễn. Luật sư Lê Quốc Quân đã kháng án sự qui tội này vào ngày 8 tháng 10 năm 2013. Luật sư Lê Quốc Quân được nhiều người biết đến qua các hoạt động bảo vệ nhân quyền và viết blog, kêu gọi đa nguyên chính trị, tự do tôn giáo và việc áp dụng quyền dân sự.   Luật Sư Đoàn Quốc Gia lên án tình cảnh xoay quan vụ xử kết án Luật sư Lê Quốc Quân. Phiên xử không đáp ứng những điều kiện căn bản của một phiên xử công bằng vì các cuộc thảo luận không diễn ra công khai và chỉ dành một phút cho bản án đã được soạn sẵn dài hai mươi trang giấy. Thủ tục này cũng được áp dụng để trừng phạt những nhà bất đồng chính kiến. Vào tháng Ba năm 2013, một liên minh về quyền con người đã yêu cầu Ủy Ban Liên Hiệp Quốc Điều Tra về Bắt Giữ Tùy Tiện can thiệp khẩn cấp về trường hợp Luật sự Lê Quốc Quân. Luật Sư Đoàn Quốc Gia: - Nhắc nhở rằng tính độc lập của luật sư là một trong những bảo đảm quan trọng cho nền dân chủ và sự hiệu lực của pháp luật.   - Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam dùng mọi biện pháp có thể để bảo đảm tự do hành nghề của các luật sư Việt Nam cũng như bảo đảm và bảo vệ quyền tự do ngôn luận. - Yêu cầu trả tự do ngay lập tức cho Luật sư Lê Quốc Quân. Thể hiện tình đoàn kết và hỗ trợ Luật sư Lê Quốc Quân, Luật sư biện hộ Trần Thu Nam, cũng như Luật Sư Đoàn Việt Nam và những người tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam. Làm tại Paris, ngày 15 tháng 11 năm 2013 Nguồn: Le Conseil National des Barreaux  
......

Cực Lực Phản Đối Hành Vi Xúc Phạm Danh Dự, Xâm Phạm Quyền, Lợi Ích Hợp Pháp Của Luật Sư Của Ban Chủ Nhiệm Đoàn Ls Thành Phố HN Nhiệm Kỳ VIII

Kính gửi: - Chủ tịch Nước, Trương Tấn Sang; - Thủ tướng Chính phủ, Nguyễn Tấn Dũng; - Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Hùng Cường; - Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, Nguyễn Thế Thảo; - Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam, Lê Thúc Anh; - Các Đại biểu tham dự Đại hội đại biểu Đoàn luật sư Tp.Hà Nội nhiệm kỳ IX; - Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; - Các Luật sư hành nghề. Tôi, luật sư Hà Huy Sơn số thẻ 5594/LS do Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp ngày 20/12/2010 thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội xin gửi tới quý vị lời chào trân trọng và cực lực phản đối hành vi xúc phạm danh sự, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, sau đây:   Ngày 23 - 24/11/2013, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tổ chức Đại hội đại biểu nhiệm kỳ IX. Tôi, luật sư Hà Huy Sơn là Giám đốc Công ty Luật TNHH Hà Sơn địa chỉ số 15/4, ngõ 91, phố Chùa Láng, quận Đống Đa, Hà Nội, Giấy đăng ký hoạt động của Công ty Luật TNHH Hà Sơn số 01020752/TP/ĐKHĐ do Sở Tư pháp thành phố Hà Nội cấp ngày 26/08/2013 (thay đổi lần 3). Theo quy định tôi là đại biểu đương nhiên tham dự Đại hội đại biểu Đoàn luật sư thành phố Hà Nội nhiệm kỳ IX nhưng sáng ngày 23/11/2013, khi tôi đến tham dự Đại hội thì được các thành viên của Ban tổ chức Đại hội trả lời tôi là Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội nhiệm kỳ VIII thông báo tôi không có danh sách tham dự Đại hội. - Căn cứ Điều 7 “Quyền và nghĩa vụ của luật sư” của Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam theo Quyết định phê duyệt số 1106/QĐ-BTP ngày 29/05/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; - Căn cứ Điều 8 “Quyền và nghĩa vụ của luật sư thành viên” của Điều lệ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội theo Quyết định phê duyệt số 2645/QĐ-UBND ngày 11/06/2010 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội; - Căn cứ Điều 21 của Luật luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012,   Mặt khác, cho đến nay tôi chưa nhận được một văn bản nào của Đoàn luật sư thành phố Hà Nội hay của bất cứ cơ quan quản lý nhà nước nào thông báo hay quyết định tôi bị rút tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư, chuyển Đoàn luật sư theo quy định của Điều 9, Điều lệ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội hay Điều 10, Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam. Do vậy, việc Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội không cho tôi tham dự Đại hội đại biểu Đoàn luật sư thành phố Hà Nội nhiệm kỳ IX ngày 23 -24/11/2013 là vi phạm các quy định của Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 và Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Điều lệ của Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Bằng văn phản này tôi cực lực phản đối hành vi xúc phạm danh dự, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội nhiệm kỳ VIII. Tôi yêu cầu Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Hà Nội xin lỗi công khai. Vì mục tiêu xây dựng một Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam tôi hy vọng nhận được sự lên tiếng của các quý vị với trách nhiệm người thực thi công vụ và sự ủng hộ của tất cả các luật sư đồng nghiệp! Nơi nhận: Hà Nội, ngày 23 tháng 11 năm 2013 - Như trên; - Lưu VP, 08b. Luật sư Hà Huy Sơn Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Một số nguyên tắc hoạt động của Diễn đàn Xã hội Dân sự

Diễn đàn Xã hội Dân sự, sau đây gọi là Diễn Đàn, hoạt động vừa tròn hai tháng.   Mục tiêu duy nhất của Diễn Đàn là để nâng cao dân trí, tạo cơ hội học tập, tranh luận lành mạnh và tiến hành nhiều loại hoạt động nhằm “góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa.”   Diễn Đàn vừa chọn một Nhóm Cố vấn và chỉ định một Nhóm Trị sự để giúp Diễn Đàn hoạt động hiệu quả hơn. Các nhóm này thường xuyên được bổ sung bởi những người nhiệt tình, có điều kiện tham gia. Nhân dịp hai tháng tuổi có lẽ cũng nên đưa ra để thảo luận nhằm hình thành những nguyên tắc hoạt động của Diễn Đàn và các giá trị mà Diễn Đàn coi trọng và mong muốn được nhiều người, nhiều tổ chức cũng coi là của mình. 1. Những nguyên tắc hoạt động của Diễn Đàn. Diễn Đàn và các thành viên hoặc tổ chức thành viên của Diễn Đàn tuân thủ 9 nguyên tắc chính sau đây trong hoạt động của mình bên trong Diễn Đàn:   a) Hợp pháp: Diễn Đàn và các thành viên của nó hoạt động một cách hợp pháp, tôn trọng pháp luật, không chống nhà nước, không nhằm chống bất cứ ai hay bất cứ tổ chức nào. Tính hợp pháp nêu ở đây được hiểu là sự phù hợp với các công ước quốc tế, với các quyền con người, với Hiến pháp, các Luật và các văn bản dưới luật nếu chúng không mâu thuẫn với các văn bản có hiệu lực cao hơn. Nói cách khác Diễn Đàn hoạt động theo nguyên tắc: mọi người dân có quyền quyền bất tuân những quy định vi hiến, vi phạm luật quốc tế, vi phạm các văn bản pháp luật cao hơn trong việc thực hiện các quyền (con người và công dân) của mình và coi việc thực thi các quyền đó là hợp pháp và đồng thời tích cực đề xuất, tìm cách sửa chúng cũng như mạnh mẽ lên tiếng đòi sửa đổi chúng nhằm đảm bảo các quyền con người.   b) Tự trị: tất cả các thành viên của Diễn Đàn đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong hoạt động của Diễn Đàn, không ai có thể yêu cầu một thành viên làm một việc mà thành viên đó không muốn. Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc của Diễn Đàn, mỗi thành viên hay mỗi nhóm thành viên hoạt động một cách tự trị với sự sáng tạo, sáng kiến và cách làm của riêng mình nhằm đạt mục tiêu của Diễn Đàn. Diễn Đàn tôn trọng và khuyến khích sự tự trị đó.   c) Chính danh: Tất cả các thành viên của Diễn Đàn hoạt động một cách chính danh và tự chịu trách nhiệm về hành động của mình. Việc sử dụng bút danh, nghệ danh là có thể miễn là chúng xác định rõ người mang bút danh hay nghệ danh đó. Mọi hình thức nặc danh, mạo danh đều không được Diễn Đàn chấp nhận.   d) Công khai: Diễn Đàn là mở và hoạt động công khai. Không có gì cần che giấu và đây cũng là nguyên tắc cho mỗi thành viên trong hoạt động của Diễn Đàn.   e) Bất bạo động: Diễn Đàn và các thành viên trong hoạt động của Diễn Đàn tuân thủ nguyên tắc bất bạo động. Nguyên tắc bất bạo động gồm có 2 khía cạnh. Thứ nhất, Diễn Đàn và các thành viên trong hoạt động của Diễn Đàn không sử dụng bạo lực để nhằm đạt được mục tiêu của mình. Thứ hai, Diễn Đàn và các thành viên trong hoạt động của Diễn Đàn dùng mọi biện pháp bất bạo động, hợp pháp của mình, cùng những người hay tổ chức khác, để thuyết phục những người chủ trương bạo động thay đổi chủ trương của họ, để ngăn cản, chống lại hành động bạo lực của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Bạo lực không chỉ là việc dùng sức mạnh thể xác, vũ khí mà cả việc dùng từ ngữ ác khẩu, gây hận thù, kích động bạo lực cũng được coi là hành động bạo lực và phải tránh. f) Khoan dung: chấp nhận những ý kiến khác nhau, nhất là tôn trọng các ý kiến thiểu số, là nguyên tắc bắt buộc nếu chúng ta muốn xây dựng một nền dân chủ đa nguyên. g) Chân thật: Diễn Đàn và các thành viên bên trong Diễn Đàn tuân thủ nguyên tắc chân thật. Mọi thông tin đều cần kiểm chứng ở mức chính xác nhất có thể. Mọi sự ngụy tạo, giả mạo, bóp méo, dối trá đều không được chấp nhận. h) Tin cậy: Tin cậy lẫn nhau là một nguyên tắc, nó không khuyến khích bất cứ thủ tục, biện pháp nào gây ra sự ngờ vực. Diễn Đàn không sợ sự thâm nhập của bất kỳ lực lượng nào (kể cả lực lượng an ninh) vào Diễn Đàn, thậm chí họ được hoan nghênh miễn là họ tuân thủ các nguyên tắc chính của Diễn Đàn và tán thành mục tiêu của Diễn Đàn như bất cứ thành viên nào khác.   i) Đoàn kết: xây dựng tinh thần đoàn kết trong hoạt động của các nhóm, của toàn Diễn Đàn; đoàn kết với các nhóm và tổ chức khác nhất là khi một thành viên nào đó, hay bất cứ ai bị ngược đãi. 2.  Hoạt động của Diễn Đàn   Diễn Đàn không phải là một tổ chức có thứ bậc, không ai là cấp trên của người khác. Hoạt động quan trọng nhất của Diễn Đàn là hoạt động kết nối (các nhóm, các tổ chức sẵn có và các nhóm các tổ chức mới ra đời). Về mặt kỹ thuật nó hoạt động như một mạng, một “hệ thống tự tổ chức”, trong đó các “lãnh đạo”, những người hoạt động tích cực, có ý tưởng hay được nhiều người chấp nhận, sẽ tự “nổi lên” như các nhân vật trung tâm.  Nói cách khác Diễn Đàn hoạt động một cách thực sự dân chủ. Nhóm  trị sự chỉ làm công việc thuần túy kỹ thuật và sự vụ (nhận bài, chuyển bài, đăng bài, chuyển thông tin) và không có chức năng quản lý hay quản trị nào cả. Diễn Đàn hoạt động trên cơ sở chia sẻ các giá trị chung như tự do, dân chủ, pháp trị, các quyền con người và tuân thủ một số nguyên tắc chính được nêu ở trên.   Do nguyên tắc tự trị, các thành viên hoặc các tổ chức thành viên của Diễn Đàn có thể có rất nhiều hoạt động phong phú khác nhau, trên các địa bàn khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau, có thể có những mục tiêu khác nhau nhưng có chung một mục tiêu được nhắc tới ở trên và tuân thủ các nguyên tắc chung, thí dụ các nguyên tắc nêu trên (và có thể thêm các nguyên tắc đặc trưng riêng của mỗi nhóm, thí dụ nhóm trẻ, nhóm phụ nữ, nhóm môi trường, nhóm sinh viên vân vân hay mỗi địa bàn, địa phương) nhằm từng bước đạt mục tiêu của Diễn Đàn. Chính vì thế mục này không thể có tham vọng nêu dù chỉ một phần nhỏ của các hoạt động có thể của Diễn Đàn. Thay cho việc nêu những hoạt động này, một việc không thể, dưới đây chỉ nêu vài thí dụ có tính gợi mở mà thôi. a) Mảng “công tác xã hội”- hoạt động để cải thiện tình hình trong mọi lĩnh vực, mọi nơi   Đây là lĩnh vực hoạt động (cũng được gọi là công tác xã hội) có lẽ phong phú nhất, sáng tạo nhất và quan trọng nhất của các thành viên, các nhóm thành viên của Diễn Đàn. Bất cứ hoạt động hợp pháp nào có thể trực tiếp cải thiện tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, môi trường của thành viên, của nhóm thành viên hay của các cộng đồng, các tổ chức nơi thành viên hoạt động là những hoạt động mà Diễn Đàn khuyến khích việc thực hiện hay việc kết nối, hợp tác với các nhóm, các tổ chức khác để thực hiện. Sau đây chỉ là vài thí dụ gợi ý:   * Giữ gìn vệ sinh công cộng và tập thể dục nâng cao sức khỏe (trong nhà máy, trường học, làng xóm, tổ dân phố) vận động người dân giữ vệ sinh nâng cao sức khỏe, không vứt rác, vân vân là việc mà các thành viên và nhóm thành viên có thể thúc đẩy, kêu gọi người dân tham gia, thậm chí tổ chức các đợt dọn vệ sinh ở nơi công cộng (bờ hồ, công viên, quanh các khu công nghiệp). Mở rộng thành các hoạt động bảo vệ môi trường quy mô hơn.   Các sáng kiến nâng cao hiệu quả hoạt động của chính tổ chức mình (nhà trường, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, vân vân) để tiết kiệm, chống lãng phí,  góp phần cải thiện tình hình làm lợi cho tổ chức của mình và cho chính mình. * Vận động mọi người tham gia giao thông một cách văn minh, tuân thủ quy định giao thông để tránh ách tắc và tai nạn giao thông. * Bảo vệ quyền của người dân, người tiêu dùng. * Bảo vệ, trợ giúp (tinh thần, tài chính, y tế, pháp lý) cho những người bị ngược đãi.   * Đào tạo kỹ năng cho các thành viên và những người có nhu cầu trong thời gian ngắn (thí dụ về tin học như sử dụng email, vượt tường lửa, vân vân). * Dạy học thiện nguyện cho những trẻ em và người lớn không có điều kiện đến các trường lớp chính quy (bao gồm dạy văn hóa, ngoại ngữ và các kỹ năng sống, làm việc, giao tiếp,…). * Tham gia chống tham nhũng (thu thập thông tin, củng cố chứng cứ, hợp tác với báo giới, …) * Diễn  Đàn cố gắng hết sức để có sự ủng hộ, sự hợp tác hoặc chí ít sự không cản trở của Chính quyền (vì sự cản trở công tác xã hội ích nước lợi dân như vậy sẽ làm mất uy tín và có hại cho Chính quyền) đối với những loại hoạt động kể trên và rất nhiều những hoạt động cụ thể, trực tiếp, không thách thức chính quyền và hoàn toàn hợp pháp này nhưng chúng mang lại sự cải thiện tình hình ngay tức khắc. Những “công tác xã hội” loại này tùy thuộc vào sáng kiến, sự sáng tạo của các thành viên và nhóm thành viên của Diễn Đàn, và thoạt nhìn chúng có vẻ không liên quan trực tiếp đến mục đích của Diễn Đàn, nhưng xét kỹ thì chúng rất liên quan, thậm chí có tầm quan trọng quyết định đến dân chủ hóa và sự bền vững của nền dân chủ một khi đã được thiết lập nếu có một phần đáng kể của dân cư thường xuyên tham gia. b) Mảng vận động chính sách – hoạt động nhằm góp phần cải cách thể chế * Tham gia phân tích các luật, các thể chế, các chính sách hiện hành   * Tham gia tích cực vào quá trình hình thành chính sách, góp ý sử đổi hoặc xây dựng mới các dự án luật các thể chế, chính sách (việc này rất lợi cho nhà nước vì khi nhiều người tham gia sẽ làm cho chính sách thực tế hơn và việc thực thi chính sách hiệu quả hơn).   * Thảo luận, công bố và cùng các tổ chức khác kiến nghị với cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, khi cần có thể có những hình thức gây áp lực một cách ôn hòa khác với các cơ quan này để buộc họ xem xét nghiêm chỉnh ý kiến của tập thể thành viên Diễn Đàn. c) Hoạt động nâng cao dân trí gắn với trang thông tin của Diễn Đàn * Tham gia viết bài cho trang thông tin * Tham gia thảo luận, tranh luận về các chủ đề khác nhau của Diễn Đàn * Giảng hay đào tạo về những vấn đề cụ thể cho các đối tượng khác nhau d) Xây dựng và mở rộng Diễn Đàn * Vận động, giới thiệu người tham gia Diễn Đàn; kết nối các nhóm, các tổ chức khác với Diễn Đàn * Tích cực tham gia vào các hoạt động khác nhau của Diễn Đàn * Vận động toàn dân ủng hộ và tham gia vào những việc do Diễn Đàn, các nhóm trong Diễn Đàn khởi xướng   Trên đây là vài nét về Diễn Đàn Xã hội Dân sự. Diễn Đàn cần hoạt động liên tục, thậm chí ngay cả khi đã có dân chủ thực sự với mục tiêu thay đổi nhằm củng cố, bảo vệ, duy trì và phát triển nền dân chủ, và lâu dài. Chính vì thế các giá trị, các nguyên tắc và sự hoạt động của Diễn Đàn sẽ được hoàn thiện với sự trao đổi và đóng góp tích cực của tất cả mọi người./. Diễn đàn Xã hội Dân sự * * * http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2013/11/23/thong-bao-2/ THÔNG BÁO Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự đã chọn: A) Một Nhóm Cố vấn gồm các vị sau: 1) Nguyễn Đình Đầu (nhà nghiên cứu, Tp. HCM) 2) Lê Hiếu Đằng (luật gia, HCM) 3) Hà Sĩ Phu (Ts. Nguyễn Xuân Tụ, Đà Lạt) 4) Nguyên Ngọc (nhà văn, Hội An) 5) Nguyễn Huệ Chi (Gs. Hà Nội) 6) Chu Hảo (PGs, Ts. Hà Nội) 7) Nguyễn Quang A (Hà nội) 8) Đinh Xuân Quân (Ts. Hoa Kỳ, Afganistan) Các cố vấn: tự mình đưa ra lời khuyên cho Nhóm Trị sự hoặc đưa ra lời khuyên khi có đề nghị từ Nhóm Trị sự.   B) Diễn Đàn cũng đã chỉ định một Nhóm Trị sự làm công việc hàng ngày trong đó có ông Nguyễn Quang A từ Nhóm Cố vấn. Danh sách các thành viên khác của Nhóm Trị sự sẽ được công bố khi thích hợp, tùy hoàn cảnh của mỗi thành viên. Ngày 23-11-2013 Diễn đàn Xã hội Dân sự Địa chỉ Blog: diendanxahoidansu.wordpress.com; Email: diendanxahoidansu@gmail.com * * * http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2013/09/23/tuyen-bo-ve-thuc-thi-q...   TUYÊN BỐ Về thực thi quyền Dân sự và Chính trị —————- Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định tại điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.   Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (mà Nhà nước Việt Nam ký tham gia ngày 24/9/1982) quy định cụ thể về quyền bày tỏ quan điểm, quyền hội họp và lập hội: “Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia” (trích điều 19[1]); “Quyền hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận” (trích điều 21); “Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình” (trích điều 22). Những quy định tương tự cũng có trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố ngày 10/12/1948 mà mọi quốc gia thành viên đếu phải tôn trọng [2] ..   Căn cứ vào những quy định đó, các ý kiến đóng góp cho việc sửa đổi Hiến pháp khác với quan điểm của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội lập, đặc biệt là về những điều cơ bản của thể chế chính trị (như Kiến nghị do 72 người ký trực tiếp ngày 19-1-2013, thường được gọi tắt là Kiến nghị 72, Tuyên bố của Hội đồng Giám mục, Tuyên bố công dân tự do, ý kiến trên trang mạng Cùng viết Hiến pháp, và nhiều ý kiến của đồng bào trong và ngoài nước trên các trang thông tin điện tử) là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp và Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (dưới đây gọi tắt là Công ước quốc tế). Điều đó cũng đúng với nhiều tiếng nói đòi dân chủ và thực hiện các quyền tự do đã được quy định trong Hiến pháp, gắn liền với yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, hòa nhịp với các hình thức đấu tranh của nông dân bị mất đất, của công nhân đòi việc làm và cải thiện đời sống. Những tiếng nói đó của các tổ chức và nhóm như Hội đồng Giám mục, nhóm các chức sắc tôn giáo, nhóm công dân tự do, nhóm Tuyên bố 258, câu lạc bộ NoU, v.v., hoặc của nhiều cá nhân ở trong và ngoài nước mang tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ, đều được bày tỏ một cách ôn hòa, hợp pháp.   Chúng tôi, những người ký tên dưới đây hoan nghênh ý thức xây dựng của những tiếng nói đó và thấy rằng để phản ảnh yêu cầu của đông đảo nhân dân, cần khởi xướng một Diễn đàn trao đổi và tập hợp các ý kiến nhằm góp phần chuyển đổi thể chế chính trị của nước ta từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa. Đó là mục đích hoạt động của Diễn đàn, hoàn toàn phù hợp với hiến pháp của nước ta và Công ước quốc tế. Diễn đàn này mang tên “Diễn đàn xã hội dân sự” và có trang thông tin điện tử là nơi bày tỏ ý kiến của các tổ chức, các nhóm, các cá nhân cùng theo đuổi mục đích nêu trên, với mong muốn xã hội dân sự ở nước ta phát triển đúng với yêu cầu của một nước dân chủ.   Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền. Ý kiến khác nhau cần được tranh luận thẳng thắn để tìm chân lý; còn dựa vào quyền lực để cản trở việc công bố, không đối thoại mà chỉ đơn phương phê phán, quy kết, thậm chí dùng nhiều cách ngăn cấm và trấn áp thì không những vi hiến và trái với Công ước quốc tế mà còn không đúng với tư cách chính đáng của một nhà cầm quyền.   Việc sửa đổi Hiến pháp đang còn ý kiến khác nhau về những vấn đề cơ bản của thể chế chính trị. Dự thảo Hiến pháp sửa đổi dự định trình Quốc hội thông qua trong kỳ họp cuối năm tuy có một số điều chỉnh chi tiết nhưng về cơ bản vẫn duy trì thể chế toàn trị của giới cầm quyền nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Thực tế ở nước ta cho thấy rõ: thể chế này đã tạo nên một bộ máy cầm quyền có nhiều quyết sách sai trái và quan liêu, tham nhũng nặng; một “bộ phận không nhỏ” trong bộ máy lợi dụng quyền lực (cả quyền cai trị và quyền sử dụng, định đoạt đất đai, tài nguyên, tài sản công) cấu kết với một số nhà kinh doanh làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất minh (cả trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân), hình thành các nhóm lợi ích bất chính, xâm phạm quyền lợi của nhân dân, dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo quá bất công ở nước ta. Không ít người trong giới cầm quyền các cấp cùng với các nhóm lợi ích và sự hậu thuẫn của thế lực bên ngoài đang dựa vào bạo lực cùng nhiều thủ đoạn không chính đáng để duy trì quyền thống trị đất nước theo thể chế toàn trị, có phần do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhưng phần quan trọng hơn, phổ biến hơn là do muốn bảo vệ và giành thêm lợi ích riêng bất chấp lợi ích chung của đất nước, của dân tộc. Đó là nguyên nhân gốc rễ khiến nước ta lâm vào khủng hoảng trên nhiều mặt: kinh tế suy giảm nặng và không ổn định, văn hóa suy đồi, đạo đức băng hoại, môi sinh bị tàn phá, trình độ phát triển và năng lực cạnh tranh thua kém nhiều nước trong khu vực, dân mất lòng tin đối với bộ máy cầm quyền; trong khi đó, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta đang bị thế lực bành trướng Trung Quốc gia tăng các hành động xâm phạm.   Để vượt qua những thách thức hiểm nghèo đối với đất nước và dân tộc, giải pháp cơ bản là phải cải cách thể chế chính trị, chuyển từ toàn trị sang dân chủ, qua đó phát huy sức mạnh hòa giải và đoàn kết dân tộc, mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. ĐCSVN, với vị trí là đảng đang cầm quyền, tự nhận vì nước vì dân, có trách nhiệm thúc đẩy quá trình chuyển đổi đó một cách chủ động, mở đầu bằng việc sửa đổi Hiến pháp. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống và cũng là phương án tối ưu cho sự chuyển đổi thể chế chính trị một cách ôn hòa ở nước ta.   Nếu Hiến pháp sửa đổi vẫn duy trì thể chế toàn trị được thông qua và ban hành chính thức thì các thách thức mà đất nước và dân tộc đang đối mặt càng thêm nghiêm trọng dẫn tới hệ quả khôn lường, dân càng thất vọng và bất bình, uy tín của nước ta trong quan hệ quốc tế càng giảm sút. Đó thật sự là tai họa cho đất nước mà trách nhiệm thuộc về giới cầm quyền.   Vì vậy, Diễn đàn xã hội dân sự yêu cầu Quốc hội dừng việc thông qua bản Hiến pháp sửa đổi trong đó thể chế chính trị hiện hành vẫn được duy trì về cơ bản, kéo dài thời gian thảo luận về Hiến pháp và thật lòng tổ chức nghiên cứu, tranh luận một cách thẳng thắn, nghiêm túc và công khai về những điều cơ bản của thể chế chính trị đang còn ý kiến khác nhau. Tuyên bố này được gửi tới các thành viên cơ quan lãnh đạo ĐCS và Nhà nước; đồng thời được công bố trên mạng xã hội để phổ biến rộng rãi, mong đồng bào trong và ngoài nước biểu thị sự đồng tình, hưởng ứng. Ngày 23 tháng 9 năm 2013 Những người khởi xướng Diễn đàn xã hội dân sự Ghi chú: - Ý kiến hưởng ứng Tuyên bố này xin gửi về địa chỉ e-mail: diendanxahoidansu@gmail.com - Cách thức tham gia Diễn đàn sẽ được thông báo sau.  
......

20/11 : Chuyện từ những người Thầy.

"Chỉ có tự do mới giúp cho con người phát triển toàn vẹn"   Thường thì ngày 20/11 người ta viết về thầy để tri ân công ơn dạy dỗ. Nhưng bài này thì khác, tôi viết về một câu hỏi ray rứt suốt những năm tháng trên ghế nhà trường và còn kéo dài mãi về sau. Giảng sư toán Phạm Minh Hoàng những ngày còn giảng dạy ở Đại học Bách Khoa TP.HCM   Ngày 20/11 còn là ngày Nhà giáo Việt Nam, nghĩa là chỉ liên quan đến Việt Nam, nhưng bài này tôi lại viết về người thầy Pháp của mình. Tên thầy là Yves Meyer, giáo sư toán. Năm nay thầy 74 tuổi.   Tôi còn nhớ mãi những ngày tháng khai giảng của niên khóa 1974-1975 khi tôi bỡ ngỡ bước chân vào giảng đường 333 của Đại học khoa học Orsay, còn gọi là Đại học Paris-Sud. Phong thái của thày toán quả bao giờ cũng khác các thầy cô vật lý hay hóa học, nghĩa là hơi có vẻ bụi bụi. Tôi chưa hề thấy thầy Meyer đeo cà-vạt, lúc nào củng một cái pull cổ cao và bộ veste nhung màu rêu. Cách dạy của thày cũng “style” không kém, thày thường ra một câu hỏi, đứa nào trả lời trúng thưởng 5 quan. Thày đứng tuốt dưới bảng đen và liệng đồng cắc lên đứa đáp trúng. Nói chung thì thầy không dạy xuất sắc nhưng vui vẻ và dễ hiểu. Nhưng điều tôi nhớ nhất ở thầy nằm ở một câu nói, và câu nói đó chẳng dính dáng gì đến toán.   Có một hôm trong tiết của thầy, tôi đang căng tai và cố gắng viết càng nhiều càng tốt thì bất chợt tôi nghe thầy nói một câu mà nó còn vang vọng trong tai tôi đến hàng chục năm sau : - Les avions américains bombardent le Nord-vietnam. (tạm dịch là “máy bay Mỹ ném bom Bắc Việt”).   Thời gian ấy tiếng Pháp tôi còn kém lắm (mới sang chưa đầy một năm), chỉ có thể hiểu được cỡ 20 đến 30% nhưng không hiểu tai sao tôi lại nghe và hiểu rõ mồn một câu nói ấy, nhất nữa là trong khi tôi đang húi húi chép túi bụi.   Sau câu hỏi ấy tôi thấy thầy thao thao nói một tràng dài, mặt thầy đanh lại. Tôi chẳng hiểu ất giáp gì. Tại sao thầy lại tương cái câu thời sự này vào buổi học toán? Cuối cùng thầy kết thúc “c’est lamentable” (thật thê thảm). Không khí giảng đường căng thẳng. Nhưng người căng thẳng nhất phải là tôi. Vì không cần phải giỏi tiếng Pháp ai cũng hiểu là thầy đang bênh cho cộng sản Bắc Việt. Vào thời buổi ấy, chiến sự Việt Nam gia tăng, tinh thần anh em du sinh chúng tôi cũng sục sôi không kém. Học xong là anh em vứt tập vở, xuống đường “ứng chiến” với tụi sinh viên VN thân cộng. Nhóm chúng tôi chỉ có 5 thằng đối đầu với một “lực lượng địch” đông gấp 3 gồm cả Tây cộng (Tây đen,Tây trắng lẫn Tây nâu). Tâm trạng căng thẳng nhưng không biết phản ứng thế nào. Giơ tay lên nói thì không dám (vì tiếng Pháp yếu quá) mà để yên thì không chịu được. Lúc về nhà đem nói với lũ bạn thì chúng nó đều bàn ra : - Mày mà đến gây sự với ông ấy thì tiêu đời. Mày có thấy các trợ giảng cũng thân cộng như ổng không ? Nó trù thì mày chỉ có chết.   Quả đúng như thế, trong các trợ giảng thì còn có một người Việt Nam tên Bạch Vân, cũng là một người theo cộng sản. Rồi còn bà Tâm, bà Phạm mình cũng chưa biết chính kiến các bà ấy như thế nào.   Phải nói trong thập niên 70, chủ nghĩa cộng sản bao trùm hơn nửa trái đất. Ngoài Liên Xô, Trung quốc còn khối Varsovie, Cuba, Nicaragua, Angola… đó là chưa kể các nước “hồng hồng” như Ấn độ, các nước Bắc phi. Thuở ấy, đảng cộng sản Pháp chiếm một lượng cử tri kỷ lục, họ nắm ¼ ghế trong Quốc hội và thao túng các công đoàn. Tôi còn nhớ có lần ông Pierre Juquin, một ủy viên bộ chính trị đảng công sản Pháp đến Đại học Orsay, người ta đã căng một tấm băng-rôn chào mừng ngay tại cổng chính. Thậm chí bộ trưởng đến thăm cũng chưa được cái vinh dự ấy. Thanh thế đàng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản lên cao chưa từng thấy. Tóm lại đâu cũng gặp “kẻ thù”. Ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản còn đặc biệt ảnh hưởng lên giới trí thức. Tại Pháp cũng như nhiều nước Âu châu lúc ấy đi theo chủ nghĩa cộng sản gần như là một phong trào, một cái mốt. Người ta theo đơn thuần chỉ là “thấy thằng lớn oánh thằng nhỏ là bênh thằng nhỏ”, cũng giống như ở VN hễ cứ xe hơi đụng xe máy là xe hơi lỗi….   Tôi nghĩ thầy Meyer cũng là một trong những số đó. Nhưng nói gì thì nói, tôi nhất quyết không “bỏ qua” vụ này. Đối với tôi, tôi phải “rửa hận” cho các chiến sĩ VNCH đang căng người ra bảo vệ đất nước trước làn sóng xâm lăng của hơn 10 sư đoàn đang ồ ạt vượt sông Bến Hải, cho dù hiệp định Paris ký kết còn chưa ráo mực. Tôi biết là thầy “chỉ có chết” khi tôi nói về vụ thảm sát Mậu thân năm 68 và gần đó nhất là vụ quân cộng sản pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) làm gần 100 em nhỏ chết và bị thương năm 1974. Tôi đã “thủ” sẵn các câu nói cũng như hình ảnh, chỉ chờ thầy đề cập đến chuyện này lần nữa là “tung chưởng” ngay giữa giảng đường, rồi mặc kệ chuyện nó ra đâu thì ra. Nhưng cái ngày ấy đã không tới, sau năm đó tôi chuyển ngành và không có dịp gặp lại thầy. Điều đó đã ray rứt tâm hồn tôi trong nhiều năm liền. Tôi có cảm tưởng đã không làm tròn trách nhiệm của mình, cho dù chẳng có ai phó thác cho tôi cái sứ mạng ấy.   Năm tháng trôi qua, tôi trở về VN và bắt đầu công việc giảng dạy toán ứng dụng ở Đại học Bách Khoa TP.HCM. Thỉnh thoảng nhờ gu-gồ mà tôi biết được thầy vẫn còn làm việc, thậm chí thầy còn đạt được rất nhiều thành công. Vang dội nhất là thầy trở thành thành viên của Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp và được giải Gauss trong cùng buổi lễ mà giáo sư Ngô Bảo Châu được trao giải Fields tại Ấn Độ. Tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ có dịp nhắc lại chuyện cũ, mà có lẽ giờ này thầy cũng không nhớ. Nhưng cuộc đời lại quyết định theo một hướng khác. Tháng 8/2010 tôi bị nhà nước VN bắt và bị kết án 17 tháng tù theo điều 79 Bộ Luật Hình sự : Âm mưu lật đổ chính quyền. Ra tù tôi nằm chèo queo ở nhà để lãnh tiếp 3 năm quản chế. Tháng 8/2012 tôi bất ngờ tiếp hai người khách từ phương xa, giáo sư Michel Waldschmidt và giáo sư Pierre Cartier. Những tên tuổi lớn của toán học Pháp. Tôi quen thầy Waldschmidt tử hồi dạy ở ĐHBK qua một buổi thuyết trình về hàm diophante. Tôi đã đưa thầy đi tham quan ba ngôi chùa ở Sàigòn và chúng tôi trở nên bạn nhau từ đấy. Khi tôi bị tù, thầy có đến tận nhà thăm hỏi và sau đó lập một kiến nghị lên chính phủ Pháp có những biện pháp để trả tự do cho tôi. Kiến nghị đã được nhiều giáo sư Pháp hưởng ứng. Nghe tôi được tự do ông đã thu xếp và nhân tham dự Hội nghị Toán học tại Huế, ông đã đến hỏi “cho ra lẽ” câu chuyện của tôi. Ông dẫn theo người bạn là giáo sư Cartier. Gs Cartier năm nay đã ngoài 80, ông là một chuyên gia về hình học đại số và hiện vẫn còn làm việc cho một Trung tâm nghiên cứu. Cả hai nhà toán học ngồi lặng nghe câu chuyện của tôi, vừa thích thú vừa xót xa. Kết thúc câu chuyện, thầy Waldschmidt nói :   - Tôi rất hiểu những khó khăn tình trạng cô lập này, nhưng cậu đừng lo, chúng tôi sẽ cố gắng giúp đỡ và giới thiệu cậu đến các đồng nghiệp. Họ sẽ biết và nhớ đến cậu. Lúc ấy thầy Cartier mới lên tiếng. - Michel (tên gọi của thầy Waldschmidt) đã kể hết cho tao nghe chuyện của mày. Tao rất thông cảm và chia sẻ khó khăn này. Để tao kể cho mày nghe, trong bài phát biểu của tao trước Hội nghị, tao đã kết luận rằng “Chỉ trong môi trường tự do toán học mới có thể phát triển tốt đẹp”. Nói rồi thầy cười, một nụ cười tinh nghịch như vừa làm được một cái gì thích thú. Nhưng đối với tôi, đây có lẽ là lời động viên hay nhất mà tôi nghe được từ khi ra tù. Tôi nhìn sâu vào mắt của thầy để gởi gấm hết tấm lòng biết ơn của mình. Sau đó chúng tôi lan man sang các chuyện khác. Đến một lúc thầy Cartier buột miệng hỏi :   - Mày có biết tên tuổi các nhà toán học Pháp chứ ? Thầy Cartier gãi ngay chỗ ngứa, tôi phun ra một lô tên : Descartes, Lagrange, Laplace, Galois, Cauchy, Poisson…   - Đúng phóc, thế các nhà toán học gần đây, mày có biết ai không ? Chà ! chỗ này không phải là chỗ ngứa, nhưng tôi cũng tìm ra được Henri Cartan[1]và Laurent Schwartz. Thầy Cartier gật gù ra vẻ thán phục. Nhưng tôi thì chưa hài lòng, phải chứng tỏ kiến thức của mình. Trong lúc bối rối, chợt nhớ đến thầy cũ : - Ông có biết Yves Meyer không ? thầy Cartier trợn tròn con mắt màu xanh ve chai của mình : - Mày cũng biết Meyer à ? - Dạ, đó là thầy của em ở Đại Học Orsay. Thầy Cartier nở một nụ cười ranh mãnh : - Vậy thì tao là…ông nội của mày rồi ! Đến lượt tôi căng con mắt ra : - Thế ra là… - Ừ, tao là thầy của Yves Meyer !   Quả trái đất tròn thật. Tôi ào ào kể cho thầy những kỷ niệm về thầy Meyer nhưng tuyệt không nhắc đến chuyện máy bay Mỹ. Thầy Waldschmidt bất ngờ xen ngang nói : - Này ! Meyer cũng ký vào bản kiến nghị trả tự do cho cậu đấy ! Thật à ! Tôi sững người ! - Thế cậu chưa xem website của tớ à ?   Và đó là điều đầu tiên tôi làm khi về đến nhà. Quả thực như thế. Nằm giữa tên các nhà khoa học Pháp là chữ Yves Meyer sờ sờ. Tôi yên lặng một hồi lâu rồi gởi cho thầy một email cảm ơn. Thầy phúc đáp ngay và nói cho tôi biết rằng thầy đã vận động và gởi kiến nghị đến những địa chỉ có uy tín trong làng giáo dục Pháp.   Nhưng câu chuyện cũ ngày xưa vẩn âm ỉ trong tôi và tôi mong có câu trả lời thỏa đáng. Tôi ngồi viết một email dài dòng nhưng nghĩ sao xóa sạch chỉ giữ lại câu cuối : “Em cảm ơn thầy đã nghĩ đến em, nhưng em muốn biết động cơ nào khiến thầy đi tranh đấu cho một người chống lại cái chế độ mà trước đây thầy đã ra sức bênh vực nó”. Rồi tôi bấm nút Send. Đợi một ngày, hai ngày rồi một tuần, hai tuẩn vẫn không thấy hồi âm. Tôi nghĩ chắc thầy giận. Nhưng cuối cùng thầy cũng trả lời. Email thầy trống không nhưng lại kèm theo một tập tin. Thầy gởi cho tôi bài diễn văn đọc trong một hội nghị toán học ở Madrid tháng 9/2001. Trong đó tôi thấy có dòng : “Les mathématiques signifient la liberté et l’égalité” - tạm dịch là “Toán học có nghĩa là tự do và bình đẳng”.   Chợt nhớ đến những gì thầy Cartier đã nói với tôi trước đó. “Chỉ trong môi trường tự do toán học mới có thể phát triển tốt đẹp”. Tôi không nghĩ rằng thầy Meyer đã “hội ý” với thầy của mình để trả lời cho tôi, nhưng đơn thuần đây là suy nghĩ của những trí thức chân chính. Ngày xưa họ bênh vực cho người cộng sản (thậm chí bênh vực cho cả chủ nghĩa cộng sản như Pierre Juquin), vì họ nghĩ rằng nó tốt, nó đang bị hà hiếp. Nhưng sau những biến cố thuyền nhân VN vào thập niên 80, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu thập niên 90, sự xuống dốc không phanh của đảng cộng sản Pháp mười năm trở lại đây[2] đã bắt buộc họ phải suy nghĩ lại, và từ đó sẵn sàng đứng ra tranh đấu cho những người đang bị tù đày chỉ vì chính kiến, đơn giản chỉ là vì chúng tôi, vì chúng ta thực sự có chính nghĩa.   “Cartan, Cartier, Meyer và tôi, cả bốn thế hệ đều là những nhà giáo”, ý nghĩ ấy khiến cho tôi vui mừng vì được “đứng ké” bên cạnh những tượng đài của toán học. Nhưng điều mà tôi vui mừng và hãnh diện hơn cả là có thể đứng ngang hàng với họ về một ý tưởng đã theo đuổi chúng tôi trong suốt cuộc đời. Đó là : Chỉ có tự do mới giúp cho con người phát triển toàn vẹn. Sàigòn, 20/11/2013 Phạm Minh Hoàng (pmhoang.blogspot.com) nguồn: http://pmhoang.blogspot.com/ ___________ [1] Henri Cartan là thầy hướng dẫn của thầy Cartier. Năm 1974, Cartan đã đấu tranh để nhà toán học Liên Xô  Léonide Pliouchtch được trả tự do, ngoài ra ông còn tham gia trong Hiệp hội bào vệ nhân quyền ở Paris. [2] Trong cuộc bầu cử Tổng thống Pháp năm 2007. Đảng CS Pháp chỉ được vỏn vẹn 1.9% số phiếu. Hiện nay chỉ có 7/577 dân biểu. Trong Đại hội đảng lần thứ 36 (2013), đảng CS Pháp đã quyết định từ bỏ biểu tượng búa liềm.    
......

Ý kiến: Giáo dục VN - Đập bỏ và xây mới?

Ngành giáo dục Việt Nam hiện nay có thể được so sánh với hình ảnh một ngôi nhà long móng tốc mái, tường cửa xộc xệch do được chắp vá từ những nguyên liệu không đồng bộ. Vậy giải pháp nào khả thi để giải quyết tận gốc vấn đề này? Thông lệ ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, mỗi khi xảy ra thay đổi tại một thể chế chính trị cầm quyền thì chỉ có những biến động liên quan tới bộ máy quân sự và chính trị. Riêng hệ thống hành chính và dân sinh đang hoạt động ổn định sẽ được giữ nguyên hoặc chỉ điều chỉnh đôi chút để tiếp tục phục vụ việc phát triển đất nước. Thế nhưng tại Việt Nam, ngay từ sau 1954, hệ thống giáo dục ở miền Bắc do kế thừa hệ thống giáo dục Pháp đã bị đập bỏ để nhường chỗ cho hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa. Miền Nam sau 1975 cũng chung số phận. Cần nhắc lại, từ những năm đầu thế kỷ trước, Việt Nam đã có những trường dành riêng cho nam sinh và nữ sinh, trường dành cho học sinh ngoại quốc. Riêng tại Hà Nội đã có trường Bưởi là trường Tây duy nhất tại Đông Nam Á dành cho học sinh bản địa bằng giáo trình song ngữ Pháp- Việt. Qua tiếp xúc với những người lớn tuổi thuộc thế hệ học trò từ trước thập niên 70, ai cũng cho rằng chương trình học tập khi đó khác hiện nay rất nhiều, gọn gàng hơn và thực tế hơn.   Suốt một giai đoạn lịch sử dài, rất nhiều sinh viên được xét vào đại học không bởi trình độ học vấn, mà do thành phần lý lịch giai cấp gia đình quyết định, ngành sư phạm cũng không có ngoại lệ. Người giáo viên từ thời chế độ cũ không được trọng dụng, nhất là tại phía nam, thay vào đó là những thầy cô được điều từ miền Bắc vào thay thế.   “Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”, tới thập niên 90, sư phạm là nghành cuối cùng được sinh viên lựa chọn do điểm chuẩn thấp nhất và thu nhập thấp. Với những thực tế đó, thực khó lòng đòi hỏi chất lượng đầu ra của những người làm nghề giáo dục. Tư duy yếu kém   Giới chức nói nhiều về "bệnh thành tích" dưới mái trường XHCN.   Chiến tranh kết thúc đã gần 40 năm, rất nhiều thế hệ học trò được đào tạo dưới mái trường chế độ xã hội chủ nghĩa đã ra đời. Nhưng cho tới tận bây giờ những người lãnh đạo vẫn loay hoay với mớ bòng bong cải cách giáo dục. Từ cải cách chữ viết, cải cách sách giáo khoa, cải cách phân ban… theo mục tiêu nhồi nhét kiến thức, bằng chị kém em với các nước trong khu vực. Học sinh vô tình bị biến thành những con chuột bạch để người làm giáo dục thỏa sức thử nghiệm. Những cải cách sách giáo khoa đã dẫn tới kết quả tiêu diệt khả năng tự học của học sinh, khiến học sinh bị buộc phải lệ thuộc vào giáo viên. Điều này đã biến học sinh trở thành những là nô dịch trong giáo dục.   Những điều đơn giản như việc rèn luyện cho học sinh khả năng phản biện, kỹ năng nhìn nhận mọi vấn đề bằng con mắt đa chiều… cũng chưa hề được các nhà giáo dục Việt Nam quan tâm. Học sinh không có quyền được nói lên chính kiến của mình. Cứ khác ý thầy cô các em sẽ được xếp luôn vào thành phần hỗn, láo. Chính truyền thống Khổng Giáo còn ảnh hưởng nặng nề trong ngành giáo dục Việt Nam ngày nay đã khiến hầu hết học sinh được đào tạo theo phương pháp học vẹt, và nói lên tư duy yếu kém của những người làm nghề giáo dục. Những lãng phí không thể đo đếm   Ông Nguyễn Thiện Nhân từng cam kết cải cách ngành giáo dục khi còn ngồi ghế bộ trưởng. 20% là con số được công bố trong tổng ngân sách nhà nước được chi cho giáo dục hàng năm, nhưng vẫn không đủ để bộ máy giáo dục hoạt động trơn tru nếu như không có sự đóng góp của gia đình học sinh theo chủ trương xã hội hóa. Vấn đề là, việc tiêu tốn ấy lại rơi vào những hạng mục xây dựng cơ bản, vào những chuyến tham quan du lịch của quan chức ngành, những công trình cấp nhà nước về giáo trình và nghiên cứu giáo dục, vào chi phí mua sắm những thiết bị rất đắt tiền nhưng không dùng đến, chờ thanh lý…   Có những thông tin cho rẳng để có một chỗ đứng trên bục giảng, các giáo viên phải mua bằng những số tiền lớn nhỏ tùy theo địa phương và vị trí của trường. Vậy là để thu hồi khoản tiền đầu tư ban đầu và có được thu nhập đủ sống, người giáo viên phải dùng mọi cách buộc mọi đối tượng học sinh phải “tự nguyện” học thêm nhằm kiếm thêm thu nhập.   Trên thế giới, chuyện học sinh năng lực kém phải học thêm để bồi dưỡng kiến thức là chuyện bình thường, nhưng tỷ lệ luôn rất nhỏ. Riêng tại Việt Nam, học sinh phải mất rất nhiều thời gian và chi phí tốn kém cho việc học thêm, nhưng chưa chắc mang lại lợi ích gì cho nhân cách và kỹ năng lao động. Và giải pháp cái búa!   Tại Canton Neuchatel (Thụy Sỹ), nơi tôi hiện đang cư trú, toàn bộ chi phí cho giáo dục được trích từ nguồn thuế ngân sách, không ai phải đóng góp thêm gì cho học sinh tới 16 tuổi. Từ 13 tuổi trở xuống học sinh được học chủ yếu là kỹ năng sống, chương trình học khá nhẹ nhàng và không thấy tình trạng ganh đua thành tích giữa học sinh hoặc giáo viên.   Tới 13 tuổi, học sinh trải qua kỳ thi toán, tiếng Pháp, tiếng Đức để phân loại ngay khi các em chuyển qua bậc trung học. Những em hạng A (section de maturité) sẽ nhận chương trình cấp 3 chính thức với giáo trình nặng hơn, bù lại chắc chắn các em có quyền lên thẳng một trường đại học theo nhu cầu mà không phải trải qua kỳ thi nào.   Trẻ từ lớp mẫu giáo tham gia trình diễn nghệ thuật tại Thụy Sỹ. Học sinh xếp hạng C (préprofessionnel) được học giáo trình rất nhẹ nhàng, nhưng sẽ được hướng học nghề để trở thành những công nhân chất lượng cao. Hạng B (moderne) sẽ được đào tạo giáo trình trung bình, và việc có thể trở thành một trong hai thứ hạng ở trên hay không sẽ phụ thuộc vào chính sự cố gắng và nỗ lực của các em. Rất nhiều học sinh chọn cách học nghề để nhanh chóng có thu nhập, nhưng cánh cửa đại học vẫn rộng mở cho các em nếu các em có nguyện vọng học lên cao sau đó.   Mô hình giáo dục trên của Neuchatel cũng đang phải điều chỉnh do có những ý kiến cho rằng chúng tạo ra sự phân biệt đối xử giữa chính các học sinh. Nhưng về mặt xã hội lại nhận được sự đồng thuận cao khi tiết kiệm được thời gian, tiền bạc của cả bộ máy đào tạo lẫn người đi học, đồng thời đáp ứng được thực tế nhu cầu lao động của xã hội. Trở lại câu hỏi để giải quyết tận gốc các vấn đề về giáo dục Việt Nam ngày nay, có lẽ chỉ có phương pháp “cái búa” là khả thi nhất, nếu coi ngành giáo dục là hình ảnh giống như ngôi nhà. Nếu những chắp vá, sửa chữa chỉ làm cho ngôi nhà xấu xí thêm, thì nên chăng cần dũng cảm đập bỏ và xây mới?   Nếu như những người điều hành không có khả năng tự thiết kế nên một ngôi nhà mới, thì có thể chọn giải pháp nhìn ngó xung quanh các nước Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc… Sao không coi thử có công trình nào đã được chứng minh bởi tính hiệu quả khả thi, và phù hợp với khả năng của mình hơn để cứ thế bê vào áp dụng? Một mô hình hiệu quả như câu chuyện giáo dục tại Neuchatel cũng không phải bất khả thi và tốn kém. Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của tác giả, người đang sống ở Thụy Sỹ. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese
......

Lê Thị Công Nhân và nhiều người bị vây đánh trong đồn công an

Bản tường trình việc chúng tôi bị đánh đập dã man tại công an phường Thụy Khuê sáng nay thứ Ba ngày 19.11.2013.   Chúng tôi: Lê thị Công Nhân, Ngô Duy Quyền, Trương Văn Dũng, Lê Hùng, chị Nga dân oan Hà Nam, bé Tài 1 tuổi con chị Nga, cô Ly dân oan Vũng Tàu và nhiều cô dân oan khác vừa bị công an đồn Thụy Khuê kết hợp mật vụ, dân phòng, côn đồ đánh đập dã man tại đồn công an Thụy Khuê. Sự việc như sau:   Mười một giờ sáng nay thứ 3 ngày 19.11.2013 gia đình chúng tôi (Nhân-Quyền-Lucas) và chú Lê Hùng (biên tập viên nhà xuất bản Thanh Niên đã về hưu) cùng anh Trương Văn Dũng đến đồn công an phường Thụy Khuê 23 phố Thụy Khuê, để yêu cầu họ giải quyết việc anh Dũng, anh Lê Thiện Nhân và chị Bùi thị Minh Hằng đã bị công an đánh đập dã man gây thương tích (riêng anh Dũng bị gẫy 3 xương sườn-khám thương tại bệnh viện Quân Y 103) vào tối ngày 25.10 chỉ vì đến đồn công an đòi lại lều bạt xong nồi… mà họ đã thu giữ bất hợp pháp của bà con dân oan H’mong xuống Hà Nội khiếu kiện oan sai. Những đồ dùng đó là do anh Dũng và những người bạn kêu gọi quyên góp và mang đến cho những người H’mong đau khổ này.   Khi chúng tôi đến nơi đã thấy gần 50 bà con dân oan Dương Nội và một số nơi khác tập trung ở vỉa hè bên kia đường đối diện đồn công an. Vào đồn, trực ban là một công an trẻ mặc quân phục đeo hàm thiếu úy nhưng không đeo biển tên. Ngay lập tức anh Dũng nhận ra hắn là một trong những tên công an đã đánh đập nhóm anh. Tên trực ban hỏi tôi đến có việc gì, tôi đáp là có việc và hỏi biển tên của hắn đâu. Tên này nói hắn mới về làm nên chưa có biển tên. Câu trả lời ngu ngốc ngày chúng tôi nói lại với hắn một lần cho hết nhẽ “Thôi đi, đeo hàm thiếu úy mà lại không có biển tên àh. Công an có biển tên, số hiệu từ khi còn là sinh viên kia.” Và yêu cầu gọi chỉ huy ra làm việc. Tên trực ban cứ ngồi ỳ ra không đáp và liên tục đuổi chúng tôi ra ngoài bằng từ “mời”. Thậm chí còn dọa cưỡng chế chúng tôi. Chúng tôi nói “Đây là phòng tiếp dân chứ không phải nhà riêng các anh. Chính người dân nộp thuế để trả cho mọi chi phí ở đây.” Mật vụ trẻ đông như quân Nguyên bên Tàu (mà có khi chúng đã theo Tàu cả rồi!) chia nhau chen vào ngồi những chỗ còn trống trên băng ghế, và còn giả vờ làm dân vào hỏi công việc nhân tiện “bức xúc bọn quấy rối” thay cho công an quay sang chửi và cạ đánh chúng tôi. Chúng tôi nhận ngay ra hầu hết bọn chúng và chỉ mặt gọi tên thương hiệu “mật vụ” từng tên. Còn bảo chúng “Thôi đi mà, đang chuẩn bị đánh dân thì đừng giả vờ làm dân nữa. Rởm đời quá!” Tên CA ác với dân trong hình đã cùng những tên CA ác ôn khác đánh đập mẹ con chị Nga tại đồn công an Thụy Khuê. Tên này đã bẻ tay chị Nga làm rơi bé Tài con chị xuống nền nhà.   Khoảng 20 phút sau thì công an Nguyễn Thanh Xuân 3 sao 2 vạch vào. Hắn hỏi có việc gì, lúc này tôi mới nói chậm rãi và rõ ràng từng chữ “Chúng tôi đến tìm gặp những thằng công an khốn nạn đã đánh đập dã man gây thương tích cho anh Trương Văn Dũng, Lê Thiện Nhân và chị Bùi thị Minh Hằng vào ngày 25.10. Sự việc xảy ra đã gần 1 tháng mà những kẻ đó không hề thăm hỏi, xin lỗi, bồi thường gì cho nạn nhân. Đánh người thì phải xin lỗi. Đánh người thì phải bồi thường. Đó là đạo đức và pháp luật. Sự việc diễn ra tại đây, thủ phạm làm việc ở đây, nên chúng tôi đến đây yêu cầu gặp họ với tư cách cá nhân để không phải kiện tụng. Việt Nam có câu vô phúc đáo tụng đình. Chúng tôi dù là nạn nhân nhưng vẫn ưu tiên giải quyết với tư cách cá nhân cho sòng phẳng như những người văn minh. Và nếu không giải quyết được ở góc độ tự nguyện thì chúng tôi sẽ kiện. Và tôi báo trước với anh chúng tôi tin là chính quyền độc tài cộng sản Việt Nam này sẽ không giải quyết đâu. Nói vậy cho anh hiểu chúng tôi không phải kẻ ngây ngô.” Lúc này hắn mới hỏi tên tôi rồi quay sang hỏi ngay anh Dũng đang ngồi ở băng ghế cùng chú Lê Hùng, 2 bác dân oan và 1 tên mật vụ giả vờ dân (dù chẳng ai giới thiệu, tự khắc hắn nhận ra, hết chối là không biết gì!) “Tại sao anh khỏe mạnh thế kia, có bệnh tật ốm đau gì đâu mà không tự trình bày?” Anh Dũng đáp “Tôi thật sự rất mệt. Hôm nay mới đỡ, đến đây yêu cầu các anh giải quyết vụ việc tôi bị tra tấn đánh đập dã man ở ngay tại đồn Thụy Khuê này ngày 25.10. Tôi ủy quyền trực tiếp tại chỗ cho cô Lê Thị Công Nhân làm việc với các anh.” Tên Xuân ngay lập tức thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật của một thượng tá công an bằng câu trả lời “Anh khỏe mạnh vẫn nói được thì không được ủy quyền. Anh phải trực tiếp làm việc.” Anh Dũng định lên tiếng thì tôi đáp “Anh không phải nói nữa vì anh đã tuyên bố ủy quyền trực tiếp tại chỗ rất rõ rồi. (quay sang tên thượng tá Xuân) Anh là thượng tá mà hiểu biết pháp luật kiểu gì vậy. Hóa ra theo anh thì chỉ có người câm, bệnh nằm một chỗ mới được ủy quyền àh?” Hắn bỗng dưng nổi khùng lên “Chị không được nói đến cấp bậc của tôi nhá! Cái đấy không liên quan đến công việc.” Ôh hay! Người ta gọi cấp bậc của mình ra vừa quy củ, sang trọng và đúng đắn chứ sao! Thực ra công an Việt Nam đã bao giờ có 3 thứ ấy đâu nên nghe mình gọi như vậy họ ngượng ngùng chăng?! Cộng với bản chất hung ác, ngạo mạn nên sự ngượng ngùng ấy được thể hiện ra bằng một câu trả lời không biết nói gì hơn là “Như thằng Saddam Husein mất trí bẩn như con cú cười nhăn nhở dưới hầm trú ẩn khi lính Mỹ rọi đèn vào lúc bị bắt.” Tay Xuân quay sang nói với tôi “Chị không được phép gọi chúng tôi là thằng nọ thằng kia. Như thế là không lịch sự.” Tôi đáp “Tôi không gọi anh là thằng khốn nạn, tôi gọi những thằng đánh anh Dũng là những thằng công an khốn nạn và tôi sẽ vẫn gọi như thế, rõ chưa? Không gọi những kẻ đấy là thằng công an khốn nạn thì gọi là gì, chiến sỹ àh, đồng chí àh?” Hắn không đáp gì. Sau đó một tên mật vụ rất cao lớn mặc bộ đồ đen ngồi vào chiếc ghế còn lại cạnh tôi, giả vờ làm dân đến làm việc cứ tôi nói thì chen ngang. Đúng lúc đó bé Lucas đòi ăn quả ti ti của mẹ. Tôi kéo áo cho bé bú mẹ ngay tại đấy, tên mật vụ này ngay lập tức chớp lấy cơ hội dè bỉu tôi “Vô duyên quá. Cho con bú thì ra chỗ khác.” Thề có Chúa là tôi biết trước là hắn sẽ nói thế vì chúng vẫn có truyền thống như vậy. Tôi bình thản cho con bú và đủng đỉnh đáp “Anh có biết mẹ cho con bú là một trong những điều đẹp nhất của nhân loại không? Liên Hợp Quốc và WHO luôn khuyến khích mẹ cho con bú bất kỳ lúc nào có thể. Anh mật vụ này anh tưởng câu khích đểu vớ vẩn đấy hay lắm sao. Anh không có vợ con àh?” Sau đó tên thượng tá Xuân trả lời “Các anh chị bảo là bị đánh đập dã man chỉ có phía anh chị nói thế. Chúng tôi đang điều tra giải quyết. Khi nào có giấy mời thì các anh chị mới được đến làm việc. Bây giờ yêu cầu mọi người ra về” Tất nhiên chúng tôi không chấp nhận câu trả lời đó, đáp lại “Vâng, anh nói thế thì cũng được thôi. Anh ghi cho cái giấy hẹn ngày tháng cụ thể để chúng tôi đến. Chứ biết khi nào các anh giải quyết xong?” Tên Xuân hùng hổ đáp “Chúng tôi không bao giờ viết giấy hẹn.” Chú Hùng quá bất bình lên tiếng đòi hắn viết giấy hẹn. Tên Xuân kiên quyết đến cùng là bọn chúng (không dại gì!) mà viết giấy hẹn với dân. Chúng tôi đáp chúng tôi sẽ không về và ngồi lại. Trong lúc đó bọn mật vụ tràn ngập cả phòng, ngoài hành lang và ngoài đường chửi bới xỉa xói chúng tôi và cà khịa đánh nhau. Sau đó tên Xuân đi ra ngoài, rồi chị Nga dân oan Hà Nam và 5 người phụ nữ dân oan lớn tuổi bộ dạng rất khốn khổ đáng thương đến đòi công an phường giải quyết vụ chị dân oan Ngọc Anh bị công an phường này đánh đến ngất xỉu phải đi cấp cứu mấy hôm trước, và đòi lại đồ dùng mà họ bị công an phường này cướp. Các bác dân oan này chỉ rõ cái xe chuyên dụng công an đang đỗ ngoài vỉa hè trước cửa đồn là chiếc xe mà công an đã dùng để cướp và đựng đồ của họ mang đi. Chị Nga thì tố cáo và chỉ thẳng mặt một tên mật vụ đang đứng nhởn nhơ ngoài cửa là kẻ đã đánh chị mấy hôm trước. Tên này ban đầu quay đi chỗ khác, sau khi bị chị Nga đến trước mặt chỉ thẳng vào hắn nói “Chính mày là thằng đã đánh tao hôm nọ. Có ảnh của mày và video mày đánh tao đây này.” Tên này trơ trẽn vừa cười cười nhưng mặt vẫn không giấu nổi vẻ hung ác nói “Mày bị điên àh. Tao đánh mày lúc nào.” Tôi nhìn hắn bảo “Cứ yên tâm đi. Những việc anh làm là hậu vận, là phúc phận của nhà anh đấy.” Sau đó thấy những lời chửi bới đe dọa đánh người, thậm chí là dọa “lập biên bản tội gây rối trật tự công cộng” không hiệu quả, chúng tôi vẫn không về, tên Xuân quay trở lại, đứng giữa phòng nói “Thôi đừng giở trò nữa!” Chú Hùng đứng bật dậy bảo hắn “Anh bảo ai giở trò? Chúng tôi yêu cầu anh ghi cái giấy hẹn để chúng tôi về mà anh bảo là giở trò àh? Anh ăn nói với dân thế àh?” Anh Quyền chồng tôi nói “Không ai làm trò giỏi bằng các anh đâu.” Không có gì đáp lại, hắn lại trả lời như cũ “Tôi đã giải quyết xong rồi. (Trời!) Yêu cầu mọi người ra về.” Và túm vào người anh Quyền đẩy ra ngoài. Anh Quyền chống lại và nói “Tôi phải đến đây với người nhà của mình vì đã có rất nhiều người dân bị đánh chết trong đồn công an. Và tôi cũng đương nhiên có quyền đến đây.” Khi nghe anh nói câu đó, tất cả những tên công an mật vụ nhìn anh với ánh mắt căm thù với thông điệp “Đúng đấy. Thì sao. Chúng tao cũng đang muốn đánh chết mày đây.” Nhìn mặt họ lúc đấy tôi rùng mình ghê sợ, vì thần sắc của chúng y như quỷ, sự hung ác tỏa rực ra, kết hợp với cái âm u cô hồn của sự chết. Lúc đó một tên dân phòng già khoảng 60 tuổi, người cũng không cao lớn gì, vào phòng và giở giọng côn đồ ngay lập tức. Hắn xác định mục tiêu là 2 bác dân oan lớn tuổi đang ngồi trên băng ghế và ngay lập tức đến túm vào tay vào người 1 bác và nói giọng vừa dê cụ vừa côn đồ “Ôi, em. Em định làm trò gì đấy àh em. Ra đây anh bảo cái nào.” lôi bác đứng lên. Bác giằng tay thằng già đốn mạt đó ra, tôi cũng lao đến quát to “Ông bỏ tay ra. Ông già rồi lẽ ra phải an hưởng tuổi già mà đi làm những trò này àh?” Lúc đó nhiều cũng la ó vì hành động đốn mạt của tên này nên hắn bỏ đi ra ngoài. Sau đó công an phường và một số mật vụ rủ nhau sang phòng bên cạnh ăn cơm, còn lại toàn mật vụ ở lại theo dõi để trấn áp chúng tôi. Khi ấy chị Nga nhận diện chính xác thêm nhiều gương mặt mặt vụ đã từng đánh đập chị. Anh Dũng cũng nhận ra thêm một tên đã trực tiếp đánh đập gây thương tích cho anh là tên Phạm Công Định, hàm tá. Chị Nga và anh Dũng chỉ thẳng vào mặt những kẻ đã đánh mình mà vạch tội và chụp ảnh chúng. Bọn chúng đang túm tụm trong phòng bên cạnh lao ra đánh chị Nga trước tiên, tôi lao vào can hô to công an đánh người (chị Nga vẫn bồng bé Tài) thì tên Xuân lao ra gằn giọng chửi luôn “Đ.C.M mày!” túm lấy tay trái của tôi và dùng nghiệp vụ đánh người được đào tạo bài bản bẻ quặt ngón tay cái khiến tôi bị sai khớp bong gân luôn. Câu chửi cực kỳ hùng hồn với biết bao uất nghẹn vì nãy giờ phải đóng vai đạo đức giả lố bịch. Câu chửi này có lẽ là một dạng mệnh lệnh kiểu mới vô cùng ngắn gọn của ngành công an, ngay lập tức tất cả công an và mật vụ lao vào đánh đập chúng tôi. Chúng đánh rất bài bản với sự phân công từ trước thủ đoạn phong phú mà chúng được dạy, học lẫn nhau và tự sáng tạo. Đầu tiên là chia chúng tôi ra, cứ khoảng 5,6 tên vây tròn lại đánh 1 người chúng tôi. Dùng số đông dồn người bị đánh vào tường, vào cửa hoặc bất cứ cái gì để họ không lui, không tiến, không thoát ra được. Đánh túi bụi phủ đầu. Thằng đứng sau cố luồn chân qua thằng đứng trước để đá, đạp nạn nhân ít nhất 1 cái (chắc để mai họp có cái mà báo công và cả vì tính côn đồ!). Thằng đứng trước nạn nhân thì dùng cùi chỏ tay huých thật mạnh ngược ra phía sau. Nạn nhân là đàn bà thì chúng cho công an mật vụ côn đồ là cả đàn ông và đàn bà đánh. Khi trong đồn thì cả công an mặc sắc phục và mật vụ đánh, ở ngoài đường thì công an mặc sắc phục không ra chỉ còn mật vụ, dân phòng và côn đồ. Tha hồ mà lừa người đi đường! Lúc đó tôi bị tên Phạm Công Định đá một cái rất đau vào ống chân phải, hiện giờ bị sưng và nhức tận xương. Ngoài ra một tên mật vụ mặc áo sơ mi trắng muốt không một vết nhàu đứng trước tôi dùng chiêu huých cùi chỏ tay ngược ra phía sau trúng ngực tôi. Cú huých khiến tôi choáng váng vì bất ngờ. Tất cả mọi người đều bị chúng chia ra đánh đập và xô đẩy ra ngoài. Riêng chị Nga và bé Tài bị chúng đánh ngã xuống đất vẫn còn ở bên trong. Tôi bị chúng lôi đẩy đi nhưng không hiểu sao tôi vẫn vùng ra được và lao ngược trở lại túm vào bọn công an mật vụ đang xúm đánh túi bụi chị Nga. Các bác dân oan phụ nữ lớn tuổi đều bị chúng xúm vào đánh hội đồng. Khi đẩy đánh được chúng tôi ra sân thì bỗng nhiên một nam mật vụ trẻ bế Lucas ra đưa cho tôi, còn nói “Con chị chị không lo àh.” Trời! Tôi bị bọn chúng đánh hội đồng lạc mất cả con ngay trước mắt hắn, lúc đó tôi vừa ngã xuống đất đứng dậy không vững, bay cả giày cả kính (may mà tìm lại được) ngay trước mắt anh ta nên ngay cả khi anh ta có ý tốt thì tôi cũng không thể chấp nhận được câu nói của này. Tôi chưa kịp nói gì thì chồng tôi lao đến bế Lucas và nói với cậu ta “Cậu bỏ cái giọng đạo đức giả ấy đi.” Tình huống hỗn loạn vô cùng. Khi chúng đẩy chúng tôi ra ngoài đường, tôi lấy trong túi ra tờ giấy A2 in dòng chữ “Đả đảo công án tra tấn dân thường” và giơ lên cho người đi đường xem. Tôi cuống đến nỗi làm rách một góc tờ giấy. Công an mật vụ vẫn tiếp tục đuổi đánh chúng tôi, thấy tôi làm thế thì chúng lại càng hăng. Tất cả chúng tôi kêu gào lên “Công an đánh người. Công an giết người. Xin giúp chúng tôi. Cứu chúng tôi với.” Rất nhiều xe các loại dừng lại nhưng không một người nào xuống giúp chúng tôi. Một số tên công an mặc thường phục ngay lập tức ngậm còi lao ra đường tuýt tuýt bắt mọi người phải đi thật nhanh. Tôi để ý thấy bọn chúng tập trung 5,6 thằng đánh anh Dũng rất dã man trong đó có tên mật vụ cao to mặc quần áo đen. Tôi cũng bị vây đánh nhưng không hiểu sao lúc đó tôi lại thoát ra được lao thẳng vào chỗ anh Dũng túm lấy 2 thằng mật vụ lôi ra. Tay thì cầm một chiếc giày đánh vào 1 tên nào đó. (Tiếc là giầy đế bằng!) Không phải vì sức của tôi mà lôi được 2 thằng mật vụ ra, có lẽ bọn chúng không ngờ tôi lại lao đến như một mũi tên nên buông anh Dũng ra trong một vài giây và anh Dũng đã tận dụng được cơ hội đó để thoát ra. Sau đó nhóm mật vụ quay sang tập trung đuổi đánh tôi. Đặc biệt là tên dân phòng già và và một nữ côn đồ cũng già lao vào đuổi đánh đòi giết đích danh tôi “Tao phải giết con đeo kính.”. Tên nữ côn đồ này gần 60 tuổi, cao to lực lưỡng khoảng 1,7m là chủ quán nước sát vách tường bên tay phải đồn nhìn từ ngoài đường vào, quán có cửa thông thống sang sân đồn. Tôi đoán nữ côn đồ già này là một chị cốt cán được sâu chuỗi bắt rễ từ thời cải cách ruộng đất nên mới trâu điên như thế. Chồng tôi bế Lucas ra giữa đường kêu cứu rất to thì ngay lập tức một nhóm mật vụ lao theo đuổi đánh. Lúc đó có đông người dừng lại xem nên có vẻ bọn chúng được lệnh rút bớt sang bên kia đường, chừa lại khoảng 20 chục tên đứng rình đánh chúng tôi tiếp. Ngay lúc đó thì bà con dân oan Dương Nội kéo đến sau khi bị chúng kết dàn hàng đẩy đi xa khỏi đồn (sau đó bà con dân oan đi ăn trưa luôn.) Bà con dân oan rất bất ngờ và ái ngại vì đã không tới giúp kịp khi chúng tôi bị đánh. Chúng tôi trò chuyện với nhau một lúc và quyết định đi về. Bà con dân oan Dương Nội đã đưa chúng tôi từng người về tận nhà. Chúng tôi rất xúc động và cám ơn sự quan tâm của bà con dành cho chúng tôi. Lòng tôi hơi trách một chút xíu, là giá như bà con nhận ngay ra trò ly gián của bọn chúng để đánh đập chúng tôi, cử vài người ở lại để trợ giúp chúng tôi, ít nhất là mặt truyền tin thì tốt biết bao. Âu cũng là một kinh nghiệm! Mãi đến lúc đó chúng tôi mới phát hiện ra bé Tài bị 2 cục u sưng to bằng quả ổi nhỏ trên trán. Thật tội nghiệp vô cùng! Còn bé Lucas thì không khóc, không nói gì, im lặng kinh hoàng, đôi mắt thất thần. Về đến nhà bé ngủ thiếp đi được nửa tiếng thì choàng dậy thét và khóc suốt nửa tiếng. Giọng bé uất nghẹn như chưa từng bao giờ như vậy. Chúng tôi dỗ dành mọi cách mà không dứt được con ác mộng của bé, đến nỗi vợ chồng tôi phát khóc theo. Cho dù chúng tôi hoàn toàn không gây ra sự kinh hoàng mà bé phải chứng kiến và nghe thấy nhưng trong lòng chúng tôi đều áy này và đau đớn vô cùng. Mẹ tôi bị tai biến não, bại liệt đã 8 tháng nay. Vợ chồng chúng tôi đi cùng nhau, bất đắc dĩ phải mang bé theo. Chúng tôi chỉ còn biết cầu Chúa mà thôi. Chúng tôi đến đồn công an Thụy Khuê hôm nay để đòi lẽ phải cho anh Trương Văn Dũng và những người bạn theo một cách chưa từng có mà lẽ ra nên có từ lâu rồi. Đó là trực diện, chính tại nơi đã diễn ra sự việc, chỉ mặt gọi tên những thằng công an khốn nạn. Bọn chúng đã thật sự bối rối khi chúng tôi làm như vậy vì chúng quá quen với việc người dân bỏ qua hoặc tạm thời bỏ qua chưa tính sổ tội ác của chúng. Chúng tôi muốn tạo nên một tiền lệ để những người dân oan khác làm theo. Và chúng tôi đem chính mình ra làm gương. Chỉ khi nào từng người dân oan Việt Nam tự mình trực diện đối mặt với tà quyền độc tài cộng sản thể hiện qua những tên công an, mật vụ, dân phòng, côn đồ, chỉ mặt gọi tên từng đứa yêu cầu chúng phải xin lỗi phải bồi thường những gì chúng đã gây ra thì sức mạnh nhân dân sẽ là con sóng thần cuốn phăng bọn chúng xuống địa ngục để được sống mãi với bác Hồ vĩ đại của chúng. (Tôi tự hỏi có bao giờ đám công an mật vụ này thắc mắc vong bác Hồ của chúng đang ở đâu không?) Chúng tôi đã chuẩn bị trước cho những tình huống xấu xảy đến. Và cuối cùng thì nó cũng xảy đến. Nhưng dù cho đã chuẩn bị trước thì chúng tôi vẫn kinh hoàng ghê sợ trước sự tàn bạo, dã man, bầy đàn, tiểu nhân và bài bản của công an mật vụ dân phòng côn đồ Việt Nam trong việc đàn áp người dân. Hiệu quả việc chúng tôi làm có thể không nhiều thậm chí rất ít. Nhưng giá như mọi người nhìn thấy sự bối rối chưa từng thấy trên gương mặt bọn chúng khi chúng tôi nói yêu cầu của mình. Chúng ta đã và đang dùng nhiều biện pháp để đòi lẽ phải, để tố cáo tội ác của công an cộng sản Việt Nam nhưng biện pháp này chúng ta chưa làm. Liệu rằng chúng ta chưa làm vì chúng ta thật sự cho rằng biện pháp khác tốt hơn? Hay là vì chúng ta sợ? Chúng ta chưa đủ can đảm đi đến và chỉ thẳng vào mặt những kẻ đã hãm hại chúng ta mà bảo “Chính mày là là người đã đánh tao. Mày phải xin lỗi và bồi thường cho tao.” Có thể những cách thức khác là khôn ngoan hơn. Nhưng dù nó có khôn ngoan hơn thì cuối cùng cũng đưa đến kết cục là từng tên tội đồ của người dân Việt Nam sẽ được chỉ mặt gọi tên để tố cáo tội ác của chúng, buộc chúng phải xin lỗi, phải bồi thường, phải ngồi tù, thậm chí là tử hình. Thưa công an, mật vụ, dân phòng và côn đồ Việt Nam, Vậy đó. Như tôi đã nói rõ ở trên. Khi đối mặt mang tính cá nhân với các anh như ngày hôm nay, chúng tôi chỉ yêu cầu các anh xin lỗi và bồi thường cho chúng tôi. Vậy mà các anh không chịu. Đầu óc các anh để đi đâu vậy? Các anh định đợi ngày dân chủ đến để các anh đi tù, thậm chí là bị tử hình sao? Ngày đó cũng không còn xa. Hãy tìm đọc về gói cứu trợ bất động sản 30 nghàn tỉ triển khai đã hơn nửa năm và giờ thì “mất hút con mẹ hàng lươn”. Cùng với nó là nợ xấu ngân hàng lên tới 30%. Đừng có nói với tôi là các anh và gia đình các anh không vay nợ ai và cũng chẳng cho ai vay nợ! QUAY ĐẦU LÀ BỜ là lời khuyên tôi dành cho những người hiếm hoi trong các anh còn lại chút lương tri. Còn nếu các anh vẫn tiếp tục trung thành tuyệt đối với cái nhà nước này mà hãm hại người dân thì các anh sẽ được thẳng tiến xuống địa ngục. Chúng tôi không oán thù, thậm chí còn chẳng quen biết các anh vậy mà các anh theo lệnh ai hay tự ý vì muốn tâng công mà đánh đập hãm hại người dân như vậy? Nếu tự tin việc làm của mình là đúng thì sao phải khiếp sợ không dám công khai? Không dám công khai thì khi bị tố cáo sao không dám nhận, lại chối phắt đi, lại tiếp tục đánh đập hãm hại người tố cáo mình. Các anh không cứu được nữa rồi! Tôi thật vô duyên khi khuyên nhủ các anh. Nhưng tính tôi là thế, nói hết ý một lần rồi đến đâu thì đến. Nói vô duyên là vì giờ này chắc các anh đang ngồi họp với sếp. Tự vuốt ve nhau rằng “Thật ra hôm nay bọn mình quá tử tế. Nói chung là cũng chỉ dọa chúng nó thôi. Bọn mình mà xuống đòn độc thủ thì làm gì chúng vẫn cười nói tay bắt mặt mừng với nhau được như thế.” Thế là yên tâm rồi! Tha hồ mà ăn no ngủ kỹ, giải trí yêu đương, gia đình trìu mến! Chưa bao giờ tôi bị đánh đập và thấy ghê sợ như ngày hôm nay. Nhưng ngày hôm nay tôi cũng phát hiện ra tôi mạnh mẽ hơn là tôi tưởng. Tôi hạnh phúc vì đã giúp được nhiều người và cũng được nhiều người giúp trở lại. Xin hãy truyền tin, chia sẻ và cầu nguyện cho chúng tôi! Lê thị Công Nhân 8h tối thứ 3 ngày 19.11.2013  
......

VĂN HÓA và NHÂN QUYỀN trong trào lưu Cộng sản

(Tầm Văn hóa thấp của trào lưu Cộng sản ) (*) 1- Quan hệ giữa Tranh đấu, Nhân quyền và Văn hóa   Mọi hoạt động Tranh đấu của con người từ cổ chí kim, không có gì ra ngoài ý nghĩa của chữ QUYỀN CON NGƯỜI. “Quyền Con người” ngày nay đã trở thành vấn đề toàn cầu không nước nào có thể lẩn tránh, điều ấy đánh dấu một bước bước trưởng thành khổng lồ của văn minh nhân loại. Ở đâu có áp bức bất công, ở đâu con người bị đối xử phi lý đều có thể tìm nơi “Quyền Con người” một điểm tựa để tranh đấu, ít nhất cũng là điểm tựa tinh thần. Mặt khác, từ ánh sáng chung nhất về “Quyền Con người”, con người có thể nhìn lại những trào lưu Tranh đấu của mình một cách có cơ sở khách quan, khoa học và sáng suốt hơn. Đã có nhiều cách tiếp cận để phân loại Quyền Con người, nhưng cách tiếp cận sáng tỏ nhất cho nhận thức là tiếp cận từ quan điểm Tiến hóa. Khi từ bầy đàn chuyển thành xã hội, Con người  http://diendanctm.blogspot.com.au/ cũng chuyển từ cuộc sống Sinh vật sang cuộc sống Con người, rồi từ chưa văn minh đến văn minh hơn... Càng văn minh, nội dung tính “Người” càng mở rộng, thì “Quyền Con người” cũng do đó được nâng cao dần. Càng cao bao nhiêu thì càng có tính VĂN HÓA bấy nhiêu. Với cách tiếp cận Tiến hóa, cũng là cách tiếp cận mang tính Văn hóa, nội dung Nhân quyền có thể và cần phải xếp thành ba bậc:   a) Quyền làm Người trước hết là QUYỀN ĐƯỢC SỐNG, hay quyền sinh tồn một cách tối thiểu như một sinh vật, tức quyền được sống và tự do về thân thể. Tạm gọi là “NHÂN QUYỀN BẬC 1”.   b) Tiếp sau đó là QUYỀN ĐƯỢC “ẤM NO”, nói rộng ra là quyền được chia sẻ những tiện nghi vật chất với những người trong cộng đồng trong đó con người sinh sống và làm việc. Quyền này tuy mang tính vật chất, nhưng cũng là sản phẩm đặc hiệu của xã hội loài người. Quyền này tuy đã có tính VĂN HÓA, nhưng còn thấp (Văn hóa theo nghĩa rộng, là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy, trong sự tương tác với tự nhiên và xã hội.). Tạm gọi là “NHÂN QUYỀN BẬC 2”, phần nào tương đương với “quyền Kinh tế”.   c) Cao nhất là những quyền của “Con người văn minh”, là những quyền mang giá trị “tinh thần”, gồm các sinh hoạt tư tưởng, khoa học,văn hóa, nghệ thuật... liên quan đến các nhu cầu hưởng thụ cao, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ các giá trị tinh thần,và nhu cầu làm chủ xã hội. Tạm gọi là “NHÂN QUYỀN BẬC 3” (hay QUYỀN TỰ DO-DÂN CHỦ). Đây là những quyền có tính VĂN HÓA cao.   (Tất cả những khái niệm vẫn được dùng trong Quyền Con người như quyền kinh tế-xã hội, quyền chính trị, quyền dân sự, quyền văn hóa..., rồi quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, vân vân, đều mang những nội dung không thể tách biệt rành mạch, chỉ nên hiểu một cách linh động, qui ước thôi.). 2- Vị trí của phong trào CỘNG SẢN trong tiến trình phát triển VĂN HÓA và QUYỀN CON NGƯỜI Ba bậc thang nói trên của Quyền Con người không hoàn toàn tách rời nhau, song về cơ bản nếu chưa có nhân quyền bậc thấp thì chưa thể có nhân quyền bậc cao hơn, ví dụ chưa được sống và được ăn thì chưa thể nói đến quyền tự do ứng cử!   Chưa có bậc thang nào thì phải đấu tranh cho bậc thang đó. Loài người phát triển không đều, nên cả ba cấp Văn hóa, ba cấp Nhân quyền, và do đó ba cấp Tranh đấu luôn cùng có mặt trên thế giới. Trong khi người này, ở đây, đang đòi quyền tự do tư tưởng, tự do ứng cử (nhân quyền bậc 3) thì người kia, ở kia còn phải đòi quyền được làm việc và trả lương công bằng (nhân quyền bậc 2), và có khi ở ngay nơi đó, có người chỉ mong đòi cho được quyền tự do thân thể, an toàn sinh mạng (nhân quyền bậc 1).   Trong bài “Đôi điều suy nghĩ của một công dân” trước đây, tôi đã đưa ra khái niệm “Quan hệ dọc” và “Quan hệ ngang” trong sự tiến hóa xã hội. Một “Hình thái Kinh tế-Xã hội” tốt hay xấu cho thấy mối quan hệ dọc của xã hội ấy trong dòng thời gian, là tiến hóa hay thoái hóa. Nhưng không phải mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng (hay bị chịu đựng) mức độ cao hay thấp của xã hội ấy. Có sự không đồng đều hay sự lệch pha văn minh giữa các quốc gia đương thời, thậm chí giữa các nhóm người trong cùng một xã hội, gây nên áp bức bất công, đó là mối quan hệ ngang trong không gian địa cầu giữa những người đang sống. Quan hệ dọc và ngang độc lập với nhau nhưng tác động tương hỗ với nhau.   Thế kỷ 18-19, con tàu Văn minh Công nghiệp bắt đầu tăng tốc, gây sốc mạnh trên khắp thế giới, khiến cho khoảng cách Nhân quyền tách ra rất xa. Trong “quan hệ dọc”, đây là sự tiến bộ rất lớn của xã hội, nhưng trong “quan hệ ngang” nó tạo ra sự mất công bằng ghê gớm. Một loạt ông chủ thành tỷ phú trong khi vô số người khác bị bần cùng hóa. Hình thành một “giai cấp Vô sản” đông đảo, chẳng những bị bần cùng hóa mà bị đe dọa cả sự sống còn. Được trang bị bằng lý luận Mác xít, họ cùng với những người lao khổ khác trở thành lực lượng trung tâm của phong trào Cộng sản.   Từ một mức sống thấp như vậy, cả về vật chất cũng như tinh thần, họ đứng lên đòi Quyền Con người, thực chất là đòi Quyền sinh tồn tối thiểu và Quyền được “ấm no”, tức là tranh đấu cho bậc thang thứ nhất và thứ hai của thang Nhân quyền, ứng với tầm Văn hóa thấp, như trên đã trình bày.   (Có thể họ có ước mơ xây dựng một cuộc sống Cộng sản rất cao sau này, nhưng đấy lại là chuyện khác, chuyện ấy không thuộc phạm vi “tranh đấu” và “đòi”. Ai ước mơ gì cứ việc ước mơ, nhưng không ai có thể đòi xã hội cái sản phẩm mà chưa ở đâu có, lại càng không có quyền bắt người khác phải ước mơ như mình.) Nội dung phong trào Cộng sản gồm hai mặt:   * Nhu cầu có tính chất khách quan đối với trào lưu “Cộng sản” là một cuộc đòi “Quyền Con người tối thiểu” cho những người cùng khổ, tức là để giải quyết mối “quan hệ ngang” về sự công bằng, trong đó có sự công bằng giữa các dân tộc. Ở thời điểm lịch sử này phong trào Cộng sản đã có những đóng góp xuất sắc. * Còn việc muốn tạo ra một xã hội mới khác hẳn, văn minh hơn, giải quyết sự nghiệp tiến hóa trong “quan hệ dọc”, thì đây là một hoang tưởng, phi khoa học. Hoang tưởng này tuy có cung cấp thêm sức mạnh cho cuộc đấu tranh trên kia, nhưng không được “lịch sử giao phó” nên lịch sử cũng không cung cấp những tiền đề, do đó chẳng những không thành sự nghiệp gì mà trái lại còn gây ra những điều kỳ quái, mà bây giờ “lịch sử” đang đòi hỏi, đang “giao nhiệm vụ” phải sửa chữa, xếp dọn lại tất cả những ngổn ngang bê bối do ảo tưởng Cộng sản gây ra. Tóm lại Cộng sản là một trào lưu đấu tranh cho Nhân quyền tối thiểu, lật đổ vì nhu cầu sinh tồn, nhưng còn ở tầm Văn hóa thấp, có lý và chỉ có ích cho những xứ sở còn chậm phát triển. Giai đoạn ”phá” thành công nhưng giai đoạn “xây” thất bại nên kết quả cuối cùng là tác hại, gây khó cho con đường phát triển.   Muốn hiểu điều này, cần phân biệt giữa tính chính đáng hay tính bức thiết của một phong trào tranh đấu với tầm văn hóa của phong trào ấy. Thật dễ hiểu, cuộc tranh đấu cho những nhu cầu càng ở tầm sinh tồn sinh vật bao nhiêu thì càng bức thiết, càng chính đáng bấy nhiêu, bởi không có nó thì xin đừng đòi hỏi nhu cầu Văn hóa gì hết. Tuy nhiên, tính “chính nghĩa” không đồng nghĩa với tầm cao Văn hóa. Nổi dậy chống bất công là chính đáng, nhưng sau đó xây dựng thế nào là điều quan trọng hơn. Điều thứ hai cần đề cập là quan hệ giữa Chiến thắng và Văn hóa. Về toàn cục thì kẻ chiến thắng sau cùng là Văn hóa, nhưng trong một trận cọ xát trưc tiếp thì thường xảy ra điều ngược lại:   càng có tầm văn hóa thấp càng dễ chiến thắng, cái bạo tàn dễ thắng cái văn minh. Quy luật này thấy rõ ngay trong đời sống hàng ngày. Cũng dễ hiểu vì ở tầm văn hóa cao người ta bị hạn chế bởi rất nhiều điều không thể làm nên tự mình trói tay mình, còn kẻ văn hóa thấp thì có thể giành chiến thắng bằng mọi giá, có thể “phóng tay phát động quần chúng”… Chủ nghĩa Cộng sản sẵn sàng hy sinh cả 100 triệu người thì chiến thắng nhất thời là dễ hiểu.   Tính Văn hóa thấp của “Quốc tế” Cộng sản được in dấu ở tất cả mọi mặt của phong trào ấy. Chỉ cần dẫn ra mấy dấu vết đã in vào bài “Quốc tế ca” cũng đủ chứng minh: Về lời ca để hiệu triệu và tập hợp lực lượng: “Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...”. Những đối tượng này là ở bậc thang đáy của xã hội. Xã hội phải bức thiết dành hết tình cảm cho họ, phải bức thiết đem lại ngay quyền sống cho họ, nhưng trào lưu tranh đấu mà do họ “lãnh đạo” thì chỉ có thể là một trào lưu ớ tầm văn hóa thấp, tương xứng với họ, chắc chắn sẽ bị kẻ gian lợi dụng, là điều quá hiển nhiên.   “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình” là động cơ thật của cuộc tranh đấu. Biện pháp giải quyết là “phá sạch tan tành”, “quyết phen này sống chết mà thôi” để “tước đoạt lại kẻ đã tước đoạt” như Chủ nghĩa đã chỉ rõ. Cả đối tượng, mục tiêu lẫn biện pháp đều ở tầm văn hóa thấp. Bây giờ nhiều người trong đội ngũ Vô sản ấy đã thành đại hữu sản do tước đoạt. Họ sẽ nghĩ sao nếu những người dưới mức nghèo khổ đông đảo ở nước ta bây giờ cũng theo chủ nghĩa ác hô hào nhau lặp lại một phong trào tước đoạt lại như thế? Hẳn họ phải lên án đó là cách làm vô văn hóa chứ gì nữa?   Nếu thấy cần làm lại những bài ca, thì đáng lẽ phải làm lại bài “Quốc tế ca” này chứ không phải làm lại Quốc ca như đã từng chủ trương! Sản phẩm nào của phần “Dân tộc” nói chung là lành mạnh, chỉ những sản phẩm của phần “cách mạng” “giai cấp” mới là cái cần được làm lại! Nhưng nói vậy thôi. Cái đáng phải làm lại nhất là “làm lại” toàn bộ Học thuyết, mà tính khoa học của nó đã được ngộ nhận hoặc được châm chước, bởi khi ấy người ta nghĩ rằng “đấu tranh đây là trận cuối cùng”. Cốt sao lợi quyền về tay cái đã. Ta đấu tranh rồi, ta tước đoạt được rồi thì trường đấu tranh từ đây khóa sổ, không ai được đấu tranh lộn xộn gì nữa, từ đây là hợp lý rồi, không phải “xét lại” nữa, ai chống lại ngai vàng mà ta cướp đoạt thì quy thành phản động hết? Liệu như thế có phải là “qua cầu rút ván” chăng? Tầm Văn hóa như vậy là cao hay thấp? Ý tưởng lấy Búa và Liềm làm biểu tượng cho lực lượng tiên tiến nhất, tiêu biểu cho Thời đại cũng là một cảm hứng ở tầm Văn hóa ấy. Nhưng có thể nào khác được, khi trào lưu “Tiến hóa” ấy lấy động lực ở người cùng khổ, lấy điểm tựa ở sự bần cùng?   Ở một cuộc tranh đấu có tầm văn hóa cao, sự chọn lựa chỉ là giữa cái đã tốt (tương đối) với cái tốt hơn, tức là đấu tranh trong hòa bình, không có tình huống “một mất một còn”. Cuộc đấu tranh giai cấp “một mất một còn” luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt mội trường, hủy diệt những công trình văn hóa, và hủy diệt con người thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những chiến thắng ấy thật đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng và 7-8 người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục. Ở tầm văn hóa cao, người tranh đấu không bao giờ chỉ quan tâm đến chiến thắng của mình mà quên những giá trị chung của xã hội. Ở tầm văn hóa cao thì sự tranh giành quyền lãnh đạo sẽ xảy ra giữa những người đã ở tầm cao, có tài sản và sự nghiệp để bảo hành. Trong thực tế, không ai dám chơi với những kẻ “nếu mất, nó chỉ mất cái xiềng, còn nếu được thì lại được cả thế giới” (!). Vì trong trường hợp ấy, con người không còn gì để đắn đo cân nhắc, nó chỉ có một con đường là lao vào cuộc sinh tử (quyết phen này sống chết mà thôi!), và sẵn sàng “phá sạch tan tành” tất cả những gì cản đường. (Ta nhận rõ tính kém văn hóa của những người ấy nhưng không quy lỗi cho họ!). Họ sẽ tuyệt đối hóa mục tiêu “Thiện” một cách chủ quan và sẵn sàng làm mọi việc Ác mà không hề phải cắn rứt lương tâm. Họ sẽ quyết định những điều hệ trọng một cách đơn giản, họ sẽ coi rẻ sinh mạng của họ cũng như sinh mạng của cả dân tộc! Một sức mạnh như thế rất khó cho việc chống lại, nhưng lại rất dễ cho việc lợi dụng! Stalin, Mao Trạch Đông... đã là “những nhà lợi dụng vĩ đại”, và đã đào tạo biết bao nhiêu học trò! Nhân đây, tôi xin “mở ngoặc” để nói đôi lời về những tác phẩm viết về chiến tranh. Người ta thấy Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là không chấp nhận được. Quan điểm Cộng sản không cho phép được buồn trong chiến tranh, trên đường ra trận phải vui như trẩy hội (!). Bây giờ hãy ví dụ: gia đình ta đang sống yên ổn thì bị cướp. Đương nhiên cả nhà phải đứng dậy đánh cướp, bỗng dưng ta thành những kẻ phải giết người để tự vệ. Giả sử ta đã giết sạch được cả mười tên cướp chết nhăn răng ra, thì khi phải nhìn lại cuộc chiến đấu ấy ta có nên kể lại một cách hứng khởi, vênh váo hay nên coi đó là một kỷ niệm “buồn” trong đời? Tôi nghĩ chẳng những phải biết “buồn” mà suốt đời còn phải tự day dứt. Càng phải day dứt hơn nếu đã hy sinh mất những người thân và những người ưu tú. Càng có văn hóa càng thấy day dứt. Bởi mình còn tồi, còn kém nên có nhiều cuộc chiến tranh bất đắc dĩ phải làm, nhưng không có cuộc chiến tranh nào lại đáng tự hào cả. 3- Đâu là tương lai của nền Văn hóa Vô sản Mỗi Thời đại có Văn hóa đặc trưng của nó. Bằng biện pháp “Cách mạng”, với bạo lực quần chúng và tận dụng thời cơ, người Cộng sản có thể cướp chính quyền ngay tức khắc, nhưng văn hóa thì không cướp được; có xây dựng nổi nền Văn hóa đặc trưng của mình hay không, điều ấy mới xác định vị trí của mình trong lịch sử là có thật hay không. Thành bại cuối cùng là ở Văn hóa. Hãy nhìn lại xem việc xây dựng nền Văn hóa Vô sản thành bại ra sao? 3a- Chiến dịch xây dựng “Con người mới”   - Suốt từ những năm 60-70, khi ấy tôi dạy học nên được chứng kiến một chiến dịch dai dẳng và vất vả để cố xây dựng cho được hình mẫu “Con người mới Xã hội Chủ nghĩa” (vì “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa”). Sách giáo khoa, tài liệu tuyên giáo, truyện ngắn, truyện dài, sân khấu, điện ảnh, báo chí, phong trào Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh... xây mãi mà không mẫu nào có thể đứng được. Nếu không bám víu vào những phẩm chất của “con người cũ truyền thống” như lòng yêu nước, lao động cần cù, chịu đựng gian khổ hy sinh, thương người hoạn nạn... thì “Con người mới” không còn có xương có thịt gì cả.   Cái chất “mới” và “xã hội chủ nghĩa”, chất “giai cấp”, chất “Đảng”, chất “thời đại” tô vẽ mãi vẫn cứ mờ nhạt, khô cứng, thậm chí (nhiều nhà văn, nhà báo kể cho tôi nghe) khối lời nói anh hùng, nhân vật anh hùng là do ta bịa ra. Nhưng ngần ấy thứ con người mới giả vẫn không địch nổi cái đội ngũ hùng hậu của những “con người mới thật”, tệ hại, bằng xương bằng thịt cứ tuôn ra từ cuộc đời thật, ngày càng đông về số lượng và chủng loại, càng điển hình và độc đáo về phẩm chất. Học dốt, bị cô giáo cho điểm kém, bèn lừa lúc cô một mình trong lớp, dùng dao dọa, bắt cô đứng lên bàn, tụt quần ra, thế thôi!... Con muốn lấy tiền của bố, bèn cắt tiết bố hứng vào chậu hẳn hoi rồi cho lợn ăn. Chồng băm thịt vợ cho vào chum nước rồi dùng dây may-xo để nấu. Công an bảo vệ trên cầu Chương Dương Hà Nội cũng cướp của, giết người (mà có cấp chính quyền còn định bao che), vân vân. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh nổi tiếng nhiều độc giả nhất vì chuyển tải được cái vốn “người tốt việc tốt “ rất phong phú ấy! Xe khách đang chạy, bỗng trước mặt hiện ra hai ông Công an mặc sắc phục, cầm “dùi cui” đàng hoàng, đưa còi lên miệng. Người tài xế bảo phụ lái: “Hôm nay làm ăn không được, mày “thí” cho chúng nó 5 đồng thôi!”. Rồi quay sang cười với tôi: “Bây giờ đâu cũng thế cả, bác đừng cười!”. Anh phụ lái giở cái giấy phép ra, khéo léo kẹp tờ 5 ngàn vào giữa, hơi thò ra một tý để ai có tình ý thì nhìn thấy, rồi nhảy xuống để trình…! Xe lại chạy ngay chẳng cần kiểm tra. Giữa giờ, một anh bạn đến thăm tôi. Tôi hỏi đùa: Đang “giờ chính quyền” mà đi được à? Anh bạn tôi cũng cười: “Mình không có tài ăn cắp thì ăn cắp tý thời gian vậy. Ăn cắp thời gian bây giờ là lương thiện nhất đấy ông ạ!”. Tôi bảo: “Sao bây giờ cậu ăn nói “mất lập trường” thế?”. Anh lại bô bô: “Mình là “con người cũ” nên cứ nói toẹt ra,chứ có phải “con người mới” đâu mà vòng vo!”. Trong một cục diện xã hội như thế, “con người mới” lý tưởng nào có thể sống được? Có thể nói 90 phần trăm tác phẩm văn học được giải trong những năm gần đây là tác phẩm “phản diện” mang tính phê phán, và những “điển hình” xây dựng thành công là những điển hình về mặt trái của Con người và xã hội. Người ta bảo: hãy quên chuyện “Con người mới” đi! hãy tìm lại những “Con người cũ” tử tế. Nhiều bài báo viết: Bao giờ cho đến Ngày xưa? Rất nhiều cuộc “Về nguồn” được tổ chức: Nào thi sáng tác văn thơ “Về nguồn”, đua xe đạp “Về nguồn”! Nào thi học sinh giỏi theo nghi thức thời cổ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ!... Chưa biết trong đục thế nào, và mỗi người “Về nguồn” với một ý đồ khác nhau, nhưng người ta đua nhau “Về nguồn”, vì ai cũng thấy trước mắt mình nhiều cái “mới” nhăng nhít quá! Có lời bình rằng: Trước đây bỏ “nguồn” để đi tìm Thiên đường Cộng sản, nay lại hò nhau Về nguồn, thật như đèn cù! Còn đang cố tìm một mẫu người “Trung với Đảng, Hiếu với Dân” thì đùng một cái, một ông cán bộ Cộng sản khá cao cấp là Thân Trung Hiếu, đầy đủ cả “Trung” cả “Hiếu”, làm tiêu luôn của Dân 48 tỷ đồng! Dân bảo: Tay này chắc là “Trung”, nhưng mà bất “Hiếu”! Truyện”Con người mới” kể cả ngày không hết. Không gì bê bối hơn một nền Văn hóa như thế. - Nói đến Văn hóa Vô sản không thể quên nước Cộng sản lớn, quê hương của “Con người mới” Lôi Phong, của cuộc Đại Cách mạng Văn hóa, với mười mấy triệu Hồng vệ binh vô học choai choai, dám đốt hết sách vở và lôi cả những nhà Văn hóa ra đấu tố, quét sơn đỏ khắp người rồi lôi đi diễu trên đường phố, với hàng đoàn xe tăng đi nghiến nát những em sinh viên nhịn đói để đòi dân chủ, với công đào tạo ra những tên lính Polpot ở tuổi chưa ráo máu đầu đã một mình dùng cuốc đập chết cả ngàn người trong tay!...   Những hiện tượng “đại văn hóa” ấy mà không phải do bản chất thì do ngẫu nhiên chăng? Hay do Đế quốc Phong kiến để lại? Hay chỉ có thể từ Văn hóa Vô sản, Văn hóa Đảng mà ra? Không phải ngẫu nhiên mà cái pháo đài Cộng sản nổi tiếng giáo điều với quan điểm “Đế quốc Mỹ là con hổ giấy”, “gió Đông thổi bạt gió Tây”... lại cũng chính là nơi sản sinh ra quan điểm “đổi mới” thực dụng nổi tiếng “mèo trắng mèo đen” không quan trọng, miễn là “bắt được chuột”! Có thể coi hai thái độ cực tả và cực hữu ngược nhau ấy (từ quá giáo điều sang quá thực dụng) là quan hệ bù trừ, nhân quả, Nhưng nghĩ lại thì thấy hai thái độ ấy cũng từ một gốc mà thôi, đều phản ánh cùng một bản chất duy lợi của tầng lớp cầm quyền, cùng một xảo thuật tuyên truyền, và cùng một tầm văn hóa. Khi trước giáo điều bao nhiêu thì nay lại thực dụng bấy nhiêu, ta với Tàu cũng “một mẹ sinh ra” cả!   Tóm lại, khi mẫu người Phong kiến đã hết thời thì phải hướng con người theo những giá trị phổ quát của thế giới hôm nay: con người của văn minh công nghiệp và tin học, của kinh tế thị trường, của dân chủ pháp trị. Nếu cứ chập chờn, nghĩ đến một thứ “con người mới xã hội chủ nghĩa” giả định nào đấy, thì kết quả là dứt con người ra khỏi văn minh nhân loại, nếu không ù lỳ như những bóng ma ảo tưởng cổ lỗ lỗi thời thì lại thành những kẻ lừa đảo, lưu manh… rất hiện đại! 3b-Thiếu Văn hóa từ gốc   Một nền văn hóa có thể bị băng hoại dần dần do những sa sút của chính trị và kinh tế. Nhưng nền Văn hóa Vô sản tự nó đã có những khiếm khuyết, ngay cả lúc còn thịnh trị. * Nền Đạo đức Vô sản thâu nạp đủ điều đạo đức của Nho giáo, từ Trung, Hiếu, Đức, Tài, Lễ, Nghĩa, đến Cần, Kiệm, Liêm, Chính, đến Chính tâm tu thân, đến kế hoạch trăm năm trồng người, đến điều lo trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ, đến Dân là gốc, coi cán bộ là nô bộc của dân, dĩ bất biến ứng vạn biến... tất cả đều đã có trong sách vở Nho giáo. Duy có chữ QUÂN TỬ là cái tử tế nhất của Nho giáo thì ta tránh hẳn. Các nhà lý luận viện cớ rằng Quân tử là tầng lớp bóc lột nên ta không học. Nếu những phạm trù NHÂN, THIỆN, ĐỨC còn mang tính lý tưởng, hoặc còn chung chung, trừu tượng, thì phạm trù QUÂN TỬ đưa thiện-ác vào tới con người cụ thể, tới tình huống cụ thể, thái độ ứng xử cụ thể. Mỗi tình huống ấy là một cuộc thử thách quyết liệt: anh nói anh “thiện”, anh “đạo đức” thì anh thể hiện ra đi, quyết định lấy một thái độ ứng xử đi; hoặc là hành động một cách”QUÂN TỬ”, hoặc là hành động một cách “TIỂU NHÂN”! Những bài học về QUÂN TỬ thiết thực lắm. QUÂN TỬ rất gần với TRƯỢNG PHU và THƯỢNG VÕ. Người ta thua trận, người ta nằm trong tay anh rồi, anh làm gì người ta cũng phải chịu, thì anh sẽ đối xử thế nào? Hoặc là anh học người xưa, đem tất cả sổ sách thù hận đốt đi để coi nhau như anh em, hay anh lục đống hồ sơ cũ ra, bới lông tìm vết để phân biệt đối xử? Anh có mọi quyền lực trong tay, anh muốn nói gì, nói cả ngày cũng được, thì anh có nhường một tờ báo, một diễn đàn cho những người khác trình bày tiếng nói của họ hay không? Anh nắm hết mọi sức mạnh trong tay, muốn bày đặt cái gì cũng được, thì anh có dành cho Nhân dân một Hội đồng thật sự để giúp anh thu thập tiếng nói của Dân, hay anh lại tìm cách đưa Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy sang phụ trách luôn “Hội đồng Nhân dân” cho nhất quán? Anh có quyền ký một chữ thì người khác có nhà ở, vậy anh có thắng nổi cái lòng tham của con người, dám trọng nghĩa khinh tài mà từ chối mấy lạng vàng đút lót để dành cái nhà ấy cho một thầy giáo nghèo được không? Người Cộng sản thích chơi trò “Đạo đức” nhưng không dám chơi trò “Quân tử”, thiệt đến quyền lợi sát sườn ngay! Mặc dù trên đời cái gì cũng có thể làm giả nhưng thực tế cho thấy Đạo đức giả thì dễ nhưng Quân tử giả thì khó hơn nhiều. Chủ nghĩa Phong kiến so với ngày nay thì vô cùng tồi tệ, nhưng thời thịnh trị nó đã cung cấp cho loài người rất nhiều Người Lớn, là nhờ có một tinh thần QUÂN TỬ. Dùng Đạo đức, con người vẫn có thể lừa cả mình, nhưng khi trong lòng đã cất lên tiếng QUÂN TỬ thì con người phải đối diện với chính lương tâm nó, khó trốn tránh hơn. * QUÂN TỬ thì phải CHÍNH DANH! Có người bảo “Chính danh” là thủ đoạn của bọn thống trị nhằm phân biệt ngôi thứ. Không đúng! Công bằng hay không là ở chỗ “định danh”, định nội hàm của Danh, chứ khi định Danh rồi thì phải theo Danh mà làm! “Danh” một đàng “Thực” một nẻo thì đại loạn. Trước tình hình giáo dục lộn xộn bát nháo phải kêu gọi “Trường ra trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò” là rất đúng, là phải “chính danh”! Nhạc trưởng cũng phải ra Nhạc trưởng! Anh muốn điều khiển dàn nhạc thì anh đứng ra giữa sân khấu mà bắt nhịp cho mọi người trông thấy, chứ không thể chơi trò “giật dây” từ trong hậu trường, hay đứng lấp ló ở chỗ “cánh gà” sân khấu, chờ xem nếu được hoan hô thì ra nhận hoa, mà bị la ó thì chuồn thẳng, tìm mãi chẳng biết ai vừa chỉ huy! Anh muốn chỉ huy cũng được (cứ cho là “được” đi), nhưng nếu chỉ “hiến định” sự chỉ huy, mà không “luật hóa” sự chỉ huy ấy thì ai chẳng thích chỉ huy? Mà phải là luật của Dân, chứ Đảng Cộng sản tự làm luật cho mình thì đâu cũng hoàn đó. Nếu có “luật lãnh đạo” cho nghiêm minh (lãnh đạo kém, gây thiệt hại lớn sẽ bị đi tù!) thì chắc Đảng sẽ tự xin rút điều 4 trong Hiến pháp. Có luật ấy thì khối lãnh tụ Cộng sản đã đi tù lâu rồi, không tin cứ đưa ông Lê Đức Thọ ra Toà án của Nhân dân làm ví dụ thử xem. Trong dân mình có thói khôn vặt: nói thế mà không phải thế! Nói “dzậy” mà không phải “dzậy” nên khi gặp chủ nghĩa Mác Lê thì tâm đắc vô cùng, cả hai đều thích “nhân danh” nhưng không thích CHÍNH DANH. Trong cuốn Đề cương giới thiệu Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ quá độ (tức Cương lĩnh của Đại hội Đảng lần thứ 7) có câu: “Nguyên tắc thứ nhất nói về xây dựng Xã hội chủ nghĩa, tuy không dùng chữ Chuyên chính Vô sản, nhưng nội dung của nó vẫn quán triệt bản chất Chuyên chính Vô sản” (sđd.trang 15). Thế thì còn đâu là chính danh? Có lẽ do quá quen với “phương pháp luận” Mác xít nên người viết câu ấy không cảm thấy tính TIỂU NHÂN trong đó. Thử hỏi tại sao lại thế: nếu thấy Chuyên chính Vô sản là hay thì phải công khai bảo vệ luận điểm ấy, nếu thấy là dở thì phải thực tâm từ bỏ, chứ ngoài mặt nói với dân không có Chuyên chính mà nội bộ Đảng thì lại dặn nhau: Cứ Chuyên chính mà làm! Thì chẳng Quân tử tí nào.   Điều nói dối ấy đã làm dân mất lòng tin, đã đành, nhưng trong Đảng thì đấy chính là sự dạy nhau nói dối, và Đảng viên sẽ dùng cách ấy để ứng xử với Đảng: Nghị quyết nói thì cứ để Nghị quyết nói, mình có cách “vận dụng” của mình, Nghị quyết “dzậy” mà không phải “dzậy”!   Người Việt Nam muốn ra người Quân tử đã khó, người Cộng sản Việt Nam muốn ra người Quân tử lại càng khó hơn. Bởi thế tôi thật kính trọng thái độ Quân tử của tướng Trần Độ khi ông viết cho Đảng những dòng sau đây: “Cần phải dứt khoát chọn một trong hai tư tưởng chỉ đạo: Hoặc thực hiện Chuyên chính Vô sản, mà Đảng là đại diện và nhân danh (liệu có dám ngang nhiên như vậy không – HSP bổ sung). Hoặc thực hiện một Nhà nước Dân chủ pháp quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân. Không thể cứ nói nửa nọ nửa kia nhập nhằng.” * QUÂN TỬ lại gắn với LIÊM SỈ. Liêm sỉ là biết tự xấu hổ, trước hết là với lương tâm mình. Bậc trượng phu không được lấy nê vì Nghĩa lớn mà bước qua những điều Sỉ nhỏ. Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương tuy không có tội, nhưng xấu hổ vì không làm tròn nhiệm vụ giữ thành nên quyết tự vẫn. Càng là bậc đàn anh thiên hạ, lòng tự sỉ càng phải lớn. Có khi đời tha cho mình mà mình không tha cho mình được. Ở ta, người Cộng sản làm hỏng việc thì tìm cách chuồn lên ghế cao hơn (mà lại chuồn được!). Chuyện ấy địa phương nào cũng có, Trung ương lại càng điển hình. Phải chăng vì bài ca “lợi quyền” kia đã ngấm vào xương thịt?   Để riễu cái thói đạo đức giả nhưng lại vô sỉ, bám ghế đến cùng, người dân nhại lời các quan chức “cách mạng giả cầy” thế này: “Ông không ham chức quyền, ông chỉ ham phục vụ, ông quyết ở lại làm đầy tớ của dân! Đứa nào ngăn không cho ông làm đầy tớ ông đánh bỏ mẹ.” (!) Nhiều lúc tôi tưởng tượng như cả dân tộc mình đang ở trong trạng thái thôi miên. Tôi nghĩ đến một ví dụ khác, một người đủ tư cách thay mặt cho Đảng. Tôi không có ý định chỉ trích cá nhân ông, nhưng trường hợp của ông lại rất điển hình. Trước đây ông nổi tiếng là người Mác xít gang thép, chẳng những trong việc “đánh Đế quốc Mỹ và tay sai”, mà cả trong việc đánh đồng bào mình, những nhà “công thương nghiệp tư bản tư doanh” (họ mang tiếng là Tư sản nhưng chưa giàu bằng các vị Tư sản đỏ bây giờ). Hiện ông cũng đang rất gang thép trong việc kiên trì Mác-Lê và định hướng Xã hội chủ nghĩa. Ấy thế mà đùng một cái, ông ngồi sánh vai với “ bọn tay sai Nam Hàn” (cái “bọn” mà tôi còn nhớ trước đây chúng “giết bộ đội mình như ngóe”), ngồi để ký kết những chương trình mà chắc chắn là phản lại cái “chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” của ông trước đây (và nhận quà biếu tới 2 triệu đô-la). Tôi tự giải thích: có thể sự quay ngoắt 180 độ này là một sự tỉnh ngộ, đổi mới chân thành, muốn làm bạn với tất cả mọi người. Có thể thế lắm chứ! Nếu ông đổi mới như vậy thật thì quá tốt. Nhưng, người sám hối có những “triệu chứng lâm sàng” rất dễ nhận thấy. Biểu hiện buộc phải có là “ngượng”, là “thẹn”, khiến cho những người khó tính nhất cũng phải tha thứ. Trong trường hợp này, các “triệu chứng lâm sàng” đáng yêu kia hoàn toàn không có. Người đã có sai lầm tội lỗi chẳng những cứ thản nhiên cười nói, mà còn giữ tư thế huấn thị, kiên trì chủ nghĩa, xử tội, “chém tay” quát nạt thiên hạ, thì đây chỉ có thể là sự thiếu nhân cách đến vô liêm sỉ. Điều lạ nữa là tại sao tất cả những cán bộ xung quanh, trước hết là những người hữu quan, lại không ai lấy thế làm xấu hổ, một thứ xấu hổ mà chỉ cần là một người có nhân cách bình thường thôi cũng không chịu nổi! Mà đâu phải riêng việc đó, bao nhiêu điều quay quắt, lộn ngược lộn xuôi rành rành trước mắt, mà lại có thể tươi tỉnh như không? Mà đều nghĩ được cách giải thích, mà lại tiếp tục làm tuyên huấn cho mọi ngưòi không hề ngượng mồm? Tôi không muốn lên án riêng ai, bởi thế tôi thấy chỉ có thể giải thích đây là một trạng thái thôi miên tập thể. Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị:” Hãy coi chừng! không được trái ý Mác-Lê! Hãy coi chừng, không được trái ý Mác Lê!” như sợ một bóng ma trong tiềm thức, một tay cầm gậy một tay cầm củ cà rốt. Mác-Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác-Lê giống mấy ông Công an, giống bà trưởng phòng Tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống những kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ... Mác-Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy, con người phải quên nhân cách riêng, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn!. Cái gọi là “Lý tưởng Cộng sản”(mà chưa biết một thế kỷ nữa có thực hay không) bây giờ chỉ còn là cái bình phong tự lừa dối lương tâm để làm điều vô liêm sỉ, phá bỏ chiếc bình phong che mặt ấy chính là giúp người ta trở về con người có nhân cách thật, đó là việc làm nhân ái, cứu người! Bởi Dối trá là điều kiện cần và đủ cho cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản tồn tại và phá phách xã hội. Không có vị anh hùng dân tộc nào đủ sức chống lại con Quỷ dối trá ấy, trừ phi mỗi người công dân dám tự dấn thân một lần “Nói thật để cứu nước”!   Khi học môn giải phẫu cơ thể, chúng tôi nhớ mãi một dây thần kinh chỉ huy việc khép đùi nên tên  dây “thần kinh thẹn”. Bây giờ mỗi khi cùng nhau tâm sự chuyện đời, chúng tôi lại nhìn nhau chua chát: Bọn mình bị liệt mất dây “thần kinh thẹn” rồi. (Nhưng khi nghe những thằng bạn thao thao bất tuyệt trên Ti-vi chúng tôi vẫn thấy thẹn thay). Cảm ơn Tạo hóa đã cho Con người biết thẹn, nếu không, ai giữ Văn hóa cho Người! 3c- Hiện tình “Văn học Cách mạng” Tính cách Dân tộc ấy, hoàn cảnh lịch sử ấy, bản chất ý thức hệ ấy đã quyện vào nhau nhào nặn nên một tổng thể Văn hóa “đặc sắc” không bút nào tả nổi. Nền Văn học “hiện thực xã hội chủ nghĩa” cố kéo dài hơi thở hào hùng thời kháng chiến một cách đuối sức, tỏ ra bất lực và mất phương hướng trước một thực tế mà nó không nhận thức nổi hay không dám nhận thức. Một số tác phẩm bắt đầu bứt ra, thì tránh được sự giả tạo và đạt được sự phê phán sâu cay, nhưng càng sâu cay càng không có lối ra. Giải thưởng Văn học nào cũng “có chuyện”. Làm sao có thể tổ chức nổi một cuộc thi cho tử tế khi mà bộ Từ vựng của xã hội đang đòi phải làm lại, làm lại những từ ngữ cơ bản, viết lại những mệnh đề cơ bản: chẳng hạn “Cách mạng” nghĩa là gì? “Phản động” nghĩa là gì? “Yêu Chủ nghĩa xã hội” có phải là “yêu nước” không?, vân vân. Người chấm thi bị xé về hai chiều, “con người chính trị “ phải đạo không còn chung sống nổi với “con người văn học” trong một thể xác như ở giai đoạn trước, và mỗi “con người” ấy trả lời những câu hỏi trên một cách trái ngược nhau. Tất cả những giá trị văn học chân chính lâu dài mà ta đã gặt hái được trong mấy chục năm mà ta gọi là “Cách mạng” thực chất không có gì khác ngoài giá trị Văn học yêu nước và nhân bản, còn cái chất “chuyên chính vô sản” nếu có đóng góp thì chủ yếu là gây nên cái mặt trái của nền văn học đó.   Làm sao có được “tác phẩm tương xứng với thời đại” khi nhà văn không thể nhìn thẳng vào thời đại bằng con mắt của riêng mình? Vừa phải nhìn bằng con mắt của người khác, lại vừa nơm nớp lo không biết trong cặp mắt kia bên nào mắt thật bên nào mắt giả. Mắt vẫn mở, mồm vẫn lắp bắp, tay vẫn hí hoáy viết đấy nhưng bị thôi miên rồi. Trong xã hội quái đản ấy đã bật ra bút pháp Nguyễn huy Thiệp: Cái khốn nạn, lưu manh hết chỗ nói mà cứ bình thường như không, thương nó cũng dở, giết nó không nỡ, không lần được cái đầu mối khốn nạn nó nằm ở đâu. Làm điều đồi bại mà cứ như vô tình... Cái Thiện, cái Mỹ thì mong manh như mây khói. Phải chửi Trí thức! Phải chửi Đạo đức! Phải tốc ngược lịch sử lên để nhìn rõ những chân dung ngụy tạo! Cái nhạy cảm đạo đức tuyệt vời thiên phú của anh xui anh làm thế! Trong tấn tuồng đời, các vai đạo đức đã bị những kẻ vô đạo giành đóng hết rồi!   Nhưng anh phải nén tấm lòng xót xa ấy, xã hội không cho anh xót xa, đất nước đang đi lên không được xuýt xoa. Vì thương con người mà không thể thương con người (tôi thích lời bình luận ấy của Hoàng Ngọc Hiến), vì quá xúc động nên phải viết lời vô cảm! Đọc những câu văn tục tĩu, vô cảm hoặc độc ác của anh tôi cứ ứa nước mắt. Chỉ riêng cái “vỏ” bút pháp của anh đã chứa hết cái ruột gan của xã hội trong đó rồi. Cốt chuyện chỉ còn là cái cớ, lúc thực lúc hư.   Xã hội quái đản ấy cũng buộc phải đẻ ra thơ “Bút Tre” để phản ánh nó, khi văn học chính thống cứ ngồi lù lù đó một cách vô tích sự. Tôi không nói ông Bút Tre ở Vĩnh Phú mà ông Ngô Quang Nam vừa mới viết sách ca ngợi. Cái ngớ ngẩn một cách chân thành,và chân thành một cách ngớ ngẩn, của người cán bộ văn hóa Vĩnh Phú kia chỉ là cái cớ để dân gian tải cái ngớ ngẩn giả vờ của mình, để riễu cợt những giá trị mà công khai họ cứ phải “hoan hô”. Thơ “Bút Tre thật” không ai thuộc làm gì, đọc rồi cũng không nhớ được, còn “Bút Tre dân gian” thì mỗi lần nghe người ta đọc, tôi lại thấy cái sức sống mới mẻ, say sưa như thể chính người ấy đang sáng tác. Câu thơ Bút Tre chính xác và thông minh, đa nghĩa, lại núp dưới cái vỏ ngô nghê đơn nghĩa, để nhại chính cái thứ văn học công nông đại chúng tùy tiện giáo điều. Cười bò ra, rồi chảy nước mắt...vì đau trong ruột. Tiếc rằng chưa tiện trích dẫn ở đây. Còn những “cây đa cây đề” trong nền Văn học cách mạng thì cuộc đời văn học đều bị chia đôi: “Vị nghệ thuật” nửa cuộc đời, Nửa đời sau lại vị người ngồi trên! (Xuân Sách, Chân dung Nhà văn) Cái còn lại của những tài năng văn học tiêu biểu ấy là những tác phẩm thanh xuân đầu đời, của người nghệ sĩ tự do, những Điêu tàn, Lửa thiêng..., còn nửa sau là cái nửa “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” (Xuân Sách, Chân dung Nhà văn) nên hỏng cả sự nghiệp lẫn nhân cách. Người bị mất chung quy là Dân tộc. Những bài thơ di cảo Bánh vẽ, Trừ đi, Ai, tôi của nhà thơ Chế Lan Viên lỗi lạc đủ để tự phủ định toàn bộ cái nửa đời sau của cả một thế hệ văn nhân, nhưng những ngày cuối cùng của ông lại cho thấy những nghệ sĩ đã mất nửa đời người ấy họ đâu có thể tự do “về nguồn” theo lương tri của mình! Bởi họ không đủ điều kiện để thẳng thắn trả lời câu hỏi: Cuộc đời hai nửa vì đâu? Nửa say Quỷ kế, nửa đau Nhân tình ! (HSP, Thư gửi Xuân Sách) Dòng Văn học mới không thể không “phản tỉnh”, tự mình “lật tẩy” mình để tự vượt qua, vượt qua mình, vượt qua một vùng Văn hóa thấp mà về với loài người văn minh. *   Tóm lại không thể xây dựng nổi một nền Văn hóa Vô sản, vì không có một “giai cấp Vô sản tiêu biểu cho thời đại” như Mác tưởng tượng. Những xã hội trước đây đã lao theo con đường của Mác thì nay chẳng có con đường nào khác ngoài con đường trở về với Dân tộc truyền thống và mau chóng gia nhập vào Thời đại, mà nội dung hoàn toàn khác với nội dung Thời đại mà các Đảng Cộng sản thế giới trước đây ấn định. Tình hình xã hội trong giai đoạn chuyển đổi tất nhiên rất phức tạp. Muốn có lối ra tốt đẹp nhất cho Dân tộc thì phải bắt đầu bằng cái nhìn Văn hóa và phải giải quyết một cách Văn hóa. Nếu tiếp tục duy trì trạng thái Văn hóa cũ đã kém sức sống thì tình trạng tranh tối tranh sáng sẽ là cơ hội để những thứ Văn hóa không lành mạnh xâm nhập và chiếm lĩnh. Trong điều kiện ấy xã hội sẽ có sự ổn định bề ngoài nhưng thoái hóa bên trong, xã hội có thể đạt những tiến bộ nhất định về Kinh tế nhưng sẽ thoái hóa về Văn hóa nói chung. Văn hóa thấp kém sẽ phá hoại tất cả!.H.S.P (1995) (*) Đây là một phần trong bài Chia tay Ý thức hệ, với đôi chút chỉnh lý. ĐÔI LỜI VIẾT THÊM NĂM 2013 Thực tiễn 18 năm qua chỉ cung cấp thêm những ví dụ ngày càng phong phú minh chứng cho bài viết này. Dân chết trong tay công an, sự đàn áp kèm thêm màu sắc “còn Đảng còn mình”, màu sắc côn đồ và thú tính tình dục… là những biểu hiện sa đọa mới của một hệ thống quyền lực văn hóa thấp, thiếu tự tin, thiếu quân tử, thiếu chính danh và liêm sỉ. Sự đàn áp, vi phạm nhân quyền luôn song hành với sa đọa văn hóa như một cặp bài trùng, đương nhiên làm gia tăng sự đấu tranh của dân chúng, lập thành ba mặt tương sinh của thực tiễn xã hội, như được đặt ra ngay từ đầu bài viết. Thực tiễn ấy củng cố thêm cho nhận thức sau đây: - Gia tăng đàn áp, vi phạm nhân quyền không phải là phương thuốc giữ ổn định xã hội, mà ngược lại, có nâng cao văn hóa cai trị và thực sự tôn trọng nhân quyền mới có một xã hội ổn định bền vững.   - Trên cái nền thấp về văn hóa không thể có giá trị cao về nhân quyền. Trào lưu Cộng sản mới chỉ thỏa mãn những nhu cầu ở tầm thấp về văn hóa không thể làm nền cho sự phát triển cao về nhân quyền. Bởi đặt “đảng quyền” trùm lên trên nhân quyền và dân quyền nên hệ thống Cộng sản quốc tế tất yếu phải sụp đổ. Dẫu cố gắng cải tổ bao nhiêu ở trên ngọn cũng không thể bù đắp cho những khuyết tật từ trong gốc rễ. Một nước chưa ra khỏi quỹ đạo Cộng sản (tức chế độ Phong kiến mới, Phong kiến biến tướng) không thể có vị trí cao trong nền Nhân quyền của thế giới văn minh. Còn nhớ trong chế độ Phong kiến cũ ngày trước cũng đã có những chức “lý trưởng mua”, “chánh tổng mua”… nhưng đó chỉ là những tước vị để trang trí cho những anh trọc phú mua danh mà thôi. Song, mua danh cũng tốt, vì đã có chút danh cũng không thể dễ dàng làm những điều ô danh như trước. Nguồn: Bauxite Việt Nam
......

Quyết tâm của Hội nghị TW3 đảng CSTQ: Không cải cách!

Một ngày trước khi Hội nghị Trung ương 3 kỳ thứ 18 của đảng Cộng sản Trung quốc bắt đầu, Ban Tuyên giáo Trung ương đảng CSTQ đã gởi một thông tư đến tất cả các cơ quan truyền thông ở Hoa lục với lệnh cấm không được đăng những bài viết phê phán đường lối của Đảng; những bài phủ định thành quả cải cách kinh tế và chính trị mà Đảng đã thực hiện trong nhiều thập niên qua; và những bài thông tin hay bình luận về những mặt tiêu cực xã hội. Thông tư còn nói rõ là trong thời gian họp Hội nghị, nếu có xảy ra những cuộc biểu tình lớn hay những vụ nổ bom như ở tỉnh Sơn Tây vào ngày 6 tháng 11vừa rồi thì phải chờ các bản tin từ cơ quan cấp trên, tức hãng thông tấn Tân Hoa Xã, chứ không được tự viết tin hay bình luận rồi đăng quá nhanh. Cơ quan truyền thông nào vi phạm thông tư này sẽ bị nghiêm phạt.   Theo các quan sát viên tình hình chính trị, xã hội Trung quốc thì hiện nay chỉ có một vài cơ quan truyền thông do Ban Tuyên giáo Trung ương nắm rất chặt như Tân Hoa Xã, tờ Nhân Dân, trang mạng Hoàn Cầu Thời Báo hay đài truyền hình Trung ương được chỉ thị rầm rộ quảng cáo về hội nghị Trung ương 3. Còn các báo đài khác, dù đều do một cơ quan nhà nước hay đảng nào đó chủ quản, đều được lệnh án binh bất động, nếu không muốn nói là bị "treo bút". Ngay cả những bài "khen ngợi" đảng cũng không được tự viết vì theo kinh nghiệm quá khứ nhiều câu nói mỉa mai hay dữ kiện mang tính xỏ xiên vẫn thường được khéo léo đưa vào các bài này. Điều đã khá rõ tại Hoa lục là giới lãnh đạo nước này không còn kiểm soát được và cũng không tin tưởng hệ thống báo đài công cụ của họ như trước đây nữa. Các ký giả và chủ bút ngày càng bạo dạn và có lương tâm nghề nghiệp hơn, có trách nhiệm nói thay cho những dân thấp cổ bé miệng vẫn đang bị hiếp đáp hàng ngày. Các cư dân mạng gọi đây là hiện tượng "Âm binh đang vật phù thủy".   Bực tức về bức thông tư cấm đụng đến Hội nghị 3 nói trên, đa số báo chí bèn tập trung vào vụ Tổng biên tập tờ báo Tân Khoái mới bị cách chức vì đã dám công khai phản đối công an tỉnh Hồ Nam. Sự việc bắt đầu với việc ký giả Trần Cửu Châu của tờ báo này bị sở Công an thành phố Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam nhờ sở Công an thành phố Quảng Châu gởi giấy mời đến làm việc. Nhưng khi ký giả Trần Cửu Châu đến nơi thì đã có một chiếc xe của sở công an thành phố Trường Sa chờ sẵn để bắt ông về tội bịa đặt tin tức nói xấu tập đoàn công nghiệp Zoomlion, tức một lý do không liên hệ gì đến "giấy mời". Theo tường thuật của báo chí, ngay khi được tin này, Tổng biên tập tờ Tân Khoái đã điện thoại thẳng đến sở công an thành phố Trường Sa yêu cầu phải thả ký giả của ông ra. Ông lập luận rằng nếu bài của ký giả Trần Cửu Châu viết về tập đoàn Zoomlion có chỗ nào sai sự thật thì phải chỉ ra để họ đính chính và xin lỗi. Nếu lời xin lỗi vẫn chưa đủ thì thì cứ đưa nhau ra tòa. Công an không thể tùy tiện chỉ mới nghe tập đoàn Zoomlion tố ký giả Trần Cửu Châu là đưa xe đến bắt. Bắt như vậy là vi phạm pháp luật. Ông yêu cầu phải thả người ra ngay. Khi công an bỏ ngoài tai lời yêu cầu này, Tổng biên tập tờ Tân Khoái quyết định đăng lời yêu cầu phải thả ký giả Trần Cửu Châu với các lập luận nêu trên ngay tại trang nhất của tờ báo liên tiếp hai ngày. Đây là lần đầu tiên một tờ báo ở Hoa lục dám chỉ mặt công an vi phạm pháp luật và bắt người tùy tiện. Vài ngày sau, ông bị cách chức.   Khi tường thuật chuyện này, chính làng báo lề phải đã không ngừng lại ở chuyện cách chức. Họ cung cấp dữ kiện để người đọc đủ hiểu kẻ đứng đầu tập đoàn công nghiệp Zoomlion cũng là người nằm trong nhóm "Thái Tử Đảng" với liên hệ mật thiết với ông Tập Cận Bình. Từ đó câu hỏi được đặt ra là cấp nào đã ra lệnh cho công an đi bắt ký giả Trần Cửu Châu.   Các cư dân mạng còn đi xa hơn nữa về việc này. Có người dám khẳng định gia đình ông Tập Cận Bình có quan hệ "hữu cơ" với tập đoàn kinh tế này. Phản ứng mạnh và gấp rút như vậy không phải là lần đầu. Họ dẫn chứng một sự việc tương tự mới đây. Khi hãng thông tấn Bloomberg của Hoa Kỳ cho đi một phiên phóng sự điều tra về những núi tài sản của gia đình ông Tập Cận Bình đang nằm ở các ngân hàng nước ngoài, lập tức trang mạng của hãng thông tấn này bị tường lửa Hoa lục chận ngay và nhiều ký giả của hãng thông tấn Bloomberg không được cấp visa vào Trung quốc nữa.   Trở lại Hội nghị Trung ương 3, nhiều cư dân mạng đang có mặt tại Bắc Kinh cho biết trong thời gian tổ chức hội nghị, ngoài lực lượng an ninh dày đặc, canh gác nghiêm ngặt ở quảng trường Thiên An Môn, nhà cầm quyền còn huy động tất cả học sinh trung học cấp 3 ở Bắc Kinh vào việc canh gác, theo dõi những người đi lại trên đường phố để báo cáo công an. Rất nhiều người đi đường sợ đám học sinh này hơn cả công an. Đám trẻ này nóng lòng muốn lập công, đụng một chút là huýt còi gọi công an lại lục soát cả người lẫn hành lý của người qua lại. Nhiều người sau khi bị lục soát ngay trên đường phố còn bị bắt về đồn công an để chờ bị tra hỏi. Các nạn nhân thường mất ít là nửa ngày trời. Nhiều người sau khi được thả ra khỏi đồn công an đã lên mạng mỉa mai rằng chế độ ông Tập Cận Bình đang thực tập lại màn Cách Mạng Văn Hóa thời Mao Trạch Đông. Trên thế giới, sự trông đợi các đổi thay đang chuyển dần sang thất vọng. Lý do là vì trước và trong thời gian Hội nghị, Tân Hoa Xã và tờ Nhân Dân đăng mỗi ngày những hứa hẹn thay đổi rất lớn. Ông Du Chính Thanh, nhân vật số 4 trong bộ Chính trị, khẳng định rằng một cuộc cải cách chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc sẽ diễn ra sau Hội nghị. Còn Thủ tướng Lý Khắc Cường, nhân vật số 2, cho biết rằng hội nghị lần này sẽ đưa ra một loạt cải cách sâu sắc và toàn diện. Và còn nhiều phát biểu khác của các lãnh tụ ở thượng tầng. Thế nhưng sau khi Hội nghị kết thúc, chỉ có một bản thông báo chung được đưa ra. Văn bản này lập tức bị các chuyên gia, đặc biệt là chuyên gia kinh tế, phê phán là quá chung chung, chẳng có gì mới hay sâu sắc hay toàn diện. Đặc biệt trong tình hình hiện nay mà lãnh đạo đảng CSTQ vẫn phớt lờ các cải tổ về vai trò kinh tế tư nhân và các cải tổ đối với những xí nghiệp quốc doanh đang làm ăn thua lỗ. Đây là những lãnh vực mà vào đầu Hội nghị giới phân tích đã tiên đoán sẽ có nhiều biến chuyển. Các nhà phân tích khác cũng cho rằng vấn đề quyền sở hữu đất đai, chế độ hộ khẩu mới là những nguyên nhân lớn dẫn tới hàng hà sa số những vụ khiếu kiện và bạo động tại Trung quốc nhưng kỳ lạ là lãnh đạo lại chỉ xét đến và nới bớt luật về qui chế "mỗi gia đình một con".   Về việc cải tổ hệ thống quân đội, báo chí phát hành ở Hồng Kông nhận định rằng việc chia lại các quân khu và thiết lập thêm Bộ Tư lệnh Lục quân chẳng thêm gì đáng kể cho mục tiêu "gia tăng hiệu năng chiến đấu khi có chiến tranh" mà Hội nghị đề ra. Vẫn theo báo chí Hồng Kông, các cải tổ này cũng bị cánh quân nhân phản đối ngay vì họ vẫn chưa chấp nhận một người như ông Tập Cận Bình nắm trọn quyền chỉ huy quân đội.   Một câu đang được lưu truyền trên mạng Internet Trung quốc để gói trọn đặc tính của Hội nghị này: Đường lối cải cách của Hội nghị Trung ương đảng kỳ 3 là KHÔNG THAY ĐỔI GÌ CẢ.
......

Một nhà nước vô trách nhiệm.

Tính đến thời điểm này đã có 50 người chết và mất tích trên bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Gia Lai.   Vùng rốn lũ Đại Lộc có 34 ngàn ngôi nhà trôi theo dòng nước. Bình Định gần 100 ngàn căn nhà bị ngập. Các vùng khác thiệt hại cũng tương tự chưa nói đền hàng trăm ngàn hecta hoa mầu và ruộng lúa bị hư hại nặng. Báo chí lặn lội xuống tận nơi đưa tin cùng với những hình ảnh mà người đọc dù cứng lòng cách mấy cũng không thể chịu nỗi. Những đứa trẻ ngơ ngác thò đầu ra từ một mái nhà đang trôi nổi giữa giòng. Một người nông dân khóc than bên hai con bò duy nhất của gia đình. Đám tang lênh đênh giữa trùng trùng sóng nước và hàng trăm ngàn con người đang tuyệt vọng dưới mưa chờ từng gói mì cứu trợ.   Những hình ảnh ấy tương phản dữ dội với một bài phóng sự video của báo Thanh Niên quay lại cảnh ăn chơi của UBND phường Thủy Châu xã Hương Thủy, Thừa Thiên Huế với những bàn nhậu đầy thức ăn và bia rượu, một cán bộ nữ hát ư ử trên bục và tiếng nhạc xập xình từ loa karaoke khiến sự giận dữ của những ai nhìn thấy cũng có thể đoán ra. Xin xem dưới đây: Dân Bị Lũ Cô Lập, Phường Vẫn Tổ Chức Tiệc Tùng http://www.youtube.com/watch?v=QzGzJtz1XTk https://www.youtube.com/watchv=xwzcrQmXIC4#t=47   Sự nhẫn tâm vô đạo của cái Ủy ban này là quá rõ. Tiếng nhạc lời ca giữa tang thương chng quanh cho thấy một điều không thể chối cãi: nhà nước này sản sinh, chứa chấp những sinh vật không có trái tim người.   Đồng tiền thuế của người dân đang được chi tiêu cho cái Ủy ban phản động này và những kẻ đang nâng ly chúc mừng sự đau đớn của quê hương đáng đưa vào sách Guiness. Chỉ có thể than rằng sao nhà nước của chúng tôi bất nhân quá vậy? Trong khi 50 xác người được chôn cất qua loa giữa cơn lũ thì nhà nước chúng tôi rất nhanh nhẩu gửi điện chia buồn với 50 công dân Nga trong tai nạn máy bay vừa xảy ra. Đối nghịch lại với năm mươi công dân Việt Nam không ai là người lên tiếng cảm thông. Nhà nước chúng tôi không khác chi cái Ủy ban Nhân dân phường Thủy Châu, có phần hơn thế nữa.   Thủy Châu là cấp phường còn cái điện chia buồn kia là cấp nhà nước. Hai cấp chính quyền cùng làm một việc có ý nghĩa như nhau nhưng mức độ nghiêm trọng có khác. Thủy Châu như một đứa con hư, không ý thức được việc mình làm còn cái điện chia buồn kia ý thức một cách trọn vẹn kết quả sau khi bức điện gửi đi: sự vừa lòng của Putin, một lãnh chúa vừa rời Việt Nam với chiếc cặp da đầy ắp hợp đồng bán súng. Chia buồn ở đây có hàm ý nịnh bợ ngay cả sự nịnh bợ ấy có làm đau lòng những nạn nhân của lũ. Nếu 50 người chết vì lũ được lãnh đạo cao nhất công khai nói lời cảm thông thì điện chia buồn gửi đi Nga sẽ không làm ai thắc mắc. Tiếc một điều không ai trong tứ trụ triều đình biết nói một lời phải đạo. Thói quen im lặng trước nỗi đau bão lụt đã thành sẹo trong tâm hồn khiến mỗi lần muốn nói là một lần khó khăn cho họ. Bên cạnh đó có lẽ trách nhiệm là một phần câu hỏi khiến họ khó trả lời và vì vậy cách hay nhất là lờ đi những gì cần phải làm hay giải thích. Nhân dân chúng tôi cần nghe các ông bà ở Bộ chính trị giải thích cặn kẽ rằng có hay không tác hại của thủy điện đã làm cho cả miền Trung chìm trong biển nước?   Nhân dân chúng tôi cần nghe ông Tổng Bí thư giải thích rõ những tác hại ấy có phải xuất phát từ con đường trặc trẹo tiến lên xã hội gây ra hay không?   Nhân dân chúng tôi cần nghe ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giải thích có sự ăn chia nào trong các dự án thủy điện của EVN hay chính quyền địa phương nơi có những dự án thủy điện tư nhân đang điên cuồng xả lũ vào nhân dân chúng tôi.   Nhân dân chúng tôi cần nghe ông Nguyễn Sinh Hùng trong tư cách chủ tịch Quốc hội có bao giờ ông chỉ đạo cho gần 500 đại biểu dưới ngón tay trỏ của ông không nên lên tiếng hoặc lên tiếng có chừng mực về tệ nạn xả lũ giết dân hay không? Nhân dân chúng tôi cần nghe Chủ tịch nước Trương Tấn Sang giải thích tại sao là chủ tịch nước nhưng ông lại không có bất cứ hành động nào để lo toan trước các cơn bão lụt tàn phá hủy hoại con người, tài sản của nhân dân?   Nhân dân chúng tôi cần hỏi tất cả bốn ông một câu hỏi chung: trách nhiệm của từng ông trong khi nắm sinh mạng của nhân dân, dân tộc nằm ở chỗ nào khi các ông cứ âm thầm làm những việc các ông muốn bất kể người dân chúng tôi có kêu gào, đòi hỏi đến khàn giọng.   Điển hình là vụ sửa đổi hiến pháp. Các ông vẫn cho Quốc hội thông qua cái hiến pháp giúp các ông nắm chắc ghế ngồi của các ông và thuộc hạ hơn nữa. Với những dự án thủy điện tai họa treo lơ lửng trên đầu nhân dân chúng tôi qua điều 4, đã ngăn cản bất cứ đòi hỏi thay đổi nào đối sự độc tôn toàn trị của đảng các ông. Sự độc tôn ấy đang đồng hành với cơn lũ cuốn cả miền Trung vào cùng khổ đói nghèo với những mất mát không thể nào bù đắp. Hãy trả lời chúng tôi, kể cả sự trả lời ấy phát sinh từ lòng dối trá. nguồn: canhco's blog
......

“Tui chẳng biết hội đồng nhân quyền là cái gì…”

Dịch hạch và dịch tả 2013 là một năm kỳ diệu và không kém phần kỳ quặc. Lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam được “đặc cách” vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc với 96% phiếu thuận - một tỷ lệ chỉ có thể so sánh với công tác bầu bán vào thời thịnh trị của chính thể luôn đau đáu với điều 4 Hiến pháp, hoặc ngang ngửa với con số mà Tổng thống Saddam Hussein nhận được trong cuộc bầu cử cuối cùng trước khi ông bị lật đổ ở Iraq.   Toàn bộ giới ngoại giao, tuyên giáo và báo chí khối đảng lại một lần nữa bày tỏ thái độ đắc thắng trước các “thế lực thù địch”. Một tuyên truyền viên cao cấp ngay lập tức cho rằng thành công vào Hội đồng nhân quyền của Nhà nước Việt Nam là một đòn mạnh giáng vào luận điệu xuyên tạc của những thế lực không mấy trong sáng đó.   Trước đó, một trong những “thế lực thù địch” - ông Vũ Quốc Dụng, nguyên tổng thư ký Hiệp hội nhân quyền quốc Tế, ISHR (Đức), ẩn dụ rằng theo một câu châm ngôn của Tây phương, sẽ chỉ là một sự chọn lựa giữa bệnh dịch hạch và bệnh dịch tả nếu bất cứ quốc gia nào được bầu dù là Trung Quốc, Ả Rập Xê Út hay Việt Nam. Câu châm ngôn độc địa trên lại bị xem là phát tác không thể tốt lành hơn trên mảnh đất tuyên giáo màu mỡ Việt Nam. Dù giữ thái độ im lặng và biểu tả tự ti một cách rất không bình thường trước thời điểm Nhà nước “lên bàn mổ” của Hội đồng nhân quyền, các báo đảng lại đồng loạt vỡ òa niềm vui ngay sau đó.   Cường điệu và khoa trương đến mức bất chấp liêm sỉ cũng là một căn bệnh luôn được định dạng như một thói tật rất, rất thiếu trong sáng của người Việt. “Dân khốn khổ đến tận cùng rồi!” “Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người” là một khẩu ngữ mang tính thể diện duy nhất để đối phó với bất kỳ thế lực vô liêm sỉ nào. Việt Nam nào? Và quyền con người cho ai? Cùng thời gian diễn ra cuộc bầu bán ở Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, vụ việc 10 năm tù oan của ông Nguyễn Thanh Chấn ở một vùng nông thôn miền Bắc đã nổ ra. Một kiểm sát viên có thâm niên thổ lộ rằng đó chỉ là vụ hãn hữu được phát hiện, nằm trong rất nhiều án oan khác còn phải trình diện mỗi buổi sáng trong các buồng giam tối mít.   “Tui chẳng biết hội đồng nhân quyền là cái gì, mấy ông chính quyền vô đó làm chi. Chỉ thấy rằng mấy ổng đã làm cho dân khốn khổ đến tận cùng rồi!” - một bà lão dân oan đất đai, người ròng rã mang đơn khiếu kiện từ Nam chí Bắc cả hàng chục năm qua và còn bị công an xô dập mặt, hổn hển thốt lên. Từ khóe mắt bà thảng thốt tuôn lăn những giọt nước mắt. Rất, rất nhiều trường hợp oan trái lẫn đau xót như thế đã hầu như không được các cơ quan phát ngôn của Đảng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Mặt trận Tổ quốc nhắc đến. Cũng không một lần, các tờ Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân và Đại Đoàn Kết dám nói lên tiếng lòng xé ruột của dân chúng về bản chất lobby chính sách về thu hồi đất đối với các dự án kinh tế xã hội - tác nhân đã gây ra biết bao thảm cảnh tột cùng cho một tầng lớp dân oan thời đại cùng tư tưởng sống chết giữ đất. Ngay cả hàng loạt vụ xả lũ thủy điện như một cách “giết sống” đến vài chục người người dân vùng rốn lũ mà đã dồn dập xảy ra trong thời gian “kinh tế - xã hội vẫn cơ bản ổn định” của Quốc hội thứ 6 khóa XIII - nơi đang tìm mọi cách rút ngắn chặng đường sửa đổi Hiến pháp, cũng không làm cho các đại biểu dân bầu động lòng. Còn báo đảng cũng theo đó mà chìm vào một trạng thái mà người dân Hà Nội thường chì chiết: cấm khẩu. Hoặc đã gần một phần tư thế kỷ lặng cúi từ khi Hiến pháp 1992 ban hành, nhưng điều không thể hiểu nổi là những chủ đề thiết thân về quyền con người như Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý vẫn chỉ gục đầu trên bàn nghị sự của gần 500 nghị viên.   Rất, rất nhiều chuyện cần và phải được đặc tả về thực hư quyền con người ở Việt Nam, kể từ thời điểm 1982 khi quốc gia này ký kết Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, hoặc không ít cái chết của dân thường trong các đồn công an mà đã làm nên một sắc thái ngọt ngào cho gương mặt nhân quyền của chế độ trên trường quốc tế. Hương sắc ngọt ngào ấy lại là một nghịch lý của hệ thống báo đảng: trong khi vồ vập phát bài về “thắng lợi chính trị và ngoại giao” và điều được coi là thành tích vào Hội đồng nhân quyền, chẳng mấy tin tức xuất hiện trên báo đảng về câu chuyện Nhà nước Việt Nam rốt cuộc đã phải ký Công ước quốc tế về chống tra tấn.   Cũng không hề đề cập đến chi tiết việc ký Công ước chống tra tấn chỉ diễn ra 5 ngày trước khi Liên hiệp quốc xem xét cho giới lãnh đạo đầy tham vọng của Việt Nam một cái ghế trong Hội đồng nhân quyền - như một chủ trương đối thoại thay cho đối đầu của cơ quan làm nhiệm vụ hài hòa thế giới. Và càng không có bất kỳ thông tin nào về những cái chết luôn bị lấp liếm là “đột tử” của người dân trong đồn công an. Cũng như câu chuyện buôn bán người nhan nhản và còn hơn cả nhẫn tâm đang tràn ngập ở các địa phương trên đất nước này… Quyền con người cho ai? Hoặc vì ai? Cái áo không làm nên thày tu Sự khác biệt còn lại chỉ là thái độ nhận biết và biểu hiện “tẩy chay” của báo chí phi lề đảng, làm nên một biên giới chưa từng thấy với giới tuyên giáo và nội bộ báo đảng. Chiếm ít nhất 90% trong tổng số gần 1.000 báo in và báo điện tử ở Việt Nam, tuyệt đại đa số báo giới đã đồng loạt không đăng phát bài về sự kiện Nhà nước Việt Nam được bước qua khe cửa Hội đồng nhân quyền. Bất chấp định hướng tuyên truyền đầy khích lệ của Ban tuyên giáo trung ương, một số tờ báo đã chỉ xếp tin tức “Luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người” vào mục tin vắn, cùng chỗ với loại tin thu hút nhiều người đọc như vụ một nhà sư giết người tình rồi phi tang xác chết… P. C. D. Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Pages