Nga Trung Cộng liên minh được hay không?

Ông Vladimir Putin đang dễ thở hơn mấy hôm nay, vì giá dầu thô trên thế giới đã tăng. Nhờ thế đồng tiền Nga ngưng xuống giá. Kể từ khi ông chiếm bán đảo Crimea của Ukraine, đồng rúp đã mất gần nửa (45%) giá trị so với đô la Mỹ; lao xuống nhanh nhất so với tiền 174 quốc gia khác. Kinh tế Nga sẽ suy thoái trong năm nay, và tỷ lệ lạm phát đã lên tới hơn 11%. Alexei Kudrin, cựu bộ trưởng tài chánh, một người của Putin hiện vẫn ngồi trong Ủy Ban Kinh Tế Phủ Tổng Thống, mới báo động Nga đang bước vào một cuộc “khủng hoảng toàn diện” nếu tiếp tục bị Mỹ và các nước Châu Âu cấm vận. Phó Thủ Tướng Igor Shuvalov cũng tiên đoán cuộc khủng hoảng lần này sẽ kéo dài hơn lần trước, năm 2008 khi kinh tế cả thế giới đều xuống. Ông Shuvalov cũng mới tuyên bố ở Davos, Thụy Sĩ rằng, “Khi bị nước ngoài làm áp lực, dân Nga chúng tôi không bao giờ bỏ rơi lãnh tụ! Không bao giờ! Chúng tôi sẽ chịu đựng mọi khó khăn, sẽ bớt ăn, sẽ dùng bớt điện!” Ðây là một “chính sách kinh tế” bát chước lối Việt Cộng ngày xưa! Ngay sau đó, người ta thấy trên các trang mạng ở Nga trưng ra hình ảnh những biệt thự huy hoàng của ông Shuvalov ở Moskba, ở London bên Anh và ở nước Áo. Chính ông Shuvalov sẽ không phải nhịn ăn, không phải bớt dùng điện. Trong khi đó, ông Putin không thể lùi bước ở Ukraine. Ông đã kích thích tự ái dân tộc, đổ hết tội cho Mỹ, nên vẫn được 85% dân Nga ủng hộ. Ðằng nào dân cũng phải bớt ăn, nhưng trong lòng họ được an ủi là nước Nga của họ lại lên hàng cường quốc, dám đối đầu với Mỹ. Nếu Putin nhượng bộ ở Ukraine, dân chúng sẽ tự hỏi tại sao họ phải bớt ăn, bớt mặc! Putin đang cưỡi trên lưng cọp, không biết làm sao xuống, đành cứ thế hô hào, “Tiến lên, ta cứ tiến lên hàng đầu! Hàng đầu rồi tiến đi đâu?” Cho nên, ông Putin muốn cho dân Nga thấy một tia sáng lóe ở cuối đường hầm: Liên minh với Cộng Sản Trung Quốc. Dân Nga có thể nuôi hy vọng vào nước cờ mới này. Nước Nga có thể quay mặt với thế giới tư bản, bỏ khối người da trắng, đi đôi với dân da vàng. Vì Nga và Trung Cộng đã từng là đồng minh, khi hai nước Cộng Sản lớn nhất cùng đối đầu với kinh tế tư bản! Ðây cũng là giấc mộng của các ông Nguyễn Văn Linh và Lê Khả Phiêu ở Việt Nam một thời. Hai ông tổng bí thư từng sang Trung Quốc cầu xin tái lập một “khối xã hội chủ nghĩa.” Bây giờ Nga vẫn còn “hơi hơi xã hội chủ nghĩa;” vì nhà nước vẫn tập trung quyền chỉ huy kinh tế. Trong thực tế cả Nga và Trung Cộng đều theo con đường “tư bản quả đầu,” nhà nước bảo trợ các nhà tư bản tay chân, dựa dẫm vào nhau hai bên cùng có lợi. Liệu ông Putin có thể liên kết với Trung Cộng hay không? Liên minh Nga Trung Cộng trong thế kỷ 20 chỉ là một ảo tưởng, đối với những người đứng ngoài, kể cả các chính phủ Mỹ. Từ năm 1949 cho tới 1968 giới lãnh đạo Mỹ vẫn tính toán chiến lược toàn cầu dựa trên một giả thiết, là Nga và Trung Cộng liên kết làm một khối thuần nhất. Với giả thiết đó, Mỹ đã hành động theo lý thuyết Domino: Tìm cách ngăn chặn bước tiến của khối Nga-Hoa trong vùng Ðông Nam Á, mà quân domino dễ bị đổ nhất là Việt Nam. Nhưng thực ra Nga và Trung Cộng chỉ liên minh được với nhau trong vòng mươi năm. Khi thấy Mao Trạch Ðông có ý đóng vai lãnh tụ của đám đàn em các đảng cộng sản Á Châu, Phi Châu; Stalin đã lập tức chấm dứt viện trợ và rút các cố vấn kinh tế, kỹ thuật về. Khi Tổng Thống Mỹ Nixon nhìn thấy vết rạn nứt rõ rệt trước cảnh quân Nga và quân Tàu bắn nhau ở Hắc Long Giang, ông ta đã bắt tay Mao Trạch Ðông. Mỹ lợi dụng Trung Cộng, Trung Cộng cũng lợi dụng Mỹ, cả hai cùng muốn kiềm chế Nga. Mối liên kết Mỹ-Trung Cộng chấm dứt năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ. Trong “trật tự thế giới mới” này, Trung Cộng tìm lại gặp Nga để tạo thế thăng bằng mới. Năm 1992, hai nước tuyên bố bắt đầu một cuộc “hợp tác xây dựng” (constructive partnership). Năm 2001, khi ông Putin đã làm tổng thống Nga, việc hợp tác được đẩy lên cao hơn, hai bên ký một “Hiệp ước Hữu nghị và Cộng tác” (friendship and cooperation). Cả Nga và Trung Cộng đã xây dựng những liên minh mới để tạo thêm vây cánh. Họ họp lại với Brazil, Ấn Ðộ, sau thêm Nam Phi, lập thành khối BRICS. Nga và Trung Cộng liên kết qua “Tổ chức Hợp tác Thượng Hải” (Shanghai Cooperation Organization), gồm cả các nước Trung Á nằm giữa Nga và Tàu, là Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan. Nga với Tàu còn họp thường xuyên với Diễn đàn Kinh tế các nước Á Ðông và với các nước ASEAN. Khi Putin bị Âu Mỹ cấm vận vì tấn công Ukraine, ông đã bay sang Bắc Kinh kết nghĩa Vườn Ðào thêm chặt chẽ. Tháng Năm năm 2014, Nga công bố sẽ bán cho Trung Cộng 38 tỷ mét khối hơi đốt, trong 3 năm kể từ năm 2019, với giá định sẵn, qua một ống dẫn dài 2,500 dậm (hơn 4,000 cây số). Ống dẫn dầu khí đi qua Hắc Long Giang, thuộc vùng biên giới Ðông Bắc nước Tàu, nơi quân hai nước đã chạm súng năm 1969. Sáu tháng sau, Nga lại thỏa thuận sẽ cung cấp một số lượng tương đương cho vùng Tân Cương, phía Tây Bắc Trung Quốc. Trong cuộc trao đổi này Trung Cộng đã chiếm thế thượng phong; không khác gì cuộc giao thương giữa Trung Cộng với Việt Nam, hay giữa một nước lớn với chư hầu. Nga cung cấp nguyên liệu cho Trung Quốc trong khi nhập cảng hàng chế hóa từ Trung Quốc bán sang; đóng vai một nước thuộc địa nghèo. Bán dầu, khí cho Trung Cộng để bù lại tình trạng bị cấm vận, Nga cũng sẽ bị mất thị trường Châu Âu, mất luôn mối giao hảo với các công ty năng lượng Âu Mỹ nhờ đó đã được cung cấp những kỹ thuật tân tiến. Thiếu các kỹ thuật khai thác mới nhất, việc khai thác dầu khí ở vùng địa cực của Nga sẽ bị chậm lại mấy chục năm. Dân Nga sẽ dần dần nhìn ra việc Putin liên kết với Trung Cộng là bất lợi, là biến nước Nga thành một cây xăng của Trung Cộng, trong khi đáng lẽ họ phải là một cường quốc về năng lượng. Chưa kể mối nguy vùng giao dịch ở biên giới sẽ bị tràn ngập với “họa da vàng.” Ở phía Ðông vùng Siberia, chỉ có sáu triệu dân Nga sinh sống, bên kia biên giới là 120 triệu người dân Trung Quốc! Lịch sử nước Nga bắt đầu sau khi những đạo quân của Batu Khan và Subutai, con cháu Thành Cát Tư Hãn, tràn qua sông Volga rồi tiến chiếm Vladimir và Moskba, vào thế kỷ thứ 14. Cứ coi cách người Nga đối xử với di dân gốc Việt và gốc Trung Hoa, ngay từ thời còn Cộng Sản, thì biết họ nghĩ gì về giống da vàng. Trong khi đó, Nga và Trung Cộng vẫn giành giựt ảnh hưởng trên các nước Trung Á, mà Nga đang tìm cách thu lại vào trong vòng ảnh hưởng chặt chẽ hơn. Chín năm sau khi lên cầm quyền, Vladimir Putin đã công bố một chủ thuyết quân sự mới: Nước Nga giành quyền dùng vũ khí nguyên tử trước, dù không bị tấn công bằng vũ khí loại này. Quyền sử dụng trước vũ khí hạt nhân (right to first use of nuclear weapons) chỉ được nêu ra nếu một quốc gia biết lực lượng qui ước của mình có thể bị bên địch tràn ngập. Putin nhắm vào quốc gia nào khi đưa ra chủ thuyết này? Chúng ta có thể biết chắc đó là Trung Cộng. Về phía Trung Cộng, họ sẽ được lợi gì nếu liên kết với ông Putin? Chỉ có một mối lợi “tinh thần” rất nhỏ, thứ lợi lộc không thể đem nấu cháo ăn được. Ðó là chứng tỏ Bắc Kinh độc lập với Mỹ. Nhưng Trung Cộng không thể trông cậy vào Nga. Giới lãnh đạo Bắc Kinh biết rằng sự phát triển của nước họ từ hơn 30 năm nay là nhờ được tiếp cận với thị trường nước Mỹ, nhờ vốn tư bản cùng kỹ thuật sản xuất và tiếp thị do Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cung cấp. Kinh tế Nga đang sa lầy, không phải chỉ vì bị cấm vận mà lý do chính là vì ông Putin dốt nát về kinh tế. Với một quốc gia đông gần 150 triệu người, trong đó bao nhiêu người tài trí, với tài nguyên thiên nhiên giàu có, đáng lẽ kinh tế Nga không thể chậm lụt như hiện nay. Nhưng ông Putin đã không chấp nhận cải tổ cơ cấu nền kinh tế do thời Cộng Sản để lại, làm phí phạm tất cả những tài nguyên, người cũng như của cải. Cho nên, chỉ những người quá ngây thơ mới tin rằng ông Putin có thể liên minh với Trung Cộng để chống lại các nước Âu Mỹ. Giá dầu lửa nhích lên được mấy đô la một thùng có thể cho ông Putin nhận được học một bài về kinh tế: Luật cung cầu. Giá dầu lên sau khi các công ty như Exxon (Mỹ), Shell (Anh), Total (Pháp), và ngày hôm qua là BP (Anh) tuyên bố giảm bớt việc khai thác dầu khí trong mấy năm tới, mỗi công ty cắt số đầu tư khoảng 4, 5 tỷ đô la. Họ cắt đầu tư vì tiên đoán giá dầu sẽ còn thấp trong tương lai khá lâu, khai thác không có lợi. Khi họ giảm bớt đầu tư, tự nhiên cả thế giới cũng nhìn ra là trong tương lai số cung dầu lửa không tăng như trước nữa trong khi số cầu có thể tăng. Có nghĩa là giá dầu đã “chạm đáy.” Nhưng trong khi Mỹ và các nước OPEC còn tiếp tục hút dầu lên để giữ thị trường cho mình, dù lợi thấp hơn thì giá dầu sẽ khó lên cao nữa. Ông Putin có thể suy nghĩ về bài học kinh tế đó trong khi có vài ngày dễ thở. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Diễn giải lếu láo trắng trợn

Cùng một số liệu, hai cách diễn giải (TP.HCM lọt top 50 thành phố an toàn nhất?) Đúng là chuyện xấu thành tốt! TP Hồ Chí Minh được/bị Tạp chí The Economist xếp vào nhóm các thành phố kém an toàn nhất trên thế giới. Ấy thế mà ít nhất 2 tờ báo Việt Nam, phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt, lại giật cái tít rằng TP HCM lọt vào danh sách các thành phố an toàn nhất thế giới. Chuyện khó tin nhưng hoàn toàn có thật, và trên giấy trắng mực đen! Báo Tuổi Trẻ phiên bản tiếng Anh chạy cái tít hấp dẫn rằng TP Hồ Chí Minh là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới: "Ho Chi Minh City among world's safest: British magazine" (1). Còn báo trực tuyến Khám Phá thì chạy cái tít tiếng Việt có nghĩa tương tự "TP.HCM lọt top 50 thành phố du lịch an toàn nhất 2015" (2). Báo Dân Trí cũng viết " thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam được đánh khá cao trên nhiều chỉ số an toàn và trở thành một trong những điểm đến an toàn nhất trong năm 2015" (3). Tất cả các báo này đều không cho đường link mà chỉ nói nguồn chung chung là từ "The Economist Intelligence Unit ".   Thế nhưng trong thực tế thì không phải như thế. Lần dò theo The Economist Intelligence Unit, tôi có thể truy cập vào nguồn thông tin trên tạp chí The Economist (4). Đó là một báo cáo phân tích và xếp hạng có tên là "Safe Cities Index 2015". Cách họ xếp hạng mức độ an toàn của 50 thành phố trên thế giới, trong đó có TP Hồ Chí Minh. Cách họ đánh giá an toàn là dựa vào 40 chỉ số mang tính định lượng và định tính, và 40 chỉ số này giảm thành 4 nhóm: ·       an toàn về mạng internet và viễn thông: chỉ số này đo lường an toàn mạng, và tần số bị đánh cắp nhân dạng trên mạng (identity theft); ·       an toàn sức khoẻ: tỉ số giường bệnh trên dân số và tuổi thọ trung bình; ·       an toàn cơ sở vật chất: phẩm chất đường xá, số ca tử vong vì tai nạn, v.v.;   ·       an toàn cá nhân: mức độ tội phạm, hành động phi pháp, sự hiện diện của cảnh sát, v.v. Dựa vào 4 nhóm chỉ số trên, TPHCM được xếp hạng 48/50, tức áp chót về mức độ an toàn. Nói cách khác, TPHCM được đánh giá là một trong 5 thành phố bất an nhất hay nguy hiểm nhất trong số 50 thành phố trên thế giới được đánh giá. Đội sổ danh sách là Jakarta (Nam Dương), và trên Jakarta là Tehran (Iran), hạng 49. Trên Tehran là TPHCM, Johannesburg, Riyadh, Mexico, Mumbai, Moscow. Thành phố được đánh giá là an toàn nhất thế giới là Tokyo, với điểm 85.63 trên 100. Theo sau Tokyo là 9 thành phố khác phần lớn là từ các nước tiên tiến: Singapore, Osaka, Stockholm, Amsterdam, Sydney, Zurich, Toronto, Melbourne, New York. TPHCM bị đánh giá là 1 trong 5 thành phố thiếu an toàn nhất thế giới do yếu tố nào? Nhìn qua bảng phân tích (5) thì TPHCM đứng chót bảng (50/50) về an toàn cơ sở vật chất, và hạng 48/50 về an toàn sức khoẻ. Tuy nhiên, về an toàn mạng và viễn thông, TPHCM đứng hạng 42/50, tức vẫn nằm trong nhóm 10 thành phố thiếu an toàn nhất. Tuy nhiên, về thứ hạng an toàn cá nhân thì TPHCM đứng hạng 34/50, dù là dưới trung bình, nhưng vẫn cao hơn Moscow, Jakarta, Tehran, Rome, Riyadh, Bắc Kinh, Quảng Đông. Báo Tuổi Trẻ cũng có bài cho biết chỉ trong tháng 1/2015, có đến 2171 tai nạn giao thông gây tử vong cho 781 người và thương tích cho 2047 người (6). Tính trung bình, nói theo một chuyên gia về an toàn giao thông, mỗi ngày có 26 người lên xe đi đường và không về nhà. Nhìn qua giao thông và nạn trộm cướp, cộng với 19 ngàn người nghiện ma tuý ở TPHCM, mà vẫn còn đứng hạng 34/50 làm tôi ngạc nhiên. Nói tóm lại, cùng một số liệu, mà 2 cách diễn giải khác nhau. Được xếp hạng 48/50 về an toàn, vậy mà vài tờ báo ở VN lại giật cái tít là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới, nhưng trong thực tế TPHCM là một trong 5 thành phố kém an toàn nhất thế giới. Bài học ở đây là bất cứ một bản tin nào quá tốt trên hệ thống truyền thông VN thì người tiếp nhận cần phải kiểm tra vì thực tế có thể ngược lại những gì được tuyên truyền. ===== (1) http://tuoitrenews.vn/lifestyle/25770/ho-chi-minh-city-among-worlds-safe... (2) http://khampha.vn/tin-nhanh/tphcm-lot-top-50-thanh-pho-du-lich-an-toan-n... (3) http://dulich.dantri.com.vn/du-lich/tp-hcm-la-mot-trong-nhung-diem-den-a... (4) http://safecities.economist.com/whitepapers/safe-cities-index-white-paper/ (5) http://safecities.economist.com/wp-content/uploads/2015/01/EIU_Safe_Citi... (6) http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150131/3000-nguoi-di-bo-vi-an-t... Nguồn: tuanvannguyen.blogspot.com.au
......

Sứ Mệnh Lịch Sử Là Cái Gì?

“Sứ mệnh lịch sử đầu tiên và sau cùng là đầu độc lịch sử” (ĐTL). Còn ở khoảng giữa, đó là hàng tá nỗ lực đầu độc toàn phương vị: Sứ Mệnh Đầu độc Xã hội: Bằng giấc mơ chủ nghĩa cộng sản; bằng chính cái “sứ mệnh lịch sử” đang nói tới này; bằng điều 4 hiến pháp; bằng phương thức mất dạy nâng khống mối quan hệ đảng-dân thành tương quan cha mẹ-con cái; bằng tập quán “ơn đảng-ơn chính phủ”; bằng nỗ lực bình thường hoá hành vi ăn cắp; bằng chủ nghĩa makeno; bằng quán tính “đã có đảng lo”; bằng quy trình sản xuất dân oan khắp nước.   Sứ Mệnh Đầu độc Kinh tế: Bằng kinh tế tập trung/hợp tác xã/hệ tem phiếu… biến tướng thành đổi tiền/tận diệt tư thương/kinh tế mới/ngăn sông cấm chợ; bằng cái đuôi định hướng với các tập đoàn kinh tế quả đấm bùn nhằm vơ vét và huỷ diệt tài nguyên đất nước; bằng độc quyền kinh tế/dự án/xuất nhập khẩu; bằng chính sách hoá giá biệt thự; bằng quyền ban phát ưu tiên đấu thầu; bằng liên minh ảo thuật giữa các nhóm lợi ích; bằng Cty ma; bằng các hệ rửa tiền; bằng quy trình kinh tế gia tộc; bằng các đế chế ngân hàng; bằng kế toán/kiểm toán tuỳ nghi; bằng ngoại hối của kiều bào; bằng chính sách quy hoạch/cưỡng chế đất đai; bằng mánh khoé thương mãi đầu cơ của TQ. Sứ Mệnh Đầu độc Dân tộc: Bằng phân chia giai cấp; bằng cải cách ruộng đất; bằng khẩu hiệu “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”; bằng khả năng đấu tố trong gia đình; bằng tuyên truyền gây chiến, tạo hận thù hai miền; bằng tù cải tạo; bằng biện pháp truy đuổi người Việt; bằng cách thâu tiền bán bãi vượt biên; bằng cách sửa hiến pháp/sửa sách sử cho phù hợp với ý thích giai đoạn của kẻ thù; bằng chà đạp nhân quyền; bằng sự sợ hãi; bằng nỗ lực triệt tiêu tính-tình người; bằng tập quán hối lộ cho được việc; bằng cả đồ dùng và thức ăn độc hại nhập từ TQ. Sứ Mệnh Đầu độc Tuổi trẻ: Bằng danh hiệu Thiếu niên Tiền Phong; bằng hoạt động Thanh niên Xung Phong; bằng thi đua tải đạn/tải lương/tải thương; bằng hình xâm “sinh bắc tử nam”; bằng nghĩa vụ quân sự; bằng “Nghĩa vụ Quốc tế”; bằng đơn xin nhập ngũ viết bằng máu; bằng những bài tụng ca các cuộc chia ly màu đỏ; bằng nạng gỗ khua rổ mặt đường làng; bằng giấy báo tử bay đầy mái rạ; bằng các cuộc vui thuỷ lợi xa nhà; bằng đua xe cổ vũ bóng đá; bằng sao Hàn…. Sứ Mệnh Đầu độc Văn hoá: Bằng chủ nghĩa thần tượng; bằng tự thân ca tụng chính mình; bằng bệ thờ “cha già dân tộc”; bằng phương pháp tạo hiệu ứng bưng bô; bằng phương pháp dựng án “Nhân văn-Giai phẩm”; bằng các trại sáng tác; bằng các ống đu đủ thần đồng; bằng tấm thẻ hội nhà văn; bằng giấy khen nghệ danh ưu tú hay nhân dân; bằng phong trào khoe nhau chữ “nhẫn”; bằng những khẩu hiệu/bài nhạc Sáng mắt sáng lòng/Đảng là cuộc sống; bằng những bài thơ ca tụng Stalin và khuyến khích giết người; bằng phim bộ TQ. Sứ Mệnh Đầu độc Ngoại giao: Bằng chiến dịch tận diệt “xét lại-chống đảng”; bằng công hàm chính thức; bằng hạ tầng công tác bộ trưởng ngoại giao; bằng thanh trừng UV/BCT; bằng quan niệm ơn nghĩa “quyết không hai lòng”; bằng hội nghị Thành Đô; bằng triều cống đất/thác/ải/biển/đảo; bằng quy trình thường xuyên khấu kiến; bằng phương pháp đu dây; bằng tráo trở bạn-thù; bằng chủ trương mạt sát đối phương ngay khi cầu viện; bằng biện pháp tránh né gọi tàu giặc là tàu lạ; bằng gửi gạo cứu đói Cuba & Triều Tiên trong lúc nông dân VN khốn đốn. Sứ Mệnh Đầu độc Hành chính: Bằng chủ nghĩa xin-cho/chạy chức; bằng con dấu mộc đỏ; bằng chính sách hộ khẩu; bằng phương pháp hình thành/nuôi dưỡng/khuếch trương tham nhũng; bằng thi đua nâng cấp công sở/xe công; bằng giá biểu chức vụ các cấp; bằng tập quán chạy vốn mua chức kiếm lời; bằng hệ thanh tra nhiều tầng; bằng nhiều năm lương hưu của người chết; bằng xà xẻo tiền quà cứu trợ. Sứ Mệnh Đầu độc Dư luận: Bằng hệ tuyên giáo; bằng bộ 4T; bằng thông tin một chiều/bưng bít sự thật/đốt sách/giam người; bằng tập quán tự kiểm duyệt; bằng lệnh gỡ bài trên mạng; bằng cách đỗ lỗi cho thuộc cấp; bằng cách đổ tội cho nhân dân; bằng biện pháp thường trực trỏ ngón vào “thế lực thù địch”; bằng màn sắt/tường lửa; bằng trộm cắp/cướp giật trương mục FB/email của dân; bằng tuyên bố quản lý thông tin mạng; bằng cách diễn tuồng bỏ/lấy “phiếu tín nhiệm”; bằng đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến; bằng giam cầm blogger/Fbker; bằng thi đua đấu đá trên mạng “quan làm báo”/“CDQL”. Sứ Mệnh Đầu độc Giáo dục: Bằng chủ nghĩa ngu dân; bằng phương pháp từ chương chép/thuộc; bằng hệ thống nhồi sọ; bằng thi đua dối trá; bằng nâng khống thành tích; bằng môn học chính trị; bằng đại học lý luận; bằng hệ phong cấp hàm GS/TS; bằng khe hở tuyển sinh; bằng lò luyện thi; bằng cơ hội du học; bằng giá biểu học bổng; bằng dịch vụ bán đề/bán bằng/bán ghế; bằng hệ đảng uỷ trong trường; bằng dàn hiệu trưởng ma-cô Sầm Đức Xương; bằng sách giáo khoa khuyến khích lừa đảo và gian ác. Sứ Mệnh Đầu độc Tư pháp: Bằng cơ chế đảng uỷ; bằng chủ nghĩa chỉ đạo ra án và phương thức chạy án; bằng tuyên bố “tao là đảng/tao là luật”; bằng biện pháp kỷ luật kiểm điểm/cảnh cáo cán bộ ăn cắp/thụt két/xà xẻo công quỹ; bằng nghị định 31/CP bắt giam không cần truy tố; bằng các điều luật hình sự mơ hồ và đầy tính áp đặt 79/88/258…; bằng phương pháp trả thù người tố cáo tham nhũng. Sứ Mệnh Đầu độc Quân đội: Bằng hệ thống đảng uỷ trong quân đội; bằng lòng trung với quan thầy của đảng; bằng ém nhẹm các đoạn sử Gạc Ma/Cao Bằng/Lạng Sơn; bằng tính kiêu ngạo cộng sản từ thời Quốc Tế III; bằng chỗ dựa vào đàn anh XHCN; bằng kinh tế sân golf hay Viettel ngày nay; bằng tổng cty 319; bằng xây dựng resort Hải Vân; bằng thế chấp rừng đầu nguồn; bằng bao che cho giặc cắt cáp/cướp tàu/bắt ngư dân ta đòi tiền chuộc; bằng kê khống giá biểu vũ khí rác nhập khẩu; bằng tuyên bố thành lập lực lượng ngư dân tự vệ biển; bằng sân bia kẻ thù ảo có tên là “thế lực thù địch”. Sứ Mệnh Đầu độc công an: Bằng khẩu hiệu còn đảng còn mình; bằng kỹ thuật mớm cung/ép cung/ép nhận tội/gây án oan; bằng kết luận nghi can tự tử ở đồn thẩm vấn; bằng biện pháp cưa đá giải tán biểu tình tuần hành; bằng bình xịt hơi cay ở sân nhà thờ; bằng phương pháp tạm giam ở trại phục hồi nhân phẩm; bằng bạo lực đạp mặt/giật cánh/xiết cổ/quặt tay người yêu nước biểu tình phản đối vụ Tam Sa hay dàn khoan 981; bằng ngón nghề bắt cóc/giả dạng côn đồ/tạt mắm tôm, dầu nhớt, chất thải. * Chẳng cần Bắc thuộc hoặc Tây xâm. Chỉ cần dưới hàng tá nỗ lực đầu độc vừa kể, trong suốt 85 năm qua, Việt Nam yêu dấu của chúng ta cũng đã tự động biến thành một ốc đảo của yếu kém và hèn mọn. Bốn “thành quả” lớn nhất của 85 năm CS ở VN là: Tổ quốc bất toàn – Đất nước tụt hậu – Xã hội vô cảm – Nhân tính thui chột. Cho dù đảng CSVN có hô hào đổi mới đến đâu, hoặc cho dù nó thay đổi thành tổng thống chế XHCN, hai bức tranh tương lai của đất nước mình là VN có cơ biến thành: 1.                  Một khu tự trị của TQ, như Tân Cương/Tây Tạng; 2.                  Một xứ sở độc tài biến dạng, như Nga. Bạn có chấp nhận cái chế độ ác trong hèn ngoài này trường tồn không? Giải pháp duy nhất để tránh khỏi hai hiểm hoạ ngày càng rõ nét đó, không gì khác hơn là ra sức vận động cho một sinh hoạt xã hội công dân đa nguyên đa đảng, chấm dứt vĩnh viễn các thứ sứ mệnh lịch sử viển vông quái ác đó, chấm dứt vĩnh viễn chế độ phi nhân này ở tuổi 85, bắt đầu bằng một phòng trào TOÀN DÂN VÀO CUỘC. Bạn có còn là người dân Việt Nam không? Bạn có còn là người yêu Việt Nam không? 02/02/2015 – Một ngày đầu mùa Tống Đảng Nghinh Xuân.Blogger Đinh Tấn Lực
......

Ai thấu cho lòng Tý?

Nhân ngày 3/2 kỷ niệm thành lập đảng CSVN, mời quí bạn đọc vừa nghe diễn văn của TBT Nguyễn Phú Trọng vừa đọc lại bài "Ai thấu cho lòng Tý" của tác giả Phạm Nhật Bình. - - - Thật đúng nay là cái thời chẳng còn tôn ti, phép tắc gì cả! Ai đời ông Tổng bí thư đảng CSVN vừa tuyên bố một câu, chưa kịp đóng miệng, đã có hàng hàng lớp lớp những câu phân tích, mắng chửi thậm tệ từ khắp các ngõ ngách trên mạng. Đó là câu ông Nguyễn Phú Trọng tuyên bố trong một cuộc gặp gỡ cử tri tại Hà nội: “Trong giải quyết căng thẳng trên biển Đông thời gian qua, chúng ta đã giành được thắng lợi“. Thật ra thì cũng khó trách dân cư mạng vì không một ai, kể cả Ban Tuyên Giáo Trung Ương, có thể giải thích được "thắng" ở chỗ nào. Ai nấy chỉ thấy trong tâm can mối nhục quốc thể: quân xâm lược ngang nhiên kéo vào tận thềm lục địa Việt Nam lúc chúng cần và thản nhiên kéo đi lúc chúng muốn. Rồi đại diện Bộ Chính Trị đảng CSVN sang tận đất Tàu chỉ để xin "khai thác chung" phần biển bao đời của cha ông Việt Nam. Nhiều người đã phải văng tục khi nghe câu nói của ông Trọng. Bực điên người vì câu nói thiếu não của ông Trọng đã đành nhưng ngạc nhiên thì chắc chẳng còn ai. Người ta hầu như đã quen với những phát biểu "làm ngẩn người" của vị cựu Trưởng ban Lý luận Trung ương, cựu Tổng Biên Tập Tạp chí Cộng sản, và nay Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng CSVN. Thật vậy, bà con ta quen đến độ lâu lâu không thấy báo chí đăng các phát biểu của ông Trọng người ta lại nhớ. Rõ ràng từ khi tuyên bố câu "tham nhũng như ngứa ghẻ", tức đã lan tràn khắp thân thể Đảng, ông Trọng đã "bỏ rơi" quần chúng khá lâu. Ngay cả trong chuyến đi Nam Hàn cũng không nghe báo chí thuật lại câu gì đáng kể. Có lẽ vì thế mà câu nói "đập chuột" của ông gần đây mới quí làm sao. Bao người lại có dịp kích ngất! Hôm đó, trong một cuộc tiếp xúc với cử tri Hà Nội - lại cử tri Hà Nội. Dân Hà Nội quả là có phước vì luôn được nghe trước cả nước - khi đề cập đến vấn đề chống tham nhũng ngày càng khó và trong vai trò Trưởng Ban Chỉ đạo Phòng chống Tham nhũng, ông Nguyễn Phú Trọng nói: “Chống tham nhũng thì phải như đánh chuột, đừng để vỡ bình!”. Hiển nhiên, ai cũng biết ông đang dùng câu ngạn ngữ Trung Hoa "Đánh chuột coi chừng vỡ bình quí". Nhưng điều làm người ta suy nghĩ là: ông Trọng đang ví ai là chuột? và ai là bình quí? Về chuột, không nhắc tới tên, người ta cũng biết con chuột lớn nhất mà ông Trọng đang muốn nhắm tới là ai. Chính ông Trọng đã tức tới độ nghẹn ngào ở cuối Hội Nghị 6 khi thừa nhận Trung ương của ông Nguyễn Tấn Dũng đã trói tay Bộ Chính Trị của ông Trọng trong việc đập "đồng chí X". Sau khi lãnh đạo các tập đoàn kinh tế và tổng công ty do Thủ tướng Dũng lập ra, chia riêng với nhau các núi tiền (mà các phe còn lại, kể cả mạng lưới của ông Trọng, không sơ múi được gì), họ để lại các xác chết công ty với khối nợ lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng, một con số đang làm gẫy lưng nền kinh tế èo uột của Việt Nam. Ông Trọng lại càng giận khi ông Dũng bắt đầu cho bộ hạ (hay hạ bộ cũng không sai) lên tiếng đề nghị khắp nơi rằng cái núi nợ từ các tập đoàn kinh tế đó là trách nhiệm của nhân dân và nhân dân phải tự gom góp tiền mà trả. Một trong những bộ hạ đó là Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý. Ông Lý tuyên bố ngay tại sàn Quốc hội: “Tôi thấy ở Hàn Quốc người ta coi nợ xấu là của toàn xã hội, nên kêu gọi người dân đóng góp tiền, vàng để giải quyết nợ xấu. Chúng ta có học tập được không?” Và hiển nhiên bên dưới vua chuột X là cả một hệ thống nhà chuột ngổn ngang, đan chéo quan hệ trên cả nước. Đó là chưa kể các họ chuột khác bên dưới từng ủy viên Bộ Chính Trị, từng bí thư tỉnh ủy. Số chuột nhiều đến độ ông Trọng bảo phải có những "suy nghĩ chiến lược" cho cả một "chiến lược đánh chuột" ở tầm vóc quốc gia. Nhưng người ta chưa kịp nghe cụ thể chiến lược đó là gì thì cũng lại chính ông Trọng tự chận tay mình lại với ý niệm "bình quí". Bình quí của ông Trọng là gì hay là ai?     Nếu bình quí đó là những lãnh tụ đảng cộng sản chân chính (hiển nhiên ... như tác giả câu nói đó) thì trước hết, các lãnh đạo "trong sạch" ấy có dám cho toàn dân biết con số và nguồn gốc khối tài sản gia đình họ đang cất giấu hiện nay không? hay vẫn chỉ giở trò nham nhở "phát hiện 1 trường hợp khai gian trong số gần 1 triệu cán bộ kê khai tài sản"?     Và ngay cả nếu thực sự có các lãnh tụ chân chính đó nhưng họ cứ nhất định chỉ đứng làm kiểng, vô tri vô giác, để mặc cho bầy chuột tha hồ cắn phá và phóng uế khắp nhà, khắp bàn thờ, thì các bình đó "quí" đối với ai?     Rõ ràng mọi cái bình hiện nay đều bị dính đầy mùi chuột, phân chuột, và lông chuột. Phải chăng đã tới lúc cần ném những cái bình vừa vô dụng vừa quá dơ dáy đó vào thùng rác?     Cũng có thể ông Trọng đang nói mỗi bình quí là một vai trò, chức năng, vị trí lãnh đạo của Đảng, và không thể vì có con chuột đang sống trong đó mà xóa luôn vị trí đó. Có lẽ đây là hình ảnh gần hơn với thực tế tại Việt Nam: chỉ có những con chuột sống trong bình lớn, bình nhỏ mới tròn trĩnh - chỉ có những đảng viên đang nắm chức lớn, chức nhỏ mới khấm khá. Các con chuột ở ngoài bình đều gầy guộc và luôn tìm mọi cách chui cho được vào một bình nào đó.     Chính vì vậy mà có thể nói chắc rằng tất cả mọi bình hiện nay trên đất nước Việt Nam đều có một hoặc nhiều chuột đang sống trong đó. Bình "quí" nhất là loại bình ủy viên Bộ Chính Trị, rất kiên cố và nhiều tiện nghi bên trong. Kế đến là các loại bình "made by thủ tướng", rồi loại bình tỉnh ủy, loại bình chánh án, bình công an, ... dài xuống cả loại bình giám đốc nhà thương, chủ nhiệm nhà trường.     Nhưng cái bình cực quí hiện nay, và càng gần Đại Hội Đảng XII càng tăng giá trị, là cái bình Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN.     Đến đây thì mọi người đều hiểu tại sao ông Trọng có vẻ hốt hoảng, cản ngay mọi ý định đập chuột ... trong bình.     Nhưng có người lại cho rằng ông Trọng muốn nói đến cái bình chung của mọi đảng viên đang có chức quyền, tức cái bình chuyên chính vô sản mà toàn bộ các quan chức đang bám vào để sống khoẻ, sống bền. Nói cách khác, cái bình duy nhất đó trên đất nước Việt Nam đang chứa tất cả họ nhà chuột. Nếu bình này bị mẻ tất cả sẽ bị gió lạnh và nếu bình bị vỡ thì tất cả đều sẽ phải xuống ... sống như dân thường.     Chính vì vậy mà ông Trọng rất nhất quán trong nhiều năm qua, luôn cố gắng thuyết phục hàng ngũ đảng viên: Nào là "nếu kỷ luật sẽ làm mích lòng"; rồi lại "kỷ luật sẽ làm mất đoàn kết"; rồi còn hăm dọa "diệt hết tham nhũng thì còn ai làm việc"; và khuyến khích mọi người nên xem nhẹ "tham nhũng như ngứa ghẻ", nghĩa là sống với tham nhũng cũng chẳng chết ai.     Hóa ra câu ví von của ông Trọng cũng là lời hứa ngầm: sẽ không đụng đến con chuột nào cả vì sinh mạng và quyền lợi chung. Đến nay, sau mấy thập niên với đủ loại chiến dịch đánh tham nhũng của Thủ tướng, của Bộ Chính Trị, của Ban Nội Chính, Ban Chỉ Đạo Phòng Chống Tham Nhũng Trung Ương, và đủ loại bộ phận khác, người dân biết chắc một điều: chuột chỉ có thể cắn xé nhau chứ chuột không thể đập chuột, và lại càng không thể đập trong cái bình chung của chúng. Mùi nồng nặc từ chiếc bình đang xông ra cả nước và càng lúc càng nặng mùi khi gần đến Đại Hội Đảng XII. Không chỉ mùi phóng uế mà còn cả mùi chuột chết bên trong.
......

24 Tổ chức XHDS trong ngoài nước Báo cáo vi phạm nhân quyền 2014

Việt Nam, ngày 30 tháng 1 năm 2015 Kính gửi: -       Hội Đồng Nhân quyền LHQ -       Ông David Kaye, Báo cáo viên LHQ về Tự do Ý kiến và Ngôn luận -       Ông Heiner Bielefeldt – Báo cáo viên LHQ về Tự do Tôn giáo -       Ông Michel Forst – Báo cáo viên LHQ về Người bảo vệ Nhân quyền, -       Ông Juan Ernesto Mendez – Báo cáo viên LHQ về Tra tấn Nhục hình, -       Ông Maina Kiai – Báo cáo viên LHQ về Tự do Hội họp và Lập hội -       Ông Mads Andenas – Nhóm đặc trách Bắt giữ tùy tiện -       Ông Pierre Vimont – Tổng thư ký Ủy ban Đối ngoại EU. -       Ông Scott Kofmehl, Ông Ryan Fioresi – Chuyên viên đặc trách VN của BNG Hoa Kỳ -    Đại sứ quán các nước tại Hà Nội: Malad Delphine (Cộng đồng EU), Felix Schwarz (Đức), Jenifer N. (Hoa Kỳ), Rose McConnell (Úc), Elenore Kanter (Thụy Điển), Sanjiv Ahluwalia (Anh), Ayesha Rekhi (Canada), Jean Philippe (Pháp), Tone Wroldsen (Na Uy), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Thụy Sĩ). -      Các tổ chức Nhân quyền quốc tế: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Brittis Edman (CRDs), Billy Ford (Freedom House). Đồng kính gửi: -       Quốc hội nước CHXHCNVN. Kính thưa Quí Vị,             Chúng tôi, những tổ chức Xã hội Dân sự độc lập khẩn cấp báo động với tất cả Quí Vị và trước nhân dân thế giới về việc đàn áp những người lên tiếng tranh đấu cho Nhân quyền một cách trắng trợn, phi pháp và có hệ thống của Nhà nước Cộng hòa XHCNVN, đặc biệt trong năm 2014.             Chúng tôi xin đính kèm bản Báo cáo “Việt Nam: thành viên Hội đồng nhân quyền LHQ và vi phạm nhân quyền 2014” minh chứng rõ ràng cho những vi phạm ấy, cùng những phân tích khách quan, đối chiếu sát sao những khuyến nghị của UPR. Chúng tôi cũng làm rõ chiến thuật che đậy của nhà cầm quyền VN trong những năm gần đây.             Bản báo cáo này tố cáo tính hai mặt trong chính sách nhân quyền mà nhà cầm quyền Hà Nội đang tích cực thực hiện. Đó là làm cho quốc tế tin tưởng họ có thiện chí cải thiện nhân quyền tại Việt Nam, trong khi họ vẫn tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị, nặng về đàn áp, không coi trọng tự do và nhân phẩm của người dân.             Chân thành cảm ơn Quý vị đã quan tâm và lên tiếng.             Trân trọng, Danh sách các tổ chức XHDS đồng hành lên án vi phạm nhân quyền: 1.   Bach Dang Giang Foundation: Ths.Phạm Bá Hải. 2.   Bauxite Việt Nam: Gs. Phạm Xuân Yêm, Gs. Nguyễn Huệ Chi. 3.   Con đường Việt Nam: Ông Nguyễn Công Huân. 4.   Diễn Đàn XHDS: Dr. Nguyễn Quang A. 5.   Giáo hội Cao Đài, Khối Nhơn sanh: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Nguyễn Bạch  Phụng 6.   Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ: MS. Nguyễn Hoàng Hoa 7.   Giáo hội Mennonite thuần túy: MS. Nguyễn Mạnh Hùng. 8.   Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo: Ông.Nguyễn Bắc Truyển. 9.   Hội Anh Em Dân Chủ: Ls.Nguyễn Văn Đài 10. Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo: Cô Hà Thị Vân. 11. Hội Bầu bí Tương thân: Ông Nguyễn Lê Hùng. 12. Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi. 13. Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts.Phạm Chí Dũng 14. Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, cô Trần Thị Nga. 15. Hội thánh Tin lành Chuồng Bò: MS. Lê Quang Du. 16. Khối Tự do dân chủ 8406: Lm. Phan Văn Lợi. 17. Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh 18. Nhóm Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc: Anh Huỳnh Trọng Hiếu 19. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải. 20. Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm 21. Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu: Bà Trần Ngọc Anh. 22. Tăng Đoàn Giáo hội PGVNTN: HT.Thích Không Tánh. 23. Liên mạng truyền thông Báo-Động: Giám đốc Huỳnh Tâm. (Pháp) 24. Thanh Niên Canada Tranh Đấu cho Nhân Quyền VN: Cô Nguyễn Khuê Tú (Canada) ******** 24 Vietnamese CSOs Report on Human Rights violation 2014 in Vietnam Vietnam, Jan 30, 2015 To: - NGOs’ submission to Human Rights Council - Mr. David Kaye, Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression - Mr. Heiner Bielefeldt, Special Rapporteur on freedom of religion or belief - Mr. Michel Forst, Special Rapporteur on the situation of human rights defenders - Mr. Juan Ernesto Mendez, Special Rapporteur on torture and other cruel, inhuman or degrading treatment or punishment - Mr. Maina Kiai, Special Rapporteur on the rights to freedom of peaceful assembly and of association - Mr. Mads Andenas, Working Group on Arbitrary Detention - Mr. Pierre Vimont, Executive Secretary General of the European External Action Service - Mr. Scott Kofmehl, Mr. Ryan Fioresi, Vietnam Desk Officers, the US Department of State - Embassies in Hanoi: Malad Delphine (EU delegation), Felix Schwarz (Germany), Jenifer N. (USA), Elenore Kanter (Sweden), Sanjiv Ahluwalia (England), Ayesha Rekhi (Canada), Rose McConnell (Australia), Jean Philippe (France), Tone Wroldsen (Norway), Kathryn Beckett (New Zealand), Sascha Muller (Switzerland). - International NGOs on human rights: Brad Adams (HRW), Benjamin Ismail (RSF), Brittis Edman (CRDs), Rupert Abbott (Amnesty International), Shawn Crispin (CPJ), Billy Ford (Freedom House). CC: - The National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam Ladies and gentlemen, We, the independent civil society organizations, urgently alert all of you to the blatant, illegal and systematic crackdowns on human rights defenders and dissidents of the Socialist Republic of Vietnam, especially in 2014. We enclose here the report "Vietnam: Member of the UN Human Rights Council & Human Rights Violations in 2014" to demonstrate such violations clearly by the objective analysis comparing closely with the UPR recommendations. We also clarify the tactics to cover up the human rights abuses in the recent years. The report lays bare the duality of human rights policy that the Hanoi government has been implementing actively. One hand they get the international community to believe their willingness to improve human rights in Vietnam. On the other hand, they continue to maintain the totalitarian regime with serious persecution, not respecting for freedoms and human dignity of their citizens. Thank you for your consideration and taking action. Sincerely, Vietnamese independent civil society organizations co-sign to condemn human rights abuses: 1. Bach Dang Giang Foundation: Pham Ba Hai (MBE) 2. Bauxite Vietnam: Prof. Pham Xuan Yem, Prof. Nguyen Hue Chi. 3. Vietnam Path Movement: Mr. Nguyen Cong Huan. 4. Civil Society Forum: Nguyen Quang A (Ph.D.) 5. Cao Dai church, Humanism: Mr. Hua Phi. Mr. Nguyen Kim Lan, Mrs. Nguyen Bach Phung. 6. Evangelical Lutheran Community Church Vietnam-America: Pastor Nguyen Hoang Hoa 7. Christian Mennonite Church: Pastor Nguye n Manh Hung 8. Vietnamese Political and Religious Prisoners Friendship Association: Nguyen Bac Truyen (LLB) 9. Brotherhood for Democracy: Lawyer Nguyen Van Dai 10. Association to Protect Freedom of Religion: Ms. Ha Thi Van. 11. Gourd and Squash Mutual Association: Mr. Nguyen Le Hung 12. Former Vietnamese Prisoners of Conscience: Dr. Nguyen Dan Que, Catholic Priest Phan Van Loi. 13. Independent Journalists Association of Vietnam: Pham Chi Dung (Ph.D.) 14. Vietnamese Women for Human Rights: Ms.Huynh Thuc Vy, Ms.Tran Thuy Nga 15. Evangelical Protestant Chuong Bo Church: Pastor Lê Quang Du 16. Bloc 8406: Priest Phan Van Loi. 17. Viet Labor: Ms. Do Thi Minh Hanh. 18. Religion and Ethnic Minority Defenders: Mr. Huynh Trong Hieu. 19. Nguyen Kim Dien Group: Father Nguyen Huu Giai. 20. Hoa Hao Buddhist Church, Purity: Mr. Le Quang Liem. 21. Oppressed Petitioners Solidarity Movement: Ms. Tran Ngoc Anh 22. Delegation of Vietnamese United Buddhists Church: Ven. Thich Khong Tanh. 23. Vietnamese Interactive Network: Director Huynh Tam (France) 24. Canadian Youth for Human Rights in Vietnam: Ms. Khue Tu Nguyen (Canada) Theo fvpoc.org
......

Quyền được cười nhạo

Hà Sĩ Phu (Nhân vụ Charlie Hebdo nghĩ về vũ khí phê phán) 1. Về vụ khủng bố tòa báo Châm biếm Charlie Hebdo Sự cọ xát, phân định, và đấu tranh giữa các yếu tố đúng-sai, tốt-xấu, thiện-ác, giữa nhân tính và thú tính, lạc hậu với văn minh…của thế giới con người đã làm phát sinh một thứ “vũ khí” đặc biệt là “vũ khí phê phán”, mà mức độ cực đoan tồi tệ nhất là “phê phán bằng vũ khí”. Phê phán là đấu tranh với nhau dưới mọi hình thức, là hoạt động thiêng liêng để tiến hóa chỉ loài người mới có, thiếu nó xã hội sẽ rơi vào tình trạng hỗn mang của loài vật. Phê phán xuất hiện và tồn tại cùng với loài người và cũng dần dần văn minh hóa cùng với loài người. Nhưng một hoạt động quan trọng và bao trùm như thế tất nhiên không bao giờ đơn giản. Hãy tạm gác ra ngoài sự “phê phán bằng bạo lực, bằng vũ khí” là hình thức kém văn minh mà nhân loại đang phấn đấu để loại trừ (nhưng nhân loại còn lâu mới đạt được ước vọng đó), sự phê phán hòa bình có thể tạm gom lại dưới 3 hình thức tùy theo vị thế tương quan mà người phê phán tự xác định trước đối phương: – Phê phán chính luận, vạch cái sai cái xấu của đối tác bằng ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ “chính thống” của đối thoại, trong đó người phê phán đặt đối tác, đối phương ngang hàng với mình. – Chửi theo đúng nghĩa đen là hình thức phê phán thường là của giới bình dân bị trị, thấp cổ bé họng, tuy bề ngoài có vẻ “ghê gớm” nhưng thực chất đây là vũ khí của kẻ yếu, tự thấy bất lực trước tình hình, không tìm được một “cơ chế” chính thống nào để giành thắng lợi, thôi thì không thành công cũng thỏa nỗi bực trong lòng một chút, bởi phương pháp “chửi” ít khi giành được thắng lợi cụ thể. Ở phạm vi nhỏ thì đó là những cuộc “chửi mất gà” nhưng ở tầm lớn chính là sự “chửi mất nước”- “chửi quốc hận”, nên dân tộc nào chất chứa căm giận nhưng bất lực thì thường đưa vũ khí “chửi” lên tầm quốc hồn quốc túy. - Châm biếm, cười cợt mới là vũ khí phê phán rất đặc biệt. Ở đây, sự khinh ghét hoặc căm giận lại chuyển dạng thành tiếng cười, cười nhạo nhẹ nhàng hoặc sâu cay nhưng tê tái cho đối phương, bởi người phê phán, dù mạnh hơn hay chưa mạnh hơn, nhưng đã đặt mình ở tư thế đứng trên đối phương mà khuyến cáo, mà cười nhạo cho đối phương biết mà sửa, dù sâu cay mấy thì vẫn ngầm một ý khoan dung, không thèm chấp kẻ dưới tầm. Vì thế kẻ bị châm biếm sâu cay thường bị “ngấm đòn”, thấy bị nhục, bị đau hơn rất nhiều . Trong 3 hình thức phê phán ôn hòa thì châm biếm gây cười có lẽ là lịch sự và sang trọng hơn cả, nhưng khốn nỗi lịch sự và sang trọng chính là điều mà kẻ bị phê phán không thể chịu được, bởi họ thấy kẻ phê phán đứng ở tầm trên mà họ không cãi được.Vậy không nên ngạc nhiên khi thấy những tín đồ Hồi giáo cực đoan lại căm thù tờ báo châm biếm Charlie Hebdo, chuyên gây cười cho thiên hạ đến thế. Đối với kẻ bị phê phán bằng cách châm biếm thì ẩn sau lòng căm thù là tiềm thức tự ái,vô vọng, tự ty. Tự thấy không thể ngang hàng đối chất, đối thoại, đối biếm, nên chỉ còn cách “phê phán bằng vũ khí”, thứ vũ khí dao búa man rợ của thằng khùng. Dù giết được bao nhiêu người nhưng sâu thẳm trong vô thức họ biết họ thua, càng thua càng khùng càng tàn độc. Càng tàn độc càng thua, đó là cái vòng tự kích không có lối ra của tình trạng văn hóa thấp kém trong cuộc đấu tranh và đào thải. Một điều khiến cho cục diện phê phán trở nên phức tạp vì khi anh A phê phán-chê cười anh B là sai là xấu thì ngược anh B cũng có thể làm như vậy với anh A. Có vẻ như vậy là thật giả bất phân, sẽ “hòa cả làng” ư? Không đâu, trọng tài sẽ là sự thật, sự thật minh định bởi thời gian và quần chúng nhân dân tự do. Nhân dân có thể mất tự do nên bị định hướng trong một giai đoạn nào đấy nhưng không bao giờ mất tự do vô thời hạn. Song cũng chưa cần đến thời gian và công chúng, sự phân định có thể tức thời. Người mất gà thật mới có sức mạnh tự thân để làm cho tiếng chửi có hồn để thuyết phục. Thủ phạm ăn cắp gà thì dù có tài lấp liếm bao nhiêu cũng không sao có được sức mạnh ấy, họ chỉ có thể dùng những sức mạnh khác để cầm cự, như dùng bạo lực hay quyền lực chẳng hạn. Trở lại vụ Charlie Hebdo. Bọn Hồi giáo cực đoan cũng châm biếm các họa sĩ Pháp đi, rất công bằng, ai cấm? Nhưng châm biếm sao nổi? Họ không có sức mạnh của lẽ phải để thốt nên lời châm biếm. Cho nên họ khùng, họ chỉ có thể dùng vũ khí cố hữu của thằng khùng là bạo lực khủng bố. “Phê phán bằng bạo lực” là sự đồng quy của hai thái cực, hoặc của bọn phi nghĩa cực đoan hoặc của chính nghĩa nhưng đang còn hèn yếu, bế tắc chưa tìm ra cách. Vì thế, tôi đứng hẳn về phía những người châm biếm, mặc dù biết không phải sự phê phán bao giờ cũng đúng, sự phê phán cũng được quyền sai như mọi thứ khác trên đời. Phải biết tôn trọng các Tôn giáo ư? Những hoạt động khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cực đoan đã có từ lâu, đã xảy ra trước sự châm biếm của Charlie rất nhiều, ai mà chẳng biết? Sự châm biếm là lời cảnh báo rất nhân đạo của nhân loại đối với loại Tôn giáo cực đoan. Những người Hồi giáo không cực đoan dù oan uổng cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trước bọn đồng đạo cực đoan kia. Chừng nào những người Hồi giáo nhân ái chưa có tiếng nói chính thức chối bỏ và có hành động trừng trị hữu hiệu đối với bọn đồng đạo cực đoan thì họ phải chịu chung sự phê phán là đương nhiên. Cũng giống như chừng nào đảng Cộng sản không có khả năng trừng trị bọn tham nhũng và bán nước từ trong đảng của mình sinh ra thì chừng ấy chính ĐCS phải gánh lấy sự phê phán tội “tham nhũng và bán nước” trước lịch sử, làm sao khác được? Những kẻ bịt toàn thân trong tấm trùm đen, tay lăm lăm cây dao nhọn, chuẩn bị cắt cổ, chọc tiết, phanh thây những con tin để đòi tiền chuộc thì không được quyền nhân danh một con người, làm gì có quyền nhân danh một tôn giáo? Và tôn giáo nào cho chúng được phép nhân danh thì cái gọi là “tôn giáo” ấy hoàn toàn không còn chỗ đứng trong cộng đồng các tôn giáo của nhân loại. Phê phán thứ quá khích đội lốt tôn giáo ấy hoàn toàn không phải là đả kích tôn giáo, xin các nhà hảo tâm, đạo đức nhẹ dạ đừng lầm. Dùng hình thức châm biếm để phê phán tính thú vật ấy là còn quá nhẹ nhàng và nhân ái đối với chúng. Toàn nhân loại phải hiệp lực để đẩy lùi đại nạn thú tính ấy, để đẩy chúng vào bóng đêm rừng rú của thời tiền sử, trả lại cho nhân loại sự yên bình, chứ không thể vì chúng quá “mạnh”, quá ác hoặc quá tinh vi mà Chính nghĩa phải rút lui rồi tự trách đồng đội của mình sao lại dại dột phê phán chúng, dù chỉ phê phán bằng sự chê cười! Kẻ thù càng hung hãn xảo quyệt thì càng phải hiệp lực để tìm bằng được cách trừng trị. Thế giới Nhân tính lại thua thế giới Thú tính hay sao, nếu thế làm gì có Tiến hóa? Bênh vực hay tránh né bọn tà giáo cực đoan không phải là tôn trọng tôn giáo mà là làm nhục danh hiệu tôn giáo, làm nhục các tôn giáo chân chính. Tóm lại: – Cười hay châm biếm gây cười là hình thức phê phán lịch sự, văn minh, ở tầm cao hơn đối tượng được/bị châm biếm. – Châm biếm là một động lực thúc đẩy tiến hóa, thúc đẩy văn minh, nên châm biếm phải là một quyền trong nhân quyền, như một bộ phận của tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí. – Mỗi người có quyền thích hay không thích hình thức châm biếm nhưng đã là quyền thì phải được pháp luật quốc tế và luật trong nước bảo vệ, không ai được ngăn cản hay ngăn cấm. – Cũng như mọi hình thức phê phán ôn hòa khác, châm biếm có thể đúng cũng có thể sai nên tất nhiên ai cũng có quyền “phản châm biếm”. Châm biếm khác với vu cáo, vu cáo thì đã có quy định rất cụ thể trong luật mà nước nào cũng có. Nói một cách dễ hiểu thì một người trong xã hội có quyền “Cười” châm biếm và rất nên biết cười và gây cười để “giã từ những hư hỏng, tệ đoan một cách vui vẻ”. 2. Dân tộc tự phê phán. – Có nên viết về khuyết tật của người mình không? Trong các quy mô phê phán thì sự phê phán các tính cách của Dân tộc mình có một ý nghĩa vô cùng trọng đại, nó giúp cho sự canh tân và phát triển toàn cục của một xã hội, một quốc gia. Biết ưu điểm của Dân tộc để tự hào và biết nhược điểm để sửa chữa, cả hai mặt đều quan trọng, nhưng khi người ta bằng lòng với quá khứ và hiện tại thì thường thiên về tự hào, trái lại khi muốn có thay đổi cho hiện tại và tương lai thì tự nhiên sẽ xuất hiện nhu cầu phải tự phê phán Dân tộc, giống như khi con người muốn chạy về phía trước thì môi trường tự nhiên sinh sức cản và ta phải làm sao thắng được các lực cản ấy. Ví dụ khi Hồ Chí Minh muốn vận động dân chúng làm cách mạng thì năm 1926 trong một bài giảng ở Quảng Châu đã đề cập đến “hai nhược điểm lớn của dân Việt là mất đoàn kết và …không biết hay biết rất ít về tình hình toàn cầu”, ngoài ra “vấn đề lớn nhất ở làng bản Việt Nam là vấn đề sĩ diện và ngôi thứ” (1). Muốn vận động dân chúng để cứu nước các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu cũng phải phê phán nhau và phê phán dân tộc quyết liệt. Từ khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trước nhu cầu phải đưa xã hội thoát khỏi một giai đoạn sai lầm nghiêm trọng, nhu cầu tự phê phán những nhược điểm của người Việt mình lại một lần nữa nổi lên, lôi cuốn nhiều tác giả với nhiều bài viết, trong đó nhà văn Vương Trí Nhàn là một tác giả có nhiều đóng góp. Từ sau năm 1975 bên cạnh xu hướng tự sướng, tự ca ngợi, ngồi chễm trệ ở chốn bình yên mà nhấm nháp ly rượu chiến thắng thì nhà văn hóa Cao Xuân Hạo đã kịp thời cảnh báo “Một nhà hiền triết cổ đại có nói rằng, một trong những nhân tố quan trọng nhất khiến cho một dân tộc, một triều đại, một nhà vua, một tướng lĩnh sa đọa nhanh nhất chính là một trận đại thắng lẫy lừng khiến cho người ta có ảo giác là mình bất khả chiến bại, mình là tinh hoa của nhân loại, mình là tuyệt đối hoàn hảo. Đó chính là dấu hiệu chắc chắn nhất của sự suy đốn và đồi bại. Cho nên, sau một thắng lợi lớn, nguy cơ suy vong của một dân tộc không những không mất đi, mà còn tăng gấp bội” (2) . Trái với lời răn đã quen khi viết phê bình là phải “nghiêm túc, đúng mực, không quá lời, để đối tượng dễ tiếp thu”, GS Cao Xuân Hạo nói thẳng ra rằng phê phán Dân tộc là: “phải phóng tay phát động lòng dũng cảm của họ lên, dẹp lòng tự ái dân tộc đến tối đa”, có thể dùng “giọng điệu giễu cợt cay độc đến đâu chăng nữa”, “còn phải làm cho mỗi người Việt thấy xấu hổ những nhược điểm ấy một cách sâu xa”, “dù những lời chê bai của họ chỉ đúng với một thiểu số không đáng kể”. Vậy đó, ý kiến GS Cao Xuân Hạo mà tôi tin chắc mỗi người trí thức còn nặng lòng và còn “khổ tâm” với dân tộc mình đều phải đồng tình, là những ý kiến quyết liệt, minh bạch và chính xác, nên đọc kỹ lại nhiều lần. 3. Nhưng tự phê phán Dân tộc mình lúc này coi chừng nguy hiểm. Ở đây tôi xin phép được dẫn một ví dụ thiết thân vì nghĩ rằng nó có tính điển hình: một phía đang “đắc ý” với Dân tộc để giữ yên, một phía muốn “phê” Dân tộc để có đổi mới nên người ta ghét nhau đến mức quy kết nhau đến tội “phản quốc”, tội nặng nhất trong luật hình sự. Ấy là vào năm 2000. Sau khi thấy khối Cộng sản Đông Âu đổ sụp, không ít người tin chắc chế độ CS Việt Nam cũng sắp đổ theo, từ đó rủ nhau ký một kế hoạch hành động chuẩn bị cho sự đổ ấy, kế hoạch có tên “Kết ước năm 2000”. Nhưng trong một cuộc phỏng vấn tôi đã quả quyết “CS Việt Nam không dễ đổ như Đông Âu, đừng vội mừng” ( tôi nói y như giọng bênh vực Đảng của Ban Tuyên giáo CS vậy). Hai ông Đỗ Mạnh Tri và Nguyễn Gia Kiểng ở Pháp viết thư hỏi tôi đại ý “căn cứ vào đâu mà tôi có ý kiến ngược đời như vậy”, tức là cần phân tích những đặc điểm riêng của Việt Nam. Tôi viết 2 bức thư trả lời (3), tuyên bố không ký vào văn bản “Kết ước” đó và giải thích vì sao tôi không ký. Nếu chỉ có thế thì chắc ĐCS đã “khen thưởng” tôi rồi. Nhưng khốn nỗi ở nội dung của lời giải thích, trong đó có mấy ý nổi bật khiến cho chúng tôi, tôi và ông Mai Thái Lĩnh (4) bị khởi tố tội “phản bội Tổ quốc”, cấm tự do đi lại và ngày hai buổi lên làm việc hỏi cung với An ninh của Bộ Công an suốt 8 tháng trời! Đại ý luận điểm của tôi về tính cách của Dân Việt Nam và ĐCSVN như sau: – Là thân phận bị mấy nghìn năm cai trị bởi vua chúa và kẻ thù khổng lồ phương Bắc nên đã hun đúc trong người VN tính khôn vặt, khôn lỏi, không thể chống đối ra mặt nên phải giả vờ phục tùng để tồn tại, nhưng bên trong phải tính toán sao cho có lợi nhất. Vì thế Dân với Đảng cùng giả vờ tôn vinh nhau nhưng bên trong tìm cách vô hiệu hóa ngón đòn của nhau để giữ gìn hoặc vun vén lợi ích riêng. Cặp hôn phối “mạt cưa mướp đắng” này cứ thích nghi với nhau, còn sống được với nhau mấy chục năm nữa. Khi ĐCS nói “Đổi mới hay là chết” là họ khiêm tốn quá đấy, cứ yên tâm, ở Việt Nam này CS không đổi mới tử tế gì cũng chưa chết như Đông Âu đâu. – Ở châu Âu nếu có tảng đá khổng lồ chắn ngang xa lộ thì người ta hò nhau giải quyết tảng đá, nhưng người Việt Nam chẳng dại đối đầu với tảng đá, mỗi anh đều khôn lỏi tìm đường hẻm để lách qua, cuối cùng ai cũng đi qua nhưng tảng đá vẫn còn nguyên, mọi người gặp nhau đều khoái trí, phục nhau là khôn. – Ở VN sẽ chẳng có gì đổ hết, vì muốn đổ thì vật phải có một hình dạng để đứng lên như cái chai, cái cốc. Việt Nam là một thể vô định hình như một khối bùn nhão, không định hình thành một chủ nghĩa gì cả, chỉ vá víu chắp nhặt hẩu lốn mỗi thứ một tí để tồn tại nên chẳng có hình thù gì để mà “đổ”! Vả lại một dân tộc lạc hậu vẫn có thể “đi lên” theo đuôi nhân loại văn minh theo kiểu ký sinh như con chấy con rận bám trên lưng con hổ thì cũng tung hoành khắp nơi như con hổ đó thôi. – Xã hội Việt Nam như một con đường làng chật hẹp, đoàn người cứ phải đi sau Đảng như đi sau một con trâu mộng sừng nghênh ngang nhọn hoắt, ai vượt lên thì nó húc chết, đành kiên trì đi sau nó một cách chậm chạp, thỉnh thoảng nó lại ị cho một bãi… Xã hội Việt Nam như một đồng cỏ khô nhưng một que diêm không thể làm bùng cháy vì đồng cỏ đã được Đảng phun chất chống cháy rồi… – Tất cả những đặc điểm ấy của người Việt Nam là do truyền thống quý báu 4000 năm để lại cũng chỉ đúng một phần, phần lớn là nhờ Đảng ta đã dày công đào tạo, dạy dỗ… Đại lược là như thế, đã không ký vào văn bản chống Đảng, lại bảo Đảng này còn lâu mới đổ, bênh Đảng hơn cả Ban Tuyên giáo nhưng chỉ vì cái giọng cười cợt châm biếm, khinh bạc mà bị khởi tố đến tội phản quốc. Nhưng chẳng hiểu sao sau 8 tháng hỏi cung, chúng tôi chuẩn bị tinh thần ra tòa với cái án tù hai chục năm là nhẹ cho tội phản quốc, thì đùng một cái có lệnh đình chỉ vụ án, thật là súyt chết! (nghe đồn chúng tôi thoát chết vì trong Bộ Chính trị không nhất trí, từ đấy cứ thấy trong BCT có mâu thuẫn với nhau là chúng tôi mừng lắm). Nhưng chưa xong, vụ án bị đình chỉ, không ra tòa, nhưng cái “tội” dám châm biếm cả “ý Đảng” lẫn “lòng Dân” thì không tha được. Nguyễn Như Phong, phó biên tập của tờ An Ninh Thế giới viết một bài dài “Mặt thật của một vài người mượn danh hiền sĩ” (5), cứ như báo An ninh có quyền thay mặt quan tòa quy tội chúng tôi đủ điều, trong đó có một đoạn dài trích lời châm biếm của HSP đối với thực trạng xã hội Việt Nam: “Hà Sĩ Phu viết về nhân dân Việt Nam bằng ngôn từ như thế này: Vô lý, nhân dân chết cả rồi sao? Chết cả rồi, bị tiêm thuốc chết cả rồi. Số còn ngoắc ngoải thì không phải là nhân dân, hay nói cho công bằng thì họ chỉ được là công dân loại hai, như dân thiểu số vùng cao. Đừng thấy đám đông phóng xe máy, nghe máy bộ đàm, gõ máy vi tính, hát karaoke, báo cáo trên tivi về thành tích biết làm giàu, lĩnh giải này giải khác mà tưởng nhân dân đang sống mãnh liệt. Vẫn tưởng có cơm ăn áo mặc, vẫn ngày biết thêm một vài thứ văn minh mà trước đây chưa từng được biết tới…vẫn được nước ngoài viện trợ, vẫn có khối thứ để tự hào, vẫn thấy con hơn cha tưởng nhà có phước… Bao kẻ anh hùng đánh giặc ngoại xâm lại trở nên hèn mạt và vô cùng nhỏ bé trước danh lợi, thần quyền và thế quyền. Kẻ có dũng thì ngu dốt, kẻ có trí thì hèn, kẻ có trí có dũng thì láu cá vị kỷ bất nhân…” Và theo Nguyễn Như Phong thì một kẻ đã phê phán Dân tộc mình như thế thì “phải trục xuất Hà Sĩ Phu ra khỏi Đà Lạt. Nhưng thưa bà con, trục xuất đi đâu, liệu có quốc gia nào sẵn lòng nhận những người như vậy không, còn trên đất này đâu chả là đất Việt và chỗ nào là chỗ mà ông ta yêu quý? Trong vụ án này Hà Sĩ Phu đóng vai trò là người cầm đầu, hung hăng nhất trong việc đòi xóa bỏ chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận động các tổ chức quốc tế, các chính phủ gây sức ép làm xâm hại đến độc lập, chủ quyền của Nhà nước Việt Nam”. Thực tình thì HSP mới chỉ làm mỗi một việc là phê phán ôn hòa, nhưng cái giọng thì hay ví von, châm biếm: phê phán chủ nghĩa Mác-Lê phi khoa học và độc đoán, phê phán những những nhược điểm của tính cách dân Việt Nam đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa kia mọc rễ và nương náu, chậm bị đào thải, chứ HSP đã làm được gì đâu mà đại tá công an Nguyễn Như Phong đã quá phong tặng? Có người bạn đã thân ái nhận xét: “Cũng nội dung ấy nhưng ông đừng ví von, châm biếm người ta mà cứ nghiên cứu, kiến nghị, góp ý như một con dân trong hệ thống thì đâu đâu khiến ngưới ta phát khùng lên như thế? Thôi rút kinh nghiệm!”. Vâng, nhưng bảo một người có máu châm biếm như Charlie Hebdo đừng vẽ biếm họa nữa mà hãy viết một bài góp ý chân tình với Hồi giáo đi thì cuộc đời đã chẳng còn là cuộc đời. Lời kết Phê phán là một vũ khí mà Tạo hóa đã ban cho để Con người biết dìu dắt nhau thoát khòi thế giới súc vật dã man và ngày càng biết sống cho ra Con người. Vũ khí phê phán ôn hòa đang mở ra hy vọng để có thể chấm dứt sự “phê phán bằng vũ khí”. Nhưng những hệ quyền lực chỉ biết chọn độc tài làm phương thức sinh tồn thì họ rất ưa miệt thị người khác chứ không chấp nhận cho người khác phê phán mình, nên họ không thể dùng vũ khí phê phán ôn hòa và công bằng, mà cứ kiên trì con đường “phê phán bằng vũ khí”, từ dao búa và chất nổ, đến trại giam, tù ngục, hay bạo lực côn đồ. Châm biếm là một hình thức đặc biệt trong vũ khí phê phán, người phê phán tự xác định mình đứng ở tầm cao hơn cái Ác, chọc để phát ra tiếng cười, để nhân loại có thể giã từ những khuyết tật của mình một cách vui vẻ. Vì thế, con người văn minh rất cần biết và cần quen với vũ khí châm biếm, biết cười nhạo những bất toàn của chính mình cũng như của đồng bào, đồng loại. H.S.P. Chú thích: (1) GS Trần Quốc Vượng- Cần sửa đổi lề lối nghiên cứu lý luận-Xưa và nay 20/2/2001 (2) GS Cao Xuân Hạo- Có nên viết về khuyết tật của người mình không – http://www.chungta.com/co_nen_viet_ve_khuyet_tat_cua_minh_khong.html http://diendan.nuocnga.net/showthread.php?p=43175 (10-11-2009) (3) Hai bức thư HSP gửi NGK và ĐMT (http://www.hasiphu.com/vuanIII_20.html) (4) Năm 2000 tôi vẫn bị khống chế lai rai nên chưa có Internet, thư Email phải nhờ ông Mai Thái Lĩnh chuyển giúp. (5) Báo An ninh thế giới, từ số 210. ra ngày 4/1/2001 Theo boxitvn.net
......

Phim “Last Days in Vietnam”- Những ngày cuối cùng ở Việt Nam

"Thông điệp tình người qua cuốn phim Last Days In Vietnam" qua nhận xét của Ts Trần Diệu Chân. Phim “Last Days in Vietnam”- Những ngày cuối cùng ở Việt Nam Đài PBS (Public Broadcasting Service) sẽ trình chiếu phim “Last Days in Vietnam” vào ngày 28-4-2015 nhân dịp tưởng niệm 40 năm biến cố 30-4-1975 trên toàn bộ hệ thống khắp Hoa Kỳ; và những ngày trước đó,). Phim “Last Days in VN” cũng sẽ ra DVD vào cuối tháng 4, 2015. Phim tài liệu “Last Day In Vietnam” mang một số thông điệp của người Mỹ nhìn về ngày 30 tháng 4 của 40 năm về trước. Điểm chính rất tuyệt vời của cuốn phim mà ai cũng phải nhìn nhận là nói lên TÌNH NGƯỜI trong giai đoạn khó khăn, cấp bách, nguy hiểm nhất – những ngày cuối cùng của cuộc chiến Quốc-Cộng tang thương kéo dài 20 năm trên đất nước Việt Nam. Bên cạnh đó, cảm nhận của tôi về cuốn phim rất xúc động mà hầu hết ai xem phim cũng nhỏ lệ là: 1. Chính nghĩa của dân tộc, của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã được phục hồi khi nói lên cái ác và bất tín của cộng sản Việt Nam (CSVN). Đồng thời, phơi bày sự thật về lý do tại sao VNCH thất trận, đó là sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH hèn nhát, tháo chạy như dư luận tại Hoa Kỳ cũng như trên thế giới đã từng hiểu lầm do bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến. 2. Can đảm đưa ra nhận thức là chính Hoa Kỳ đã bỏ rơi VNCH để đưa đến tình trạng kết thúc tang thương tại Việt Nam mà hệ quả còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Phê phán Hiệp Định Paris là một “kiệt tác của hỏa mù” và nói lên những trí trá của phía CSVN cũng như những ký kết vô trách nhiệm của Hoa Kỳ. 3. Tinh thần trách nhiệm, bác ái, can trường của nhiều người Mỹ cũng như Việt trong cuộc di tản, sẵn sàng hy sinh cá nhân mình vì người khác. 4. Bài học lịch sử cho Hoa Kỳ - như lời chia sẻ của Đạo diễn Rory Kennedy: Trước khi mình dấn thân vào một cuộc chiến, phải nghĩ tới sách lược thoát ra các cuộc chiến đó như thế nào để là một kết thúc có hậu. 5. Bài học lịch sử cho Việt Nam: Luôn lấy sức mình/sức mạnh dân tộc làm chính. Quốc gia nào cũng đặt ưu tiên quyền lợi dân tộc họ; do đó họ chỉ hợp tác khi có tương quan quyền lợi và sẵn sàng bỏ rơi chúng ta khi cần. Cần thực tế hóa và không lý tưởng hóa tương quan với các quốc gia bạn; vận động sự hợp tác quốc tế trên căn bản “tương quan quyền lợi”. 6. Cuốn phim không cho phía cộng sản Việt Nam có tiếng nói. Ngược lại, nói lên được cái ác của CSVN và sự cảm thông với người dân miền Nam Việt Nam qua lời chia sẻ của một vị đại tá Mỹ: “Người dân miền Nam có đủ lý do để khiếp sợ Cộng Sản Việt Nam. Hành vi của Cộng sản trong suốt cuộc chiến là bạo lực và không hề khoan nhượng. Thí dụ khi thành phố Huế bị Bắc Việt chiếm, nhiều ngàn người có tên trong sổ đen dày cộm của họ đã bị triệu tập, thầy giáo, công chức, những người mang danh chống cộng đã bị xử tử, thậm chí trong một số trường hợp họ bị chôn sống.” Ngay cả hình ảnh mà đạo diễn Rory Kennedy đã tài tình lồng vào: hình ảnh nhuộm đỏ Việt Nam như một dòng suối máu lan theo bước chân thôn tính của CSVN – cũng nói lên được nguy cơ vào giai đoạn chót, và sự đe dọa kinh hoàng của một chế độ độc ác. 7. Ghi nhận những phi công, sĩ quan Việt Nam can đảm, tài giỏi, yêu nước qua hình ảnh tiêu biểu của một số vị. Nói lên được sự thông cảm và thương cảm đối với người dân miền Nam Việt Nam. 8. Đoạn cuối, cuốn phim đã ghi chú về chính sách tù “cải tạo” tàn bạo của CSVN: “Đối với những người bị bỏ rơi, hàng trăm ngàn người bị đưa vô trại học tập cải tạo. Nhiều người đã bỏ mạng vì bệnh tật và đói khát. Một số không rõ bao nhiêu người bị xử tử.” Chính vì những ưu điểm này mà cuốn phim đã được đồng bào chúng ta đón nhận nhiệt liệt, dù vẫn có những ấm ức là cuốn phim chưa nói lên được hết những đau thương mà đồng bào chúng ta phải gánh chịu kể từ sau cái ngày tan đàn xẻ nghé 30-4-1975, chưa nói lên được đầy đủ những gương anh hùng của quân cán chính VNCH, những hình ảnh tuẫn tiết của các vị tướng VNCH, và chưa lột hết được sự phản bội của đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng có cuốn phim nào mà nói lên hết được tất cả những u uất, thống khổ, thương tâm của cuộc chiến Quốc-Cộng mà dân tộc chúng ta đã phải gánh chịu, và ngay cả giai đoạn đau thương sau khi chiến tranh chấm dứt 40 năm qua? Dẫu sao, cuốn phim đã nói lên được phần nào những điểm son để phục hồi sự thật, để rút tỉa kinh nghiệm, để vinh danh giá trị nhân bản và tình người trong một trang sử cận đại mà hệ lụy vẫn còn kéo dài đến ngày hôm nay. Với hầu hết những chia sẻ về “Last Days...” là những lời khen, từ các nhà bình luận/điểm phim chuyên nghiệp Mỹ - Việt, cho tới đồng bào chúng ta sau khi xem phim, chúng tôi xin trích lại đây một số những bình phẩm tiêu biểu để giới thiệu cuộn phim tới đồng bào. Chính vì những giá trị của cuốn phim mà tôi đã nhận lời nằm trong ban dịch thuật để PBS có thể phụ đề tiếng Việt cuốn phim gởi tới cho đồng bào Việt Nam ở khắp nơi (ngay cả trong nước hy vọng đồng bào chúng ta cũng có thể xem qua mạng Internet hay DVD). “Last Days in VN” đã được Academy Awards đề nghị giải Oscar cho phim tài liệu hay nhất năm 2015. Không biết phim có nhận được giải Oscar vào tháng 2 này hay không, nhưng tôi nghĩ “Last Days in Vietnam” đã thắng giải Oscar trong trái tim của nhiều người Việt Nam, trong đó có tôi. Ts Trần Diệu Chân
......

Trung Nam Hải đang toan tính gì với con bài Nguyễn Tấn Dũng?

Kết cục của chế độ cộng sản Chủ nghĩa cộng sản là một sản phẩm quái thai trong dòng chảy của lịch sử nhân loại. Dĩ nhiên, như một quy luật tất yếu, nó đã và đang bị lịch sử vứt vào sọt rác. Thành trì của chủ nghĩa cộng sản thế giới là Liên Xô đã sụp đổ cách nay ¼ thế kỷ. Giờ đây, số quốc gia lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm hệ tư tưởng chính thống chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay: Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba và Lào. Cùng với xu thế dân chủ hoá trên toàn thế giới, người dân ở các quốc gia cộng sản còn lại đó đã bắt đầu thức tỉnh và lên tiếng đòi tự do, dân chủ và quyền con người chính đáng của mình. Việc Mỹ và Cuba vừa tuyên bố bình thường hoá quan hệ sau hàng thập kỷ ở trong trạng thái đối đầu là dấu hiệu mới nhất minh chứng cho xu thế không thể đảo ngược ấy. Quá trình mở cửa hội nhập với thế giới trong bối cảnh cuộc cách mạng Internet và cách mạng truyền thông xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc là nhân tố quyết định tạo ra những biến chuyển lớn lao trong lòng xã hội Việt Nam thời gian qua. Ngày càng nhiều người dân Việt Nam công khai lên tiếng đòi xoá bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, điều khoản hiến định vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng CSVN đối với nhà nước và xã hội. Điều mà chỉ mới cách đây mấy năm ít ai dám nghĩ tới thì nay người ta đã công khai bày tỏ thái độ. Đặc biệt, xu thế này ở Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh nhà cầm quyền cộng sản gia tăng chính sách đàn áp nhằm vào những tiếng nói đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam. “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt.” Nay thì tiếng nói đòi đổi thay không chỉ vang lên trong đám thường dân, mà ngay cả trong giới cầm quyền cũng đã xuất hiện những lời lẽ bóng gió về đòi hỏi tất yếu đó. Toan tính của Bắc Kinh Hàng ngàn năm qua, Trung Quốc chưa lúc nào nguôi tham vọng thôn tính Việt Nam. Ngay cả trong những ngày tháng “mặn nồng” nhất của mối quan hệ hữu nghị “vừa là đồng chí, vừa là anh em” giữa hai nước, họ cũng không một phút giây sao nhãng “sứ mạng cao cả” đó. Cố nhiên, Bắc Kinh thừa khôn ngoan và thực tế để hiểu rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam không tránh khỏi sụp đổ trong vài năm tới. Khi sụp đổ tất yếu ấy diễn ra, chính quyền hậu cộng sản tại Việt Nam có nhiều khả năng sẽ là một chính thể dân chủ đi theo quỹ đạo của Mỹ và phương Tây. Đơn giản, người dân Việt Nam đã quá chán ngán với chế độ độc tài, còn Trung Quốc thì chưa bao giờ là niềm tin của họ, ngoại trừ những tên Việt gian bán nước. Cơ may lớn nhất cho Trung Quốc lúc đó là nhân lúc Việt Nam rơi vào khoảng trống quyền lực, họ sẽ phát động một cuộc tấn công chớp nhoáng nhằm vào Trường Sa hòng kiểm soát hoàn toàn Biển Đông. Để ngăn ngừa một Việt Nam hậu cộng sản đi theo quỹ đạo của Mỹ, việc Trung Quốc đưa quân vào Việt Nam phối hợp với đội quân Hán tặc và Việt gian tại chỗ là một khả năng thực tế, nhất là khi Trung Quốc đã và đang tìm cách khống chế một số vị trí hiểm yếu về an ninh quốc phòng ở Việt Nam như các khu rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, Vũng Áng – Sơn Dương (Hà Tĩnh), Tây Nguyên (qua dự án khai thác bauxite), Hải Vân (qua hai dự án du lịch của người Hoa), Ninh Thuận (qua dự án điện hạt nhân Ninh Thuận do PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước), các căn cứ quân sự dưới hình thức dự án kinh tế trá hình ở Lào và Campuchia, v.v. Mặc dù vậy, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa quân vào nước khác ẩn chứa nhiều rủi ro, nhất là với một quốc gia có truyền thống chống Trung Quốc như Việt Nam. Trung Quốc hoàn toàn có thể bị sa lầy và dễ dàng đánh mất vị thế siêu cường, thậm chí bước sa chân đó có thể biến thành cơ hội “ngàn năm có một” để Mỹ và phương Tây xâu xé tanh bành một Trung Hoa Đại Hán đang ngày càng cho thấy là vấn đề lớn nhất của cả thế giới. Thậm chí, ngay cả khi Trung Quốc đánh chiếm được Trường Sa thì chính phủ hậu cộng sản ở Việt Nam chắc chắn sẽ ở vào thế đối đầu với Trung Quốc. Lúc ấy, với sự hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây, một cuộc chiến trường kỳ của Việt Nam hòng giành lại Trường Sa là khả năng gần như chắc chắn Trung Quốc sẽ phải đối mặt. Chưa biết thắng thua thế nào, nhưng cái giá mà Trung Quốc sẽ phải trả là không hề nhỏ. Chính vì vậy, kịch bản khả quan nhất cho Trung Quốc trong bối cảnh chế độ độc tài toàn trị ở Việt Nam sắp sụp đổ là dựng lên một chế độ độc tài hậu cộng sản giống như Nga, trong đó nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” là kẻ mà Trung Quốc dễ dàng khống chế và thao túng. Nếu điều này xẩy ra, ngoài biển thì Trung Quốc có thể tiếp tục quá trình thôn tính Trường Sa theo chiến thuật “tằm ăn dâu” sở trường, trước phản ứng lấy lệ của lãnh đạo Việt Nam, cho đến khi họ kiểm soát hoàn toàn Trường Sa và đặt Mỹ và phương Tây vào tình thế đã rồi; trên đất liền thì Trung Quốc sẽ tiếp tục khống chế các vị trí các vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng nhằm khi chiến sự xẩy ra thì sẵn sàng cho phương án chia cắt Việt Nam thành nhiều phần mà không cần phải tốn nhiều công sức, thậm chí chỉ cần sử dụng lực lượng trá hình tại chỗ; và đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam sẽ đi đến chỗ lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, tiếp nối quá trình vẫn đang diễn ra nhiều năm nay. Một khi bộ máy lãnh đạo chóp bu hoàn toàn bị thao túng, các vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng trên cả nước bị khống chế và nền kinh tế trở thành “một bộ phận không thể tranh cãi của Trung Quốc”, Việt Nam coi như lọt hẳn vào quỹ đạo của Trung Quốc và việc đi đến chỗ trở thành một Tây Tạng hay Tân Cương mới của Đại Hán chỉ còn là vấn đề thủ tục. Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng? Vấn đề lúc này đã trở nên rõ ràng: Ai sẽ là nhân vật sắm vai “Putin của Việt Nam” trong kịch bản thâm độc và xảo quyệt thể hiện đúng bản chất của Trung Quốc như trên? Xin thưa, nhân vật đó không ai khác hơn đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tại sao lại là Nguyễn Tấn Dũng, nhân vật vẫn có những lời lẽ mạnh mẽ nhất nhằm vào Trung Quốc trong ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay? Và chẳng phải bản thân Hoàn Cầu Thời Báo từng mấy lần lên tiếng “cảnh báo” về lập trường “bài Hoa, thân Mỹ” của ông ta đấy sao? Xin thưa, bất chấp những tuyên bố “hùng hồn” của ngài Thủ tướng nhằm vào Trung Quốc, cũng như những lời “cảnh cáo” của báo chí Trung Quốc nhằm vào ông ta, Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một trong những người Việt Nam lập nhiều “chiến công” nhất cho Trung Nam Hải kể từ năm 1945 đến nay. Xin đơn cử:     Trước kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XII (tháng 7.2007), ông Nguyễn Tấn Dũng đã nhất quyết đề cử ông Hoàng Trung Hải vào vị trí quan trọng thứ hai trong chính phủ: Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế. Mặc dù lúc đó một số cán bộ ở Ban Tổ chức Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã gửi Tâm Huyết Thư cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư để tố cáo lý lịch người Hán của ông Hoàng Trung Hải, nhưng vẫn không ngăn chặn được. Ngoài ra, ông Nguyễn Tấn Dũng còn tin tưởng giao phó cho ông ta vô số trọng trách quán xuyến nền kinh tế khác. Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ có một người Hán nào, đặc biệt lại che dấu lý lịch với mưu đồ đen tối, leo lên đến vị trí gần như nắm trong tay cả nền kinh tế và gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ cho Việt Nam (nhưng đặc biệt có lợi cho Trung Quốc) suốt từ năm 2007 đến nay.          Năm 2005, tức trước khi ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi lên chiếc ghế Thủ tướng, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm 15,9%, với giá trị nhập siêu là 2,67 tỷ USD. Chín năm dưới quyền lãnh đạo của ông ta, tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cứ tăng dần đều và đến năm 2014 thì lên tới 29,5%, với giá trị nhập siêu là 28,9 tỷ USD. Quý vị hãy hình dung thế này: cộng với giá trị nhập khẩu tiểu ngạch trá hình và hoạt động buôn lậu tràn lan từ Trung Quốc, ước chừng cứ 2 sản phẩm Việt Nam nhập khẩu từ bên ngoài thì có 1 sản phẩm “made in China”, và tỷ lệ đó vẫn đang tăng lên qua từng năm. Nếu xét thực tế phần lớn sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc là chất lượng thấp và độc hại thì đây thực sự là THẢM HOẠ đối với một nền kinh tế có độ mở nằm trong nhóm 5 nước cao nhất trên thế giới như Việt Nam. Đồ thị: Tỷ trọng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Trung Quốc trong tổng kim ngạch XNK của Việt Nam giai đoạn 2000÷2014 – Nguồn: VOA     Trong lịch sử 4.000 năm dựng nước và giữ nước của Việt Nam, mặc dù bị Trung Quốc xâm lược và đô hộ nhiều lần, nhưng chưa bao giờ người Trung Quốc “cắm chốt” được ở bất cứ đâu trên mảnh đất phương Nam này. Song đến nay, nhờ “công lao” của cặp bài trùng Nguyễn Tấn Dũng – Hoàng Trung Hải mà Trung Quốc đã đặt chân vào và từng bước khống chế nhiều vị trí xung yếu về an ninh – quốc phòng ở Việt Nam: một loạt dự án thuê đất rừng đầu nguồn ở một số tỉnh, dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên, dự án Formosa ở Vũng Áng, hai dự án du lịch của người Hoa trên đèo Hải Vân, dự án điện hạt nhân ở Ninh Thuận, v.v.          Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà thầu Trung Quốc trúng thầu đến 90% các dự án hạ tầng trọng điểm ở Việt Nam, với vô số hệ luỵ về an ninh – quốc phòng và những thiệt hại không thể đong đếm về kinh tế (chậm tiến độ hàng năm; chất lượng thấp; phụ thuộc vào Trung Quốc về phụ tùng và linh kiện thay thế, v.v.).          Với tư cách là người phụ trách Đảng uỷ Công an Trung ương kể từ năm 2006, ông Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật đóng vai trò quyết định trong chiến dịch đàn áp ngày càng khốc liệt nhằm vào phong trào chống Trung Quốc xâm lược ở Việt Nam nhiều năm qua. Những tiếng nói phản kháng Trung Quốc mạnh mẽ nhất như TS Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, nhà văn/blogger Phạm Viết Đào, blogger Anh Ba Sàm, nhà văn/blogger Nguyễn Quang Lập… đều lần lượt “được” ông ta cho vào “an dưỡng” trong tù. Mới đây, nhà văn/blogger yêu nước Phạm Viết Đào đã chỉ đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đã chỉ đạo lực an ninh dưới quyền bắt bỏ tù ông cũng như nhiều blogger khác.          Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chính là “tác giả” của bản Thông báo cấm biểu tình chống bành trướng Bắc Kinh do UBND Tp Hà Nội ban hành ngày 18/8/2011. Theo nhà báo Huy Đức: “Ngày 2.8.2011, Trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi họp báo: ‘Hà Nội không có chủ trương trấn áp người biểu tình. Để rồi, ngày 18.11.2011, từ chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra thông báo vu cho người biểu tình là ‘gây rối Thủ đô’, là có ‘các thế lực chống đối trong và ngoài nước’. Dân chúng nào biết tác giả bản thông báo này là Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những ‘tác phẩm báo chí’ bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.”     Cho đến nay, văn bản pháp lý quan trọng nhất của nhà nước Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa chính là Luật Biển do Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 21.6.2012. Tuy nhiên, mặc dù cố tạo ra vẻ ta đây là nhân vật chống Tàu mạnh mẽ nhất trong bộ máy, ông Nguyễn Tấn Dũng lại không hề để lại bất kỳ dấu ấn nào trong quá trình ra đời của đạo luật. Đây được cho là một chiến thắng cá nhân của ông Trương Tấn Sang, người lúc bấy giờ còn cho thấy lập trường chống Trung Quốc rõ ràng. Không những vậy, tuy đã gần 3 năm trôi qua kể từ khi đạo luật này được thông qua,  chính phủ của TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa có bất kỳ động thái gì để triển khai thực hiện đạo luật đó, kể cả việc đơn giản nhất là ban hành nghị định hướng dẫn thực hiện.          Ông Nguyễn Tấn Dũng là một “bậc thầy” của trò “nói một đàng, làm một nẻo”. Điều này thì chẳng còn mấy ai lấy làm lạ nữa. Điều lạ ở đây là dường như ông ta càng “nói một đàng, làm một nẻo” thì lại càng có nhiều người tung hê và đặt niềm tin vào ông ta. Không ít người vẫn đang mơ màng là ông ta sẽ cải cách thể chế nếu nắm quyền hành trong tay, đơn giản là vì họ đã nhiều lần nghe ông ta hô hào “cải cách thể chế”, mà lần nào nghe cũng sướng tai. Xin hỏi, nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế, tại sao ông ta lại KHÔNG HỀ thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, điều mà ông ta đã lớn tiếng hô hào ngay từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai và hoàn toàn nằm trong phạm vi chức trách cũng như quyền hạn của ông ta. Kinh tế quyết định chính trị. Nếu ông ta thực tâm muốn cải cách thể chế chính trị, tại sao ông ta không tiến hành cải cách thể chế kinh tế để thúc đẩy cải cách chính trị? Tổng thống Obama từng hy vọng việc ký kết TPP với Việt Nam sẽ diễn ra trong năm 2013, vậy mà 2 năm sau đấy người ta vẫn chưa xác định được thời điểm ký kết. Nguyên nhân chủ yếu cho sự chậm trễ này là vì Việt Nam chậm tái cấu trúc nền kinh tế và thái độ “quyết liệt” của ông Nguyễn Tấn Dũng trong việc đàn áp những người con ưu tú của đất nước dám cất lên tiếng nói đòi cải cách hệ thống và chống bá quyền Trung Quốc. (Dĩ nhiên, đây là điều mà Trung Quốc hết sức mong muốn.) Bên cạnh những gì đã trình bày trên đây là thực tế (i) hàng hoá Trung Quốc ngày càng tràn ngập thị trường Việt Nam, (ii) hoạt động buôn lậu hàng hoá từ Trung Quốc về Việt Nam ngày một phổ biến, (iii) làn sóng doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm doanh nghiệp Việt Nam đang âm thầm diễn ra, (iv) các nhà đầu tư Trung Quốc đang ráo riết săn lùng bất động sản Việt Nam, và (v) người lao động Trung Quốc nhan nhản trên khắp lãnh thổ Việt Nam – tất cả đều diễn ra dưới quyền cai quản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thử hỏi, kể từ năm 1945 đến nay, liệu còn người Việt Nam nào lập được nhiều “thành tích” cho Trung Quốc hơn ông Dũng? Những phát biểu hùng hồn của ông Dũng nhằm vào Trung Quốc và những lời “cảnh cáo” mà Hoàn Cầu Thời Báo nhằm vào ông Dũng chẳng qua chỉ là trò loè bịp dư luận do Trung Nam Hải giật dây, hòng tạo điều kiện cho con bài đắc dụng nhất của họ “ghi điểm” trong mắt công chúng Việt Nam hầu tiến tới thâu tóm ngôi vị tối cao tại kỳ Đại hội Đảng sắp đến. Ông Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định trước Quốc hội hôm 19.11.2014 rằng quan điểm của ông ta trong quan hệ với Trung Quốc là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Vậy ông ta sẽ “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với Trung Quốc như thế nào một khi trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Việt Nam? Xin thưa, quá trình “Hán hoá” Việt Nam sẽ còn diễn ra nhanh hơn so với thời kỳ ông ta làm Thủ tướng, bởi lúc này chẳng còn thế lực nào ở Việt Nam đủ sức thách thức quyền lực của ông ta cả. Hãy nhìn lại 9 năm dưới “triều đại” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xem Việt Nam đã bị “Hán hoá” đến thế nào để hình dung ra bộ mặt Việt Nam 10 năm tới dưới “triều đại” của Tổng Bí thư/Tổng thống Nguyễn Tấn Dũng. Dĩ nhiên, nếu trở thành Tổng Bí thư khoá tới, ông ta sẽ tiến hành cải cách thể chế “theo cách của 3X” vào cuối nhiệm kỳ để dọn đường cho mình trở thành “Putin của Việt Nam”. Tác giả bài viết này là người vẫn đang theo đuổi vụ tố cáo đối với PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và (nguyên) TBT Nông Đức Mạnh kể từ năm 2008 đến nay, nhưng không hề được giải quyết đúng pháp luật, trong bối cảnh ngay cả ĐBQH Dương Trung Quốc, người tiếp nhận đơn thư của chúng tôi, cũng đã bị PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải khống chế và thao túng, mặc dù vụ việc đã được truyền thông quốc tế nhiều lần đưa tin. Trong câu chuyện tố cáo, tác giả đã nêu rõ ông Hoàng Trung Hải (và sau lưng ông ta là Trung Nam Hải) đã gài bẫy và khống chế được ông Nguyễn Tấn Dũng. Vì thế, ông ta đã nhất quyết đặt ông Hoàng Trung Hải vào vị trí PTT phụ trách kinh tế, và ra sức bảo vệ nhân vật đầy tai tiếng và mờ ám này. Bản thân vợ tác giả, cô Lê Thị Phương Anh, nhân chứng sống của vụ án và từng là một mắt xích quan trọng trong đường dây ma tuý của PTT Hoàng Trung Hải, lại đang bị Công an Đồng Nai bắt giam và truy tố trái phép từ ngày 15.5.2014. Bộ Ngoại giao Mỹ từng nêu vụ Lê Anh Hùng, người tố cáo cặp bài trùng Hoàng Trung Hải – Nguyễn Tấn Dũng, bị cưỡng chế vào trại tâm thần từ ngày 24.1 ÷ 5.2.2013 như một vụ vi phạm nhân quyền tiêu biểu của nhà cầm quyền Việt Nam trong năm 2013. Dưới áp lực của dư luận, ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn điềm nhiên tuyên bố dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên là “chủ trương lớn của đảng và nhà nước”. Với dự án khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân thì mặc dù Bộ Quốc phòng đã chính thức có văn bản kiến nghị dừng dự án từ ngày 28.11.2014 song đến nay ông ta vẫn chưa hề hé răng lấy nửa lời, dù trước đấy ông ta đã hứa “sẽ xem xét lại”. Nếu đối thủ của ông ta không “xì” tin cho báo chí lên tiếng thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông ta “xem xét lại” ở đây cả. Tương tự, nếu đối thủ của ông ta không “xì” ra cho báo chí biết chuyện Cty Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đòi thành lập đặc khu kinh tế trực thuộc Văn phòng Chính phủ thì nay Formosa Hà Tĩnh đã trở thành một “tiểu quốc” của Đại Hán trực thuộc PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải rồi (dù trên thực tế nó đã trở thành đặc khu Trung Quốc từ lâu). Đặc biệt, nếu truyền thông quốc tế không kịp thời loan tin thì âm mưu lập căn cứ tại Cửa Việt của Trung Quốc cũng đã trở thành hiện thực. Theo voatiengviet.com
......

Cô gái trẻ dấn thân vào sứ mạng truyền thông vì người nghèo

Một cô gái trẻ bị mất việc, bị đuổi khỏi nhà trọ, bị cấm xuất cảnh, bị công an câu lưu, hành hung, xúc phạm nhân phẩm vì cộng tác cho một trang báo độc lập không thuộc ‘lề đảng’ nhưng vẫn bất chấp mọi hiểm nguy đe dọa để theo đuổi sứ mạng truyền thông vì người nghèo. Cô Anna Huyền Trang, một trong số các thành viên nồng cốt của truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế Saigon Photo Em muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với em rằng ‘Chúng mình là người lớn. Hãy sống thế nào cho ra người lớn. Đừng để con trẻ phải gánh chịu. Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều đáng nhục. Mình chính là nhân tố thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân Việt Nam được sống an nhiên hơn. Anna Huyền Trang Đó là câu chuyện của cô Anna Huyền Trang, một trong số các thành viên nồng cốt của truyền thông Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) ở Sài Gòn. Trang bắt đầu làm cộng tác viên cho DCCT vào năm 2011. Sau khi công an áp lực chỗ làm đuổi việc cô, từ đầu năm ngoái, Trang đã bỏ hẳn công việc chuyên ngành kinh tế để trở thành phóng viên toàn thời gian của truyền thông DCCT, ngược xuôi khắp nơi để đưa ra ánh sáng những câu chuyện oan khuất, những tiếng nói của người dân thấp cổ bé miệng, những thông tin không được báo chí nhà nước đề cập tới. Ngoài việc đi thu thập tin tức, phỏng vấn, viết bài cho trang web Dòng Chúa Cứu Thế, Trang còn đảm trách biên tập chương trình Cà Phê Tối, một trong sáu chương trình truyền hình của Dòng Chúa Cứu Thế, chuyên điểm tin hằng ngày và bình luận các sự kiện thời sự liên quan tới Việt Nam. Hai trong số những lần Trang bị bắt bớ, hành hung được dư luận biết đến là lần cô vô cớ bị công an phường Cầu Kho (quận I, TPHCM) cưỡng chế về đồn hồi tháng 10/2012, bị tra tấn, bị lột quần áo để khám xét, theo tường thuật chi tiết cô công khai trên các trang mạng xã hội sau đó; và lần cô bị đánh ngay tại phi trường Tân Sơn Nhất và bị tịch thu hộ chiếu trước khi lên đường tham gia hội thảo về tự do báo chí tại Quốc hội Mỹ với tư cách là một nhà báo độc lập từ Việt Nam nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới 3/5 năm ngoái, theo lời mời của hai dân biểu liên bang Hoa Kỳ. Những hình ảnh Trang và bạn bè của cô ghi được về vụ việc này sau đó đã được phổ biến rộng rãi trên internet. Trong môi trường kiểm duyệt chặt chẽ thông tin, không dung chấp ý kiến bất đồng, và bằng mọi cách ngăn chặn truyền thông độc lập như tại Việt Nam, tường thuật tin tức không theo lề đảng là một việc làm hết sức nguy hiểm mà những bản án liên tiếp dành cho các nhà báo-blogger tự do trong nước đã chứng minh rõ nét. Vậy sức mạnh nào đã thôi thúc cô gái đôi mươi gầy gò, mảnh khảnh ấy dấn thân vào sứ mạng truyền thông vì những người không có tiếng nói trong xã hội? Tạp chí Thanh Niên VOA mời quý vị và các bạn cùng tìm hiểu qua cuộc trò chuyện với Anna Huyền Trang trong chương trình hôm nay. Bấm vào nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn http://www.voatiengviet.com/content/co-gai-tre-dan-than-vao-su-mang-truy... Anna Huyền Trang: Trước khi em cộng tác với truyền thông DCCT, em đã tham gia các hoạt động xã hội trong thời gian dài bắt đầu từ năm học lớp 12, vì thời gian đó em có cơ hội tiếp xúc rất nhiều trẻ em đường phố, những người nghiện ma túy, và những người nhiễm HIV. Em cũng tham gia các hoạt động truyền thông bảo vệ sức khỏe cho họ. Điều này em được gặp lại trong sứ mạng của truyền thông DCCT, nên đã thu hút em tham gia, và em đã có nhiều dịp tiếp cận với các mảnh đời tan thương, bất hạnh do chính thể chế độc tài tạo nên. Trà Mi: Cộng tác với truyền thông DCCT từ bấy tới nay, Trang đã rút ra cho mình những kinh nghiệm thế nào trong hoạt động truyền thông độc lập, đa chiều? Anna Huyền Trang: Trong quá trình cộng tác, em đã nâng lên được khả năng tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau, gặp được nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn như tụi em đến với những dân oan mất đất để tìm hiểu sự việc của họ và viết tin đúng sự thật. Trà Mi: Làm truyền thông theo ‘lề dân’ rất nhiều khó khăn. Bạn trang bị cho mình sự chuẩn bị ứng phó về mặt tinh thần như thế nào? Anna Huyền Trang: Phóng viên tự do gặp rất nhiều đe dọa về tính mạng. Mình biết sẽ bị tóm cổ bất cứ lúc nào, nhưng đó đúng là điều ‘thú vị’ nhất ở Việt Nam đấy chị. Em luôn chuẩn bị là công an sẽ bắt mình. Em và các bạn em cũng sẵn sàng cho điều đó. Trà Mi: Biết có thể bị bắt bất cứ lúc nào, bạn có cách gì để tự vệ trước những rủi ro đó? Cô Anna Huyền Trang Trang biên tập chương trình truyền hình Cà Phê Tối của DCCT, chuyên điểm tin và bình luận các sự kiện thời sự liên quan tới Việt Nam Anna Huyền Trang: Trước khi đi tác nghiệp, mình thông báo cho những người bạn của mình biết địa điểm và thời gian. Nếu trong thời gian đó các bạn không thấy mình liên lạc thường xuyên thì biết là mình đã gặp rủi ro. Chính những người bạn của em là những người giám sát em trong quá trình em tác nghiệp. Trà Mi: Từ lúc mới bước vào truyền thông DCCT tới nay, Trang thấy mình có gì thay đổi khác xưa, đã học hỏi được những gì? Anna Huyền Trang: Điều thay đổi lớn nhất là em ý thức hơn vai trò của một công dân đối với đất nước, mình không thể câm lặng trước các vấn nạn của xã hội ví dụ như tham nhũng hay việc Trung Quốc xâm lấn biển đảo của Việt Nam. Trà Mi: Có thể kể mình nghe một vài trường hợp đã kinh qua với vai trò một ký giả độc lập trong môi trường kiểm soát chặt chẽ thông tin ở Việt Nam? Anna Huyền Trang: Cuối tháng 10/2012 sau khi đi lấy tin về phiên sơ thẩm hai nhà sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, em bị công an bắt về phường Cầu Kho.  Em bị các nhân viên công quyền đánh đập, hành hung, lột đồ ra để khám xét. Cũng có vài lần bị bắt khác nhưng em không có gì là sợ cả. Họ đe dọa rất nhiều về tính mạng và gia đình mình. Họ hỏi ‘Mày là ai?’ Em nói ‘Tôi là phóng viên DCCT.’ Họ hỏi ‘Thẻ nhà báo đâu? Chúng mày là dân phản động làm gì mà có thẻ nhà báo của nhà nước.’ Từ đó, em thấy họ rất miệt thị các phóng viên tự do như tụi em và cần tác động làm sao để mọi người quan tâm nhiều hơn đến các phóng viên tự do chưa được các tổ chức xã hội bảo vệ. Trà Mi: Bị miệt thị trong một xã hội mà mọi chuyện đều nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước rõ ràng là một bất lợi rất lớn cho các sinh hoạt hằng ngày và những giao tiếp xã hội. Những bất lợi, thiệt thòi đó đối với bản thân Trang thấy thế nào? Anna Huyền Trang: Em không cảm thấy bị tủi thân vì họ có quyền làm điều đó với mình. Còn mình phải nghĩ khác, phải làm thế nào để giúp họ thay đổi và nhận ra được những giá trị mà các anh em dân chủ đang đấu tranh vì lợi ích của đất nước, xã hội, và con người Việt Nam chứ không phải như những gì nhà nước này rêu rao rằng là ‘phản động.’ Những người đấu tranh dân chủ nhìn thấy công việc mình làm mang lại nhiều ý nghĩa cho xã hội, cho người nghèo, mà cũng mang lại niềm vui cho mình nữa thì tại sao mình phải tủi hổ? Tại sao mình lại buồn trước những ánh mắt lạ lùng đó? Em tin một ngày nào đó những ánh mắt lạ lùng đó sẽ quý mến mình. Chỉ cách đây 1 năm, bạn bè em cũng nhìn em soi mói, xét đoán công việc của em, nhưng rồi các bạn em theo dõi công việc của em trên facebook và dần hiểu được công việc em làm. Bây giờ, chính các bạn đã ủng hộ em. Trà Mi: Gia đình phản ứng thế nào trước những việc làm của Trang? Anna Huyền Trang: Bố mẹ em rất lo cho em. Họ từng bị an ninh mời lên làm việc hỏi về việc em làm. Thế nhưng, bố mẹ em muốn em sống tốt, trở thành người tốt, đó là cách em báo hiếu cho bố mẹ. Trà Mi: Nói về vui-buồn của một nhà báo tự do trong nước, Trang sẽ chia sẻ những gì? Anna Huyền Trang: Em cảm nhận được niềm vui thật sự trong nhóm truyền thông DCCT. Mọi người rất quý mến nhau, xem nhau như một gia đình vì không biết mỗi người sẽ bị bắt lúc nào, nên quý nhau từng ngày. Tụi em chưa bao giờ cảm thấy mặc cảm hay bị bỏ rơi vì mình biết con đường mình đang đi là đúng, có ích cho xã hội. Đó là niềm vui. Lần đầu tiên bị bắt, em cũng buồn và sợ lắm vì họ đánh, họ nhục mạ. Nhưng chính lúc trong đồn công an đó mình mới nhận ra được bản chất của chế độ. Nhờ đó, giúp mình có thêm sức mạnh. Trong nhóm chúng em đã có 3 người bị bắt là Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn, và Trần Minh Nhật. Trà Mi: Trang có bao giờ nghĩ nếu không may mình bị như họ cuộc đời mình sẽ ra sao, tương lai mình sẽ như thế nào? Anna Huyền Trang: Tụi em luôn luôn nghĩ rằng không sớm thì muộn tụi em sẽ có cơ hội được ăn bánh mì mốc. Có người đang đe dọa em điều đó mà. Tuy nhiên, cá nhân em nghĩ việc này có thể là một trải nghiệm cho đời sống tâm linh của một người Kytô hữu. Em cảm nhận được điều này trong cuốn sách của đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, người đã từng bị nhà cầm quyền cộng sản bỏ tù mà không thông qua một phiên tòa xét xử nào. Chính cuộc đời của Ngài đã tác động em rất nhiều. Em tin những việc em đang làm hiện nay là đúng. Trà Mi: Cũng có người nói rằng truyền thông độc lập, báo chí không theo lề đảng không bao giờ đưa tin tốt hoặc nói gì hay cho nhà nước cả. Lúc nào cũng nói những điều không tốt, không hay cho nhà nước thì phải chăng đó là một sự ‘chống đối’? Phản hồi của Trang thế nào? Anna Huyền Trang: Nhà cầm quyền luôn ra rả ‘dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.’ Do đó, bản thân em là một công dân nước Việt Nam đang thực hiện quyền giám sát các hoạt động của nhà cầm quyền để họ làm tốt hơn, phục vụ dân tốt hơn. Nếu ai đó nghĩ em là người ‘chống đối’ hay ‘phản động’ thì chính họ đang đi ngược lại những chính sách mà nhà nước đang khuyến khích. Trà Mi: Với các bạn trẻ ở Việt Nam không biết nhiều hoặc không mấy quan tâm đến truyền thông độc lập, Trang muốn chia sẻ điều gì với họ? Anna Huyền Trang: Em muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với em rằng ‘Chúng mình là người lớn. Hãy sống thế nào cho ra người lớn. Đừng để con trẻ phải gánh chịu. Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều đáng nhục. Mình chính là nhân tố thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân Việt Nam được sống an nhiên hơn. Trà Mi: Cảm ơn Trang rất nhiều vì thời gian dành cho cuộc trao đổi hôm nay. Nguồn: voatiengviet.com
......

Cuốn sách nguy hiểm nhất thế giới?

Cuốn sách ‘Mein Kampf’ (Con đường đấu tranh của tôi) của Adolf Hitler sẽ hết thời hạn bản quyền ở Đức vào năm 2015. Điều gì sẽ xảy ra khi giới chức không còn có thể kiểm soát việc in ấn và phát hành cuốn sách này? Xuất bản hay đốt bỏ? (Carl de Souza/Getty Images) “Họ muốn biến nó thành Kinh Thánh,” ông Stephan Kellner, một chuyên gia sách hiếm, thì thầm trong một căn phòng yên ắng ở thư viện bang Bavaria. Ông giải thích bằng cách nào mà Đức Quốc xã đã biến một cuốn sách kể lể – nửa là hồi ký, nửa là tuyên truyền – thành tài liệu trung tâm trong ý thức hệ của Đệ tam Đế chế? Khi Mein Kampf hết thời hạn bản quyền thì cũng có nghĩa là về mặt lý thuyết bất cứ ai cũng có thể xuất bản tác phẩm này ở Đức. Một chương trình mới trên đài phát thanh BBC 4 đã tìm hiểu giới chức Đức sẽ làm gì với cuốn sách tai tiếng nhất trên thế giới này. Việc thế hệ trẻ tiêm nhiễm tư tưởng Quốc xã có thể được ngăn chặn tốt hơn bằng cách đối diện cởi mở với những gì Hitler viết chứ không phải giữ cho những gì bị người đời nguyền rủa này trong bóng tối của sự bất hợp pháp.New York Times viết trong một bài xã luận Theo nhà sản xuất chương trình có tên là ‘Xuất bản hay đốt bỏ’, cuốn sách này vẫn là một tài liệu nguy hiểm. “Lịch sử về Hitler là những câu chuyện hạ thấp Hitler và người ta đã hạ thấp cuốn sách này,” ông John Murphy, người có ông nội đã dịch bản tiếng Anh đầy đủ đầu tiên của Mein Kampf hồi năm 1936, nói. “Có lý do để chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc bởi vì người ta có thể diễn dịch sai nó. Mặc dù Hitler viết cuốn sách này vào những năm 1920, những gì mà ông ta viết ông ta đã thực hiện. Nếu lúc đó người ta để ý một chút có lẽ họ đã nhận ra mối đe dọa,” ông nói. Hitler bắt đầu viết Mein Kampf khi còn ở trong tù vì tội phản quốc sau cuộc nổi dậy thất bại ở Munich hồi năm 1923. Cuốn sách đề ra quan điểm phân biệt chủng tộc và bài Do Thái. Một thập niên sau đó khi Hitler giành được quyền lực thì cuốn sách này đã trở thành tài liệu chủ chốt của Đức Quốc xã. 12 triệu bản đã được in và được phát cho các cặp vợ chồng mới cưới trong khi các bản mạ vàng được trưng bày trang trọng trong nhà của các quan chức. Cuốn sách là cương lĩnh chính trị của Đức Quốc xã Vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi quân đội Mỹ chiếm được nhà xuất bản Eher Verlag của Đảng Quốc xã, bản quyền Mein Kampf chuyển sang chính quyền bang Bavaria. Họ đảm bảo rằng cuốn sách này chỉ được tái bản ở Đức trong những trường hợp đặc biệt. Nhưng với việc bản quyền của nói hết hạn vào tháng 12 năm 2015 thì tại Đức đã nổi lên tranh luận gay gắt về việc làm cách nào để ngăn chặn mọi người tự do in ấn nó. Làm sao ngăn được? “Chính quyền bang Bavaria đã dùng bản quyền để kiểm soát việc xuất bản Mein Kampf nhưng sự kiểm soát đó sắp kết thúc – điều gì sẽ xảy ra?” ông Murphy nói, “Đây vẫn là một cuốn sách nguy hiểm – hiện đang có những vấn đề với bọn phát xít mới và nguy cơ người ta diễn giải sai nó nếu nó không được đặt trong đúng bối cảnh.” Một số người đặt vấn đề liệu có ai đó muốn tái bản cuốn sách này hay không. “Nó đầy những lời lẽ khoa trương, khó theo dõi, những vụn vặt lịch sử và những sợi chỉ tư tưởng rối nùi mà cả những kẻ tân phát xít cũng như các sử gia đều muốn né tránh.” Hitler viết Mein Kampf khi đang ở trong tù Vậy mà Mein Kampf trở nên được yêu thích ở Ấn Độ với các chính trị gia có xu hướng theo chủ nghĩa dân tộc. “Nó được xem là một cuốn sách tự học rất ý nghĩa,” Atrayee See, giảng viên về tôn giáo và xung đột đương đại ở Đại học Manchester, nói, “Nếu loại phần nói về chủ nghĩa bài Do Thái ra thì nó là cuốn sách về một người đàn ông mơ chinh phục thế giới và muốn thực hiện ước mơ này.” Việc đặt cuốn sách này khỏi bối cảnh của nó là một trong những lo sợ của những người phản đối việc tái bản. Trong chương trình ‘Xuất bản hay đốt bỏ’, ông Ludwig Unger, phát ngôn nhân của Bộ Giáo dục và Văn hóa bang Bavaria, nói. “Hậu quả của cuốn sách này là hàng triệu người thiệt mạng, hàng triệu người bị ngược đãi, nhiều nước chìm vào chiến tranh. Điều quan trọng là bạn phải luôn nhớ những điều này. Khi đọc một số đoạn trong sách bạn luôn phải có những nhận định lịch sử phản biện phù hợp.” Khi bản quyền hết hạn, Viện Sử học Đương đại Munich có kế hoạch đưa ra một ấn bản mới của Mein Kampf. Ấn bản này sẽ kết hợp bản gốc với những lời bình luận chỉ ra những thiếu sót và xuyên tạc sự thật trong cuốn sách. Một số nạn nhân của Đức Quốc xã đã lên tiếng phản đối cách làm này trong khi chính quyền bang Bavaria rút lại sự ủng hộ sau khi những người sống sót trong nạn diệt chủng người Do Thái chỉ trích. Hàng triệu người Do Thái là nạn nhân trong các trại tập trung của Hitler Nhưng chôn vùi cuốn sách này có lẽ không phải là cách làm hay. Một bài xã luận trên tờ New York Times lập luận: “Việc thế hệ trẻ tiêm nhiễm tư tưởng Quốc xã có thể được ngăn chặn tốt hơn bằng cách đối diện cởi mở với những gì Hitler viết chứ không phải giữ cho những gì bị người đời nguyền rủa này trong bóng tối của sự bất hợp pháp.” Murphy thừa nhận rằng một lệnh cấm cuốn sách xuất bản trên toàn cầu là không thể thực hiện được. “Điều này phụ thuộc nhiều vào việc chính quyền Bavaria có lập trường. Họ phải đưa ra lập trường ngay cả khi trong thế giới hiện đại họ sẽ không thể ngăn chặn người ta tiếp cận cuốn sách.” Chris Bowlby, người dẫn chương trình ‘Xuất bản hay đốt bỏ’ cho rằng những hành động biểu tượng vẫn có ý nghĩa. Sau thời hạn bản quyền, bang Bavaria dự định sẽ dùng điều luật cấm kích động hận thù sắc tộc để truy tố những ai xuất bản cuốn sách này. “Theo quan điểm của chúng tôi thì tư tưởng của Hitler đồng nghĩa với khái niệm về sự kích động,” ông Ludwig Unger nói, “Nói là một cuốn sách nguy hiểm nếu ở trong tay không đúng người.” Bản tiếng Anh bài này đã được đăng trên BBC Culture. Mein Kampf: The world’s most dangerous book? By Fiona Macdonald (Carl de Souza/Getty Images) Adolf Hitler’s Mein Kampf falls out of copyright in Germany at the end of 2015. What will happen when authorities can no longer control its publication and distribution? A new BBC programme examines the issues. “They wanted to replace the Bible.” Whispering in a hushed room of the Bavarian State Library, rare books expert Stephan Kellner describes how the Nazis turned a rambling, largely unreadable screed – part memoir, part propaganda – into a central part of the Third Reich’s ideology. As Mein Kampf comes out of copyright – meaning that, in theory, anyone could publish their own editions in Germany – a new programme on BBC Radio 4 explores what authorities can do about one of the world’s most notorious books. According to the producer of Publish or Burn, which will be broadcast on January 14, it remains a dangerous text. “The history of Hitler is a history of underestimating him; and people have underestimated this book,” says John Murphy, whose grandfather translated the first unabridged English language version in 1936. “There’s a good reason to take it seriously because it is open to misinterpretation. Even though Hitler wrote it in the 1920s a lot of what he said in it, he carried out – if people had paid a bit more attention to it at the time maybe they would have recognised the threat.” Hitler began writing Mein Kampf while in prison for treason after the failed 1923 ‘Beer Hall’ putsch in Munich, outlining his racist, anti-Semitic views. Once he gained power a decade later, the book became a key Nazi text, with 12m copies printed; it was given to newly married couples by the state and gold-leaf editions were displayed prominently in the homes of senior officials. At the end of World War Two, when the US Army seized the Nazis’ publisher Eher Verlag, rights for Mein Kampf passed to the Bavarian authorities. They ensured the book was only reprinted in Germany under special circumstances – but the expiration of its copyright in December 2015 has prompted fierce debate on how to curb a publishing free-for-all. “The Bavarians have used copyright to control republication of Mein Kampf but that control is coming to an end – what happens next?” says Murphy. “This is still a dangerous book – there are issues with neo-Nazis, and a danger of people misinterpreting it if it’s not put into context.” Chapter and verse Some question whether anyone would want to publish it – according to the New Yorker, “It is full of bombastic, hard-to-follow clauses, historical minutiae, and tangled ideological threads, and both neo-Nazis and serious historians tend to avoid it.” Yet the book has become popular in India with politicians who have Hindu nationalist leanings. “It is considered to be a very significant self-help book,” Atrayee Sen, a lecturer in contemporary religion and conflict at the university of Manchester, tells Radio 4. “If you take the element of anti-Semitism out, it is about a small man who was in prison who dreamt of conquering the world and set out to do it.” The removal of context is one of the fears of those opposed to republication. In Publish or Burn Ludwig Unger, spokesman for the Bavarian Ministry of Education and Culture, says:  “The result of this book was that millions of people were killed, millions were maltreated, whole areas were overrun with war. It’s important to keep this in mind and you can do that when you read certain passages with appropriate critical historical commentary.” When the copyright expires, the Institute for Contemporary History in Munich plans to bring out a new edition of Mein Kampf that combines the original text with a running commentary pointing out omissions and distortions of the truth. Some victims of the Nazis oppose this approach, and the Bavarian government withdrew its support for the Institute after criticism from Holocaust survivors. Yet suppressing the book might not be the best tactic – an op-ed in the New York Times argued that: “The inoculation of a younger generation against the Nazi bacillus is better served by open confrontation with Hitler’s words than by keeping his reviled tract in the shadows of illegality.” Murphy acknowledges that a global ban on the book is impossible. “This is more to do with the Bavarian authorities making a point, rather than really being able to control it. They have to take a stand, even if in the modern world it won’t prevent people getting access.” Publish or Burn’s presenter Chris Bowlby argues that symbolic actions still matter. After the copyright expires, the state plans to prosecute using the law against incitement to racial hatred. “From our point of view Hitler’s ideology corresponds to the definition of incitement,” says Ludwig Unger. “It’s a dangerous book in the wrong hands.” Mein Kampf: Publish or Burn? will be broadcast on Radio 4 at 11am on January 14. http://www.bbc.com/culture/story/20150113-the-worlds-most-dangerous-book
......

Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Duyệt ra tù sau hai ngày cha mất

Tù nhân lương tâm, anh Nguyễn Văn Duyệt, đã ra tù và trở về đoàn tụ với gia đình. Anh trở về trong niềm vui của gia đình, bạn bè và bà con lối xóm, nhưng cũng là trở về trong nước mắt, nỗi nghẹn ngào vì cha của anh mới qua đời. Trên FB Hoanh Paul cho biết, “Đúng 11h15 hôm nay, TNLT Nguyễn Văn Duyệt đã về đến nhà” Vừa về tới nhà, lập tức anh Nguyễn Văn Duyệt “chạy ra nghĩa trang khấu đầu trước nấm mồ của bố” Cha của anh Nguyễn Văn Duyệt, ông Nguyễn Văn Chức mới qua đời hôm 27.01.2015 vừa qua, và ông được an táng vào chiều hôm sau 28.01. Như vậy, anh Nguyễn Văn Duyệt trở về nhà chỉ sau hai ngày cha anh được chôn cất. Anh Duyệt sẽ mãn hạn tù vào ngày 07.02.2015 tới đây, nhưng anh “được ra sớm để về chịu tang cha.”. Nhưng cái cách chính quyền “ân ban” cho anh Nguyễn Văn Duyệt dường như lại càng làm tăng nỗi đau nơi anh. Câu hỏi được đặt ra, là làm sao người ta không cho anh về với gia đình sớm hơn vài ngày để hai cha con có thể được gặp nhau lần cuối? FB Hoanh Paul cho biết: “Ông Chức bị bệnh đã lâu và được con cháu chăm sóc tận tình, trong những ngày bệnh, ước mong lớn nhất của ông là được gặp mặt con là TNLT Nguyễn Văn Duyệt lần cuối. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ còn 7 ngày nữa là anh Duyệt ra khỏi nhà tù CSVN, nhưng tiếc thay mong muốn của ông không được thực hiện.” Được biết anh Nguyễn Văn Duyệt thuộc Giáo xứ Yên Hòa, Giáo Phận Vinh, anh là một trong 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị bắt vào hồi cuối năm 2011 và đem ra xử vào tháng 01.2013. Cùng với anh Nguyễn Văn Duyệt, trong Giáo xứ Yên Hoàn còn có ba thanh niên khác bị bắt vào dịp này, bao gồm anh Hồ Đức Hòa, Nguyễn Văn Oai và anh Hồ Văn Oanh. Anh Nguyễn Văn Duyệt bị kết án 3 năm 6 tháng tù giam và 4 năm quản chế theo khoản 2 của điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam về tội ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’. Một số hình ảnh anh Nguyễn Văn Duyệt ra phủ phục trước một bố anh và gia đình, bạn bè, làng xóm đến thăm hỏi anh. Ảnh trên FB Hoanh Paul Pv. VRNs Anh trở về trong niềm vui của gia đình, bạn bè và bà con lối xóm, nhưng cũng là trở về trong nước mắt, nỗi nghẹn ngào vì người cha anh mới qua đời. Anh Nguyễn Văn Duyệt khấu đầu trước nấm mộ còn ướt của cha   Cha của anh Nguyễn Văn Duyệt, ông Nguyễn Văn Chức mới qua đời hôm 27.01.2015 vừa qua, và ông được an táng vào chiều hôm sau 28.01   Bà con lối xóm Giáo xứ Yên Hòa đến thăm hỏi anh   Anh Duyệt là một trong 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị bắt vào hồi cuối năm 2011 và đem ra xử vào tháng 01.2013   Anh Nguyễn Văn Duyệt bị kết án 3 năm 6 tháng tù giam và 4 năm quản chế theo khoản 2 của điều 79 Bộ Luật Hình sự Việt Nam về tội ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’. Nguồn: chuacuuthe.com
......

Hướng về phiên tòa ngày 12/2/2015 tại Đồng Nai

Ngày 12/2/2015, Tòa án tỉnh Đồng Nai đem ba bạn trẻ Lê Thị Phương Anh - Đỗ Nam Trung (Trung Nghĩa) - Phạm Minh Vũ (Sep Pham) ra xét xử theo điều 258 của Bộ luật hình sự. Chúng tôi đăng bức thư của Lê Anh Hùng, chồng Lê Thị Phương Anh gửi qua email kèm theo bản cáo trạng. Theo cáo trạng, ba bạn trẻ này bị bắt khi đang quay phim và ghi hình. Điều này cho thấy việc bắt bớ này là không có cơ sở pháp luật. Nhà văn Nguyễn Tường Thụy Photo Ngoài “tội” ghi hình, cáo trạng nêu ra việc họ tham gia mạng xã hội, kết bạn, nhận xét một vài câu về chế độ, có nhận tiền của những ai đó, đó là những hành vi không cấu thành tội. Vụ bắt Lê Thị Phương Anh - Đỗ Nam Trung - Phạm Minh Vũ rất giống vụ bắt Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh ở chỗ bắt vô cớ, bố trí bắt ở tỉnh lẻ rồi nại ra cáo trạng nhằm bỏ tù cho bằng được. Hãy hướng về phiên tòa ở Đồng Nai ngày 12/2/2015 để ủng hộ, bênh vực ba bạn trẻ. ================= Blogger Lê Anh Hùng Kính gửi: Quý Ban Biên tập Vụ án Lê Thị Phương Anh – Phạm Minh Vũ – Đỗ Nam Trung “vi phạm” Điều 258 BLHS sẽ được Toà án Nhân dân Đồng Nai đưa ra xét xử vào ngày 12.2 tới đây, lùi lại 2 ngày so với lịch trước đó. Vì vậy, kính mong quý BBT đăng Kết luận Điều tra (http://www.leanhhung.com/2015/01/ket-luan-ieu-tra-cua-cong-ong-nai-ve-vu...) và Cáo trạng (http://www.leanhhung.com/2015/01/cao-trang-cua-vien-ksnd-ong-nai-ve-vu.html) của Cơ quan An ninh Điều tra và Viện KSND tỉnh Đồng Nai về vụ án này. Tôi xin dẫn thêm link đăng Kết luận Điều tra của Công an Quảng Trị năm 2010 về vụ “Lê Anh Hùng phạm tội vu khống” (http://www.leanhhung.com/2012/06/cong-quang-tri-bat-le-anh-hung-25122009...) để quý vị đối chiếu thêm. Trang 6 trong KLĐT của CA Quảng Trị viết về quá trình bản thân của tôi khác hoàn toàn với phần viết về nhân thân của vợ tôi: Vợ chồng tôi cưới nhau vào ngày 24.5.2003 và đến ngày 2.11.2005 mới vào Đông Hà (các mốc thời gian này có thể hiện trong bản KLĐT của CA Quảng Trị – phần này trong KLĐT là đúng, vì họ phải điều tra, kiểm chứng các mốc thời gian mà tôi đã thuật lại), nhưng KLĐT của CA Đồng Nai lại viết là chúng tôi cưới nhau năm 2002 và năm 2003 hai vợ chồng chuyển vào Đông Hà. Mục đích của họ là muốn che giấu quãng thời gian từ tháng 4÷11.2005, khi Phương Anh làm việc cho Cty May Việt Tiến (chi nhánh miền Bắc) và bị lừa tham gia vào đường dây ma tuý của PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải. Tôi rất mong quý BBT viết và đăng bài phản biện lại bản KLĐT và Cáo trạng bịa đặt và vu khống này (chẳng hạn như việc họ chỉ lấy lời khai [?] một chiều của vợ tôi để khẳng định là tôi đã ép buộc cô ấy phạm tội vu khống lãnh đạo nhà nước). Đây là 2 bài của Người Buôn Gió: Phản bác việc Viện KSND tỉnh Đồng Nai truy tố Đỗ Nam Trung và hai người bạn theo Điều 258 – Phần 1 và Phản bác việc Viện KSND tỉnh Đồng Nai truy tố Đỗ Nam Trung và hai người bạn theo Điều 258 – Phần 2. (Xem thêm: ĐBQH Dương Trung Quốc đã bị PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải khống chế? và các tài liệu liên quan đến vụ việc của chúng tôi ở đây: http://www.leanhhung.com/search/label/V%E1%BB%A5%20%C3%A1n%20LA%20H%C3%B...) Kính mong quý vị quan tâm, lên tiếng bảo vệ lẽ phải, bênh vực chúng tôi, những người đã đánh cược cả tính mạng của mình để nói lên sự thật nhằm bảo vệ đất nước kể từ năm 2008 đến nay. Trân trọng cám ơn quý vị! Lê Anh Hùng Nguồn: ntuongthuy.blogspot.com
......

Ai nữa sẽ chết lây vì ông Nguyễn Bá Thanh?

Vào ngày 11/1/2015, nhân lúc dư luận xôn xao về tin ông Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc, chúng tôi đã viết một bản tin liên quan đến cái chết của ông Alexander Litvinenko (http://diendanctm.blogspot.com.au/2015/01/tim-hieu-ve-au-oc-phong-xa-tru...), một nhân viên của Cơ Quan An Ninh Liên Bang (FSB), tức hậu thân của  cơ quan an ninh tình báo cảnh sát mật vụ KGB của Liên Xô trước đây, do bị đầu độc với chất phóng xạ Polonium-210. Vào Tháng 7 năm 2013, 7 năm sau khi ông Litvinenko qua đời, việc điều tra về cái chết của ông Litvinenko bị bãi bỏ mặc dầu các cơ quan giảo nghiệm cho là cần thiết để có thể nghe được thông tin mật. Tuy nhiên, vào Tháng 11, 2014, Toà Án Tối Cao đảo ngược quyết định của Bộ Nội Vụ, và Bộ Nội Vụ  Anh Quốc tuyên bố cuộc điều tra mở sẽ được tiếp tục.  Vì vậy, câu chuyện ông Litvinenko bị đầu độc chết năm 2006 nay bỗng trở lại thời sự vì sự nguy hiểm của chất phóng xạ dùng để đầu độc ông và sự an toàn của những người liên hệ, bao gồm các nhân viên y tế thời đó và hiện giờ. Hai người bị tình nghi là thủ phạm đầu độc ông Litvinenko sau khi cùng uống trà với ông ta Andrei Lugovoy và Dmitry Kotvun hiện vẫn đang bị cảnh sát Anh yêu cầu trục xuất từ nước Nga nhưng nước Nga từ chối. Bác sĩ Nathaniel Cary đã nói với ủy ban điều tra về cái chết của ông Litvinenko là "cuộc giảo nghiệm tử thi của ông Litvinenko là cuộc giảo nghiệm nguy hiểm nhất từ trước tới giờ trong thế giới Tây phương". Bs Cary nói là "thi thể của ông Litvinenko rất nguy hiểm" và được đưa về một nơi an toàn để thực hiện các cuộc thử nghiệm, và cho biết là là Ông và các đồng nghiệp đã mặc áo trắng, đeo bao tay bảo vệ, đội mũ kín trùm đầu đặc biệt được bơm không khí qua máy lọc vào để thở trong lúc làm thử nghiệm. Bs Cary nói là lượng phóng xạ trong cơ thể ông Litvinenko cao quá mức chết người, và trước giờ chưa từng có trường hợp nào như vậy ở Anh Quốc. Thám tử Mascall đã cho ủy ban điều tra biết là vào cao điểm đã có hơn 100 thám tử và 100 nhân viên cảnh sát mặc đồng phục làm việc làm việc liên quan đến cuộc điều tra. Những chia sẻ về nguy cơ bị nhiễm phóng xạ của các nhân viên y tế tiếp cận với thi thể của ông Litvinenko khiến người ta nghĩ đến nguy cơ lây nhiễm phóng xạ tương tự đối với tất cả những người đã và đang tiếp xúc với ông Nguyễn Bá Thanh. Cho tới giờ phút này nhà nước CSVN chưa cho một thông tin chính thức nào về ông Nguyễn Bá Thanh, rằng ông NBThanh còn sống hay đã chết, và nếu còn sống thì tình trạng bệnh của ông ta ra sao, nguyên do gây bệnh là gì, và nếu là bị nhiễm phóng xạ thì những người tiếp xúc với ông Thanh đã được thông tin như thế nào và những biện pháp bảo vệ họ là gì? Nếu đã không có những biện pháp bảo vệ thích ứng thì rất nhiều những người này đang thật sự có nguy cơ bị mất mạng. Đây là một sự tắc trách không thể chấp nhận được của nhà nước CSVN./.
......

Góc khuyết của Chân Dung Quyền Lực

Mấy tuần vừa qua, tôi gặp một số bạn bè, vốn là những trí thức và cán bộ trong nước có dịp sang Úc. Đề tài nói chuyện hầu như bao giờ cũng xoay về với trang blog Chân Dung Quyền Lực. Điều tôi ngạc nhiên nhất là tất cả họ đều đọc, hơn nữa, đọc rất kỹ các bài báo tố cáo nạn tham nhũng đăng trên Chân Dung Quyền Lực. Và tất cả đều tin những lời tố cáo ấy là đúng sự thật. Theo họ, tài sản khổng lồ đến từ tham nhũng của cha con Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đại tá Phùng Quang Hải cũng như của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và con rể Vũ Chí Hùng đã được rất nhiều người trong nước ghi nhận và bàn tán từ lâu. Tất cả những người bạn ấy đều cho vụ tố cáo tham nhũng trên trang Chân Dung Quyền Lực đều, thứ nhất, xuất phát từ trong nội bộ cao cấp của đảng Cộng sản, và thứ hai, gắn liền với các tranh chấp chính trị thời kỳ trước Đại hội đảng vào đầu năm 2016. Tuy nhiên, khi nói đến tranh chấp quyền lực, có một vấn đề nổi lên: ai tranh chấp với ai? Dễ thấy nhất, từ trang Chân Dung Quyền Lực, là sự ca ngợi dành cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đã làm thủ tướng hai nhiệm kỳ, chắc chắn là Nguyễn Tấn Dũng không thể tranh giành chức thủ tướng lần nữa. Chiếc ghế duy nhất mà ông có thể nhắm tới là chức Tổng bí thư đảng thay thế cho Nguyễn Phú Trọng, người, năm tới, đã 71 tuổi, lứa tuổi hầu như bắt buộc phải về hưu. Để cạnh tranh vào chức Tổng bí thư, đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng là ai? Theo thông lệ từ mấy cuộc đại hội vừa rồi, từ Nông Đức Mạnh đến Nguyễn Phú Trọng, người làm chủ tịch Quốc Hội có khuynh hướng được chọn để làm Tổng bí thư. Tuy nhiên, trong kỳ đại hội vào năm 2016 thì khác. Nguyễn Sinh Hùng sinh năm 1946, sang năm sẽ 70 tuổi, không có khả năng sẽ được lưu dụng. Đối thủ chính của Nguyễn Tấn Dũng chỉ còn lại một người: Trương Tấn Sang, người đang giữ chức Chủ tịch nước, cùng tuổi với Nguyễn Tấn Dũng. Để tìm cách loại trừ Trương Tấn Sang, trên trang Chân Dung Quyền Lực có 20 bài viết về ông, không những tố cáo ông tham nhũng mà còn tố cáo việc ông, lúc còn trẻ, bị chính quyền Miền Nam bắt, không chịu đựng được các cuộc tra tấn, đã khai báo nội tình của “cách mạng”. Hơn nữa, ngay cả khi lên làm Chủ tịch nước, ông vẫn có quan hệ với những thành phần đối kháng và đòi hỏi dân chủ. Trương Tấn Sang lại là người chuyên tìm cách để hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng, gây mất đoàn kết trong nội bộ đảng, v.v… Đó là chiếc ghế Tổng bí thư, còn chiếc ghế thủ tướng thì sao? Bình thường, người có khả năng lên làm thủ tướng là một trong các phó thủ tướng. Trong các phó thủ tướng hiện nay, người có nhiều triển vọng nhất là Nguyễn Xuân Phúc, còn khá trẻ (sinh năm 1954) và cũng là người duy nhất hiện nằm trong Bộ Chính trị. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà những người đằng sau Chân Dung Quyền Lực nhắm tới là triệt hạ con đường lên chức Thủ tướng của Nguyễn Xuân Phúc. Không có người nào bị đả kích một cách kịch liệt như ông. Vấn đề là: ai nã súng cối vào Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc chạy đua vào chiếc ghế thủ tướng? Chỉ có một trong hai hoặc cả hai khả năng: Một, người nào đó đang muốn chạy đua vào chức vụ thủ tướng; trong trường hợp này, người đó, phải đang nắm giữ chức phó thủ tướng; và hai, một người nào đó đang có tham vọng bày lại ván cờ chính trị tại Việt Nam với những khuôn mặt mới nằm trong tay mình để dễ thao túng. Điều khó giải thích nhất là những cuộc tố cáo nhắm vào Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên trang Chân Dung Quyền Lực, ngoài Nguyễn Xuân Phúc và Trương Tấn Sang, người bị tố cáo nhiều nhất là Phùng Quang Thanh. Tại sao? Chắc chắn không phải tại ông tham nhũng hơn những người khác. Chuyện tham nhũng ở Việt Nam, hầu như không có người nào trong bộ máy chính quyền tránh được.  Vấn đề ở đây là: Tại sao người ta chọn tố cáo người này thay vì người khác. Ví dụ dễ thấy nhất: Trang Chân Dung Quyền Lực hoàn toàn không đụng đến Đại tướng Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Ai cũng biết, ở Việt Nam hiện nay, nơi được xem là cái ổ của tham nhũng chính là công an. Không ai tin Trần Đại Quang có bàn tay sạch cả. Vậy tại sao Chân Dung Quyền Lực không hề đụng đến ông mà chỉ tập trung vào Phùng Quang Thanh? Câu hỏi ấy dẫn đến hai khả năng: Một, người ta tìm cách triệt hạ con đường tiến thân của Phùng Quang Thanh và hai, người ta muốn thay đổi cơ cấu quyền lực trong quân đội. Hai khả năng ấy thật ra chỉ tập trung vào một người: Phùng Quang Thanh. Gần đây, nghe đồn Phùng Quang Thanh có thể sẽ được bầu vào chiếc ghế Chủ tịch nước để thay cho Trương Tấn Sang. Số lượng các bài tố cáo sự tham nhũng của bố con ông nằm trong âm mưu ấy chăng? Nhưng nếu vậy, ai sẽ được lợi trong âm mưu triệt hạ này? Ai đang nuôi tham vọng chạy đua vào chiếc ghế chủ tịch nước? Hơn nữa, cũng không loại trừ khả năng người ta không những ngăn chận con đường leo lên ghế chủ tịch nước của Phùng Quang Thanh mà còn muốn hất ông ra khỏi chiếc ghế Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng cũng như cái chân trong Bộ Chính trị nữa. Tất cả những vấn đề nêu trên, theo tôi, đều đúng. Tuy nhiên, cũng theo tôi, không nên tập trung quá nhiều vào các cuộc tranh chấp nội bộ trên trang Chân Dung Quyền Lực. Đó chỉ là một khía cạnh; một khía cạnh quan trọng và cực kỳ lý thú, nhưng dù sao cũng chỉ là một khía cạnh. Còn một khía cạnh khác, nổi lên từ trang Chân Dung Quyền Lực là bộ mặt thật của giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Không nên vì quá tập trung vào các bài đã đăng để chỉ thấy, trong guồng máy lãnh đạo Việt Nam hiện nay, chỉ có Nguyễn Xuân Phúc và con rể Vũ Chí Hùng cũng như hai bố con Phùng Quang Thanh – Phùng Quang Hải là tham nhũng. Đó chỉ là những kẻ đã bị tố cáo. Còn những kẻ chưa bị tố cáo thì sao? Chắc chắn là họ cũng tham nhũng không thua gì những kẻ kia. Về độ giàu có của con cái và thân nhân, từ lâu ai cũng biết, hầu như không có ai bằng Nguyễn Tấn Dũng cả. Về mức độ tham nhũng, cũng từ lâu, ai cũng thấy không ai bằng công an; vậy tài sản của Trần Đại Quang như thế nào? Nhìn vào những kẻ chưa được Chân Dung Quyền Lực đề cập, chúng ta dễ dàng thấy trang báo mạng này còn thiếu sót rất nhiều. Nó cố nói lên sự thật. Nhưng đó chỉ là một phần sự thật. Còn những góc cạnh khác, hầu như ai cũng biết, nhưng biết một cách mơ hồ. Chúng ta hy vọng sẽ có những trang báo khác lần lượt phanh phui hết tất cả những tệ nạn tham nhũng của tất cả những người đang nắm giữ quyền lực tại Việt Nam hiện nay. Tất cả. Chứ không phải chỉ có một số người đang tranh chấp quyền lực với nhau. Theo voatiengviet.com
......

Chân dung quyền lực – Hồn ma báo oán?

Chân dung quyền lực (CDQL) là một kênh truyền thông đình đám hiện nay, với đủ các dạng như: blog, facebook, twitter v.v… với chế độ còm men khá thoải mái. Đến nay, ít nhất nó đã vạch mặt chỉ tên việc tham nhũng của 3 vị lãnh đạo cao cấp của đảng CSVN, với những cứ liệu hết sức rõ ràng, chi tiết. Có nhiều phỏng đoán về chủ nhân và mục đích của Chân dung quyền lực: Phải chăng, đó là sự báo thù của một vị Trưởng ban đang nằm chờ chết do nghi án bị đầu độc bằng phóng xạ. Phải chăng, đó là sự báo thù của một vị Tổng thanh tra “đã bị lộ”. Phải chăng, nó là của một vị đầy quyền lực đang đứng đầu bảng tín nhiệm. Phải chăng, nó là của một nhà chính trị thật sự vì dân, đang tạm thời ẩn danh, chuẩn bị làm cách mạng. Phải chăng nó là của Trung Nam Hải, CIA… Phỏng đoán chỉ là phỏng đoán. Nhưng những điều dưới đây là có thật: - CDQL mang lại cho dân những cứ liệu hết sức rõ ràng về sự thối nát của chế độ. Những suy luận hợp lý về việc độc tài, quyền lực không kiểm soát sẽ dẫn đến tham nhũng khủng khiếp, nay đã có nhiều bằng chứng cụ thể. - Chủ nhân của CDQL là người rất can đảm, không sợ bị trả thù. Dầu anh ta mạnh đến đâu chăng nữa, ta cũng cần nhớ rằng những kẻ bị tố cáo – vốn có quyền lực – có thể sẽ phản đòn. Thế nhưng, phản ứng của cộng đồng hiện nay thế nào? Phần lớn những nhà bất đồng có tên tuổi đều phản ứng khá dè dặt, với những quan điểm như: đó là đấu đá nội bộ, mục tiêu không phải là dân chủ, nghi ngờ sự trung thực v.v… Các comment ở CDQL thiếu vắng các còm sĩ nghiêm túc, quen thuộc. Thậm chí trang B. khi đăng lại bài của CDQL về kết quả tín nhiệm, đã ngang nhiên cắt xén phần bình luận của nó. Theo tôi, việc làm này không đẹp. Các tổ chức xã hội dân sự tiến bộ có vẻ khá chân chất và thiếu nhạy bén, thiếu kết nối trong tình huống này. Cớ sao không hiệp đồng phát động phong trào rộng rãi: “Yêu cầu làm rõ và xử lý các vụ tham nhũng do Chân dung quyền lực nêu ra” Việc ra đời của CDQL, bất kể chủ nhân của nó là ai, là một cơ hội tốt, có thể nói là độc nhất vô nhị, để có một phong trào rộng lớn thể hiện sự nhất trí cao của đông đảo mọi người, mọi tổ chức trong việc đấu tranh cho tiến bộ xã hội ở Việt Nam. Cục Đất – Còm sĩ lâu năm của trang Ba Sàm nguồn: basam.info
......

Hải chiến Hoàng Sa 1974 - Hộ Tống Hạm Nhật Tảo (HQ10) đi vào lịch sử

Lời mở đầu: bài viết này tổng hợp từ các bài đã viết về Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ 10 trong trận hải chiến Hoàng Sa, và các tài liệu đã được tìm thấy gần đây trong đó có tài liệu do gia đình cố HQ Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp. Tác giả hy vọng sẽ trình bày một cách đầy đủ những hình ảnh hào hùng và bi thương của các chiến sĩ Hải Quân VNCH trong trận hải chiến lịch sử chống lại bọn giặc xâm lăng Trung Cộng. Thềm Sơn Hà -------------------- Hơn hai tháng biệt phái công tác cho Vùng I Duyên Hải, Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 trở về Đà Nẵng sau chuyến tuần dương cuối cùng để bàn giao lại vùng trách nhiệm cho HQ11 (Hộ tống hạm Chí Linh). Tất cả nhân viên chiến hạm đều vui mừng khi nghĩ đến lần trở về Sài Gòn sắp đến sẽ trùng hợp vào ngày Tết Nguyên Đán. Họ sẽ có dịp gần gũi gia đình trong những giờ phút thiêng liêng của năm mới và cũng theo lời Hạm Phó (HP) Nguyễn Thành Trí nói với vợ trước khi lên đường công tác thì chiến hạm sẽ chuẩn bị đi đại kỳ tại Guam sau khi trở về Sài Gòn (1). Ngoài ra với đồng lương mới lãnh, họ đi bờ ra phố Đà Nẵng mua sắm hàng hóa đặc biệt của địa phương để mang về làm quà Xuân cho gia đình và cũng là dịp những chàng lính thủy độc thân ra phố hưởng thụ những giây phút thoải mái sau những ngày dài lênh đênh trên trên biển. Bất ngờ chiều 17-1-1974 chiến hạm nhận lịnh khẩn cấp cùng với Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5 lên đường ra công tác Hoàng Sa (HS). Hạm Trưởng (HT) ra lịnh kéo còi nhiệm sở vận chuyển. Một vài nhân viên trở về lúc sợi dây cuối cùng vừa tháo vội vàng nhảy xuống tàu, có người bị hụt chân rớt xuống nước phải thả phao vớt lên. Chiến hạm rời bến Đà Nẵng lúc 2000H (8 giờ đêm) với tốc độ chậm để chờ HQ5. Lúc 00 giờ 12 qua ngày 18-1, HQ5 bắt đầu tách bến và bắt kịp HQ 10 vào lúc 3 giờ 15 sáng. Trước tình trạng kỹ thuật của HQ10 chỉ còn xử dụng được một máy và do nhu cầu hành quân khẩn cấp nên HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Hành Quân đã quyết định chỉ thị HQ5 chạy trước bỏ lại HQ10 phía sau. Trên đường đến HS, Hạm Trưởng HQ10, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà (K.12/SQHQ/NT) ra lịnh kiểm soát tất cả mọi ụ súng, đem đạn tối đa từ hầm đạn lên các dàn súng nhưng tất cả các khẩu súng đều phải bao lại và nòng súng chỉa lên trời, HT khuyến khích tất cả các nhân viên không thuộc phiên đi ca cố ngũ để lấy sức cho những ngày kế tiếp. Ngoài ra ông ra lịnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến và kiểm soát lại 4 bè cấp cứu cùng các hộp mưu sinh thoát hiểm. HT còn ra nghiêm lịnh bắt buộc tất cả nhân viên phải mặc áo phao và đội nón sắt mặc dù trời rất nắng và nóng bức (đây là những chỉ thị rất sáng suốt của một cấp chỉ huy đầy kinh nghiệm, tiên liệu được những điều có thể xảy ra cho chiến hạm trong một trận hải chiến và cũng nhờ những nghiêm lịnh này mà các chiến sĩ HQ10 trong lúc đào thoát đã có sẵn một số nước uống, thực phẩm khô để cầm cự trong thời gian đầu và áo phao đã giúp họ không bị chìm cũng như che chỡ bớt cơn lạnh về đêm). HQ10 đến HS vào khoảng 11 giờ đêm ngày 18-1. HT liên lạc với cấp chỉ huy trực tiếp là HQ Trung Tá Lê Văn Thự (K.10/SQHQ/NT) Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ16 kiêm Chỉ Huy Trưởng Phân Đội II (gồm có HQ 10 và HQ 16), sau đó thi hành lịnh của Trung Tá Thự, HT ra lịnh làm tối chiến hạm (darken ship) để địch không nhận dạng được. Khoảng 01.00H khuya 19-1, chiến hạm nhận được lịnh hành quân từ Đại Tá Ngạc. Sau khi hội ý với HP là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí (K.17/SQHQ/NT), HT đã ở lại phòng vô tuyến phụ cạnh đài chỉ huy (ĐCH) để liên lạc với các giới chức liên hệ và chỉ thị HP họp các SQ và nhân viên tại phòng ăn SQ vào lúc 0200H. Trong buổi họp, HP đã thông báo cho thủy đoàn HQ10 biết là theo nội dung công điện hành quân thì chiến hạm sẽ chuẫn bị chiến đấu thực sự lúc 6 giờ sáng, HP cũng nhấn mạnh ở điểm là bên ta không được khai hỏa trước vì vậy phần thiệt hại về phía ta có thể lên đến 80% hoặc 90%. Trung Úy Nguyễn Đông Mai có đặt câu hỏi về việc khai hỏa thì HP trả lời đây là lịnh từ Sài Gòn chúng ta phải thi hành theo lịnh. Cuộc họp chấm dứt vào lúc 0230H. Khoảng 4 giờ sáng, sau một giấc ngủ ngắn HT thức giấc và từ ĐCH ông ra lịnh kéo còi nhiệm sở tác chiến. Tiếp theo hồi còi.. tít..tít..tít..là tiếng của HT vang lên trong hệ thống âm thoại:” đây là HT…nhiệm sở tác chiến …nhiệm sở tác chiến…tất cả vào nhiệm sở tác chiến”. Nghe tiếng còi và lịnh của HT tất cả nhân viên bật dậy và lập tức vào nhiệm sở của mình. Tiếp theo đó là nhiệm sở phòng không. Tất cả nòng súng rợp rợp hướng lên trời ở góc độ 45 độ. Khoảng 4 giờ 30 có hai đóm sáng trên trời, tất cả các khẩu súng đều quay về hướng hai mục tiêu này. Khoảng 5 giờ 30 hai đóm này lại xuất hiện. Lúc 6 giờ hai đóm sáng này bay thấp hơn có lẽ là hai phản lực cơ. Sự xuất hiện liên tiếp của các phi cơ lạ tạo nên tình trạng căng thẳng cho tất cả các nhân viên trên chiến hạm, chắc hẳn mọi người ai cũng linh cảm rằng một cuộc hải chiến chắc sẽ xảy ra. Rạng sáng ngày 19-1, thi hành lịnh Phân Đội Trưởng, HQ10 di chuyển vào lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm theo lối giữa bãi Antelope và đảo Quang Hòa. Lúc này trời còn lờ mờ chưa tỏ hẵn ánh dương, lực lượng địch bây giờ được tăng cường thêm 2 chiếc Trục lôi hạm T43 mang số 389, 396. Như vậy chúng có cả thảy 4 chiến hạm (2 chiếc Hộ tống hạm loại Kronstadt số 271, 274 đã xuất hiện từ trước) và 2 tàu đánh cá ngụy trang mang số 402, 407 đang hiện diện tại vùng, đối đầu với 4 chiến hạm của ta (kể cả Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ 5 thuộc Phân Đội I đang ở trong khu vực phía Nam và phía Tây Nam đảo Quang Hòa). Chiến hạm ta và địch chạy đan qua đan lại nhau rất gần. Địch nhiều lúc như muốn đâm thẳng cả tàu vào chiến hạm của ta nhưng về cả hai phía các khẩu súng đều chỉa lên trời. Khoảng 6 giờ 30, Đại Tá Ngạc ra lịnh cho HQ5 đổ bộ toán người Nhái lên đảo Quang Hòa. Toán này vừa tiến vào bờ thì bị lính TC nổ súng trước, một SQ và một chiến sĩ người Nhái bị tử thương. Đại Tá Ngạc ra lịnh toán người Nhái mang xác SQ và rút toàn bộ trở về HQ5. Nghe tiếng súng nổ, HT thông báo diển tiến và ra lịnh tất cả nhân viên sẵn sàng. Ngay sau tiếng súng nổ trên đảo, chiến hạm của ta và TC không còn chạy gần nhau nữa mà bắt đầu tách ra xa. Khoảng 9 giờ, các tàu TC trao đổi quang hiệu. Ngay tiếp sau đó các tàu đánh cá ngụy trang được 4 chiến hạm bảo vệ di chuyển song song về hướng Bắc và dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người trên chiến hạm thoáng vui mừng, ai cũng thở phào nhẹ nhõm nghĩ là TC đã chịu lùi bước rút lui. Phần Trung Úy Hà Đăng Ngân hơn ngày qua lúc nào thần kinh cũng căng thẳng áo phao, nón sắt rất bực bội bây giờ được tạm cỡi ra vừa xuống phòng ăn cơm xong định đặt chân vào phòng tắm thì còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, Tr/Úy Ngân tức tốc chạy lên nhiệm sở, mặc lại áo phao, đội nón sắt vào. Nhìn theo hướng chỉ trên ĐCH thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm TC đã rời vùng cách đây khoảng một tiếng quay đầu trở lại. Khi các chiến hạm TC tiến đến các chiến hạm ta, chúng không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng 1 km làm thành một vòng tròn bao quanh các chiến hạm ta. Sau khi chạy loang quanh chừng 2 vòng các tàu TC từ từ lảng xa ra hơn. Như tiên đoán trước được dấu hiệu khác thường HT ra lịnh chuẩn bị tác chiến nhưng tất cả nòng súng hướng vào phía đảo để tránh sự khiêu khích với tàu địch. Trông chờ mãi khẩu lịnh “bắn” vẫn chưa được ban hành, thủy thủ đoàn có phần xao lãng không còn vẽ hăng say như lúc đầu. Lợi dụng khoảng thời gian này , một số nhân viên ở các nhiệm sở luân phiên vào nhà ăn để dùng cháo cho buổi điểm tâm. Khoảng 10 giờ, hai chiếc tàu TC mang số 389, 396 bắt đầu tách rời ra khỏi hai chiếc 271, 274 và chạy song song gần nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường, HT ra lịnh hạ nòng súng và quay súng về phía tàu TC, vài phút sau hai tàu TC chạy gần sát vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song trực chỉ HQ10. HT ra lịnh tất cả ổ súng hướng về hai mục tiêu địch và xin lịnh cấp trên cho phép nổ súng nhưng được trả lời chờ Sài Gòn quyết định. Lúc này thần kinh tất cả mọi người thật căng thẳng. Hai tàu TC cứ từ từ đến gần, khi còn cách HQ10 khoảng 200-300m, HT hét lớn “bắn”. Tất cả các khẩu súng trên tàu đều nhả đạn vào tàu địch. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lịnh của chính HT (theo HQ Tr/Tá Lê Văn Thự Hạm Trưởng HQ16 thì HQ16 khai hỏa trước). Những phát đạn đầu tiên của HQ10 trúng ngay vào chiếc 389 của TC làm nó bốc cháy khói mịt mù phải lùi lại phía sau, cùng lúc khẩu 127 ly trên HQ16 trực xạ vào chiếc 396 và chiếc này bị trúng đạn ngay ĐCH làm hư hệ thống tay lái nên tàu cứ xoay quanh. Đến lúc này HQ10 vẫn an toàn, đạn từ tàu TC bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước. Chiếc 389 bị trúng nơi hầm đạn với lỗ thủng hơi lớn làm nước tràn vào, ngoài ra máy phát điện cũng bị hư vì trúng đạn. Sau khi đã cố gắng vá xong lỗ thủng và sửa chửa máy phát điện, chiếc này quay trở lại tham chiến. Điểm cần nêu lên ở đây là so sánh về hỏa lực thì hai trục lôi hạm số 389 và 396 tuy không được trang bị đại bác cỡ lớn nhưng bù lại mỗi chiếc có 4 khẩu đại bác 37 ly (tương đương với đại bác Bofors 40 ly của ta) và 4 khẩu đại bác 25 ly. So sánh về kích thước 2 chiếc này tương đương với HQ10, do đó địch đã áp dụng chiến thuật bám sát vào các chiến hạm ta để làm giảm đi sự hiệu quả của khẩu 127 ly trên HQ16 và 76, 2 ly trên HQ10. Đang chiếm ưu thế, bổng dưng khẩu 76, 2 ly trên HQ10 bị trở ngại tác xạ (có phải đây là lý do mà HT đã khẩn cấp gọi HP lên ĐCH???) thêm vào đó chiến hạm lại chỉ có một máy khiển dụng, vì thế việc vận chuyển để xử dụng tối đa 2 khẩu đại bác 40 ly ở phía sân sau cùng một lúc rất là khó khăn. Lợi dụng sự bất lợi của HQ10, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ10 bắt đầu trúng đạn ở ĐCH và phòng lái. HT, hầu hết các Sĩ Quan, HSQ và nhân viên ngành Giám lộ và Vận Chuyển có mặt trên ĐCH và phòng lái đều tử trận ngoại trừ Hạm Phó bị thương nặng nơi mặt, bụng và chân phải (mất một miếng thịt ở chân phải). Ngoài ĐCH và phòng lái, hầm máy và hầm đạn dược cũng bị trúng đạn bốc cháy. Đạn nổ văng tứ tung và khói đen tuôn mịt mù khắp con tàu. Từ vị trí cách HQ 10 khoảng vài trăm mét, quan sát thấy HQ10 đang ở trong tình trạng rối loạn, không bỏ lỡ cơ hội chiếc 389 của TC vận chuyển tiến vào phía sau lái hữu hạm HQ10. Thấy tàu địch có ý định cặp vào một vài nhân viên hơi giao động nhưng 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu vẫn ngang nhiên ghì chặt nòng súng làm tròn phận sự của mình (lúc này trên HQ10 có khoảng 50 chiến sĩ đã hy sinh, một số bị thương nặng nhẹ, chỉ còn khoảng 20 người còn khả năng chiến đấu). Lính TC trên 389 ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên , súng bazooka qua HQ10 với mục đích thanh toán các ổ súng còn lại, sau đó sẽ cặp vào đổ bộ lính lên chiếm đoạt tàu và bắt sống thủy thủ đoàn HQ10. Những đợt tác xạ của địch trúng vào Đài Chỉ Huy đã làm Đ/U Trí rớt xuống phòng lái, tuy nhiên với dáng người to con, tướng vạm vỡ (cao 1,74m - nặng 70 kg), HP Nguyễn Thành Trí mặc dù đang bị thương nặng nhưng đã cố gượng đứng lên. Đoán được ý định của giặc, từ phòng lái, Đ/U Trí đã giựt lấy khẩu M16 nhã hàng loạt đạn vào tàu địch và sau khi đợi tàu địch vào đúng vị trí, Đ/U Trí đã cố sức vận chuyển chiến hạm, lấy hết tay lái về bên phải, hướng mũi tàu HQ10 đâm vào hông chiếc 389 của địch. Cố thiếu tá Nguyễn Thành Trí Quá bất ngờ trước hành động sáng suốt và quyết tử này, chiếc 389 không còn cách gì để vận chuyển tránh né khỏi nên đã bị phần mũi của HQ10 đâm mạnh vào yếu điểm của chiến hạm là phần sau lái. Cú đụng mạnh này cộng thêm vào những hư hại do hỏa pháo của HQ10 bắn trúng trong đợt khai hỏa đầu tiên đã đưa chiếc 389 lâm vào tình trạng nguy kịch, có lẽ đang sắp sửa chìm. Đây chắc cũng là lý do khiến chiến 396 phải ngưng chiến đấu với HQ16 để cấp tốc chạy đến tiếp cứu chiếc 389. Tuy nhiên, ngay cả chiếc 396 cũng lâm vào tình trạng nguy ngập vì thế 2 tàu đánh cá ngụy trang 402 và 407 đã đến tiếp cứu và đưa 389 ủi vào bãi san hô. Có thể nói đây là một chiến công thật hiển hách của anh hùng Nguyễn Thành Trí trước giặc thù Trung Cộng. Nhận lãnh trách nhiệm quyền Hạm Trưởng (HT Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt kiêm Phân Đội Trưởng Phân ĐộI II đã chỉ định HQ Đ/U Nguyễn Thành Trí thay thế HT Ngụy Văn Thà đã tử thương) trong lúc đang bị thương nặng, một mình đơn độc trên đài chỉ huy (Hạm Trưởng và hầu hết các SQ và nhân viên trên đài chỉ huy và phòng lái đã hy sinh), chiến hạm lại đang ở trong tình trạng nguy kịch, Đ/U Trí quyết định liều chết trong tình trạng khẩn trương đã dùng con tàu làm vũ khí lợi hại chống lại kẻ thù. Đ/U Trí không những đã phá vỡ ý đồ cướp tàu, bắt sống thủy thủ đoàn và mang HQ10 về làm chiến lợi phẩm của địch mà ngược lại còn gây thiệt hại nặng nề cho tàu địch. Hành động này của Đ/U Trí đã dẫn đến cái chết cho ông và 6 chiến sĩ trên HQ10 trong lúc đào thoát, nhưng ngược lại đã bảo toàn danh dự của Hải Quân VNCH và của tổ quốc Việt Nam. Vì cấu trúc của phần mũi HQ10 rất chắc chắn nên sau khi đâm mạnh vào sau lái chiếc 389, phần sườn và võ tàu HQ10 không bị hư hại thêm nhiều nhưng cả 2 máy lúc này hoàn toàn bất khiển dụng. Chiến hạm ta và địch từ từ tách ra xa. Tiếng súng đã lắng dịu. Trận hải chiến đang ở trong giai đoạn chấm dứt. HQ16 đang cố gắng bơm nước ra và sửa chửa máy phát điện từ từ ra khỏi lòng chảo hướng về Đà Nẵng. HQ4 và HQ5 rời vùng về hướng Đông Nam. Chiến hạm địch đang tự cứu hoặc đến cứu giúp lẫn nhau. Do đó, mặc dù HQ10 vẫn còn hiện diện tại vùng chiến nhưng đã không có một chiến hạm nào khác của TC đến gần để thăm dò hoặc để bắn chìm. Mãi đến 11 giờ 49 phút TC mới ra lịnh cho 2 chiến hạm loại Hainan mang số 281, 282 tăng tốc độ trực chỉ đến vùng và chúng đã đến địa điểm giao chiến vào lúc 12 giờ 12 phút. Tình trạng HQ10 lúc này quá bi đát, gần 70% nhân viên đã hy sinh kể cả Hạm Trưởng, một số đang bị thương, phòng máy còn đang cháy, các nhân viên cơ khí bị cháy đen thui trong đó có Tr/Úy Thạch Cơ khí trưởng hai chân hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen, 2 máy chánh và máy điện hoàn toàn bất khiển dụng, hệ thống liên lạc nội bộ và máy truyền tin không xử dụng được. Đ/U Trí từ ĐCH bò xuống sàn tàu. Trước tình trạng tuyệt vọng không được sự tiếp cứu từ các chiến hạm bạn, ngoài ra các chiến hạm địch cũng đang tự cứu lấy do đó không còn là mối đe dọa nữa. Có lẽ đây là những lý do đã khiến cho Đ/U Trí ra lịnh đào thoát. Với gương mặt đầy máu, Đ/U Trí được hai nhân viên dìu đứng gần bè cấp cứu dõng dạc tuyên bố:” Hạm Trưởng đã hy sinh, tôi thay mặt Hạm Trưởng ra lịnh đào thoát.” Sau đó, Đ/U Trí đã lết đến từng chỗ mà kéo vực các binh sĩ xuống bè đào thoát (trong số này có Tr/úy Phạm Văn Thì đang ở tại nhiệm sở thủ cây đại liên). Ngoài ra Đ/U Trí chỉ định những nhân viên còn khỏe mạnh thả 4 bè cấp cứu cùng phụ giúp đưa những người bị thương xuống bè và chuẩn bị 1 bè nhỏ có 2 miếng ván kê lên để cho 2 chiến sĩ bị thương nặng là TS/VC Đa và TS/TP Nam nằm lên. Khi tất cả nhân viên đã xuống bè, Đ/U Trí với vết thương quá nặng, khắp người nhầy nhụa máu cương quyết ở lại chết cùng Hạm Trưởng cùng nhân viên và chiến hạm nhưng hai nhân viên là HS/TP Trần Ngọc Sơn và TT/TX Trương Văn Long đã cặp và lôi ông xuống bè. Như vậy cuộc đào thoát đã được thực hiện từng giai đoạn, rất có kỷ luật và theo đúng truyền thống Hải Quân. Quyền Hạm Trưởng Nguyễn Thành Trí là người cuối cùng miển cưỡng rời chiến hạm. Trong những giờ phút sau cùng, Đ/U Trí vẫn không quên những bài học về Hải Quy trong hai năm thụ huấn nơi quân trường. Khi tất cả nhân viên đã lên bè đầy đủ (có người nhảy xuống nước rồi mới lên bè) kiểm điểm lại có tất cả 28 người trong đó có những người bị thương nặng và nhẹ trên 4 bè lớn và 1 bè nhỏ, ngoại trừ các chiến sĩ đã hy sinh. Có 2 chiến sĩ oai hùng là HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã từ chối không xuống bè đào thoát, quyết ở lại tử chiến với giặc thù Trung Cộng và chết theo tàu.. Tình trạng các bè rất bi thảm, bè nào cũng bị trúng đạn. Riêng bè của Đ/U Trí bị bể một miếng lớn, khi 6 người ngồi lên, bè chìm xuống, nước ngập tới ngực. Dù bị thương nặng nhưng Đ/U Trí vẫn còn tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đưa 4 bè lại gần nhau rồi dùng những sợi dây chung quanh phao, cột chúng lại với nhau để cho tàu chạy ngang qua dễ nhìn thấy. Luồng nước và gió từ từ đưa các bè xa dần HQ10. Lúc này tiếng súng đã ngưng hẵn. Từ bè nhìn lại HQ10 vẫn còn bốc khói. Tàu bị trúng đạn quá nhiều lỗ chỗ như tổ ong; về phía Trung Cộng, 3 chiếc cũng đang bốc cháy. Tất cả mọi người đều hy vọng sẽ có chiến hạm bạn đến tiếp cứu nhất là HQ16 cũng không xa lắm, nhưng khi nhìn thấy HQ16 bị nghiêng một bên và đang từ từ chạy ra khỏi lòng chảo họ mới hiểu được lý do vì sao HQ16 không đến vớt họ lên. Gió mùa Đông Bắc đưa các bè trôi theo hướng ra ngoài lòng chảo nhóm Nguyệt Thiềm và HQ10 cũng đang trôi theo. Khoảng hơn một giờ sau các thủy thủ trên bè thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, niềm hy vọng có tàu bạn đến cứu nhóm lên, nhưng khi đến gần thì ra là hai chiếc số 281, 282 loại Hainan của TC. Khi 2 chiếc này tới gần HQ10 vào lúc 12 giờ 12 phút khẩu đại bác 20 ly do 2 chiến sĩ anh hùng Tây và Sáu ở lại tử thủ bắt đầu nổ vang, chiến hạm địch vừa tiến vừa phản pháo bằng đại bác 57 ly và các loại súng khác. Một hồi lâu sau tiếng đại bác 20 ly từ HQ10 im bặt, HS1/VC Lê Văn Tây và HS/VC Ngô Văn Sáu đã trúng đạn của giặc thù TC hy sinh đền nợ nước một cách oai hùng. Mặc dù không còn tiếng súng chống trả trên HQ 10 nhưng tàu TC vẫn tiếp tục bắn xối xả vào HQ10 trong khi HQ10 đang bốc cháy và trôi lềnh bềnh cho đến 14 giờ 52 phút thì chìm tại địa điểm cách phía Nam bãi đá ngầm Hải Sâm (Antelope reef) khoảng 2,5 km mang theo thân xác của Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà và 54 (2) chiến sĩ anh hùng của HQ/VNCH. Thanh toán HQ 10 xong, hai chiếc 281, 282 quay lại tiến gần đến các bè, HP Nguyễn Thành Trí dặn các nhân viên trên bè: ”nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng van xin”. Tất cả đều hồi hộp không biết chúng sẽ hành động như thế nào? Chúng sẽ vớt họ lên bắt sống làm tù binh? Chúng sẽ bỏ mặc cho bè các anh tiếp tục trôi để chết lần mòn giữa biển khơi? Hay là chúng sẽ bắn vào bè để giết chết hết các anh?... Cuối cùng, sau khi chạy quanh các bè khoảng 2 vòng, chúng vẫy tay cười rồi bỏ đi. Chúng đã chọn phương cách thật tàn nhẫn vừa khỏi phí đạn, vừa khỏi tốn công chăm sóc các anh theo luật tù binh quốc tế, vừa khỏi mang tiếng sát nhân vì chúng nghĩ là sớm muộn gì các anh cũng sẽ chết. Hành động vô nhân đạo này của TC đã làm chết thêm 7 chiến sĩ của HQ10. Nếu chúng thi hành đúng theo hiệp ước Geneva về tù binh thì khi các chiến sĩ HQ10 được vớt lên chúng có nhiệm vụ phải chăm sóc cho họ và sẽ không có thêm 7 chiến sĩ của HQ10 phải chết oan uổng trên đường đào thoát. Sau khi tàu TC bỏ đi, các bè vẫn tiếp tục trôi và khi mặt trời bắt đầu lặn dòng nước đưa các bè lại gần một hòn đảo nhỏ. Đ/U Trí ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống, tuyệt đối không được uống nước biển sẽ chóng chết. Các anh em cố gắng dùng tay và những mảnh ván nhỏ thế chèo nhưng vẫn không vào được gần đảo, dần dần các bè trôi ra ngoài khu vực lòng chảo. Càng về đêm gió càng thổi mạnh, sóng dâng to đánh mạnh vào các bè làm chiếc bè trên đó có Đ/U Trí bị đứt giây tách ra khỏi nhóm. Tất cả mọi người trên các bè đều lạnh run và mệt lả. Trên bè của Đ/U Trí có thêm Tr/úy Ngân cũng bị thương. Phần Đ/U Trí bị thương trên đầu, bụng và chân nhưng ông vẫn cố gắng giữ vẻ tỉnh táo, che dấu đi những nổi đau đớn do vết thương hành hạ. Tuy nhiên vết thương ở chân vì không được băng bó kỷ lưỡng nên vẫn còn rĩ máu vì thế cá mập cứ bám theo sau. Lo ngại về sự an toàn của đồng đội và có lẽ cũng biết là mình sắp chết nên Đ/U Trí đã bảo thuộc cấp: "hảy thả tôi xuống biển, nếu không cá mập cứ bám theo, các anh cũng sẽ chết hết." (3) Nhưng các anh em không thể nhẩn tâm đối với vị Hạm Phó đã từng sống chết với mình nên họ đã làm ngơ. Cho đến khi đêm xuống, các anh em mệt nhoài ngủ thiếp đi thì cũng là lúc Đ/U Trí trút hơi thỏ cuối cùng đền nợ nước vào khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 1 năm 1974, sau khi đã làm tròn nhiệm vụ của một chiến sĩ HQ/VNCH cho đến phút cuối cùng. Các chiến sĩ đào thoát đã chờ đến lúc trời sáng để làm lễ thủy táng cho ông theo truyền thống Hải quân. Ngoài Đ/U Trí còn có 5 chiến sĩ bị thương trong trận hải chiến cũng đã hy sinh trên các bè đào thoát, danh sách trích từ phiếu tường trình ủy khúc số 121/BLH/HĐ/NV/TTUK/K ngày 16-2-1974 của BTL/HĐ (4) gồm có: - HQ. Đại Úy Nguyễn Thành Trí số quân: 61A702.714 - TS1/GL Vương Thương - 64A700.777 - TS/VCh Phan Ngọc Đa - 71A703.001 - TS/TP Võ Văn Nam - 71A705.697 - TS/ĐTTrần Văn Thọ - 71A706.845 - TS/QK Nguyễn Văn Tuấn - 71A700.206 Với khoảng 4 ngày và 3 đêm trôi lênh đênh giữa vùng biển mênh mông trên các bè loang lỗ đầy vết đạn của giặc thù, nước uống và thức ăn không đủ để chia nhau phải dùng nước tiểu pha với nước biển để uống cầm cự. Họ đã sống giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa cái chết và cái sống, giữa những cơn đau đớn tận cùng do vết thương hành hạ, do thời tiết nghiệt ngã mang đến và nhất là nổi đau xót khi chứng kiến đồng đội người này tiếp nối người kia gục ngã trên bè, thân xác được thủy táng vào lòng đại dương. Nhưng hầu như tất cả mọi người lúc nào cũng chia xẽ với nhau, cũng nhường nhịn lo lắng cho nhau và cùng nhau cầu nguyện. Công tác tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ đào thoát. Ngay trong ngày 19-1, trước tin sơ khởi báo cáo về cho biết có thể có 2 chiến hạm phía ta đã bị hỏa tiển Styx của TC bắn chìm, chánh phủ VNCH đã 3 lần nhờ chánh phủ Hoa Kỳ trợ giúp trong việc tìm kiếm và cấp cứu (2 lần nhờ sự trợ giúp của các chiến hạm và 1 lần nhờ sự trợ giúp của các trực thăng thuộc Đệ 7 Hạm Đội), nhưng lời yêu cầu này đã bị Đại Sứ Martin khước từ. Người bạn đồng minh từ bao năm nay đã lựa chọn thái độ không can dự vào các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo trong vùng biển Đông, ngay cả việc giúp đỡ với mục đích nhân đạo. Thái độ này đã được thể hiện rõ rệt qua việc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Quốc Phòng chỉ thị cho Hải Quân Hoa Kỳ đứng ngoài khu vực xung đột. (ngày giờ chính xác của văn thơ này chưa được rõ). Do vậy, nên ngay sau khi được tin chiến hạm HQ/VNCH đã nhận được lịnh khai hỏa, Tư Lịnh Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 0950H ngày 19-1 lập tức gởi công điện ra lịnh cho các chiến hạm Hoa Kỳ tránh xa khỏi khu vực sắp giao chiến và tránh các hành động có thể được xem như là tham dự vào hay cung cấp sự yểm trợ cho miền Nam. Đồng thời Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương cũng ra lịnh cấm tất cả các phi cơ thuộc Không Lực Hoa Kỳ bay trên không phận quần đảo Hoàng Sa ở bất cứ cao độ nào. Nhật báo The New York Times ra ngày 19-1 có đăng lời Phát Ngôn Viên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tuyên bố “Chúng tôi không đứng về bất cứ phe nào”. Ngoài ra John F. King viên chức Giao Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã phát biểu khi trả lời các câu hỏi:” Lẽ dỉ nhiên, chúng tôi hết sức mong muốn một sự dàn xếp êm đẹp”, nhưng “chúng tôi không can dự vào”. Vào buổi tối ngày 20-1, Ngoại Trưởng VNCH đã yêu cầu Đại Sứ Martin chuyển đạt lời yêu cầu đến chánh phủ Hoa Kỳ để nhờ họ đề nghị với TC đồng ý hưu chiến trong 48 giờ, đủ thời gian để chánh phủ VNCH có thể di tản những người chết và bị thương ra khỏi quần đảo HS (5) Lời đề nghị hợp lý và nhân đạo này đã không được chánh phủ Hoa Kỳ chuyển đến Bắc Kinh. Trước thái độ dửng dưng của Hoa Kỳ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi cân nhắc lợi hại đã từ bỏ ý định dùng võ lực tái chiếm Hoàng Sa. Vì vậy các giới chức thẫm quyền đã nghĩ ngay đến việc cứu cấp các chiến sĩ HQ10 đào thoát trên bè sau trận hải chiến. Trưa ngày 22-1 lúc 1 giờ 05 phút, Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn đã gởi điện thư về Bộ Ngoại Giao báo cáo là vào buổi sáng, dinh Độc Lập, Bộ Ngoại Giao và Đại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đã thông báo với họ là Chánh Phủ Việt Nam cảm thấy bắt buộc phải mở ra cuộc hành quân không/hải để tìm kiếm những người hy vọng sống sót trên mặt biển trong khoảng giữa Hoàng Sa và Đà Nẵng. Tiếp theo đó lúc 1 giờ 31 trưa ngày 22-1, Tòa Đại Sứ lại gởi tiếp bản văn từ Bộ Ngoại Giao VNCH mới vừa được Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao VNCH phổ biến đến báo chí, nội dung bản văn loan báo cấp chỉ huy quân sự Việt Nam đang mở ra cuộc hành quân cứu cấp trong vòng 48 giờ để cứu vớt những người sống sót trên Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, chiến hạm này đã được báo cáo mất tích sau trận hải chiến với Hải Quân TC tại quần đảo Hoàng Sa. Lực lượng tham dự cuộc tìm kiếm gồm có Tuần Dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6, hai chiếc Tuần Duyên Đỉnh (WPB) và 1 phi cơ C-119. Khu vực tìm kiếm nằm trong giới hạn bởi các tọa độ dưới đây: - A. 15 độ 30 phút 28 giây Bắc - 110 độ 00 phút 18 giây Đông - B. 14 độ 50 phút 30 giây Bắc - 110 độ 40 phút 27 giây Đông - C. 15 độ 30 phút 36 giây Bắc - 111 độ 10 phút 00 giây Đông - D. 16 độ 00 phút 00 giây Bắc - 110 độ 40 phút 48 giây Đông Bản văn từ Tòa Đại Sứ Mỹ cũng cho biết là các giới chức thẫm quyền VNCH quan tâm đến số phận của thủy thủ đoàn HQ10 mà lần sau cùng đã được thấy không người điều khiển gần đảo Vĩnh Lạc (Money). Với dòng nước biển chảy bình thường sẽ đưa HQ10 hoặc là nếu chiến hạm bị chìm sẽ đưa những người sống sót đến khoảng 70 hải lý về hướng Tây Nam của khu vực nằm trong các tọa độ A, B, C và D. Bản văn còn cho biết là chánh phủ VNCH chỉ thị phái đoàn VN ở Geneva lập tức thông báo cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế những điều đã đề cập ở trên và yêu cầu Hội thông báo Bắc Kinh về bản chất và phạm vi của cuộc hành quân, ngoài ra còn yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ xử dụng các phương tiện thông tin trực tiếp với Bắc Kinh trong nỗ lực để đảm bảo là Bắc Kinh cũng biết rõ về chiến dịch hoàn toàn có tính chất nhân đạo này. Về phần Đại Sứ Martin, ông cũng khuyến cáo Bộ Ngoại Giao Mỹ nên tiếp xúc với Phái đoàn liên lạc TC ở Hoa Thịnh Đốn hoặc Văn phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh để yêu cầu TC thông báo đến các giới chức thẫm quyền quân sự của họ về chiến dịch này và Bộ Ngoại Giao có thể chỉ thị Phái Đoàn Hoa Kỳ ở Geneva tạo điều kiện để Phái đoàn Việt Nam tại Geneva và Hội HTT quốc tế gặp gỡ nhau. Những lời khuyến cáo của Đại Sứ Martin đã được Ngoại Trưởng Kissinger chấp thuận, vì vậy ngay sau đó Ngoại Trưởng Kissinger đã gởi điện thư cho Văn Phòng Liên Lạc Mỹ ở Bắc Kinh yêu cầu họ thông báo với Bộ Ngoại Giao TC về cuộc hành quân cứu cấp này. Ngoài ra cũng giải thích cho Bắc Kinh biết là Mỹ làm việc này theo sự yêu cầu của chánh phủ VN và với tính cách nhân đạo, còn việc đề nghị Bộ Ngoại giao TC thông báo cho cấp chỉ huy quân sự TC là tùy ở Văn Phòng Liên Lạc. Trong khi các chiến hạm và phi cơ VNCH đang bắt đầu việc tìm kiếm thì vào lúc 6 giờ 30 chiều ngày 22-1-1974 tàu dầu Kopionella thuộc hảng Shell mang quốc tịch Hòa Lan đã tìm thấy và vớt tất cả 22 người (5) thuộc HQ10 còn sống sót lên tàu tại toạ độ 16 độ 10’ N và 110 độ 46’ E cách Đà Nẵng khoảng 287 km về hướng Đông, như vậy toán đào thoát đã trôi trên biển trong khoảng 78 giờ với khoảng cách độ 110 km. Sau khi lên tàu Thượng Sĩ Châu vì quá kiệt sức nên đã trút hơi thở cuối cùng, ngoài ra có 4 người bị thương nặng. Tất cả đã được từ Thuyền Trưởng, Thuyền Phó và phu nhân của các vị này cùng thủy đoàn tàu dầu Kopionella tận tình chăm sóc. Với tư cách Sĩ quan thâm niên hiện diện, HQ Trung Úy Phạm Văn Thì đã được Thuyền Trưởng đưa vào phòng của ông để liên lạc với cấp chỉ huy Hải Quân Việt Nam. Sáng ngày 23-1 lúc 5 giờ 15 tất cả đã được chuyển sang Tuần dương Hạm Trần Quốc Toản HQ6 để đưa về Đà Nẵng. Qua lời thuật lại của các chiến sĩ sống sót, cuộc hành quân cứu vớt tiếp tục sang ngày 23-1 với hy vọng tìm thấy bè bằng cây trên đó có TS/VC Đa và TS/TP Nam, nhưng đến 6 giờ 15 phút chiều cùng ngày phi cơ tuần tiểu đã phát giác hai mãnh ván tại tọa độ 15 độ 43’ Bắc – 110 độ 02’ Đông, nhưng khi chiến hạm được điều động đến nơi mọi người đều thất vọng vì chỉ thấy 2 miếng ván không người. Cuộc hành quân tìm kiếm và cấp cứu đã được chấm dứt ngay sau đó. Để kết luận, trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 như là một định mệnh đã sẵn dành cho Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10 một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử chống ngoại xâm để gìn giữ cõi bờ hùng vĩ do tổ tiên truyền lại. Tuy mất Hoàng Sa nhưng gương sáng về những sự hy sinh cao qúy, về tinh thần chiến đấu cao độ, liều chết tử thủ trước giặc thù, về lời nói đầy hùng khí ngay cả khi lâm vào tình thế nguy khốn sẽ mãi mãi được nhớ đến trong lịch sử oai hùng ngàn đời của con dân nước Việt. Xin cho một lần tất cả những người dân nước Việt, không phân biệt Nam, Trung, Bắc không phân biệt lý thuyết, chủ nghĩa hãy cúi đầu khâm phục tinh thần bất khuất và sự hy sinh cao cả của 54 chiến sĩ HQ10 đã hy sinh tại chiến trường, 7 chiến sĩ hy sinh trên đường đào thoát cũng như 21 chiến sĩ còn lại đã thoát chết trong lúc chiến đấu với giặc thù, đã sống sót trong 3 đêm và 4 ngày gian khổ cùng cực trên biển khơi. Các anh còn sống để có ngày chứng minh cho cả thế giới biết sự chiến đấu hào hùng của dân Việt cũng như sự nhẫn tâm của giặc thù Trung Cộng. Sơ đồ cuộc hành quân tìm kiếm và cứu vớt các chiến sĩ thuộc HQ 10. Chuyện bên lề: Trong bài “Nhật ký bên lề trận hải chiến Hoàng Sa”, HQ Đại Tá Võ Sum TP6/BTL/HQ (Phòng Truyền Tin) đã viết là vì muốn biết số phận cuả HQ10 nên trong ngày 20 tháng 1, ông đã dùng phương pháp cảm xạ học để tìm vị trí của chiến hạm xấu số này. Ông đã tiên đoán số phận HQ10 “không bao giờ trở lại” và các bè trôi theo hướng 240 độ thật là chính xác. Vị trí cuối cùng của các bè đào thoát do Ông tìm được lần sau cùng vào lúc 10 giờ đêm ngày 22 tháng1 là điểm E tọa độ 16 độ 17’ Bắc và 110 độ 58’ Đông. Ngoài ra cũng theo bài viết thì chính HQ Trung Tá Lê Thành Uyển đã thiết lập khu vực tìm kiếm cho các chiến hạm và phi cơ. Phần dẫn chứng: Trong bài viết “On January 19, 1974 Xisha naval battle detailed solution” tác giả TC đã diển tả về chiếc 389 như sau:”….chiếc 389 bị trúng đạn nước tràn vào trong hầm đạn dược…..ngoài ra 5 binh sĩ cũng hy sinh trong lúc sửa lại máy phát điện. Tất cả thủy thủ chiếc 389 chiến đấu một cách dũng cảm ném từng quả lựu đạn, xử dụng súng tiểu liên, súng bazooka bắn qua chiếc HQ10 gần sát đó. Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh trong trận chiến xáp lá cà này. Lúc bấy giờ chiếc HQ 16 trở lại giao chiến với chiếc 389 để tiếp cứu chiếc HQ10 đang cháy bừng bừng. Đại Úy Nguyễn (ám chỉ Nguyễn Thành Trí) trên chiếc HQ10 thay thế Thiếu Tá Thà đã hy sinh, dốc toàn lực định húc ngay phía sau chiếc 389 thì chiếc 396 đến kịp để cản trở chiếc HQ 16 yễm trợ cho chiếc 389 thoát hiểm……………. 12 giờ 12 phút, phân đội 74 nhận lịnh công kích, chiến hạm 281 bắn xối xả lên chiến hạm Nhật Tảo, tuy thủy thủ đoàn chiến hạm Nhật Tảo chống trả mãnh liệt, đến 14 giờ 52 phút chiến hạm Nhật Tảo chìm tại địa điểm phía Nam bãi Ninh Dương (bãi đá Hải Sâm – Antelope reef) cách 2,5 cây số”. Ngoài ra bài này đã viết về chiếc 389 sau khi bị HQ10 đụng vào phía sau lái: ”… chiến hạm số 389 của ta có hơn 10 người chết, đã bị chiến hạm VNCH bắn trúng nhiều lần và bị thiệt hại rất nặng. Khi chiếc 396 chạy đến cứu, hầm máy chiếc 389 đã bị phát nổ, lửa đang cháy lớn, tàu có thể bị chìm bất cứ lúc nào. Hai chiếc tàu đánh cá số 402 và 407 cũng đang bị tấn công nhưng đã cố sức chạy đến cứu và cuối cùng đã thành công đưa chiếc 389 ủi vào bãi. Ba chiến hạm khác của ta tất cả đều hư hại, chiếc 274 bị thiệt hại rất nặng phải rởi khỏi vùng trở về đảo Phú Lâm, tại đây chiếc này đã được sửa chửa và đã trở lại căn cứ hải quân Yulin ngày hôm sau”. Có thể nói một phần trong bài này đã được phía TC viết gần đúng sự thật. Đoạn viết này đã cho thấy vài sự kiện rất quan trọng và từ đó sau khi kiểm chứng và tổng hợp với các tài liệu từ phiá VNCH ta có thể làm sáng tỏ 1 vài sự kiện mà từ trước đến nay chưa giải thích được, ngay cả các nhân chứng còn sống sót trên HQ10 cũng không biết về các hành động rất dũng cảm và rất oai hùng của các chiến sĩ trên HQ10. - Điểm thứ nhất bài viết đã xác nhận là chiếc 389 đã tiến sát vào HQ10 qua việc chúng ném lựu đạn, bắn súng tiểu liên. - Điểm thứ 2 là vì tiến vào quá gần nên chúng đã quan sát thấy HT Ngụy Văn Thà đã tử trận. - Điểm thứ 3 là vì ở quá gần nên chúng đã quan sát thấy HP Nguyễn Thành Trí dốc toàn lực định húc ngay phiá sau chiếc 389. - Điểm thứ 4 là chúng đã công nhận khi 281 và 282 nhập vùng tác xạ vào HQ10 thủy thủ đoàn trên HQ10 đã chống trả mãnh liệt, điều này chứng tỏ là 2 chiến sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu đã can trường liều chết tử thủ, chống trả dữ dội khiến chúng không dám xáp lại gần, vì thế phải mất gần 2 tiếng đồng hồ, chúng mới đánh chìm HQ10. Bài viết của TC dĩ nhiên là không hoàn toàn đúng sự thật vì không có can đảm viết rõ là HQ10 do chính Đại Úy Trí điều khiển đã đâm mạnh vào phần lái tả hạm và đã gây nên tổn thất nặng nề cho chiếc 389. Nếu 389 không bị đụng thì tại sao chúng lại bỏ cơ hội hiếm có để đổ bộ lên chiếm đoạt HQ10 và tại sao tàu lại bị nghiêng và phần lái bị chìm xuống. Tại sao 2 tàu đánh cá 402 và 407 phải chạy đến để tiếp cứu? (hình chụp chiếc 389 trích trong www.military.china.com) Tài liệu “On January 19, 1974 Xisha defended the war” trong phần tổng kết thiệt hại về phía TC có viết là chiếc 389 bị tổn thất nặng nề và 2 tàu đánh cá 402, 407 từ các vị trí ẩn núp an toàn lúc xảy ra trận hải chiến đã chờ cho đến khi các chiến hạm ta rút ra khỏi vòng chiến chúng mới dám chạy đến yểm trợ để đưa 389 ủi vào bãi san hô tránh chìm, nếu không chiếc 389 sẽ chịu chung số phận như HQ10. Đoạn viết này không nói đến 396 lại yểm trợ cho 389 chứng tỏ là 396 cũng đang bị thiệt hại nặng phải tự cứu. Ngoài ra khi 281 và 282 đến nơi hầu hết các chiến sĩ trên HQ10 còn sống sót đang ở trên các bè đào thoát, TC đã biết rõ điều này nhưng trong bài viết chúng cho là “thủy thủ đoàn” HQ10 chống trả mãnh liệt để tô đậm thành tích đánh chìm HQ 10 của chúng. Về việc HQ 10 đụng mạnh vào tàu TC, một số bài viết về phía VNCH như Hải Chiến Hoàng Sa của HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê đăng trong HSTT và bài viết Lần đào thoát ở Hoàng Sa của HQ Tr/U Nguyễn Đông Mai (6) cho là chiếc 396 của TC đụng vào HQ10, nhưng dựa theo các tài liệu TC thì đây là chiếc 389 trùng hợp với Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San & Trần Đỗ Cẩm. Hà Đăng Ngân trong Hoàng Sa và HQ10 (7) viết:”…Vài phút sau mục tiêu 2 cũng bốc khói, mục tiêu 1 tuy còn chút khói bốc lên, chạy trở vào gần HQ10, bắn trả lại HQ10 và HQ10 bắt đầu trúng đạn của tàu Trung Quốc…”. Tuy không nhớ rõ số của mục tiêu 1 và mục tiêu 2, nhưng qua bài viết của TC ta có thể suy ra mục tiêu 1 là chiếc 389 và mục tiêu 2 là chiếc 396. Các bài viết của các SQ và nhân viên còn sống sót trên HQ10 đã xác nhận sự kiện một chiến hạm TC đụng vào HQ 10 và ý định của chúng định cặp vào đổ bộ lính qua HQ10 mặc dù con số chiến hạm có khác đi. HQ Tr/Úy Nguyễn Đông Mai trong bài ‘Lần đào thoát ở Hoàng Sa’ đã viết:”..chiếc 396 như tiến lại gần tôi hơn từ phía lái…rồi chừng 15 phút sau, một tiếng va chạm mạnh làm chúng tôi té nhào trên sân tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vùng này có nhiều san hô. Sau này khi đào thoát tôi mới biết HQ10 đâm vào tả hạm chiếc 396.” HQ Ch/Úy Tất Ngưu (8) đã cho thấy một sự kiện hiển nhiên là chiến hạm của chúng tiến vào quá gần và các chiến sĩ trên HQ10 có cảm tưởng là chúng sẽ cặp vào để đưa lính sang chiếm tàu, bài ‘Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót’ đã viết:"…Có giọng nói giữa đám anh em đang hỗn loạn: ”tàu TC đổ bộ, anh em cẩn thận”. Một loạt đạn M16 túa bay ra từ đài chỉ huy. Nhìn phía trước, tôi thấy mũi tàu của ta đâm vào tàu địch. Thế rồi hai tàu từ từ dang ra. Tàu ta bất khiển dụng cả hai máy chánh, cứ vậy mà trôi lênh đênh. Sau khi hai chiếc tàu đụng nhau, tiếng súng lớn dường như im bặt, chỉ còn nghe những tiếng súng nhỏ. Giai đoạn hải chiến hình như chấm dứt." Hạ Sĩ Trọng Pháo Vương Văn Hà (9) qua bài “Người về từ Hoàng Sa” cũng xác nhận cú đụng này: ”… HQ10 bị bất khiển dụng khiến cho tàu địch đã bị bắn ở phía tả hạm đụng vào tàu chúng tôi.” HSTT cũng viết: ” …….tuy chiến hạm đang cháy nhưng vẫn tiến từ từ, sau đó ngừng lại khi đụng vào lái tàu địch 396….” Các bài viết trích dẫn ở trên đã xác nhận sự việc HQ10 và chiếc 389 đụng vào nhau, nhưng vì lúc bấy giờ trên ĐCH và phòng lái không còn ai sống sót, ngoại trừ HP Nguyễn Thành Trí do đó không ai biết được lý do chính xác và nếu không nhờ những chi tiết từ bài viết của TC, chiến công oanh liệt và oai hùng của HP Nguyễn Thành Trí sẽ không được biết đến. Qua các dẫn chứng trên đã chứng minh một sự thật hiển nhiên là HQ10 và chiếc 389 không phải vì đã: ”…trôi nổi không kiểm soát được trên mặt biển, đã đụng vào nhau” như trong Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa đã viết mà cú đụng này là do chủ ý của Đại Úy Trí đã đơn độc vận chuyển chiến hạm liều chết hy sinh cả chiến hạm và mạng sống đâm mạnh vào phần lái tàu địch. Chiếc 389 có lẽ không ngờ được là trên đài chỉ huy còn Đ/U Trí vì thế chúng không thể nào tránh né được cú đụng này và có lẽ chúng đã quan sát một cách rõ ràng những diển tiến trên ĐCH nên trong bài viết chúng đã nêu rõ là Đ/U Trí “dốc toàn lực định húc vào tàu chúng”. Dựa theo bài viết trên thì sự thiệt hại nhân mạng về phía TC trong trận hải chiến HS là 18 người chết và 67 người bị thương (chưa được kiểm chứng) trong số đó chiếc 389 trực chiến với HQ10 có số thương vong cao nhất là 10 người chết, như vậy đã chứng tỏ mức độ giao chiến rất khốc liệt giữa HQ10 và 389. Tuy dáng người vạm vỡ, nhưng với vết thương quá nặng có lẽ HP Nguyễn Thành Trí biết là mình sẽ không thể nào sống sót được lâu, nên sau khi tất cả nhân viên đã xuống bè Ông quyết định ở lại chết với chiến hạm, nhưng các nhân viên đã bắt buộc Ông phải xuống bè với họ. Việc Đ/U Trí quyết định ở lại tàu có 2 tài liệu viết trong khoảng thời gian ngắn sau biến cố HS đã chứng minh một cách rõ rệt. Tài liệu “Đêm Xuân trên vùng biển chết” của tác giả Thanh Chương trong Lướt Sóng đã viết: ”Người đã bị thương nhiều nhưng quyết ở lại cùng HT… …Một nhân viên đã phải vực Người nhẩy xuống cùng bè với tôi, bè cấp cứu sau cùng rời chiến hạm.” Tài liệu của tác giả ẩn danh viết: ”…. Hạ Sĩ Trọng Pháo Trần Ngọc Sơn và Thủy thủ Thám Sát Trương Văn Long, 2 người này đã cặp Đ/U Hạm Phó và lôi xuống bè.” (2) Dựa trên tài liệu của TC/CTCT thì: ”Chiến hạm cùng thủy thủ đoàn gồm 82 người đã bị mất liên lạc”, như vậy số quân nhân chết theo chiến hạm là 54 người. Tuy nhiên theo TTHS thì số quân nhân chết theo chiến hạm là 55 người. (6) Tài liệu của TC/CTCT viết: ”…thương thuyền Kopionella quốc tịch Hòa Lan đã vớt được 23 thủy thủ của Hộ tống hạm HQ10……Trong số này có 2 quân nhân bị tử thương ( gồm có 1 Đại Úy Hạm Phó)”… Chi tiết này không đúng vì Đ/U Hạm Phó đã hy sinh trên bè đào thoát và tàu dầu Hòa Lan chỉ vớt được tổng cộng có 22 người. Đặc Tính Hộ Tống Hạm Nhật Tảo: Hộ Tống Hạm Nhật Tảo thuộc loại Admirable Class Minesweeper (AM) do hảng tàu Winslow Marine Railway and Shipbuilding Co ở Winslow tiểu bang Washington đóng. Chiến hạm được hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 1943 và được đăt tên là USS Serene (AM 300). Ngày 7 tháng 2 năm 1955 đổi thành loại Fleet Minesweeper MSF 300. Ngày 24 tháng 1 năm 1964 chuyển giao cho Hải Quân VNCH và được đặt tên là Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10. Trọng tải: 650 tấn (tiêu chuẩn) – 945 tấn (tối đa) Kích thước: dài 184,5 ft – ngang 33 ft - tầm nước 9,75 ft Máy chánh: 2 máy dầu cặn (Cooper Bessemer), 2 trục chân vịt, 1710 mã lực Vũ khí: - 1 khẩu đại bác 76,2 ly phía sân trước có tầm tối đa 14,000 yds, tầm hữu hiệu 7,500 yds, tác xạ với tốc độ nhanh 50 phát/phút, với tốc độ thích ứng 20 phát/phút. - 2 khẩu đại bác 40 ly (tả và hữu) phía sân sau có tầm tối đa 11,000 yds, tầm hữu hiệu 4,000 yds, tác xạ với tốc độ 140 phát/phút - 4 khẩu đại bác 20 ly đôi bao quanh phòng lái có tầm tối đa 4,800 yds, tầm hữu hiệu 2,000 yds, tác xạ với tốc độ 450 phát/phút - 2 khẩu đại liên 30 - có trang bị súng cối 81 ly (không rõ số lượng) - Vũ khí chống tàu ngầm: với nhiệm vụ tuần tiểu và hộ tống các dụng cụ rà mìn đã được tháo gỡ và thay vào đó là 2 dàn thủy lựu đạn (depth charge rack) đã được thiết trí ở phía sau lái, ngoài ra còn có 1 dàn phóng thủy lựu đạn hedgehog ở phía sân trước. Vận tốc: tối đa 14,5 knots, có tầm hoạt động 6,500 miles với vận tốc tiết kiệm là 8 knots Thủy thủ đoàn: 82 người Tài liệu dẫn chứng: - công điện với nhóm ngày giờ 190150Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 0950H) của Tư Lịnh Đệ 7 Hạm Đội Hoa Kỳ. - công điện với nhóm ngày giờ 190420Z JAN 74 (giờ Sài Gòn 1220H) của Tư Lịnh Không Quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương (Bấm vào đây xem tài liệu 2 công điện trên) - điện thư số 075995 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. - điện thư số 01000 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ (Bấm vào đây) - điện thư số 01006 ngày 22-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Sòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ - điện thư số 013552 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Văn Phòng Liên Lạc Hoa Kỳ ở Bắc Kinh - điện thư số 014042 ngày 22-1-1974 của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ gởi Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn - điện thư số 01026 ngày 23-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ - Hà Văn Ngạc “Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa” trong Tuyển Tập Hải Sử (TTHS) - Tổng Hội Hải Quân&Hàng Hải (THHQ&HH) ấn hành 2004 - Jane’s Fighting Ships - Lê Văn Thự “Sự thật về trận hải chiến Hoàng Sa” – Calitoday, March 08, 2004 - Liu Bingfeng “On January 19, 1974 Xisha defended the war” – Military.china.com - Nguyễn Thị Thanh Thảo: ”Tài liệu mới HQ10 – Hoàng Sa” (bấm vào đây) - Phạm Mạnh Khuê “Hành quân Trần Hưng Đạo 47” (TTHS-THHQ&HH 2004) - Thanh Chương “Đêm Xuân trên vùng biển chết”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa ,Cục Tâm Lý Chiến/K.CTCT/BTL/HQ ấn hành 2004 - The Vietnam Center and Archive (Vietnam.edu.ttu) – tài liệu về đặc tính chiến hạm thuộc Hạm Đội Hải Quân VNCH - Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị/Cục Tâm Lý Chiến “Thế giới lên án Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa của VNCH” ấn hành 1974 - Vũ Hữu San &Trần Đỗ Cẩm “Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa” ấn hành 2004 - Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com - Võ Sum “Nhật ký bên lề cuộc hải chiến Hoàng Sa”- Đặc san Lướt Sóng số đặc biệt Chiến thắng Hoàng Sa, Cục TLC/Khối CTCT/BTL/HQ ấn hành 1974 - Xisha naval battle detailed solution – Militarychina.com - (1) Theo lời thuật lại của chị Nguyễn Thành Trí trong lần đến thăm chị ở Sài Gòn vào tháng 10/2006. - (3) HQ Đại Úy Lê Văn Thự Trung Tâm Trưởng TTHQ/VIDH lúc xảy ra biến cố HS “Trận hải chiến Hoàng Sa và nước mắt của vị Tư Lịnh Hải Quân” phổ biến vào năm 1997 tại Yukon – Oklahoma (Câu nói này chính Đ/U Thự đã nghe nhân viên HQ10 trên cùng bè đào thoát với Đ/U Trí kể lại sau khi HQ6 đưa họ về Đà Nẵng) - (4) Phiếu Tường Trình Ủy Khúc số 121 ngày 16 tháng 2 năm 1974 của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội (Tài liệu do phu nhân cố HQ/Thiếu Tá Nguyễn Thành Trí cung cấp) - (5) điện thư số 0869 ngày 20-1-1974 của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn gởi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ. - (7) Nguyễn Đông Mai “Lần đào thoát ở Hoàng Sa” (TTHS-THHQ&HH 2004) - (8) Hà Đăng Ngân “ Hoàng Sa và HQ10” (bấm vào đây) - (9) Tất Ngưu “Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót” – (bấm vào đây) - (10) Vương Văn Hà “Người về từ Hoàng Sa” – TTHS-THHQ&HH, 2004 - (bấm vào đây) Nguồn: Web Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa
......

Tưởng niệm 74 anh hùng tử sĩ VNCH đã hy sinh nơi biển đảo Hoàng Sa

Nghệ An, 14h30 ngày 18/1/2015, anh em dân chủ Nghệ An cùng nhau ra biển Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An để tưởng niệm 74 chiến sĩ VNCH đã chiến đấu anh dũng bảo vệ chủ quyền biển đảo và hy sinh nơi biển đảo Hoàng Sa. Trong nước cũng như ở Hải ngoại người dân – đồng bào của các anh cùng một mẹ Việt Nam vô cùng đau xót đang nhỏ lệ xót thương nhớ về các anh chiến sĩ đủ mọi binh chủng của Quân lực VNCH đã anh dũng hi sinh cho Tổ Quốc Việt Nam thân yêu. Hòa chung giọt lệ đó, anh em Nghệ An chúng tôi cũng xin gửi sóng biển tới các anh lời cám ơn, sự tiếc thương sâu sắc nhất. Dù thời tiết giá lạnh, nhưng anh em chúng tôi kẻ xa, người gần cũng đã quay quần về nơi đây để thả về đó lẳng hoa lòng. Dù biết các chú công an có theo dõi nhưng các cựu tù nhân lương tâm: Trần Đức Thạch, Chu Mạnh Sơn, Nguyễn Xuân Anh và rất nhiều những thân nhân gia đình tù nhân lương tâm, các anh chị em yêu mến dân chủ tham dự buổi tưởng niệm long trọng. Trong bối cảnh chủ quyền biển đảo của đất nước hình chữ S bị xâm phạm từ nước láng giềng Trung Quốc, cần lắm sự đồng lòng của nhiều người. Ánh lửa nhỏ từ những ngọn nến nhỏ sẽ thành ngọn đuốc bừng cháy, rừng lửa chiến sẽ bừng cháy dữ dội và hừng hực. Nguồn: https://www.facebook.com/DJ.duyen?pnref=story
......

65 năm bang giao Trung-Việt !!!

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 211 (15-01-2015) Hôm 14-1, sứ quán Việt cộng bên Tàu đã tổ chức họp báo về việc kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt–Trung (18/1/1950-18/1/2015). Theo đại sứ Nguyễn Văn Thơ, đây là dịp quan trọng để hai nước nâng cao hơn nữa mối “quan hệ hữu nghị truyền thống” và “hợp tác chiến lược toàn diện”. Lý do: Trung Quốc vừa là láng giềng lớn, vừa là nước cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam!           Phản ảnh Cam kết hợp tác toàn diện tháng 2-2011, Nguyễn Văn Thơ nói: “Đảng, Chính phủ và nhân dân VN trước sau như một luôn xem trọng việc phát triển quan hệ mọi mặt với Trung Quốc, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu, nhất quán và lâu dài trong chính sách đối ngoại của VN”. Đại diện Hà Nội nêu rõ: hai nước cần (1) tăng cường các cuộc tiếp xúc, thăm viếng cấp cao cũng như giao lưu giữa các bộ ngành và địa phương, đặc biệt thế hệ trẻ, nhằm củng cố niềm tin chính trị và niềm tin chiến lược; (2) tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, sớm thành lập hai nhóm công tác về cơ sở hạ tầng và tiền tệ; (3) tiếp tục giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lợi ích song phương và luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); (4) tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa hai dân tộc, nhất là cho giới trẻ”. (Theo Thông tấn xã VN 14-01-2015). Thiệt là trong lịch sử bang giao giữa các quốc gia và dân tộc tự cổ chí kim, từ đông sang tây, nhất là trong mấy ngàn năm Việt sử, chưa hề có mối quan hệ thắm thiết, sâu sắc, toàn diện như vậy!?!           Để chuẩn bị cho tinh thần này, ngày 27-12-2014, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ/VN -Nguyễn Thiện Nhân- và Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị TQ -Du Chính Thanh- đã cùng khai trương "Học viện Khổng Tử", một cơ quan tuyên truyền cho Tàu cộng. Sau đó, tại “hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015” ngày 29-12, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã khẳng định: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.           Nhân kỷ niệm 65 năm bang giao Trung-Việt, hãy thử nhìn lại mối quan hệ giữa hai lân bang này, mà đúng hơn là giữa hai cộng đảng. Một mối quan hệ luôn thể hiện trong ý đồ xâm lăng, kiểu cách “cá lớn nuốt cá bé” như từng chứng kiến trong lịch sử các quốc gia CS: Nga đối với các tiểu quốc Liên bang Xô viết, Liên Xô đối với các nước Đông Âu, và Tàu cộng đối với các nước châu Á cộng sản.           Ngày 13-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao VN, Hoàng Minh Giám, rồi ngày 18-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao TQ, Chu Ân Lai thay mặt chính phủ hai nước gửi công hàm công nhận lẫn nhau và đề nghị thiết lập quan hệ, từ đó ngày 18-1 được coi là ngày kỷ niệm chung. Nhưng cũng chính từ hôm này, mộng xâm lăng bành trướng muôn thuở của Đại Hán “tiến lên một tầm cao mới”. Lợi dụng sự viện trợ quân sự to lớn để giúp Hà Nội đánh Pháp rồi đánh Mỹ, mà thực chất là đánh phe quốc gia và chế độ tư bản, lợi dụng lòng tin tưởng mù quáng của Hồ Chí Minh và đảng Việt cộng vào tình đồng chí vô sản (hay là niềm tín thác sáng suốt của tên Tàu đội lốt Việt Hồ Tập Chương), lợi dụng sự ngu dốt về lịch sử chống giặc của tiền nhân và sự coi thường khí phách kháng Tàu của dân tộc, Mao Trạch Đông đã phá vỡ Ải Nam Quan, tiền đồn chốt chặn ngàn đời của nước Việt để không những đem lực lượng quân sự mà cả lực lượng chính trị, kinh tế, văn hóa ngõ hầu xâm lược Việt Nam, biến nó lại thành An Nam, và xa hơn là thành tỉnh Âu Lạc.           Bước xâm lược đầu tiên thể hiện qua cuộc Cải cách ruộng đất tiến hành theo đường lối Tàu và dưới sự chỉ đạo của Tàu, vừa nhằm tước đoạt đất đai cho cộng đảng, vừa nhằm phá vỡ cơ cấu xã hội và đạo đức dân tộc, vừa nhắm làm kiệt quệ kinh tế của Hà Nội để phải nhận sự viện trợ của Bắc Kinh trong cuộc chiến mở xuống phía Nam chủ nghĩa CS. Tiếp đến là thể hiện qua cuộc Trăm hoa đua nở theo tinh thần “Bách gia tranh minh” của Trung Nam Hải, vừa nhằm mục đích cải biến trí thức thành “cục phân” (vì mù quáng thần phục đảng) vừa nhằm mục đích tiêu diệt văn hóa Việt để văn hóa Tàu dễ tràn vào.           Cuộc thống trị kiểu “cá lớn nuốt cá bé” tiến thêm một bước với công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 nhằm tước bỏ chủ quyền nước Việt trên Hoàng Sa lẫn Trường Sa để giao cho kẻ ngoại thù mà cả mấy ngàn năm, biên giới phía Nam chỉ đến Hải Nam đảo. Giao cho chúng ngõ hầu được chúng viện trợ quân trang, quân dụng và cả quân đội để tàn phá chính đất nước của Tổ tiên (“dẫu đốt cả dãy Trường Sơn” như HCM từng nói), tàn sát chính đồng bào cùng huyết tộc (“đánh Mỹ cho tới người Việt cuối cùng vì Trung Quốc” như Lê Duẩn từng khẳng định). Cuộc chiến tranh tương tàn càng kéo dài bao lâu thì cuộc xâm lăng của Trung Nam Hải càng tiến sâu chừng ấy.           Đến năm 1974, khi Tàu cộng ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa của đất nước, phá vỡ cuộc kháng cự anh dũng của VNCH, vào chính ngày kỷ niệm bang giao Trung-Việt (18-01), thì như để đánh dấu tình hữu nghị răng môi, tình đồng chí vô sản, Hà Nội hí hửng tuyên bố: “Thà để Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hơn là thuộc Ngụy Sài Gòn. Bạn giữ cho ta rồi có ngày sẽ trao lại”?!? Xâm lăng VNCH xong, Hà Nội bắt đầu bị Bắc Kinh đòi nợ chiến phí. Khốn nạn một điều là Trung Nam Hải không đòi tiền (mà có đòi thì Ba Đình chẳng biết lấy đâu đủ để trả) cho bằng đòi dâng đất, một điều mà vua chúa Việt chưa từng làm trong lịch sử, thậm chí còn cấm đoán với lời răn đe tru di tam tộc (Trần Nhân Tông). Nhưng Việt cộng thì cần gì biết tinh thần lẫn giáo huấn đó, nên năm 1988, lúc Tàu cộng chiếm thêm Gạc Mathuộc Trường Sa quần đảo, chính tên bộ trưởng quốc phòng thân Tàu là Lê Đức Anh đã cấm binh sĩ kháng cự, coi chúng như kẻ thù, thậm chí Bộ Chính trị sau đó còn cấm loan tin (rồi sẽ nhiều lần cấm tưởng niệm), khiến cho 64 chiến sĩ hải quân mãi mãi là những oan hồn tức tưởi vì bị hy sinh cho thứ tình hữu nghị không ai hiểu nổi!           Sau khi mất chỗ dựa vật chất và tinh thần từ anh cả Liên Xô và khối Đông Âu cộng sản, Hà Nội lại chạy sang Bắc Kinh mà mình từng coi là kẻ thù kể từ cuộc chiến biên giới 1979, để khấu đầu tạ tội, tái nhận giặc làm cha, xin nối lại mối bang giao, tình hữu nghị (1990). Thế là Tàu cộng lợi dụng cơ hội để biến quan hệ đồng chí anh em thành quan hệ chủ tớ, đại quốc chư hầu. Tại Hội nghị Thành Đô, các tên cáo già Giang Trạch Dân và Lý Bằng đã ra oai trước những chú cừu non Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và biến ba tên này thành đám đồng lõa, tay sai cho cuộc xâm lấn ngày càng sâu rộng, tặng cho Hà Nội vòng kim cô 16 chữ vàng ngày càng siết chặt đầu dân Việt và bảng mật ước ghê gớm ngày càng ngoạm dần đất Việt (xem dưới).           Và đó là Hiệp ước phân định biên giới năm 1999 nuốt trọn Ải Nam Quan, 2/3 thác Bản Giốc, gần 1000 km2 đất liền; Hiệp ước phân định lãnh hải năm 2000 triều cống cho Tàu trên dưới 10.000 km2 vịnh Bắc bộ; Tuyên bố Việt-Trung năm 2001 rồi 2008 (do Nông Đức Mạnh) cho Tàu cộng vào yếu huyệt Tây Nguyên di dân, ém quân, cấy người qua vỏ bọc khai thác bauxite. Tuyên bố tai hại này được Nguyễn Tấn Dũng biến thành hiện thực qua Quyết định số 167 ngày 01-11-2007, cho phép các nhà thầu TQ thực hiện dự án kéo dài từ 2007 đến 2025. Và đó là việc để cho thường dân Tàu đi vào VN sinh sống, lập làng xã, xây phố thị từ Nam chí Bắc; để cho thương lái Tàu đi vào VN lường gạt nông dân, phá hoại nông nghiệp khắp nơi mọi chốn; cho chuyên gia Tàu đi vào VN trúng thầu đến 90% các công trình xây dựng cơ bản (đường, điện); cho doanh nhân Tàu thao túng nền kinh tế tụt hậu và giết chết các công ty xí nghiệp èo uột của dân Việt.           Trên mặt chính trị và văn hóa, Tàu cộng không ngừng khống chế Việt cộng, lèo lái Bộ chính trị, xâm nhập Trung ương đảng để thảo ra Cam kết hợp tác toàn diện tháng 2-2011; đẻ ra nhiều kế hoạch làm lợi kẻ thù như cho Tàu cộng thuê mấy trăm ngàn hecta rừng quốc phòng, nhiều vị trí chiến lược như Vũng Áng, Cửa Việt, Hải Vân, Cam Ranh; tạo ra nhiều nội ứng cho giặc như phó thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung Hải; tung ra những đòn tàn bạo trấn áp các cuộc xuống đường chống Tàu, những đòn bắt bớ kết tội các công dân lên tiếng tố Tàu; soạn ra những sách vở, tài liệu làm nhân dân quên đi hiểm họa Tàu trong quá khứ lẫn hiện tại; và gần đây nhất là lập ra viện Khổng Tử (đang lúc trên thế giới ngày càng xóa sổ nó) để tuyên truyền cho chính sách Tàu.           Để kết luận về những gì được mất sau 65 năm bang giao Trung-Việt, tưởng không có gì hơn là nhắc đến bài viết mới đây của đại tá Phạm Quế Dương, "VN sẽ là Quốc gia tự trị hay là một tỉnh của TQ?”. Trong bài này, vị sĩ quan phản tỉnh viết: theo tài liệu được tiết lộ bởi Thiếu tướng Hà Thành Châu, Chính ủy Tổng cục công nghiệp Quốc phòng, tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 08-4-2013, phải chăng tại cuộc họp tại Thành Đô năm 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khấu đầu trước Đặng Tiểu Bình: “Nhờ TQ mà Đảng CSVN mới nắm được chính quyền, mới thắng được đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn TQ to lắm, bốn biển gộp lại cũng không bằng. Do thế, nhà nước VN đề nghị TQ bỏ qua hiểu lầm, xóa bỏ các bất đồng đã qua. Phía VN sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chủ tịch dày công xây dựng trong quá khứ. VN sẽ tuân thủ đề nghị của TQ là cho VN được hưởng “Quy chế tự trị trực thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như TQ từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng,Tân Cương, Quảng Tây”. Phải chăng có kế hoạch sáp nhập VN vào TQ  dự kiến qua ba giai đoạn : Giai đoạn 1: 15-7-2020: Quốc gia tự trị; Giai đoạn 2: 05-7-2040: Quốc gia thuộc trị; Giai đoạn 3: 05-7-2060: Tỉnh Âu Lạc.           Phải chăng đó sẽ là thành quả bang giao Trung-Việt được làm nên bởi những kẻ cũng da vàng máu đỏ, cũng con Hồng cháu Lạc, nhưng chưa bao giờ có ý thức quốc gia, tự hào dân tộc và tình nghĩa đồng bào? Hỡi quốc dân đất Việt, còn đợi gì nữa?           BAN BIÊN TẬP  
......

BÁO CÁO SƠ KẾT tình hình dư luận liên quan blog Chân dung quyền lực

Tác giả báo cáo: Phạm Chí Dũng Đơn vị: XXX Số:….. Kính gửi:         Thủ trưởng đơn vị Thực hiện chỉ đạo của Thủ trưởng đơn vị XXX, trong thời gian qua nhóm công tác đã tiến hành khảo sát, điều tra dư luận xã hội liên quan đến hoạt động viết bài, phát tán thông tin và những tác hại về chính trị - xã hội của blog Chân dung quyền lực (CDQL). Dưới đây nhóm công tác xin báo cáo một số tình hình và đề xuất. 1. Tình hình chung: Đầu năm 2014, trước khi Hội nghị trung ương 10 của Đảng diễn ra, thông tin công kích lãnh đạo Đảng vả nhà nước ta lại tràn ngập trên mạng Internet. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các đồng chí khác trong Bộ chính trị đã phải nhắc lại yêu cầu phải phòng ngừa, ngăn chặn những thông tin xấu trên mạng xã hội và các thế lực phản động nhằm gây chia rẽ nội bộ Đảng và nhà nước ta. Thực tế diễn biến thông tin đả kích, xuyên tạc nội bộ đã diễn ra mạnh mẽ từ giữa năm 2012, khi Đảng ta đang đẩy mạnh thực hiện nghị quyết Trung ương 4 về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng. Vào thời gian đó, dư luận cán bộ đảng viên và người dân xôn xao trước hiện tượng hàng loạt trang mạng như Quan làm báo, Vua làm báo liên tiếp tung ra các thông tin liên quan đến nhiều chính sách kinh tế vĩ mô, vấn đề ngân hàng, tài chính và đả kích nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước nên đã tạo ra dư luận xã hội tiêu cực, gây hoang mang, lo lắng, khiến suy giảm niềm tin của một bộ phận lớn cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Mâu thuẫn trọng tâm mà các trang này khai thác là mối quan hệ bị xem là “đối đầu” giữa hai đổng chí Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, lại xuất hiện nhiều dư luận cho rằng các trang Quan làm báo, Vua làm báo được “bảo kê” bởi lãnh đạo cấp cao nên không bị ngành công an truy xét điều tra. Thực tế cho tới nay những trang này vẫn tồn tại và được truy cập khá dễ dàng. Tình hình này dẫn đến việc một số cán bộ đảng viên khẳng định rằng chắc chắn các trang Quan làm báo, Vua làm báo có “bức tường” phía sau nên mới không bị phá. Sang năm 2013, khi các trang “làm báo” đã kém dần sức hút thì lại rộ lên một trang mạng khác nói xấu một lãnh đạo cấp cao của Nhà nước. Ban đầu, trang mạng này có tên là Tư Sang nham hiểm. Sau đó chuyển thành Những thằng nham hiểm, và đến nay là Chân dung quyền lực. Nếu năm 2011, trang mạng CDQL mới có 3 bài, năm 2012 có 9 bài, năm 2013 có 10 bài, thì năm 2014 đã tăng vọt lên 81 bài. Riêng tháng 11/2014 có 20 bài và tháng 12/2014 có 27 bài. Trước Hội nghị trung ương 10 khai mạc vào ngày 5/1/2015 và cho đến nay, blog CDQL đã có hàng chục bài viết công kích, đả kích lãnh đạo. Có thể thấy, blog này được chuẩn bị từ khá lâu và chỉ tung ra khi cần thiết. 2. Nội dung thông tin của blog Chân dung quyền lực: Điểm chung của hầu hết các thông tin mà trang CDQL tung ra đều tạo cho người đọc cảm giác mờ ảo về tính xác thực. Đặc biệt những thông tin này được được lan truyền và tiếp tay của các trang mạng khác, cùng một lúc đăng tải liên tục khiến người đọc bị tung hỏa mù không có thời gian để tranh luận, phân biệt đúng sai, phải trái. Cứ trước kỳ họp Trung ương nào có liên quan đến nhân sự là những tin đồn về hậu trường chính trị lại được lan truyền, đề cập việc đang có một cuộc đấu đá trong nội bộ lãnh đạo cấp cao Việt Nam. Nếu như lần trước, hai blog Quan làm báo và Tư Sang nham hiểm tung nhiều tin tức thuộc loại “thâm cung bí sử” gây hoang mang trong nội bộ, thì nay blog CDQL với loạt những câu chuyện về “âm mưu cung đình” lại gây chấn động lớn. Nhìn cách bố cục, trang CDQL được sắp xếp khá mạch lạc, rõ ràng. Nội dung chủ yếu tập trung công kích một số nhân vật trong Bộ Chính trị, là nhân tố quan trọng lãnh đạo đất nước trong thời gian tới, như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh. Rất nhiều bài viết nhắm vào Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và bệnh tình của Trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh. Liên quan đến đời tư của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, trang CDQL có một seri bài viết bài với nhiều thông tin rất chi tiết về tài sản cá nhân, kèm theo hình ảnh dẫn chứng. Tất nhiên dư luận không thể có điều kiện để kiểm chứng tính xác thực của các thông tin mà trang này đưa ra. Đặc biệt, trang này còn tung tin rằng chính Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã hãm hại đồng chí Nguyễn Bá Thanh bằng cách nhờ tình báo Trung Quốc đầu độc nhân chuyến thăm Trung Quốc của đồng chí Thanh. Không những thế, trang này còn đưa tin về bệnh tình của đồng chí Thanh rằng ông Thanh không thể qua khỏi và sẽ trở về Việt Nam. Những thông tin này lan truyền trên mạng đã làm nháo nhác cả Đà Nẵng, các phóng viên báo đài ồ ạt đổ về sân bay Đà Nẵng đợi tin tức chuyến bay, còn người dân Đà Nẵng thì lên chùa cầu an cho đồng chí Nguyễn Bá Thanh… Trang CDQL cũng tung tin khẳng định là ngày 6/1/2014 đồng chí Nguyễn Bá Thanh sẽ được gia đình đưa về nước. Rất đáng chú ý là tin tức tưởng như đồn nhảm này ngay sau đó lại được rất nhiều tờ báo nhà nước xác nhận là đúng. Sau đó, CDQL tiếp tục thông báo về chuyến về ngày 6/1 bị hủy do thời tiết xấu, và thông báo tiếp lịch về mới là tối ngày 9/1. Đến sáng ngày 9/1, Ban bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã xác nhận lịch về của đồng chí Nguyễn Bá Thanh đúng là tối ngày 9/1, sau đó báo chí nhà nước đồng loạt đưa tin này. Tuy nhiên, blog CDQL lại hầu như không đề cập hoặc công kích một số nhân vật khác trong Bộ chính trị. Sự phân hóa về mục tiêu và đối tượng như vậy đã gây thắc mắc lớn cho người đọc và gây bức xúc lớn trong cán bộ đảng viên.     3. Phản ứng của mạng xã hội với blog CDQL: Cũng như hiện tượng trang Quan làm báo, blog CDQL đã lôi kéo bình luận của nhiều trang mạng xã hội và các blogger “lề trái”. Blogger Huỳnh Ngọc Chênh – một đối tượng là nhà báo có tư tưởng tự do, bất đồng quan điểm và quá khích, sống tại TP. Hồ Chí Minh, thì bình luận: “Bây giờ thì ắt hẳn mọi người có thể xác quyết được rằng các "ngài" đang chém giết nhau chí tử, đang ném cứt đái vào mặt nhau, đang lấy mặt đít nồi nầy quẹt lên mặt đít nồi kia”. Đáng lo ngại không kém là nhiều tác giả trên mạng xã hội nghiêng về suy diễn: “Nếu tầm cỡ như các ông bà bí thư thành ủy Đà Nẵng, phó chủ tịch quốc hội, thứ trưởng bộ Y Tế, Trưởng ban bảo vệ sức khỏe cán bộ trung ương... cũng không hề có thông tin gì về tình trạng sức khỏe của ông Thanh, thì những người biết được tình trạng thật sự của ông Thanh phải ở cấp bực cao nhất của đảng, đó là Bộ chính trị. Thế mà trang CDQL lại biết đến từng chi tiết, biết ông Thanh bị bệnh do nhiễm phóng xạ, biết ông chữa bệnh tại đâu, phẫu thuật bao nhiêu lần, bác sĩ nào trực tiếp điều trị, tình hình sức khỏe đã trở nên nguy kịch ra sao, bệnh viện Mỹ cũng bó tay, phải đưa về quê nhà, đưa bằng máy bay gì, giờ giấc, ai đi theo... Như vậy, thông tin mà CDQL có phải được cung cấp từ một hoặc những nhân vật rất cao cấp…”. Một nguồn dư luận khác đánh giá và phân tích: “Có thể nói đây là sự thành công của người đứng sau trang blog CDQL, thông qua việc đưa người đọc vào trong một mê trận thông tin thực - hư, hư - thực với vô vàn các bằng chứng bằng hình ảnh, tài liệu (scan)... có độ khả tín cao. Đặc biệt những tài liệu và hình ảnh đó không phải dễ mà có được, nếu những người cung cấp thông tin không phải là tay chân của người có quyền lực rất to. Mà người đó phải là người có thể ra lệnh cho các nhà mạng không dùng tường lửa để chặn trang blog độc hại này, trái lại việc truy cập trang blog CDQL ở Việt Nam lúc này hoàn toàn dễ dàng và thoải mái. Được biết trang blog này thường xuyên có 5-6.000 người truy cập cùng một lúc và lúc cao điểm có tới 13.500 người cùng truy cập một thời điểm. Số lượt truy cập một ngày của trang blog này tới 4-500.000 lượt ngày”. Một tác giả hải ngoại là Ngô Đình Thu nêu ra suy diễn hết sức nguy hiểm: “Trong tất cả các diễn biến vừa qua, có lẽ điều làm rúng động đến gan ruột các thành viên Bộ chính trị hiện nay cũng như các ứng viên đang muốn vào hàng thượng tầng lãnh đạo là: Ai trong số họ cũng có thể là một Nguyễn Bá Thanh kế tiếp”. Cùng với sự kiện blog CDQL, một số đài báo nước ngoài không có thiện cảm với Nhà nước Việt Nam đã a dua đưa phát tin bài với nhiều kiểu suy diễn. Số này bao gồm các đài RFA Việt ngữ (thuộc Quốc hội Hoa Kỳ), BBC Việt ngữ (Anh), RFI Việt ngữ (Bộ Ngoại giao Pháp) (ngoài ra có thêm đài VOA Việt ngữ thuộc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, nhưng do chính sách linh hoạt tranh thủ ngoại giao và kinh tế của Nhà nước Việt Nam đối với Hoa Kỳ nên báo cáo này kiến nghị không đặt nặng tính phê phán). Ngoài ra, một số hãng tin quốc tế như AFP cũng tham gia bình luận và còn đặt nghi vấn về việc đồng chí Nguyễn Bá Thanh có bị đầu độc hay không. Bên cạnh đó, hàng loạt trang báo điện tử khác cũng nhân dịp này giễu cợt, chỉ trích nội bộ Đảng và nhà nước ta như Dân Làm Báo, Dân Luận, Thông tấn xã Vàng Anh, Người Việt, SBTN, Việt Nam Thời Báo… 4. Tác động của blog CDQL đối với báo chí và nội bộ: Đây là tác động có tính ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của trang CDQL đối với báo chí nhà nước và tâm lý cán bộ đảng viên. Nếu như trước đây chưa bao giờ báo chí chính thống trích dẫn Quan Làm Báo và Tư Sang nham hiểm như một nguồn tin đáng tin cậy, thì lần này CDQL không những được trích dẫn về nội dung (tuy không dẫn nguồn cụ thể), mà báo chí chính thống còn theo sau trang này để cập nhật những thông tin mà nó loan tải. Các tờ báo lớn, trước tiên là Lao Động, rồi lần lượt được các báo khác đăng lại tin tức về đồng chí Nguyễn Bá Thanh sẽ được mang về Việt Nam từ bệnh viện ung thư tại Seattle. Những tin tức này trước tiên được chính UBND thành phố Đà Nẵng gián tiếp xác nhận khi ra lệnh cho an ninh phi trường Đà Nẵng chuẩn bị biện pháp an ninh để đón ông Thanh trở về để tiếp tục chữa bệnh. Sau Lao Động, đến Thanh Niên, Tuổi Trẻ và nhiều báo khác loan tin này nhưng không dẫn nguồn bất cứ cơ quan nào trong nước, kể cả Ban Nội chính trung ương là nơi có thẩm quyền phát ngôn, mà chỉ nói bâng quơ là theo nguồn tin trên mạng. Thời điểm máy bay hạ cánh được báo chí và người dân đặc biệt quan tâm. Ban đầu được CDQL thông báo là chiều ngày 2/1, nhưng sau đó chính trang này cho biết do có trục trặc nên hoãn lại ngày 6/1, và cuối cùng là thời tiết xấu nên hoãn lại lần nữa chiếc chuyên cơ y tế chở đồng chí Nguyễn Bá Thanh và gia đình sẽ đáp xuống phi trường Đà Nẵng vào 8 giờ 30 tối ngày 9/1. Nhiều cán bộ về hưu, đảng viên và cả cán bộ đương chức phản ánh: CDQL nói tới đâu báo chí và dân chúng chạy “rần rần” theo đến đấy. Người dân Đà Nẵng yêu mến ông Thanh ra sân bay ngồi chờ đón ông, không chịu ra về. Có người còn nói thẳng rằng theo CDQL nói thì ông Thanh sẽ xuống vào ngày hôm nay, rồi người khác nói bộ không thấy báo nhà nước đều đăng tin theo nó hay sao? Trước tình trạng hỗn loạn thông tin trên, đồng chí Phùng Quang Thanh – Bộ trưởng quốc phòng – cũng thừa nhận: “Vừa qua có một số kẻ xấu tung thông tin nói xấu lãnh đạo cấp cao, kể cả tứ trụ cũng có. Cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị thì chúng tôi có thể quản lý được nhưng khi họ ra ngoài đọc trên mạng thì không kiểm soát được, từ đó gây phân tâm, mất niềm tin trong nhân dân và ảnh hưởng đến cả những chiến sỹ ở ngoài biển đảo”.   5. Bài học kinh nghiệm từ vụ CDQL: 5.1. Bài học kinh nghiệm sâu sắc cần thẳng thắn rút ra là các cấp chính quyền đã hết sức lúng túng trong thời gian qua. Hệ thống thông tin hùng hậu của Đảng và nhà nước lên đến hơn 800 tờ báo và đài, kể cả các cơ quan tuyên giáo và các sở thông tin truyền thông, đã gần như bị vô hiệu chỉ bởi một trang blog CDQL. 5.2. Không loại trừ hiện tượng bất hòa sâu sắc và “chơi xấu” giữa một số đồng chí lãnh đạo, dẫn đến tâm lý nghi ngờ và phân hóa rất phổ biến trong nội bộ, làm cho các cơ quan đảng và chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương của ta hoang mang, lúng túng, bị động và không thật sự nhiệt tình, trách nhiệm đối với nhiệm vụ ngăn chặn, đấu tranh với các thông tin ngoài luồng. 5.3. Do tính xác thực về tin tức của blog CDQL về chuyến bay từ Mỹ trở về sân bay Đà Nẵng của đồng chí Nguyễn Bá Thanh, và nếu quả thực những tin tức này được cung cấp từ nguồn nội bộ cao cấp, có thể nhận định rằng vấn đề mà dư luận chung và các lực lượng bên ngoài cho là “đấu đá nội bộ trong đảng” đã có bước ngoặt: chuyển từ âm thầm, kín đáo, bí mật sang bán công khai và có thể công khai. Đây là một thách thức rất lớn đối với công tác bảo vệ chính trị nội bộ và làm trong sạch vững mạnh Đảng trong những năm tới, đặc biệt là thời gian từ đây đến Đại hội 12 đầu năm 2016 của Đảng. 5.4. Qua các vụ việc blog Quan làm báo năm 2012 và blog CDQL gần đây, không thể phủ nhận khả năng lan tỏa và sức ảnh hưởng đến dư luận xã hội của mạng xã hội là rất mạnh mẽ và có chiều sâu. Thậm chí đã có những dấu hiệu cho thấy một bộ phận lãnh đạo các cấp đã và đang vận dụng mạng xã hội để truyền tải những thông tin mang tính cá nhân, có lợi cho động cơ cá nhân và tranh giành nội bộ. 6. Dự báo: Công tác hệ thống và phân tích hoạt động sản xuất, tán phát thông tin của các trang Quan làm báo, Tư Sang nham hiểm, Những thằng nham hiểm và CDQL cho thấy những đặc thù: 6.1. Trước và trong mỗi hội nghị trung ương hoặc sự kiện chính trị lớn của Đảng, các trang này lại xuất hiện với liều lượng, cường độ thông tin cấp tập, ngày càng lớn và càng chui sâu vào nội tình của giới các đồng chí chính trị gia. 6.2. Quy luật của các đại hội đảng trước đây là càng gần thời điểm chọn lựa, cơ cấu và quyết định các nhân sự then chốt nhất của Đảng, thông tin công kích càng gia tăng. Do vậy, có thể dự báo là trang CDQL chỉ là một trong những điểm khởi đầu cho chiến dịch tấn công vào một số lãnh đạo Đảng và nhà nước. 6.3. Trong năm 2015 và đặc biệt về cuối năm, có thể xuất hiện những trang khác tương tự như CDQL, với liều lượng và cường độ công kích gia tăng rộng và sâu hơn hiện nay. Những trang này có thể được sự hỗ trợ từ bí mật đến bán công khai và công khai của một đội ngũ cộng tác viên, dư luận viên để tạo hiệu ứng lan tỏa, tạo dư luận xã hội mà không bị ngăn chặn thích đáng. Có thể đến một thời điểm nào đó, những trang này sẽ dần công khai “chính khách” đứng phía sau và sẽ gây ra bầu không khí hỗn loạn thông tin, nghi ngờ và phân hóa cao độ trong nội bộ Đảng và Chính phủ, có thể dẫn đến hậu quả “tách Đảng” hoặc “tan vỡ Đảng từ bên trong” mà các thế lực thù địch hết sức mong đợi.   7. Yêu cầu đấu tranh thông tin và đề xuất: Về yêu cầu đấu tranh, đồng chí Trương Tấn Sang đã yêu cầu: “Nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn tình trạng lộ, lọt, mất an ninh an toàn thông tin, đặc biệt là thông tin mạng, an ninh tư tưởng, văn hóa”. Đồng chí Trần Đại Quang cũng khẳng định: "Cần tập trung mọi phương tiện, lực lượng để bảo vệ Đại hội Đảng các cấp, góp phần bảo vệ thành công Đại hội lần thứ 12 của Đảng. Kiến nghị các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo báo chí trong thông tin tuyên truyền cần chủ động định hướng cho dư luận, đấu tranh phản bác kịp thời các luận điệu sai trái thù địch và những quan điểm thiếu tính xây dựng". Căn cứ yêu cầu và chỉ đạo trên, nhóm công tác đề xuất Thủ trưởng đơn vị kiến nghị cấp trên một số biện pháp và giải pháp cấp bách: 7.1. Cần tổ chức chuyên án về blog CDQL, điều tra làm rõ ai đứng sau. Nếu người tổ chức và “bảo kê” cho CDQL là cán bộ cấp cao, kiến nghị xử lý nghiêm theo tinh thần “không có vùng cấm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo. Cơ quan chuyên án làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của một số đồng chí trọng trách trong Bộ chính trị, không giao cho các bộ hoặc cơ quan ngang bộ. 7.2. Cơ quan chuyên án cần phối hợp với cơ quan y tế và Cục điều tra liên bang (FBI) của Mỹ để điều tra và làm rõ việc đồng chí Nguyễn Bá Thanh có bị đầu độc hay không. 7.3. Sau khi có kết quả điều tra về blog CDQL và nguyên nhân gây bệnh cho đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Ban Tuyên giáo trung ương và Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương tổ chức cung cấp rộng rãi và minh bạch thông tin cho báo chí, tránh để báo chí và người dân hiểu lầm, các lực lượng bên ngoài cho rằng Đảng và nhà nước ta bưng bít thông tin. 7.4. Xuất phát từ sức mạnh và hiệu ứng lan tỏa không thể phủ nhận của mạng xã hội, đề nghị đã đến lúc cần tranh thủ mạng này để phục vụ cho lợi ích chung của Đảng, đồng thời đáp ứng đòi hỏi tình thế về đối ngoại với Mỹ và phương Tây. Công tác “mạng vận” này cũng nhằm hạn chế tình trạng một bộ phận lãnh đạo ta vận dụng mạng xã hội để phục vụ cho đông cơ và mục đích cá nhân. Để tranh thủ và vận dụng mạng xã hội, Trung ương cần thí điểm hợp thức hóa một số tổ chức dân sự độc lập và từng bước thừa nhận xã hội dân sự ở Việt Nam, nhưng phải theo phương châm “Xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa”. (tham khảo chủ trương, kết quả giảm bớt việc ngăn chặn và đẩy đuổi các tổ chức hướng đạo Thiên chúa giáo, để cho các tổ chức này sinh hoạt công khai trong mấy năm qua). 7.5. Kiến nghị Quốc hội gấp rút ban hành Luật tiếp cận thông tin và Luật lập hội để đặt các hoạt động thông tin và xã hội dân sự dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo và quản lý của nhà nước ta. Kính báo cáo xin ý kiến chỉ đạo. --------------------------------------------   Theo báo Người ViệtViêt Nam Thời Báo - ijavn.org
......

Blog Chân Dung Quyền Lực và Hội Nghị 10 Trung Uơng Đảng CSVN.

Chỉ mới xuất hiện trong 2 tháng 11 và 12 năm 2014, với gần 50 bài viết tiết lộ một số dữ kiện thâm cung bí sử liên quan đến các lãnh đạo chóp bu của CSVN, Blog Chân Dung Quyền Lực đang được dư luận bàn tán xôn xao với dấu hỏi: ai đứng sau trang mạng này và nhằm mục tiêu gì? http://chandungquyenluc.blogspot.ru/ Một số người thì cho rằng qua những nội dung loan tải, chứng tỏ là trang mạng này phải do một phe hay một cá nhân nào đó trong cung đình đã tiết lộ những tin tức nhạy cảm để tạo sự rối loạn trong đảng. Một số người thì phân tích nội dung các dữ kiện loan tải đã đi kết luận rằng phe ông Nguyễn Tấn Dũng đã dựng ra trang mạng này để tấn công các đối thủ. Một số người trong chế độ thì đổ vấy cho “thế lực thù địch bên ngoài” đã dựng chuyện để tấn công làm mất uy tín lãnh đạo. Dù ai đứng đàng sau đi chăng nữa, thì việc xuất hiện Blog Chân Dung Quyền Lực đúng vào dịp Hội nghị 10 của Trung ương đảng CSVN (nhóm họp từ 5-12/1/2015 - trễ đến hai tháng so với dự trù), đã cho thấy có một sự chủ mưu rõ ràng. Mấu chốt của Hội nghị 10 là Trung ương đảng sẽ lấy phiếu tín nhiệm đối với các ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư hiện nay. Đồng đồng thời Trung ương đảng sẽ đề cử các nhân sự vào thành phần Bộ chính trị, Ban bí thư, Trung ương đảng cho nhiệm kỳ 5 năm tới (2016-2021) mà CSVN gọi là “xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.” Cả hai việc làm nói trên đều mới, lần đầu tiên được CSVN áp dụng, và hoàn toàn khác với trước đây khi vấn đề nhân sự trung ương nằm trong tay Tổng bí thư và Bộ chính trị. Kết quả việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư lần này sẽ ảnh hưởng rất lớn vào phiếu bầu của Trung ương đảng cho những ai muốn được đề cử vào Bộ chính trị, Ban bí thư cho nhiệm kỳ XII (2016-2021). Trong danh sách 16 thành viên của Bộ chính trị hiện nay, nếu tính theo tuổi hưu 65 tuổi thì có 9 người sau đây sẽ ra đi: Nguyễn Phú Trọng (1944), Nguyễn Sinh Hùng (1946), Ngô Văn Dụ (1947), Tô Huy Rứa (1947), Trương Tấn Sang (1949), Nguyễn Tấn Dũng (1949), Lê Hồng Anh (1949), Phạm Quang Nghị (1949). Còn lại 7 người có thể ở lại vì chưa tới tuổi hưu gồm: Nguyễn Xuân Phúc (1954), Nguyễn Thiện Nhân (1953), Tòng Thị Phóng (1954), Nguyễn Thị Kim Ngân (1954), Đinh Thế Huynh (1953), Lê Thanh Hải (1950), Trần Đại Quang (1956). Từ nhiều tháng qua, người ta hay nói đến cuộc chạy đua chức Tổng Bí Thư giữa ông Phạm Quang Nghị và ông Nguyễn Tấn Dũng, nhưng ít ai nói đến ông Nguyễn Xuân Phúc, một nhân vật được coi là sáng giá trong số 7 người còn ở lại trong Bộ chính trị và còn trong lứa tuổi có thể làm “tổng bí thư”. Phải chăng vì thế mà Nguyễn Xuân Phúc đã bị Blog Chân Dung Quyền Lực tấn công nhiều nhất, liên tục phơi bày những dữ kiện vạch trần nạn tham ô, lợi dụng chức quyền của ông Phúc khi còn làm Bộ trưởng văn phòng Thủ tướng. Thậm chí còn kết án ông Phúc đã mượn tay Bắc Kinh để sát hại Nguyễn Bá Thanh. Những bài viết và dữ kiện đưa ra của Blog Chân Dung Quyền Lực khó có thể kiểm chứng, nhưng đang làm cho nhiều lãnh đạo CSVN “hốt hoảng” như Lê Hồng Anh, Phùng Quanh Thanh, Trần Đại Quang, Vũ Đức Đan, Nguyễn Sinh Hùng... đòi hỏi phải có biện pháp ngăn chặn và trừng trị thích đáng. Nhưng lãnh đạo CSVN đã quên một điều là họ không những không còn khả năng bịt miệng truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội, mà họ còn đang phải trả cái giá của tệ nạn tham nhũng - từ tiền bạc cho đến quyền lực - do chính họ tạo ra. Đấu tố, diệt trừ nhau để tranh giành quyền lực là điều đương nhiên trong mọi chế độ độc tài, nhưng khi hiện tượng này không còn có thể che dấu được nữa, mà bùng nổ mạnh mẽ với những lời lẽ cáo buộc nặng nề, những bắt bớ, truất phế, đầu độc, thanh toán nhau ... cho thấy cường độ đấu đá đã tới hồi kịch liệt của giai đoạn cáo chung. Lý Thái Hùng
......

Nhân kỷ niệm 25 năm sụp đổ bức tường ô nhục Bá Linh

Bối cảnh lịch sử của nước Đức sau Đệ Nhị Thế Chiến Cuối Đệ Nhị Thế Chiến vào ngày 8.5.1945 nước Đức sau khi đầu hàng bị chia ra làm 4 phần do 4 Đồng minh quản lý: Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Nga. Berlin là Thủ Đô nước Đức nên cũng bi chia ra làm 4 như trên, Nga trấn giữ vùng Đông Bá Linh . Đến ngày 30.6.1946 Nga quyết định vạch ra đường ranh giới giữa Đông và Tây Đức và từ ngày 29.10.1946 người  ra vào vùng Nga chiếm đóng phải có giấy Thông Hành Liên Vực (Interzonenpass) mới được di chuyển và chỉ có giá trị 30 ngày . Từ đó xảy ra liên tục những va chạm giữa Nga và ba Đồng Minh còn lại.   Vào ngày 20.6.1948 Đồng Minh Hoa Kỳ Anh Pháp cho đổi Reichmark thành D-Mark ở toàn vùng của mình. Để trả đũa lại Nga cũng cho đổi Reichmark thành tiền Deutsche Mark vào ngày 23.6.1948 và muốn toàn Bá Linh phải sử dụng tiền này. Vì Đồng Minh Hoa Kỳ Anh Pháp không đồng ý, nên Nga trở mặt ra lệnh phong tỏa Berlin vào ngày hôm sau 24.6.1948. Tất cả đường bộ ra vào Berlin đều bị cấm không cho qua lại khiến cho Đồng Minh Hoa Kỳ Anh Pháp phải lập cầu không vận cho Berlin ngay hôm 25.6.1948. Cầu Không vận này kéo dài hơn  một năm, khi Nga dỡ bỏ lệnh phong tỏa Berlin vào ngày 12.5.1949 thì cầu Không vận vẫn tiếp tục tiếp tế cho Berlin tới ngày 30.9.1949 mới chấm dứt nhiệm vụ. Trong khi đó 65 Nhân Sĩ trong một cơ quan gọi là Parlamentarischer Rat dưới sự lãnh đạo của Konrad Adenauer soạn thảo từ 1.9.1948 bộ Luật gốc (das Grundgeset) làm căn bản cho Hiến pháp nước Đức. Cho tới ngày 24.5.1949 bộ Luật gốc được trình duyệt và thông qua, đánh dấu cho ngày hình thành  nước Cộng Hòa Liên Bang Đức. Trước đó vào tháng 4.1949 toàn bộ Quân Đội Đồng Minh vùng phía Tây Hoa Kỳ Anh Pháp đã rút đi để nhường quyền cho chính phủ Đức. Ngày 12.9.1949 Quốc Hội Cộng Hòa Liên Bang Đức đã bầu chọn Theodor Heuss làm Tổng Thống (Bundespresident) và ba ngày sau đó 15.9.1949 Konrad Adenauer được bầu chọn làm Thủ Tướng (Bundeskanzler)  đầu tiên của CHLB Đức . Ngày 7 10.1949 nước Cộng Hòa Nhân Dân Đức cũng được hình thành và Wilhelm Pieck là Tổng Thống đầu tiên (President) của nước này. Ngày 26.5.1952 phía Đông Đức quyết định đóng cửa ranh giới Đông Tây, chỉ ở Berlin người ta vẫn còn được phép qua lại ranh giới. Vào ngày 17.6.1953 xảy ra cuộc nhân dân tổng nổi dậy (Volksaufstand) tại Berlin và các vùng có nhiều Công Nhân như Halle, Magdeburg, Dresden, Leipzig để chống lại chính quyền Cộng Sản. Số người tham dự được ước đoán khỏang 400.000 tới 1,5 triệu người. Quân đội Nga và Đông Đức đã dùng xe tăng đàn áp thẳng tay khiến cho số người bị bắn chết lên đến  34 người, ngoài ra còn có 40 người bị xử tử tại chỗ và cả trăm người bị đày khổ sai ở Siberien. Tới tháng 1.1954 lại có 1.526 người đem ra xử trước Tòa án Đông Đức, có 2 người bị xử tử vả 3 người bị tù chung thân, phần còn lại đều bị kết án tù. Sự tàn ác với dân chúng của chế độ Cộng Sản Đông Đức và  Nga đã dể lại một vết nhơ trong lịch sử nước Đức. Ngày nay ở Berlin vẫn còn tên Đại Lộ 17.6 là một con đường lớn chạy thẳng đến Brandenburger Tor, nơi mà hầu như quốc khách nào của Berlin đều phải chạy qua khi muốn đến tiếp xúc với Tổng Thống Thủ Tướng hay Quốc Hội. Chính Nguyễn Tấn Dũng, Hồ Cẩm  Đào, Tập Cận Bình ...cũng đã được đưa đi trên con đường này. Sau đó chính quyền nước Cộng Hòa Nhân Dân Đức đã tìm mọi càch ngăn cản người dân Đông Đức đi qua phía Tây Đức. Tới một lúc thì chẳng đặng đừng chính quyền Đông Đức ra lệnh đóng cửa  biên giới và bắt đầu xây bức tường ô nhục Bá Linh vào ngày 13.8.1961. Người  ra lệnh xây bức tường nêu lý do là để ngăn chận  những kẻ phát xít phương Tây vào Đông Đức , nhưng sụ thật là họ chỉ muốn trói dân ở lại với chế độ Cộng Sản.     Trong thời gian Chiến Tranh Lạnh sau này  đã có hai Tổng Thống Hoa Kỳ đến viếng bức tường Bá Linh, người đầu tiên là John F Kennerdy dứng trước Brandenburger Tor ngày 26.6.1963 với câu nói bất hủ “ich bin ein Berliner„ và 24 năm sau là Ronald Reagan ngày 12.6.1987 với câu „ Herr Gorbatschow, tear down the Wall„ Nói chung bức tường Bá linh tồn tại 28 năm từ 13.8.1961 đến 9.11.1989 có chiều dài tổng cộng 167,8km mà phần chia Đông Tây Bá Linh chiếm khoảng 43km, có cả thảy 13 cổng qua lai nhưng bị đóng kín và canh gác cẩn thận bởi các lính Đông Đức. Họ được phép bắn vào người cố ý lại gần bức tường. Sống ở Tây Berlin tuy vẫn thoải mái như mọi nơi trên đất nước CHLB Đức, hồi đó lại còn được hưởng Berliner Zulage là tiền phụ cấp khó khăn nên tiền lương thường cao hơn bên Tây Đức,  nhưng mỗi lần phải đi ra khỏi Berlin là cả một sự khó khăn vì bị  bắt buộc phải đi qua con đường Xa Lộ xuyên qua Đông Đức. Vào Xa lộ này là phải đi thẳng không được dừng tùy tiện và chỉ được đổ xăng hay vào nghỉ tại những trạm đã được quy định. Có một  xa lộ chính đi thẳng ra Helmsted, Hannover. Quãng đường chỉ dài khoảng 200km, nhưng sự kiểm soát lúc vào và ra khỏi Xa lộ thì rất phiền toái vì phải xếp hàng chờ đợi rất lâu và vì sự hống hách trì hoãn của Cảnh sát Đông Đức. Ngưới ta phải làm thủ tục  để nhận Transitvisum (giấy thông hành trên xa lộ xuyên Đông Đức) khi  ra khỏi thì phải trả Transitvisum lại. Các lính Cảnh Sát kiểm soát rất gắt gao và khó chịu; khi thấy một bộ mặt nào không ưa là họ cho mời xe tách  ra khỏi hàng và cho đứng  đó cho tới khi họ muốn thì cho đi lại. Đứng mà không kêu ca được gì cả . Họ làm quyền thế cứ y như là các cán bộ  công an cảnh sát ở Việt Nam bây giờ. Bề gì thì cũng là một lò với nhau. Nguyên nhân làm sập đổ bức tường Bá Linh Trong thế giới này chỉ tiếc là đời sống con người quá ngắn ngủi nên chúng ta không được nhìn thấy được hết cái đinh luật thiên nhiên chi phối vào đời sống con người. Bức tường ô nhục Bá Linh đã sập đổ cũng do định luật thiên nhiên đó. Nguyên nhân của cái phút giây lịch sử đó đã bắt nguồn từ nhiều sự kiện cùng xảy ra một lúc: từ sự tự hủy của vật chất theo tháng năm, từ sự sinh lão bệnh tử của con người, từ tấm lòng biết  hướng về lẽ phải, từ sự kiên trì  tranh đấu của toàn dâ , từ  những sự kiện tầm thường đến đáng buồn cười... đã xảy ra như một xâu chuỗi liên tục để tạo ra lịch sử. 1.- Nguyên nhân xa nhưng lại là then chốt của vấn đề Giữa Hungary và Áo có một ranh giới tiếp cận dài 270km mà hàng rào ranh giới đã bị hư hỏng mục nát từ năm 1987. Tuy có gắn chuông báo động nhưng thường lại là báo động sai , trong khi hàng năm vẫn có tới 2.000 người Đông Đức vượt hàng rào này thành công qua Áo. Vì vậy chính phủ Hungary đã ký một sắc lệnh vào tháng 2.1989 là sẽ dỡ bỏ hàng rào ranh giới này. Lúc đó chính phủ Đông Đức vẫn yên chí đó chỉ là một quyết định suông để ve vãn phương tây, nhưng không ngờ đến ngày 11.9.1989 hàng rào này thực sự được dỡ bỏ hẳn. Trong vòng 3 tuần sau khi dỡ hàng rào biên giới có tới 25 ngàn người Đông Đức chạy trốn qua Áo. dân Hungary thì không có nhu cầu vượt biên vì họ đã có sẵn một Thông Hành Quốc Tế do chính phủ cấp, muốn đi đâu cũng được.   2.- Nguyên nhân từ trong Đông Đức: Montagdemo (Biểu tình vào mỗi thứ Hai)   Song song với sự kiện trên là vào ngày thứ Hai 4.9.1989 sau khi làm lễ ở nhà thờ Nikolai Kirche ở Leipzig có khoảng 1.000 người giương biểu ngữ “ für ein offenes Land mit freien Menschen= cho môt đất nước thông thoáng với những con người tự  do “ và “ Wir wollen  raus=Chúng tôi muốn đi ra” sau đó bị cảnh sát chìm bao vây họ đổi thành khẩu hiệu “ Stasi raus= Công an cút đi”, và từ đó cứ mỗi thứ Hai là họ lại tụ tập trước nhà thờ ở Leipzig để biểu tình, sau đó lan rộng qua các thành phố Đông Đừc khác. Tới ngày 2.10.1989 con số ngưới biểu tình ở Leipzig lên đến 15.000 người.   Ngày 7.10.1989 là ngày lễ lớn kỷ niệm 40 năm thành lập Đông Đức với duyệt binh và biểu diễn lực lượng võ trang với  xe tăng , súng máy , máy bay…bên cạnh buổi lễ trang trọng đó vẫn có xảy ra “ lộn xộn“ gần bên khán đài nơi Honecker và Gorbatschow, có nhưng tiếng kêu trong đám đông “Gorbatschow, cứu chúng tôi”. Công an cảnh sát đã được lệnh đàn áp thẳng cánh những người biểu tình này. Sau đó hai ngày, ngày 9.10.1989, số người đi biểu tính ở Leipzig lên đến 70.000 người. Lúc đó ở bên Tây Đức ai cũng hồi hộp hướng về Leipzig vì liên tưởng đến ngày 17.6.1953 người dân Đông Đức đã bị đổ máu dưới  sự đàn áp dã man của xe tăng Nga. Nhưng may thay điều đó đả không xảy ra, vì Gorbatchow, với mục tiêu giảm bớt chiến tranh lạnh với phương tây trong chủ trương Glasnow=mở cửa và Perestroika = đổi mới, đã ra lệnh cho lính Nga không được can thiệp vào nội bô Đông Đức. Đến ngày 4.11.1989 có một triệu người biểu tình ở Alexander Platz Berlin với khí thế rất mạnh, từ khẩu hiệu “Wir sind das Volk = chúng ta là nhân dân “ đã trở thành “wir sind ein Volk= chúng ta là một dân tộc ”. Ngày 6.11.1989 có dấu hiệu hoảng sợ trong bộ chính trị Đông Đức , một số hồ sơ mật đã bị  cho hủy. Ngày 8.11.1989 bộ chính trị trung ương từ chức và dự định bầu lại bộ chính trị mới.   3.-Sự kiện trong toà Đại sứ CHLB Đức tại Tiệp khắc   Số người ùn ùn bỏ Đông Đức  ra đi theo hướng Đông ngày càng nhiều, một số leo tường rào vào trú ngụ tại toà Đại sứ CHLB Đức. Đến 30.9.1989 có tới 4000-5500 người ở trong Đại sứ quán. Điều kiên ăn ở  và vệ sinh rất khó khăn, cho nên Genscher, bộ trưởng bộ ngoại giao CHLB Đức đã đến và từ Balkon toà Đại sứ ông đã tuyên bố một câu đã đi vào lịch sử nước Đức “ toàn thể mọi người được nhập cảnh vào CHLB Đức “, mọi người đã ôm chầm nhau nhảy múa vui mừng .   Ngày 3.10.1989 CHLB Đức đã đem một đoàn xe lửa chở tất cả mọi người trong tòa Đại sứ ở Prag về Tây đức. Cái khó khăn là xe lửa phải đi qua một đoạn đường Đông Đức ở Dresden. Tại đây một số dân chúng địa phương được biết đoàn tàu đi qua nên đã tụ tập đòi trèo lên xe lửa đi theo qua Tây Đức, Cảnh sát Đông Đức đã ra tay đàn áp mạnh, nhưng dân chúng cũng lấy gạch đá chống chọi lại. Cuối cùng thì đoàn tàu cũng thoát ra khỏi cuộc hỗn chiến và đưa mọi người từ Prag bình an tới Tây Đức. 4.- Nguyên nhân từ sức khỏe của thủ lãnh Honecker   Honecker sanh năm 1912, xuát thân  từ  gia đình nông dân, bỏ học sớm, 10 tuổi đã tham gia vào đoàn thiếu nhi Cộng Sản. Có một thời gian Honecker xin đi học nghề lợp mái nhà ở người bà con. Học nghề chưa xong Honecker xin gia nhập đoàn thanh niên Cộng Sản vào lúc 14 tuổi. Tới 16 tuổi được cử đi học ở trường Lenin bên Nga. Tháng 5.1971 Honecker được bầu làm Đệ  Nhất Bí Thư sau khi Ullbrich từ nhiệm, 1976 Honecker trở thành Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản. Ngày 7.7.1989 Honecker bất ngờ bị Gallenkolik (đau bụng cấp tính do sạn mật) và được chở qua Bệnh viện ở Rumanie để điều trị cấp cứu, sau khi ổn định được đưa về bệnh Viện Buch để mổ Túi Mật. Trong khi mổ Bác Sĩ đã nghi ngờ là có thể có dấu hiệu ung thư Thận phải, nhưng không can thiệp. Trong suốt tháng 9 .1989 Honecker không xuất hiện làm việc, Mielke và Mittag đứng ra điều khiển hành chính trung ương. Trong ngày biểu dương lực lượng kỷ niệm 40 năm thành lập nước Đông Đức Honecker đã tái xuất hiện bên cạnh Gorbatschow là khách mời danh dự, mặc dù trong bụng Honecker chẳng ưa gì chủ trương Glasnow và Perestroika của Gorbatschow. Trước sức ép của quần chúng và vì lý do sức khỏe Honecker đã từ chức vào ngày 17.10.1989. Giữa tháng11.1989 Hội Đồng Nhân Dân DDR đã họp và tố cáo Honecker về tội tham nhũng và lạm dụng ngân quỹ quốc gia. Ngày 3.1.1990 Honecker và vợ bị bắt buộc phải rời chỗ ở xa hoa tại Wandlitz, ngày 6.1.1990  lại nhập viện và đươc xác định bị ung thư thận. Ngày 29.1.1990 Honecker bị bắt nhưng hôm sau 30.1.1990 được thả ra ngay vì bị bệnh nặng. Khi được thả ra thì Honecker và vợ không còn nhà cửa nữa. Trong một cuốn phim tài liệu mà phóng viên đã theo sát Honecker trong chuyến đi lang thang tìm nơi trú ẩn này cho thấy sự bất mãn của dân chúng Đông Đức đối với ông Tổng Bí Thư tới mức nào. Có người lấy nắm tay đấm lên xe, lên cửa kính xe hơi hăm he. Chưa bao giờ tính mạng Honecker bị đe dọa dữ dội như lúc này. Cuối cùng Pastor Uwe Holme, chính Pastor đã từng bị Honecker bỏ tù trước đây, đã cho vợ chồng Honecker tạm trú tại nhà thờ Bernau. Honecker đã ở đây tới 4.1990 vì lý do an toàn và sau đó dọn qua Quân Y Viện Nga ở Beelitz. Ngày 30.11.1990 Tòa án CHLB Đức kết tội Honecker vì đả cho lệnh bắn người vùng biên giới Đông Tây Đức. Ngày 13.1.1991 Honecker và vợ bay qua Moskau do sự can thiệp của Nga. Tới tháng 2.1992 thì Honecker đã bị di căn qua Gan. 29.7.1992 Honecker bay từ Moskau về tới nhà tù Moabit Berlin, còn Margot Honecker bay thẳng qua Santiago / Chile đến nhà con gái Sonja tại đó. 13.1.1993, sau 169 ngày nằm khám Moabit, Honecker được thả ra và được đưa qua Santiago với vợ con. Tại đây ông mất ngày 29.5.1994. Bà Margot Honecker bây giờ 87 tuổi  vẫn cò sống tại Santiago, hưởng mỗi tháng 1.700 Euro tiền lương hưu của CHLB Đức, có nhà riêng và có người hầu hạ. 5.-Nguyên nhân kinh tế Mặc dù nhận được tiền tiếp viện mỗi năm hàng trăm triệu Đức mã từ Tây Đức để xây dựng và tu bổ con đường xa lộ và đường sắt nối Berlin sang Tây Đức xuyên qua Đông Đức, cũng như được tiếp hơi đến hàng tỷ Đức Mã trong thời gian 1983-1984; và mặc dù đời sống của người dân Đông Đức còn khá hơn đời sống của dân Ba Lan và Rumanie, nhưng nền kinh tế của Đông Đức đã dần dần kiệt quệ. Gerhard Schürer là chủ tịch Hội Đồng Staatliche Plankommission thời đó đã tuyên bố:  tới 1989 Đông Đức nợ 49 Tỷ Valuta Mark và mỗi tháng tăng lên 500 triệu Valuta Mark; cứ theo đà đó thì đến năm 1991 Đông Đức sẽ phá sản hoàn toàn. Trong khi đó thì Gorbatschow đã từ chối không viện trợ kinh tế cho Đông Đức nữa.   6.-Nguyên nhân gần và rất tầm thường nhưng lại là yếu tố quyết định tối hậu   Lúc 18:53 giờ ngày 9.11.1989 Günter Schabowski, phát ngôn viên DDR tuyên bố trong một cuộc họp báo có trực tiếp truyền hình là Công Dân Đông Đức có thể sẽ được qua Tây Đức thăm viếng người thân. Khi  một phóng viên  hỏi „ lệnh này bắt đầu từ bao giờ“ thì Schabowski chợt trở nên lúng túng và nói lắp bắp:  „ab sofort, unverzüglich = ngay lập tức, không trì hoãn”, từ đó tin loan ra như cơn bão. Người Đông Đức từ mọi nơi mọi phía dồn về tất cả cổng thành của bức tường ô nhục và làm áp lực với lính canh gác tại đó. Tới 22:30giờ một cổng ở phiá bắc Berlin, cổng Bornholm, mở ra đầu tiên và sau đó thì tất cả cổng đều được mở ra hết, trừ cổng Brandenburger Tor thì tới 22.12.1989 mới được mở. Tại cổng Bornholm chính bà đương kim Thủ Tướng Merkel cũng đã lần đầu đi qua đây để đến Tây Berlin.                                             xx  xx xx Luận bàn   Qua các yếu tố lịch sử đã được nêu trên đây cho thấy sự sụp đổ bức tường ô nhục Bá Linh là kết quả của một xâu chuỗi sự kiện theo chiều hướng thiên thời địa lợi nhân hòa khiến sự sụp đổ bức tường là đoạn kết  hợp lý của một ván cờ chót . Là người Việt Nam có ai không ao ước có một ngày nào đó Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng sẽ bị vướng vào một vòng xoáy khủng hoảng đến nỗi phải tự động rút lui nhường chỗ cho một thể chế đa nguyên dân chủ hợp hiến và hợp pháp. Trước tình hình trong nước hiện tại nếu chúng ta quan sát kỹ thì cũng có thể nhận ra những dấu hiệu thoái hóa của chế độ Cộng Sản. Chỉ cần tới một thời điểm chín mùi thì quả sẽ rụng mà không cần tới bạo lực. Những yếu tố bất lợi của chế độ Cộng Sản Việt Nam   1.- Sự khiếm khuyết  của luật pháp trong chế độ Cộng Sản Việt Nam: Ngày 2.9.1945  là ngày Việt Minh đã cướp công kháng chiến chống Pháp của toàn dân và cướp chính quyền hợp pháp của Thủ Tướng Trần Trọng Kim để khai sinh ra chế độ Cộng Sản man rợ đưới cái tên VNDCCH. Tuy rằng họ đã cho ra đời một cái Hiến Pháp vào ngày 9.11.1946 , nhưng đó chỉ là những sáo ngữ và hệ thống Luật Pháp Hành Pháp và Tư Pháp không được hình thành, nền Dân chủ không được thực hiện. Thể chế Cộng Sản đã áp đặt lên đầu người dân bằng cách nắm lấy miếng ăn như nuôi một bầy súc vật. Trong chế độ bao cấp con người chỉ còn là những cái Hộ Khẩu. Nói một cách mộc mạc như nhà văn Tiểu Tử, giá trị  một con người với cả một khối óc lương tri chỉ còn là một cái miệng ăn (không phải là miệng nói) trong chế độ Cộng Sản. Bảy giờ trước trào lưu tiến hóa của xã hội, trong thời đại Internet bao phủ toàn cầu, trong thời đại suy thoái của Cộng Sản Đông Âu, Cộng Sản Việt Nam phải xoay sở để tồn tại. Ngoài cái Hội Nghị Thành Đô bán nước giữ Đảng, Cộng Sản Việt Nam đã lộ chân tướng của một chế độ vô luật pháp hỗn loạn. Từ cái chiêu bài trị dân theo lối côn đồ, cho công an cảnh sát tay sai  mặc thường phục hành hung dân chúng hoặc ném đồ dơ bẩn vào nhà dân… thì cái thói côn đồ ấy lại trở nên hoành hành từ trong nội bộ cơ quan điạ phương khiến trung ương không còn kiểm soát được địa phương nữa. Đó là định luật  nhân quả . 2.- Chủ thuyết hồng hơn chuyên, nhất cùng nhị bạch để trị dân của Cộng Sản Việt Nam   a) Trăm năm trồng người: để củng cố chế độ, Cộng Sản hô hào kế hoạch trăm năm trồng người . Họ  trồng một giống người theo kiểu mẫu Mao-it, vô gia đình vô tổ quốc vô thần và cả vô học nữa. Cộng Sản muốn con người là công cụ của nhà nước hoàn toàn, muốn xóa bỏ đạo lý gia đình, xóa biên giới lãnh thổ, xóa lòng tự hào người con đất Việt, xóa sạch sự hiểu biết của tầng lớp trí thức, xóa luôn cả niềm tin vào đấng thiêng liêng. Kết quả của kế hoạch này là một tập đoàn lãnh đạo Cộng sản cuồng chiến nhưng không có khả năng điều hành một đất nước, một  xã hội hỗn loạn: con người trở nên dốt nát hung dữ, không tin vào lẽ phải điều hay mà lại trở thành  mê tín dị đoan, đạo đức luân lý trong gia đình và xã hội không còn tồn tại. b) Dân trí: Trong trường học lịch sử bị bóp méo, những lập luận “lưỡi gỗ” nhàm chán không còn thuyết phục được ai nữa. Nhưng môn chính trị kinh điển về Cộng Sản vẫn là phần chánh trong chương trình đào tạo chuyên môn. Điều này khiến cho chương trình đào tạo chuyên nghiệp bị thu hẹp lại, kết quả là chuyên môn bị kìm hãm, nhân tài bị bóp nghẹt và tài năng cá biệt không được phát triển.   c) Xã hội: Chúng ta phải khẳng định là quốc nạn trộm cắp vặt được nảy sinh từ chế độ bao cấp. Dĩ  nhiên trộm cắp là một bản năng tồn tại của loài người khi đói ăn thiếu mặc. Do sự cung cấp nhỏ giọt thời bao cấp nên của cải vật chất trở nên quý hiếm. Từ cái lốp xe đạp , thước vải cũng đổi ra được miếng ăn cái mặc nên bất cứ vật dụng gì cũng được trưng dụng. Bác Sĩ “ăn” thuốc men, y tá “ăn” kim chích chăn  mền, thư ký “ăn” giấy bút, nhân viên bưu điện “ăn“ bưu phẩm, thư quà.. Với thói quen “ăn” trong cơ quan như vậy cho nên khi đã bị tiêm nhiễm nặng người ta không còn phân biệt được phải trái, thấy của cải vật chất là cứ “ chôm“ mà không sợ luật pháp, nên mới xảy ra những vụ người Việt trộm cắp bên Nhật bên Anh nổi tiếng thế giới.   3.- Giai cấp Đảng viên và tham nhũng Trong cuốn “chuyện thời bao cấp“ của nhà xuất bản Thông Tấn/Hà Nội  in năm 2007 trang 31”. Cứ ngỡ rằng thời bao cấp mọi khó khăn được chia đều trong xã hội nhưng khi nghiền ngẫm cơ chế phân phối thời bao cấp với cửa hàng lương thực, hệ thống tem phiếu và quầy hàng tết ở cuộc trưng bà , mới hay rằng nhân dân có tiêu chuẩn riêng và ở mức thấp nhất, tiêu chuẩn của cán bộ, công nhân, viên chức tùy thuộc vào vị trí công tác và đặc thù nghề nghiệp của mỗi người. Cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản; trung cấp tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân viên chức bình thường mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố.“ như vậy cái ảo tưởng xóa bỏ giai cấp của Cộng Sản chỉ là một cái bánh vẽ để chiêu dụ những kẻ nông nỗi nhất là giới thanh niên sinh viên học sinh tại các vùng đất tự do. Khi vào rọ rồi thì cái giấc mơ “công bằng bác ái” trong môi trường Cộng Sản trong thực tế chỉ là những hạt kim cương khi nhìn từ xa nhưng khi đến gần mới biết đó là những giọt nước mắt.   Khi chế độ bao cấp đã từ từ tự triệt tiêu vì cái quy chế phản tự nhiên của nó và nhất là sau khi khối Cộng Sản Đông Âu sập đổ, các nguồn viện trợ trao đổi hàng hóa bị cắt đứt thì Cộng Sản Việt Nam phải biến thái để tồn tại dưới mô hình “kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” với những ưu tiên độc đoán trong thị trường cho cán bộ đảng viên cao cấp để bóp nghẹt thị trường kinh tế tự do và tạo sự dung túng lộng hành quyền lực cho nhóm Đảng Viên và tay chân. Tham nhũng được hình thành và nuôi dưỡng từ trong môi trường  độc quyền đặc lợi, một xã hội hỗn loạn vô luật pháp công minh tạo ra một nền kinh tế èo uột tồn tại trên những ký sinh trùng bòn rút của công làm của riêng, mua quan bán chức…                                            xx   xx    xx Tóm lại thời  tự hủy diệt chế độ Cộng Sản Việt Nam đã điểm, thế nước lòng dân  đã và đang tiềm ẩn trong mọi thành phần dân chúng. Khi nào thời và thế đồng nhất hội tụ thì đó chỉ là một câu hỏi về thời gian. Ngày nay trước sự tiến triển của công nghệ thông tin thì sự độc quyền chuyển tải tin tức một chiều từ hệ thống truyền thông của Cộng Sản Việt Nam không còn quan trọng nữa. Những người có khát vọng tìm hiểu về tình hình quốc tế và quốc nội đều có thể cập nhật tin tức hằng ngày trên Internet  mặc dầu có sự cản ngăn của cả một tập đoàn Công An Mạng. Nhưng những người trẻ tuổi hôm nay đã có đủ khả năng ứng phó và vượt qua những khó khăn này.   Trong không khí đầu năm 2015 chúng ta hãy cầu nguyện cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ và có pháp quyền. Khi nào mỗi người dân đứng trước luật pháp đếu có quyền lợi và bổn phận ngang nhau và nhân quyền được tôn trọng tuyệt đối thì ngày đó dân tộc Việt Nam mới có thể ngẩng đầu so vai với thế giới. Berlin ngày 01.01.2015 BS. Hoàng Thị Mỹ Lâm
......

Viện Khổng Tử, cơ quan tuyên truyền và tình báo Trung Cộng

(VNC) Các nước trên thế giới, dù nhỏ hay lớn đều muốn nhân loại biết đến những cái hay cái đẹp của nước mình. Viện Goethe (Goethe-Institut), đặt tên theo nhà văn và chính khách Đức Johann Wolfgang von Goethe, có 159 cơ sở hoạt động gần khắp thế giới để trao đổi văn hóa và ngôn ngữ. Viện Goethe tự trị về tài chánh và độc lập điều hành từ chính phủ Đức. Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) do một số trí thức Pháp trong đó có nhà khoa học Louis Paster, nhà văn JulesVerne, sáng lập từ 1883, có mặt trên 137 quốc gia với tổng số gồm 850 trung tâm cũng hoạt động độc lập với chính phủ Pháp. Các nước Phi Châu tuy nghèo nàn, lạc hậu về kỹ thuật, bị thực dân xâm lược rồi nội chiến triền miên nhưng không phải vì thế mà họ không kiêu hãnh với nền văn hóa và cũng luôn tìm mọi cách để giới thiệu cùng nhân loại những nét đặc thù của dân tộc họ. Hiến chương Phục Hưng Văn Hóa Phi Châu được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chuẩn y ngày 24 tháng Giêng 2006 đã tạo điều kiện phục hưng các giá trị và giới thiệu văn hóa Phi Châu đến các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc. Ngày nay nhiều viện văn hóa Phi Châu do tư nhân tài trợ có mặt nhiều nơi trên thế giới. Phát huy văn hóa là lẽ tự nhiên và đáng ca ngợi. Ngoài trừ những kẻ tự thu mình trong góc tối, sống trong ảo tưởng “quê hương mình là đẹp hơn cả” dù suốt đời không ra khỏi nhà để rồi trở nên ngày thêm u mê lạc hậu, phần lớn các lãnh đạo và con người trên thế giới đều biết trong cái riêng bao giờ cũng có cái chung, văn hóa của một dân tộc là một phần của văn minh nhân loại. Thế nhưng, những khái niệm văn hóa, độc lập, tự trị, phi chính phủ của các trung tâm, các viện văn hóa nêu trên không áp dụng trong trường hợp các Viện Khổng Tử của Trung Cộng, bởi vì thực chất của các viện này chỉ là cơ quan tuyên truyền, tình báo và được đặt dưới sự lãnh đạo của Cục Tuyên Truyền Trung Ương đảng Cộng Sản Trung Quốc. Tuyên truyền là xương sống của chế độ CS. Từ khi thành lập đảng CSTQ năm 1921 đến nay, tuyên truyền luôn đóng một vai trò quyết định trong việc thực thi các chính sách của đảng. Cục Tuyên Truyền Trung Ương do Lý Trường Xuân, Ủy viên Bộ chính trị đứng hàng thứ năm làm Cục Trưởng. Tại sao là Viện Khổng Tử mà không là Viện Mao Trạch Đông hay Viện Đặng Tiểu Bình? Bản chất của CS từ Âu sang Á là giấu mặt và vận dụng ảnh hưởng của các nhân vật lịch sử trong đó Khổng Tử là một trong những nạn nhân. Trong thời kỳ sau 1949 đến 1966, lãnh đạo Trung Cộng dựa vào Khổng Tử như biểu tượng của quyền hạn gia đình bởi vì trong giai đoạn đó Mao chủ trương phân tán quyền sở hữu đất đai xuống các đơn vị gia đình qua trung gian các chính sách cải cách ruộng đất và Bước Tiến Nhảy Vọt đầy thảm họa. Mao ca ngợi Khổng Tử “nhiệm vụ của chúng ta là nghiên cứu các thành tựu lịch sử và đánh giá chúng với quan điểm Mác Lê. Trung Hoa có một lịch sử dài nhiều ngàn năm với đặc tính riêng và là những kho tàng quý báu… Chúng ta phải tổng hợp từ Khổng Tử đến Tôn Dật Tiên và kế thừa các truyền thống giá trị này”. Lưu Thiếu Kỳ còn đi xa hơn khi cho rằng Khổng Tử có nhiều đặc điểm của một người CS tốt. Tuy nhiên, trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, bao nhiêu thất bại, sai lầm của Mao đều được đổ lên đầu Khổng Tử khi chiến dịch Chống Bốn Cũ (nhận thức cũ, văn hóa cũ, truyền thống cũ, tập quán cũ) được phát động. Nội dung của Cách Mạng Văn Hóa được tóm tắt là “cái mới” chống “cái cũ” và trong đó Khổng Tử đại diện cho mọi “cái cũ” và biểu tượng của xã hội giai cấp. Không chỉ chống Khổng Tử về mặt tư tưởng mà cả đền thờ, di tích, sách vở đều bị đục bỏ hay đốt phá. Mao phát biểu “đọc sách nhiều quá sẽ làm tê liệt khả năng nhận thức”. Mục đích chống Khổng Tử của Mao là để đương đầu với sự thất bại kinh tế do chính y gây ra và chống lại những lãnh đạo thực tâm sùng bái Khổng Tử trong đó có Lưu Thiếu Kỳ. Kết quả, 60 phần trăm lãnh đạo CS các cấp bị thanh trừng qua nhiều hình thức. Khi nhân loại bước vào thiên niên kỷ thứ ba, thế giới thay đổi và sẽ thay đổi một cách nhanh chóng trong thời gian tới. Sự toàn cầu hóa không chỉ diễn ra trong lãnh vực kinh tế mà cả văn hóa, xã hội. Nhân vật lịch sử cần được đánh bóng không phải là hai hồn ma CS Mao hay Đặng mà chính là Khổng Tử. Lãnh đạo Trung Cộng Hồ Cẩm Đào khi giới thiệu Khổng Tử đã ca ngợi ông ta chủ trương một “xã hội hài hòa”. Bộ máy tuyên truyền Trung Cộng in Luận Ngữ và là tác phẩm phát hành nhiều nhất ở Trung Quốc, và các ấn bản ngoại ngữ cũng được giới thiệu nhiều nơi trên thế giới. Theo Giáo sư Gilbert Rozman thuộc khoa xã hội học, đại học Princeton, Trung Cộng “muốn thế giới nhìn vào lịch sử Trung Quốc và những vinh quang quá khứ để khuyến khích họ chấp nhận một Trung Quốc hiện nay nhiều hơn”. Phê bình quan điểm của Hồ Cẩm Đào, Giáo sư Perry Link, Ban Đông Á, đại học Princeton cho rằng có sự mâu thuẫn về căn bản là cái cách chính phủ Trung Cộng sử dụng Khổng Tử để đại diện cho văn hóa Trung Hoa hài hòa ở nước ngoài trong khi đó đảng áp dụng chính sách toàn trị hà khắc đối với người dân trong nước. Lịch sử hình thành Viện Khổng Tử Kế hoạch Viện Khổng Tử được chính thức ra đời vào tháng Sáu năm 2004. Sau vài lần thử nghiệm tại Uzbekistan, viện đầu tiên được khánh thành ngày 21 tháng 11 năm 2004 tại Seoul, Nam Hàn. Đến nay, 2014, đã có 480 Viện Khổng Tử rải rác khắp sáu lục địa. Lãnh đạo Trung Cộng tuyên bố vào năm 2020 con số Viện Khổng Tử sẽ lên đến một ngàn viện. So với Hội Liên Minh Pháp (Alliance Française) được thành lập 131 năm trước, con số một ngàn đầy tham vọng và cấp bách của Trung Cộng rõ ràng không phải chỉ thuần mục đích văn hóa. Tạp chí The Economist nhận xét Viện Khổng Tử chỉ là “cơ quan nhà nước” CS và do đó chấp hành một cách nghiêm chỉnh các chủ trương của đảng. Với điều kiện thông tin ngày ngay, nhận xét của tạp chí The Economist có thể kiểm chứng một cách dễ dàng. Các chức năng mặt nổi của Viện Khổng Tử Theo tài liệu chính thức, Viện Khổng Tử là bộ phận của Hán Ban (汉办) “một cơ quan của Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, một tổ chức không lợi nhuận, phi chính phủ, liên kết với Bộ Giáo Dục Trung Quốc” Nhiệm vụ công khai của Viện Khổng Tử là “giảng dạy Hoa ngữ ” và “đóng góp vào sự thành hình một thế giới đa dạng và hài hòa”. Hán Ban, về cơ cấu trực thuộc Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ, trong thực tế chẳng phải phi lợi nhuận, tự trị gì mà do một lãnh đạo CS cấp trung ương điều hành. Chủ tịch Hội Đồng Quốc Tế Hoa Ngữ là bà Chen Zhili. Bà Chen sinh tháng 11 năm 1942, nguyên Cố Vấn Nhà Nước kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục Trung Cộng. Bà gia nhập đảng CSTQ năm 1961. Nguyên là Bí Thư đảng bộ Ban Khoa Học Kỹ Thuật Thượng Hải, sau đó được thăng cấp giữ chức Giám Đốc Ban Tuyên Truyền Thượng Hải kiêm Phó Bí Thư Ban Chấp Hành Đảng Bộ Thượng Hải. Từ năm 2008 bà Chen là Phó Chủ Tịch Quốc Hội Trung Cộng. Về cấp bậc đảng, bà Chen là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSTQ tại các đại hội 15, 16, 17 đảng CSTQ. Tổng giám đốc hiện nay của Hán Ban là bà Xu Lin, cấp thứ trưởng trong chính phủ, thành viên của Hội Đồng Nhà Nước và ủy viên Hội Đồng Tham Vấn Chính Trị. Điều đó cho thấy cả hai lãnh đạo Viện Khổng Tử đều là cán bộ tuyên truyền cao cấp chứ chẳng thuần túy văn hóa, ngôn ngữ gì. Về tài chánh, theo Chinadigitaltimes, Viện Khổng Tử được sử dụng một ngân sách rất cao lên đến nhiều tỉ yuan và website của Viện Khổng Tử cũng được xếp vào một trong những website tốn kém nhất tại Trung Cộng. Bà Chen Zhili ra ngoại quốc được quyền sử dụng tiền bạc một cách rộng rãi so với các ngân sách giáo dục khác. Mặc dù rất ngạc nhiên trước thái độ yểm trợ tài chánh dồi dào của Trung Cộng, nhiều đại học quốc tế, kể cả Mỹ, cần tiền bảo trợ cho các chương trình Hoa Ngữ nên cũng không khó khăn lắm trong việc chấp nhận sự thành lập Viện Khổng Tử. Các chức năng mặt chìm của Viện Khổng Tử - Thực hiện chủ trương tuyên truyền “sức mạnh mềm”: Theo Giáo sư Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm được định nghĩa như là khả năng đạt được mục tiêu bằng ảnh hưởng, hợp tác với đối phương thay vì ép buộc đối phương phải tuân hành. Người viết đã phân tích chi tiết trong bài Từ Hồ Cẩm Đào đến Obama, bài học về chính sách Sức mạnh mềm (Soft power). Joseph Nye Jr. tóm tắt quan điểm này trong tác phẩm Sức mạnh Mềm: Phương tiện để Thành công trong Chính trị Thế giới (Soft Power: The Means to Success in World Politics): “Một quốc gia có thể đạt được kết quả mong muốn trong chính trị thế giới bởi vì các quốc gia khác – khâm phục giá trị của nó, tích cực noi gương các thành tựu nó đạt được, khát vọng để đạt đến mức độ thịnh vượng và mở rộng của nó, muốn theo chân nó. Trong ý nghĩa đó, quan trọng là đặt ra một nghị trình và thu hút các quốc gia khác trong chính trị thế giới, và không chỉ buộc họ thay đổi bằng các đe dọa quân sự hay trừng phạt kinh tế.” Cũng theo Joseph Nye Jr., sức mạnh mềm của một quốc gia đặt trên ba nguồn: văn hóa, giá trị chính trị và chính sách đối ngoại. Áp dụng chính sách sức mạnh mềm trong phạm vi thế giới đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chính sách tuyên truyền quốc tế của Hồ Cẩm Đào và các lãnh đạo Trung Cộng hiện nay. Trung Cộng có hai đường lối tuyền truyền tương đối độc lập gồm tuyên truyền đối nội nhằm kiểm soát nhận thức người dân và tuyên truyền đối ngoại tập trung vào việc ảnh hưởng dư luận quốc tế một cách phù hợp với chính sách đối ngoại của đảng CSTQ. Tạp chí Economist giải thích các Viện Khổng Tử được sử dụng nhằm giành được sự đồng thuận của dư luận thế giới. Mục đích cụ thể của đường lối tuyên truyền đối ngoại gồm (1) trấn an dư luận thế giới về một Trung Cộng đe dọa, (2) bảo đảm nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng lãnh phí, (3) xây dựng các liên minh quốc tế và làm yếu vai trò của Đài Loan trong cộng đồng thế giới, và (4) phát huy một thế giới đa phương và giới hạn sức mạnh của Mỹ. Khi Hồ Cẩm Đào công bố chủ trương áp dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới đầu năm 2009, Lý Trường Xuân không giấu diếm khi cho rằng các Viện Khổng Tử là “cửa ngõ quan trọng để làm sáng danh văn hóa Trung Quốc, giúp mở rộng văn hóa Trung Quốc, đó là phần của chiến lược tuyên truyền quốc tế”. Mặc dù luôn bào chữa là “khách quan”, “độc lập”, các vấn đề nhạy cảm như biến cố Thiên An Môn, Pháp Luân Công, Tây Tạng v.v. đều bị gạch bỏ khỏi các chương trình giảng dạy tại các Viện Khổng Tử và các học viên không được phép bàn đến các vấn đề này. Do đó, khác với nội dung do Joseph Nye phác họa, chính sách của CSTQ thực chất là một chính sách tuyên truyền và mua chuộc, tương tự như chính sách thực dân trước đây. - Hang ổ tình báo: Trung Cộng hiện có 60 triệu Hoa Kiều sinh sống gần như tại hầu hết quốc gia trên thế giới và việc sử dụng nguồn lực của đạo quân thứ năm này để phục vụ một cách hữu hiệu đường lối đảng là một quan tâm lớn của lãnh đạo Trung Cộng. Tờ báo có uy tín của Mỹ Forbes, trong tháng 10 2014, tố cáo một trong những trường đại học rất uy tín tại Mỹ, đại học Stanford, đã hợp tác với Trung Cộng qua trung gian Viện Khổng Tử. Ngân sách của viện do Trung Cộng tài trợ. Tác giả bài viết trên Forbes trích lời phát biểu của Arthur Waldron khi nói rằng “Viện Khổng Tử có thể đóng vai trò then chốt trong việc ảnh hưởng chính sách tình báo của Trung Cộng”. Cũng trên Forbes, tác giả Eamonn Fingleton, chỉ trích các trường đại học Mỹ bán rẻ lương tâm trí thức qua việc im lặng trước sự kiện Thiên An Môn. Lý do, tiền của Bộ Giáo Dục Trung Cộng đổ vào các đại học này một cách ồ ạt qua cửa Viện Khổng Tử. Hiện nay có khoảng 220 ngàn sinh viên Mỹ theo học các Viện Khổng Tử. Tuy nhiên, điều ngạc nhiên và nguy hiểm là các hợp đồng giữa Bộ Giáo Dục Trung Cộng và các đại học Mỹ đều phải được giữ kín. Theo Abrice De Pierrebourg, một cựu chuyên viên ngành tình báo Pháp, nhiều “chuyên viên ngôn ngữ Trung Quốc” lại có lý lịch gốc an ninh tình báo. Chức năng của những người này không phải là giáo dục mà là kiểm soát sinh viên gốc Hoa sinh ra ở nước ngoài và đồng thời tuyển dụng tình báo để làm việc cho Trung Cộng. Phóng viên Omid Ghoreishi của báo The Epoch Times, trong điều tra Bắc Kinh Sử Dụng Viện Khổng Tử cho mục đích Gián Điệp (Beijing Uses Confucius Institutes for Espionage) đã trích dẫn lời của Michel Juneau-Katsuya, cựu Trưởng Cơ Quan An Ninh Tình Báo đặc trách Á Châu Thái Bình Dương của chính phủ Canada rằng với kinh nghiệm nhiều chục năm của ông hoạt động trong khu vực, cho thấy Trung Cộng không ngừng nỗ lực để gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Cũng theo lời ông Michel Juneau-Katsuya, đương kim chủ tịch chấp hành công ty an ninh Northgate SSI và một trong những chuyên viên an ninh được trích dẫn nhiều nhất tại Canada, Viện Khổng Tử là một đe dọa đối với chính phủ và nhân dân Canada. Ông khẳng định “Có những thông tin cho thấy rõ ràng các cơ quan tình báo Tây phương đã xác định Viện Khổng Tử như hình thức của cơ quan tình báo do Trung Cộng sử dụng và cũng do Trung Cộng tuyển dụng”. Bài báo trên The Epoch Times cũng nhắc lại lời tuyên bố của Hồ Cẩm Đào như một bằng chứng cho thấy các Viện Khổng Tử thực chất là hang ổ gián điệp. Họ Hồ phát biểu “Sau nhiều năm nỗ lực, chúng ta đã tìm ra cách để trồng cấy và chuẩn bị những người ủng hộ đảng chúng ta”. Dĩ nhiên các lãnh đạo Trung Cộng luôn bác bỏ những lời tố cáo của các chuyên viên tình báo quốc tế và uy tín như Michel Juneau-Katsuya. Các lãnh đạo Trung Cộng hãnh diện khi nhắc đến Viện Khổng Tử như một phần của “mặt trận đoàn kết” chống kẻ thù. Nhưng kẻ thù của “mặt trận” này là ai? Không ai khác hơn là “năm nọc độc” gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà tranh đấu dân chủ, và “thế lực thù địch Tây Phương” đứng đầu là Mỹ. Một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố sớm muộn cũng sẽ sụp đổ Mặc dù phát triển kinh tế nhanh trong hai chục năm qua, Trung Cộng đang đương đầu với những khó khăn khách quan về lâu dài không thể vượt qua bao gồm yếu tố dân số thặng dư và mất cân đối, y tế công cộng thiếu hụt trầm trọng, môi sinh độc hại nhưng quan trọng nhất vẫn là cơ chế chính trị độc tài toàn trị, bóp nghẹt hầu hết các quyền căn bản của con người và tham nhũng đã trở thành một đặc tính trong mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến địa phương. Lãnh đạo CSTQ đã và đang làm mọi cách để tồn tài bất chấp dư luận và thể diện của một đất nước có nhiều ngàn năm văn hóa. Sự lừa dối bỉ ổi thể hiện khi Ủy Ban Thế Vận Quốc Tế đến kiểm nghiệm điều kiện môi sinh tại Bắc Kinh vào năm 2001 trước khi chấp thuận cho Trung Cộng làm quốc gia tổ chức. Ngày trước đó, lãnh đạo Trung Cộng đã ra lịnh xịt nước xanh lên hai hàng cây dọc đường phố có đoàn xe của Ủy Ban Thế Vận chạy qua để đánh lừa họ rằng Bắc Kinh là thành phố cây xanh. Hành động này giống hệt chuyện xảy ra hơn nửa thế kỷ trước khi các lãnh đạo CS tỉnh Hồ Bắc cho dời các ruộng lúa ra sát đường nơi có xe lửa của Mao chạy qua để gây tượng cho Mao rằng mùa màng dư giả. Bản chất lừa dối của chế độ CS không thay đổi và một chế độ dựa trên lừa dối và khủng bố để tồn tại, chế độ đó sớm nay muộn rồi sẽ sụp đổ. Trần Trung Đạo
......

Ông Nguyễn Bá Thanh đã bị đầu độc!

Tràn lan trên mạng hiện nay là các thông tin đồn đoán về tình trạng sức khỏe của ông Nguyễn Bá Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính TW, có tin cho rằng ông đã từ Mỹ trở về và hiện đang nằm điều trị ở bệnh viện Ung thư Đà Nẵng, có tin ông đã chết, đã đưa về Việt Nam cho gia đình trong một quan tài kẽm, lại có tin đồn ông đã bị hạ độc bằng phóng xạ, ngay tại trung tâm y tế lớn nhất của Mỹ cũng vô phương chữa trị. Thực hư về nguyên nhân và tình trạng sức khỏe hiện nay của ông Nguyễn Bá Thanh ra sao?     Theo nguồn tin đã được chứng thực từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ TW, khoảng giữa tháng 05/2014, sau khi đóng sổ vụ án Dương Chí Dũng và hoàn tất hồ sơ vụ án Bầu Kiên, bàn giao cho Tòa án Nhân dân Tối cao, ông Nguyễn Bá Thanh đột nhiên bị choáng phải đưa đi cấp cứu, các bác sĩ chẩn đoán ông có triệu chứng rối loạn sinh tủy, trước đó, khi rời Đà Nẵng ra Hà Nội nhậm chức Trưởng ban Nội chính TW, sức khỏe ông hoàn toàn bình thường và được đánh giá là sức khỏe tốt, đủ đảm đương công việc. Ông Thanh không tin vào kết quả chẩn đoán căn bệnh rối loạn sinh tủy từ Ban Bảo vệ Sức khỏe TW và tiếp tục làm việc bình thường, ai cũng thấy sắc mặt ông ngày một xám, nhìn gần thấy ẩn những mụn thâm đỏ dưới da. Sức khỏe ông Nguyễn Bá Thanh ngày một yếu và tiếp tục bị ngất xỉu trong chuyến công tác Thụy Điển đầu tháng 6/2014, khi đó ông mới đồng ý để Ban Bảo vệ Sức khỏe TW đưa đi Singapore chữa trị 02 lần vào trung tuần các tháng 6 và 7/2014. Tuy nhiên, dù Singapore có nền y tế hàng đầu khu vực vẫn không tìm ra nguyên nhân đích thực của căn bệnh, chỉ chẩn đoán là “Nhiễm độc xương, tủy” và đề xuất đưa ông Bá Thanh qua Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson, Mỹ (nơi có kinh nghiệm hàng đầu về điều trị bệnh ung thư). Được sự phê chuẩn của Ban Bí thư, ngày 16/8/2014, ông Nguyễn Bá Thanh đã được đưa sang Mỹ, ngay sau khi nhập viện, ông đã được chẩn đoán “Ngộ độc phóng xạ – ARS” và lập tức được chuyển đến Bệnh viện Johns Hopkins Medicine (Baltimore, Mỹ), đây là cơ quan chuyên nghiên cứu và điều trị mạnh nhất của Hoa Kỳ về các bệnh do nhiễm xạ gây ra. Sau ca phẫu thuật ghép tủy, ông có dấu hiệu phục hồi và được chuyển đến Trung tâm Y tế Đại học Washington (Washington University Medical Center) tiếp tục theo dõi và điều trị. Tính đến cuối tháng 10/2014, ông vẫn thường xuyên liên lạc về để báo cáo tình trạng sức khỏe với Ban Bí thư và chỉ đạo công việc của Ban Nội chính TW. Bệnh viện Johns Hopkins Medicine (Baltimore, United States) Tuy nhiên, từ đầu tháng 11/2014 đến nay ông không còn báo cáo về Trung ương cũng như chỉ đạo công việc của Ban Nội chính. Khi Ban Bảo vệ Sức khỏe TW liên lạc được với ông Phan Văn Tâm, thư ký phụ trách tháp tùng chăm sóc ông Thanh, ông Tâm cho biết bệnh tình ông Nguyễn Bá Thanh bắt đầu trở nặng do biến chứng của ca phẫu thuật ghép tủy, người bắt đầu khô quắt, xám xịt toàn thân, ngoài ra ông Tâm cũng không biết gì hơn, nhất là vấn đề chuyên môn. Đầu tháng 12/2014, được sự đồng ý của Ban Bí thư, Ban bảo vệ Sức khỏe TW đã thành lập đoàn qua Mỹ gồm lãnh đạo Ban Tổ chức TW và Ban Bảo vệ Sức khỏe TW, đến thẳng Trung tâm Y tế Đại học Washington làm việc trực tiếp với các bác sĩ điều trị để tìm hiểu về bệnh tình ông Nguyễn Bá Thanh và tìm giải pháp. Trung tâm Y tế Đại học Washington (1959 Northeast Pacific Street, Seattle, WA 98195, United States, Phone: +1 206-598-3300), nơi ông Nguyễn Bá Thanh đang điều trị Sau khi thăm ông Nguyễn Bá Thanh tại bệnh viện, đoàn công tác đã làm việc với Trung tâm Y tế Đại học Washington, theo các bác sĩ tại đây, dù đã cố gắng điều trị nhưng bệnh tình ông Nguyễn Bá Thanh ngày một trở nặng, lý do bệnh nhân được chuyển đến quá trễ, độc tố nhiễm trong xương không thể giải trừ hết. Dù ca phẫu thuật ghép tủy trước đó thành công nhưng các tế bào nhiễm độc phóng xạ ARS đã chuyển thành ung thư và đang lây lan rất nhanh, hiện không có liệu pháp ngăn chặn. Bác sĩ F. Marc Stewart, người trực tiếp điều trị ông Nguyễn Bá Thanh cho biết, ông Thanh vừa được hóa trị lần 3 nhưng chỉ có thể duy trì thêm một thời gian ngắn. Khoa Điều trị ung thư của thành phố Seattle (Seattle Cancer Care Alliance Clinic) do giáo sư, tiến sĩ Elihu Estey làm bác sĩ chính cũng đã vào cuộc, nhưng hi vọng rất mong manh, có thể nói, sự sống của ông Nguyễn Bá Thanh chỉ còn được tính bằng ngày… Bác sĩ F. Marc Stewart (điện thoại +1 206-351-4514), người trực tiếp điều trị cho ông Nguyễn Bá Thanh tại Trung tâm Y tế Đại học Washington Như vậy, việc ông Nguyễn Bá Thanh bị đầu độc phóng xạ là sự thật minh xác, số phận ông dường như đã bị định đoạt bởi hành vi thấp hèn của đối thủ chính trị khi ông đang chuẩn bị ghi điểm quyết định nhằm tiến vào Bộ Chính trị khóa tới và khẳng định vai trò thủ lĩnh miền trung bằng cách âm thầm tiến hành điều tra tài sản tham nhũng của gia đình một Ủy viên Bộ Chính trị đương chức, cũng là người miền Trung theo chỉ thị trực tiếp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì bỗng nhiên ngã quỵ… Ai là kẻ đứng trong bóng tối giật dây cho hành vi tội ác này?   Xuất hiện nhiều tin đồn đoán cho rằng nhóm lợi ích đứng sau ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thực hiện, nhưng thực tế hoàn toàn khác và khác rất xa, việc ông Nguyễn Bá Thanh rớt khỏi Bộ Chính trị tại Hội nghị TW 7 do thiếu sự ủng hộ của ông Dũng là đúng một phần nhưng thực tế lí do chính mà ai cũng biết là ông Dũng không đồng tình với quyết định sai qui trình và độc đoán của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hơn nữa bản thân ông Dũng ủng hộ ông Bá Thanh vì ông Thanh là người làm được việc và ông Thanh đã biết rõ và rất vui vì được sự ủng hộ của cả tứ trụ triều đình, mở rộng cửa vào Bộ Chính trị trong Hội nghị TW 10 sắp tới. Còn việc ông Thanh bị triệt hạ uy tín, chặn đường vào Bộ Chính trị qua vụ Thanh tra chính phủ công bố kết quả thanh tra đất đai Đà Nẵng thì mọi người cần tham khảo bài Sự thật về thanh tra đất đai ở Đà Nẵng để có thông tin cụ thể hơn. Vậy ai mới là thủ phạm đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh? Có câu tiền nhân hậu quả, hãy xem ai là người bị đe dọa nhất trong việc nếu ông Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính trị? Chúng tôi sẽ vạch mặt tên thủ phạm bỉ ổi này trong bài phóng sự tới.   Cầu mong trời phật phù hộ cho ông Nguyễn Bá Thanh vượt qua được kiếp nạn lần này. Chân Dung Quyền Lực
......

Tại Sao Người Việt Hải Ngoại Chia rẽ?

Chung mục đích mang lại tự do dân chủ cho Việt Nam, nhưng 40 năm qua các cá nhân, các tổ chức chính trị ở hải ngọai vẫn sinh họat một cách rời rạc thiếu liên kết và người Việt nói chung không mấy quan tâm đến các sinh họat đấu tranh. Câu hỏi được liên tục đặt ra: Tại sao người Việt hải ngọai lại chia rẽ? Có nhiều lý do, nhưng chính yếu hải ngọai là một môi trường sinh họat tự do và đa nguyên với nhiều cá nhân, nhiều tổ chức hướng đến các giải pháp cho Việt Nam một cách khác biệt. Ts Nguyễn Quang Duy Khuynh hướng đấu tranh bất bạo động Sử dụng bất bạo động như một phương tiện để từng bước xói mòn khả năng kiểm soát của nhà cầm quyền Hà Nội. Bốn phương cách chính của đấu tranh bất bạo động bao gồm: ·       Thứ nhất, sử dụng các phương tiện truyền thông mang thông tin đến với người dân; ·       Vận động tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hội họp, thực hiện quyền con người; ·       Tiến đến việc xây dựng các nhóm sinh họat dân chủ, xây dựng thế liên kết, phân công và phối hợp hành động; và ·       Cuối cùng là vận động người dân tạo sức ép lên chế độ buộc họ phải chấp nhận thay đổi hoặc sẽ bị đào thải để thay bằng một chính phủ dân chủ do chính người dân bầu lên. Bước chuyển biến quan trọng nhất là năm 1996, Khối 8406 đã chuyển Phong Trào Dân Chủ từ đấu tranh bí mật sang thế đấu tranh công khai. Cùng lúc một Phong Trào Yêu Nước bảo vệ biên giới biển đảo công khai họat động. Cao điểm là giữa năm 2011 đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình tại Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố khác. Từ đó hình thành một số các Tổ Chức Dân Sự như hiện nay. Mặc dù số người công khai đấu tranh đã và đang gia tăng nhưng để có thực lực nhằm chuyển đổi thể chế độ cộng sản sang dân chủ rõ ràng phải cần nhiều năm nữa. Cần thời gian nên nếu tính đến cái giá mà người dân và người đấu tranh trong nước đang tiếp tục phải gánh chịu, cái giá của đất nước đang càng ngày càng lụn bại và cái giá của ảnh hưởng của ngoại bang càng ngày càng gia tăng. Thì đấu tranh bất bạo động không chắc là giải pháp ít thiệt hại nhất cho đất nước. Lại nữa, bất bạo động không chắc đã khả thi tại Việt Nam vì nó cần một số điều kiện mà Việt Nam sau nhiều năm vẫn chưa có. Điều kiện đòi hỏi nhất là các tổ chức chính trị phải ra mặt công khai đấu tranh thay vì vẫn họat động trong vòng bí mật. Có họat động công khai các tổ chức chính trị mới có dân và dân là yếu tố quyết định sự chuyển đổi thể chế. Bài học từ cuộc đấu tranh của người dân Hong Kong cho thấy cộng sản không bao giờ nhượng bộ, ngay cả khi có hằng trăm ngàn người xuống đường biểu tình một cách ôn hòa bất bạo động.   Khuynh hướng cách mạng   Những người tin vào giải pháp này cũng sử dụng các phương tiện truyền thông tân tiến mang thông tin đến cho đại chúng, xây dựng cơ sở quốc nội, sách động người dân, nhất là thanh thiếu niên, đứng lên để lật đổ cộng sản. Vì chủ trương cách mạng các tổ chức theo khuynh hướng này vẫn tiếp tục họat động bí mật tại quốc nội, nên khó có thể đánh giá một cách khách quan. Khuynh hướng thay đổi từ bên trong và bên trên đảng Cộng sản. Nhiều người, bao gồm những người ngọai quốc quan tâm đến tình hình Việt Nam, tin vào những thay đổi từ bên trong đảng Cộng sản. Họ cổ vũ hay ngầm ngấm ủng hộ những thay đổi nhỏ, làm tiền đề căn bản cho những thay đổi xa hơn và lớn hơn. Nhưng đến nay vẫn chưa có được những chuyển đổi rõ rệt. Khuynh hướng dựa vào Hoa Kỳ Xuất phát từ thực tế chính trị Việt Nam và tin vào sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ nhiều người đứng ra vận động thành lập chính phủ lưu vong. Việc làm của họ hòan tòan phù hợp với luật pháp của Hoa Kỳ. Nhưng trên thực tế Hoa Kỳ luôn đặt quyền lợi của Hoa Kỳ với Cộng sản Việt Nam cao hơn, nên chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ chính thức công nhận hay ủng hộ các nỗ lực nói trên. Khuynh hướng bảo vệ xây dựng hải ngọai và yểm trợ quốc nội Đây có lẽ là khuynh hướng được nhiều người hải ngọai ủng hộ nhất. Những người theo khuynh hướng này thường gắn bó với các sinh họat cộng đồng, vừa bảo vệ, vừa xây dựng cộng đồng, vừa dựa vào sức mạnh cộng đồng vận động yểm trợ quốc nội và quốc tế vận. Cộng Đồng   Ở hầu hết các địa phương Cộng đồng là tiếng nói chung hay tiếng nói của đa số người Việt. Tại Úc, Cộng đồng Liên Bang là một cơ cấu điều hợp các Cộng đồng Tiểu Bang mang tiếng nói chung đến chính giới Úc. Được biết hiện Luật sư Võ Trí Dũng chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự Do Úc châu đang ở Hoa Kỳ vận động liên kết giữa các Cộng Đồng Bắc Mỹ và Úc châu để có thể có một tiếng nói chung cho người Việt hải ngọai. Điều cần nêu ra là các Ban Chấp Hành Cộng Đồng thường thay đổi theo nhiệm kỳ và có nhiều công việc khác ưu tiên hơn. Vai trò của Cộng Đồng cũng khác với vai trò của các tổ chức đấu tranh. Bởi thế các việc vận động nhân quyền hay vận động yểm trợ quốc nội thường do các tổ chức đảm trách. Quốc Tế Vận Một trong những nỗ lực chính yếu của người Việt hải ngọai là cất tiếng nói cho chính họ hay mang tiếng nói của những người quốc nội đến chính giới và dân chúng địa phương. Từ những khuynh hướng khác nhau phát sinh nhiều sinh họat quốc tế vận khác nhau: ·       Để mọi người biết đến hay để vận động địa phương chính thức công nhận lá cờ, nhiều người sử dụng lá cờ vàng trong mọi sinh họat tại địa phương; ·       Vận động địa phương để cấm các sinh họat của nhà cầm quyền cộng sản tại địa phương; ·       Quảng bá những sự thật như nỗ lực “Hành trình đến Tự do” của Thượng Nghị Sỹ Ngô Thanh Hải tại Canada; ·       Các cuộc biểu tình tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam; ·       Sử dụng các phương tiện báo chí, truyền thông hay qua những trao đổi cá nhân, cũng đóng góp vận động người ngọai quốc hỗ trợ cho một Việt Nam tự do. Việc vận động nhân quyền cũng đã được liên tục thực hiện, nhưng cũng có nhiều phương cách và mục đích vận động khác nhau: ·       Chỉ tập trung vận động cho thành viên trong tổ chức hay một số Tù nhân Lương Tâm; ·       Tố cáo những hành động vi phạm nhân quyền để các tổ chức quốc tế hay chính giới ngọai quốc nắm được tình hình chung; ·       Ảnh hưởng đến chính sách các quốc gia sở tại. Như các cuộc điều trần, các nỗ lực gắn liền nhân quyền với viện trợ nhân đạo hay ra những đạo luật buộc cộng sản phải cải thiện nhân quyền mới được gia nhập TPP; ·       Cả ba mục đích trên được phối hợp một cách nhịp nhàng. Quốc tế vận càng ngày càng trở nên quan trọng và hải ngọai có thể dùng sức mạnh của lá phiếu để thực hiện một số công việc nhất định. Nhưng mang lại tự do dân chủ vẫn phải được quyết định từ những họat động quốc nội. Khách quan nhận xét khi thực hiện các công tác quốc tế vận các cá nhân hay các tổ chức hải ngọai thường tương nhượng hay liên kết làm việc. Gần đây một số các sinh họat quốc tế vận cũng đã được các anh chị quốc nội đứng ra đảm trách. Đây là một bước tiến quan trọng của Phong trào dân chủ Việt Nam. Nguyên nhân gây ra chia rẽ Tình hình Việt Nam và tình hình thế giới khó cho chúng ta thấy trước chuyện gì sẽ xảy ra và xảy ra ở lúc nào. Vì thế không thể mang lý thuyết ra để tranh luận đúng sai. Trong sinh họat các tổ chức có quy mô nhỏ thường sinh họat cần sự đồng thuận hơn, ngược lại các tổ chức có quy mô lớn thường có sự chỉ đạo từ trên xuống dưới. Đó là chưa kể đến những người không sinh họat với bất cứ tổ chức nào, nhưng cũng quan tâm đến tình hình Việt Nam và muốn đóng góp thay đổi thời cuộc theo suy nghĩ của cá nhân. Thực trạng nêu trên tạo các va chạm từ khuynh hướng đến phương cách thực hiện công việc. Điều đáng tiếc một số người thay vì hướng đến mục đích chung lại mở mặt trận “ai thắng ai” ngay tại hải ngọai, đấu tranh với những người theo khuynh hướng khác. Ở một mức độ sự cạnh tranh và việc tranh luận là điều cần thiết, nhưng khi đã vượt quá làn ranh và thiếu người hòa giải, lại tạo ra bất hòa không thể giải quyết. Nhưng im lặng, thiếu giải thích và thiếu thực tế chứng minh cũng không phải là một giải pháp khôn ngoan. Đương nhiên, nhà cầm quyền cộng sản cũng không thể để các cộng đồng hay tổ chức sinh họat một cách bất lợi cho họ. Về mặt chìm khó có thể biết được chính xác sự can thiệp, nhưng về mặt nổi như văn nghệ, dạy tiếng Việt, truyền thông sách báo tuyên truyền... thì Nghị quyết 36 là một bằng chứng đảng Cộng sản đã trực tiếp tài trợ (bao cấp) cho một số các sinh họat nói trên. Điều đáng tiếc có người đã lợi dụng lý do để gán cho người khác là Việt cộng hay Việt gian gây thêm nghi ngờ và chia rẽ trong các sinh họat hải ngọai. Nhiều người đâm ra chán nản và số người sinh họat chính trị hay sinh họat cộng đồng vốn đã ít nay lại ít hơn. Người dân hải ngọai xuất phát từ nhiều thành phần khác nhau và vốn đã e dè với các sinh họat. Nay không thấy kết quả cụ thể, chỉ thấy những mặt trái của sinh họat, nên càng trở nên e dè với các sinh họat đấu tranh.   Liên kết trong ngòai   Ở hải ngọai làm việc với nhau đã khó việc liên kết với trong nước lại càng khó hơn. Khách quan nhìn nhận, mặc dù mới phát triển các sinh họat quốc nội đã làm được một số điều mà chính các tổ chức hải ngọai cần học hỏi: ·       các nhóm đã liên kết làm việc chung; ·       một số nhóm đã sử dụng Facebook như một phương tiện công khai tài chánh; ·       Trong buổi họp cuối năm 2014 tại Dòng Chúa Cứu Thế đại diện các tổ chức Dân Sự đã trình bày các ưu khuyết điểm của họ trong năm 2014 và định hình hoạt động cho năm 2015. Những việc làm như vậy sẽ giúp các thành viên hiểu rõ được thực lực và định rõ được hướng đi, cũng như giúp các tổ chức xây dựng uy tín. Sự thực và minh bạch sẽ giúp xây dựng các giá trị lâu dài.   Kết Mặc dầu 40 năm nhà cầm quyền cộng sản đã đưa ra nhiều sách lược nhằm kiểm sóat, cộng đồng hải ngọai vẫn là một cộng đồng tự do. Nhưng nỗ lực yểm trợ người dân trong nước đấu tranh mang lại tự do cho Việt Nam thì vẫn còn bị giới hạn rất nhiều. Cuối năm cũng là lúc để mỗi người chúng ta, mỗi tổ chức tự xét xem làm thế nào để giảm bớt chia rẽ trong sinh họat chính trị hải ngọai, gầy dựng lại niềm tin của người dân và gắn bó hơn với cuộc đấu tranh chung. Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi 22/12/2014 Văn phong và nội dung bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
......

Hãy nhớ đến các nhà Văn, nhà Báo bị bịt miệng

Đừng quên mà hãy nhớ đến các nhà Văn, nhà Báo đang bị bịt miệng, bị tước đoạt tiếng Nói   VRNs (21.12.2014) – Thụy Sỹ – Tất cả chúng ta đều ý thức và nhận thấy tình trạng không trừng phạt mà còn bao che, dung túng các tội ác chống lại các nhà văn, nhà báo đang tạo ra một mối nguy hiểm to lớn cho Tự do, Dân chủ và Hòa bình. Tại Mễ Tây Cơ, trong tháng Mười Một này, mỗi ngày là một ngày Chết Chóc. Thảm họa mới đây khi một nhóm sinh viên đồng loạt bị mất tích nhắc chúng ta rằng ở Mễ Tây Cơ và ở mọi nơi trên thế giới hôm nay, các nhà văn, nhà báo của chúng ta đều có nguy cơ bị bắt làm con tin.   Chúng ta hãy nhớ tới ngày 15 tháng Mười Một là Ngày Vinh Danh Nhà Văn Bị Cầm Tù, và ngày 23 tháng Mười Một là Ngày Vận Động Chống Nạn Bao Che, Dung Túng Tội Ác. Nhiều nhà văn và nhà báo của chúng ta – những người chuyên chở ước mơ và phiêu lưu – đã bị gây hấn,  tra tấn, cầm tù, bị bắt cóc, ám sát hoặc bị đày ải, bắt buộc lưu vong chỉ vì họ đã viết thành văn hoặc cất lên tiếng nói. Ủy Ban Các Nhà Văn Bị Cầm Tù thuộc Văn Bút Quốc Tế đã ghi nhận đến hang trăm trường hợp các nhà văn, nhà báo bị tấn công trong suốt 12 tháng qua.   Hàng trăm người đang là tù nhân trong các trại lao động cưỡng bức (như Việt Nam). Và loại kiểm duyệt tối hậu: giết chết tác giả nào đã gây tỉnh thức xã hội. Có khoảng ba mươi vụ ám sát đã bị phát hiện. Nạn nhân gồm có các nhà văn và nhà báo : Désiré OUÉE (Côte d’Ivoire), Adel Mohsen HUSSEIN, Kawa Ahmed GERMYANI et Samira Saleh AL-NAIMI (Irak), Miguel Ángel GUZMÁN GARDUÑO, Jorge TORRES PALACIOS, Octavio ROJAS HERNÁNDEZ, Abdul Rasool KHATTAK, Irshad MASTOI, Víctor PÉREZ PÉREZ, Jesús Antonio GAMBOA URÍAS et María del Rosario FUENTES RUBIO (Mễ Tây Cơ), Abrar TANOLI, Abdul Rasool KHATTAK, Irshad MASTOI et Nadeem HYDER (Hồi Quốc), Rubylita GARCIA (Phi Luật Tân), Sai REDDY (Ấn Độ), Suon CHAN (Cambodge), Kamol DUANGPHASUK (Thái Lan), Timur KUASHEV (Nga), Vyacheslav VEREMYI (Ukraine), Isaiah Diing Abraham Chan AWUOL (Nam Soudan), Hashem SHAABANI (Ba Tư), Mo’az AL-KHALED (Syrie), Sardar AHMAD et Palwasha Tokhi MERANZAI (Afghanistan), Mayada ASHRAF (Ai Cập), Pablo MEDINA VELÁZQUEZ (Paraguay), Aung Kyaw NAING (Miến Điện), Meftah BOUZID (Libye), Pedro PALM (Ba Tây).   Đánh dấu những biến cố của tháng Mười Một này, Văn Bút Quốc Tế lưu tâm đến 5 trường hợp tiêu biểu cho những sự đàn áp không biên giới : nhà báo và nhà giáo Gao Yu mất tích ngày 23 tháng Tư năm 2014 ở Trung Hoa CS, nhà báo Ouzbèk Azimjon ASKAROV, tù chung thân từ tháng Sáu năm 2010 ở Kirghizistan, nhà thơ và nhà giáo Mahvash SABET, 20 năm tù từ tháng Sáu năm 2010 ở Ba Tư, nhà thơ Dieudonné Enoh Meyomesse, 7 năm tù từ tháng Mười Hai năm 2012 ở Cameroun và nhà văn và nhà giáo Nelson Aguilera, 30 tháng tù giam từ tháng Mười Một năm 2014 ở Paraguay. Tháng Mười vừa qua, Đại Hội Văn Bút Quốc Tế họp tại Bichkek, thủ đô nước Kirghizistan, đã đồng thanh bày tỏ sự quan ngại sâu xa về tình trạng suy thoái của quyền Tự do Phát biểu và Thể hiện Quan điểm cùng quyền Tự do Ngôn luận ở Nga, Ukraine, Cuba, Mễ Tây Cơ, Trung Hoa, Tây Tạng và Tân Cương (bị thôn tính), Ethiopie, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Honduras, Syrie, Bắc Hàn, Kirghisistan, Nam Phi, Hoa Kỳ, Azerbaidjan, Erythrée và Việt Nam. Tại nước CS sau chót này, nhiều nhà văn, nhà báo, tác giả nhựt ký điện tử, luật sư và người hoạt động bảo vệ Nhân quyền đã bị kết án tù nặng nề bởi những phiên tòa xét xử không công minh. Đa số những tù nhân có sức khỏe rất kém. Trong những trường hợp khiến chúng ta quan tâm đặc biệt, có hai nữ tù nhân: - Bà Hồ Thị Bích Khương là tác giả nhựt ký điện tử và nhà bênh vực nhân quyền. Bà còn là tác giả một hồi ký viết trong tù, nhiều bài thơ châm biếm và bài báo trên mạng. Được đài phát thanh ngoại quốc phỏng vấn, bà chỉ trích những sự lạm dụng quyền lực để áp bức tửng lớp người nông dân nghèo. Bị bắt hồi tháng 12 năm 2010 nhưng mãi đến tháng 12 năm 2011 bà mới bị kết án 5 năm tù giam và 3 năm tù quản chế. Bà từng bị giam cầm hai lần trong năm 2005 và 2007. Bà bị hành hung gây thương tích nghiêm trọng và nhiều lần bị bắt giữ ngắn hạn. Bà bị tra tấn trong nhà giam và bị tù thường phạm hành hung tàn bạo. Trước đó, bà bị những tên gây hấn khác đánh đập, bà bị gãy tay trái trong thời gian giam cứu. Bà Hồ Thị Bích Khương bị biệt giam cho nên sức khỏe của bà rất suy yếu ; - Bà Tạ Phong Tần là tác giả nhựt ký điện tử có sáng tác phong phú, bà còn là một nhà luật học và hội viên Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do (bị cấm). Bị bắt hồi tháng 9 năm 2011 nhưng mãi đến tháng 9 năm 2012 bà mới bị kết án 10 năm tù giam và 3 năm tù quản chế. Bà là tác giả của hơn 700 bài viết về các vấn đề tham nhũng, lạm dụng quyền lực, tịch thu độc đoán đất của người dân cô thế và ngược đãi trẻ con. Những bài bà viết trên nhựt ký điện tử được đọc nhiều nhứt qua các cơ sở truyền thông quan trọng và trên các đài phát thanh ngoại quốc. Từ năm 2008, bà bị công an sách nhiễu hung bạo và nhiều lần bị bắt giữ ngắn hạn. Ngày 30 tháng 7 năm 2012, bà Mẹ tù nhân Tạ Phong Tần qua đời sau khi tự thiêu để phản đối việc giam cầm bất công con gái của mình. Bà Tạ Phong Tần bị hành hạ, ngược đãi trong trại tù. Sức khỏe của bà rất suy yếu .   Ngoài ra, chế độ Hà Nội đang không ngần ngại sử dụng một cách thức khác: biến các nhà văn, nhà báo bị cầm tù thành món hàng để trao đổi. CS muốn có chữ ký cho phép mua các loại vũ khí chiến tranh bị cấm bán cho họ. Nhà cầm quyền CS thả dần các tù nhân lương tâm bị bệnh tật, một cách nhỏ giọt và buộc các nạn nhân phải đi lưu vong ngay lập tức. Không những thế, các bản án tù giam và tù quản chế của họ không được xóa bỏ mà chỉ bị đình hoản thi hành. Chúng ta hãy phẫn nộ, hãy biểu tỏ sự đoàn kết với những nhà văn và nhà báo – những con người mang ánh sáng thông tin chống lại bóng tối của bạo lực đe dọa, của bọn đồng lõa và kẻ đớn hèn. Tất cả chúng ta hãy cùng cất cao tiếng nói, dù có thể nấc nghẹn, thắp lên một ngọn nến, dù mong manh, để xua đi màn đêm băng giá của tính thờ ơ vô cảm, nỗi im lặng sợ hãi và thói đời quên lãng !   Nguyên Hoàng Bảo Việt Phó chủ tịch Trung tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại
......

Di sản Đông Đức 25 năm sau ngày thống nhất

Hai mươi lăm năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức Thống Nhất, cùng với ngân khoản khổng lồ để tái thiết những vùng trước kia ở bên kia bức màn sắt của nước Đức lên tới một ngàn năm trăm tỷ Euros, khoảng 2000 tỷ mỹ kim, hai miền của nước Đức nay vẫn còn nhiều khác biệt từ kinh tế đến con người. Một bản tin của AFP vào cuối tháng 10 vừa qua (1) cho biết như vậy. Ngân khoản to lớn vừa kể (ước tính cho đến nay) là khoản tiền thuế phụ trội 5.5% có tên gọi là thuế “đoàn kết” (solidarity tax) mà người dân Tây Đức phải đóng thêm từ năm 1991 cho đến năm 2019 để tái thiết lại Đông Đức sống dở chết dở sau bao nhiêu kế hoạch ngũ niên của nhà nước cộng sản Đông Đức.   Một bản tin khác của AFP tháng trước đó (2) thuật lại một số chi tiết trong bản báo cáo hàng năm, đánh giá về việc tái thiết Đông Đức để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 25 năm nước Đức thống nhất năm nay, tuy có đưa ra hình ảnh tích cực hơn của Đông Đức sau 25 năm nước Đức thống nhất, nhưng vẫn cho thấy những nét ảm đạm của “di sản Đông Đức”. Bản báo cáo vừa kể của bà Iris Gleicke, đại diện của những tiểu bang “mới” cho biết, mặc dù việc tái thiết 5 tiểu bang thuộc Đông Đức cũ đã đạt được nhiều tiến triển và hài lòng về “bức tranh tổng thể”, cũng như đã thành công phần lớn trong việc hội nhập của người dân Đông Đức, nhưng vẫn còn một khoảng cách đáng kể giữa hai miền trong lãnh vực kinh tế và công ăn việc làm. Mặc dù lợi tức bình quân đầu người của người dân Đông Đức nay đã tăng gấp đôi so với lúc bức tường Bá Linh vừa sụp đổ vào năm 1990, nhưng lợi tức này nay vẫn chỉ bằng khoảng 2/3 lợi tức bình quân của người dân Tây Đức, trong khi đó thì sự thịnh vượng của Tây Đức gần gấp đôi Đông Đức. Bản báo cáo này còn cho biết, từ năm 1995 đến năm 2013 nền kinh tế ở Đông Đức tăng trưởng 20%, cùng thời gian đó kinh tế Tây Đức Tăng trưởng 27%. Theo bản báo cáo thì con số ít ỏi các công ty lớn di chuyển sang Đông Đức là yếu tố quan trọng làm cho năng suất lao động của người dân vùng này thấp kém, điều này cũng khiến sự hội nhập của người dân Đông Đức trong mấy năm vừa qua chậm lại. Mặt khác, nền công kỹ nghệ ở Đông Đức sau năm 1990 chỉ gồm những công ty loại trung bình và nhỏ. Không có một công ty nào có tên niêm yết trên thị trường chứng khoán DAX của Đức đặt trụ sở của họ ở phía Đông Đức. Các công ty đa quốc gia đặt trụ sở ở phía Tây Đức vì điều kiện làm việc tốt hơn, họ cũng trả lương cao hơn, và nhờ thế họ mới giữ được lực lượng lao động có tay nghề và năng suất cao.   Theo các con số chính thức thì tỷ lệ thất nghiệp ở phần đất Đông Đức là 10.3%, dù rằng trong năm 2013 Đông Đức đã hạ được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất kể từ khi nước Đức thống nhất đến nay; trong khi tỷ lệ đó ở Tây Đức chỉ khoảng 6%. Mười năm trước đây tỷ lệ thất nghiệp ở Đông Đức lên đến 18.4%, gấp đôi ở Tây Đức. Một báo cáo khác của viện nghiên cứu kinh tế Ifo công bố gần đây cũng cho thấy một hình ảnh tương tự. Theo một cuộc thăm dò vào cuối tháng 9 thì có đến 75% “Ossis”, tức những người ở Đông Đức cũ như ở Đức vẫn gọi họ, thấy nước Đức thống nhất là sự kiện tích cực, trong khi đó chỉ có 48% "Wessis" (người ở phía Tây Đức) cảm nhận tương tự. Nhiều người dân Đông Đức thuộc thế hệ già cả vẫn nuối tiếc hệ thống y tế và giáo dục “bao cấp” thời cộng sản. Nhìn chung thì ai cũng phải thừa nhận những nguyên nhân, sự khác biệt và yếu kém của nền kinh tế Đông Đức cũ dưới chế độ cộng sản. Nó để lại một di sản nặng nề và tồi tàn cho nước Đức sau khi thống nhất. “Việc tái thiết (Đông Đức) vẫn chưa xong, rõ ràng là như vậy. Tuy nhiên đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm”. Ông Michael Burda, kinh tế gia ở đại học Humboldt, Berlin, đã nhận xét như vậy khi nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất.   --- (1) Theo ước đoán của giáo sư Thomas Lenk, đại học tài chánh công Leipzig (public finance at Leipzig University), 25 years on, Germany's east-west divide still palpable (http://news.yahoo.com/25-years-germanys-east-west-divide-still-palpable-...) (2) Eastern Germany still lags 25 years after Berlin Wall's fall, (http://news.yahoo.com/eastern-germany-still-lags-25-years-berlin-walls-2...)   Theo FB CTM
......

Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung – Việt tại Thành Đô

Bài sau đây có nguồn gốc từ một trang mạng bán chính thức của Trung Quốc và mang giọng điệu gián tiếp đe dọa sẽ bật mí tất cả trong thời gian tới. Điều này cho thấy nếu Hà Nội không sớm công bố các ký kết bí mật tại Hội Nghị Thành Đô thì Bắc Kinh sẽ ra tay trước và theo hướng có lợi cho họ. Không những thế, Bắc Kinh còn có thể thêm bớt vào các ký kết để thủ lợi tối đa vì không ai ngoài các thủ lãnh CSVN và CSTQ biết bản nào thật, bản nào giả. (BBT-TTĐQ). *****************   Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.   Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai   Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.   Tháng 7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao, cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu Bình thổ lộ điều bí mật Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.   Không ngờ hai vị lãnh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.   Đặng Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói: Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam  khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch. Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ý hữu hảo Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết. Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ. Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này. Nguyễn Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông. Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế. Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.   Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.   Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung. Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.   Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói : “Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.” “Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.” “Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.” “Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.” “Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”   Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng. Hoàng giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành. Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng? Vì việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ. Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc phòng Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này. 8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết. Trong tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.   Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này. Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương. Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương   Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý. Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.   Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn. Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.   Gặp gỡ bí mật Thành Đô   Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Lãnh đạo Trung cộng & Việt cộng tại Thành Đô Lý Bằng & Giang Trạch Dân nâng ly chúc mừng Hội nghị thành công Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh. Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên. Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều nay. Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm. Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh. Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3] Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.   16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc -Việt Nam Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”. Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới. Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết có đăng trên mạng China.com. ————— [1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lý Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND). [2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND). [3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình hữu nghị muôn đời (ND). [4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và ngoài Trung Quốc. (ND) Nguồn: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
......

Lý Bằng tiết lộ hội nghị Thành Đô 1990

Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990 là bước ngoặt của quan hệ Trung-Việt... Hai bên ký kết "Kỷ yếu hội nghị" đồng thuận bình thường hóa quan hệ song phương. Cuộc đàm phán bí mật, đảng cộng sản Việt Nam không tiết lộ và cũng không công bố cho toàn nhân dân Việt Nam biết một sự kiện lịch sử quan trọng. Đến ngày 5/11/1991, Đỗ Mười Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, và Võ Văn Kiệt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung-Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán Bắc Kinh (钓鱼台国宾馆). Một phần tư liệu về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, được tiết lộ bởi "Lý Bằng Nhật ký ngoại sự" (李鹏外事日记 ) và "Hợp tác phát triển Hòa Bình (和平发展合作), ngoài ra tác giả công bố hơn 230 bức ảnh phụ trang, phần lớn đã được công bố tại Trung Quốc. Nguồn: Công bố bởi Nhà xuất bản Tân Hoa Xã. Chúng tôi xin tóm lược một luồng thông tin giới thiệu tới độc giả như để tham khảo những tài liệu sau này về Hội Nghị Thành Đô 1990: Lý Bằng (Li Peng) viết hai cuốn Hồi ký "Nhật ký ngoại sự", và "Hòa Bình phát triển hợp tác", đó là những cuốn sách nhật ký chú trọng phần hoạt động đối ngoại của Lý Bằng đã từng là Phó Thủ tướng, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Thường vụ (NPC). Bài này trích trong cuốn "Nhật ký ngoại sự" và "Hòa bình phát triển hợp tác" của tác giả Lý Bằng. NXB Tân Hoa xã xuất bản. Nguồn:people.com.cn. [1] Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư. (3) Phạm Văn Đồng, (4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân), (5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), (6) Lý Bằng, (7) Đỗ Mười, (9) Hồng Hà (bìa phải) và Đinh Nho Liêm. Ảnh chụp tại Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Hội nghị vừa kết thúc, nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn Việt Nam: "Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam thời gian 30 năm để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc!" [2] Lý Bằng "Nhật ký ngoại sự" (外事日记). Về hình thức ghi lại quá trình bình thường hóa quan hệ Trung-Việt như sau: Cuối những năm 1970. Việt Nam đưa quân sang Campuchia. Năm 1979, quan hệ Trung-Việt đụng đáy hết thuốc chữa. Tháng 12 năm 1986, thời đó Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đương quyền, tình hình quốc tế thay đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Liên Xô bị tan rã. Nguyễn Văn Linh tìm kiếm chính sách, điều chỉnh lại bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc-Việt Nam. Sau khi hai bên Trung-Việt thông qua đường liên lạc, đồng ý hội nghị bí mật vào ngày 03 - 04 tháng 9 năm 1990. Nguyễn Văn Linh và Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười chấp nhận đàm phán với các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên. Thứ Sáu, ngày 26 tháng 12 năm 1986. Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời vào tháng 7. Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, tại Đại hội 6 đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 8. Hôm nay, Việt Nam tuyên bố rằng "Rút toàn bộ quân đội của Việt Nam ra khỏi Campuchia". Lần này, tạo ra các điều kiện để giải quyết "trơn tru" cho mọi thuận lợi của vấn đề Campuchia, đồng thời làm "sạch" các chướng ngại bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Thứ Tư, ngày 6 tháng 6. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hẹn gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei) [3] tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn (Văn Linh), hy vọng cho một lần đầu, thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hai đảng, đồng thời mong sớm được đàm phán tại Trung Quốc. Chủ Nhật, ngày 26 tháng 8. Giới thiệu chuyến viếng thăm nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc, gồm Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mục đích giải tỏa những vấn đề hai nước, hai đảng..., tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, ông cho biết hoàn toàn tán thành. Thứ Hai, ngày 27 tháng 8. Về đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến với Nguyễn Văn Linh theo những dự thảo liên quan, tôi đã báo cáo lên đồng chí Đặng Tiểu Bình. Theo quan điểm của Thế vận hội Châu Á (Asian Games), sắp tới tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng cuộc họp này liên quan đến việc bình thường hóa quan hệ song phương Trung-Việt, đặc biệt hệ trọng, nên để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm sẽ được bố trí ở Thành Đô. Thứ Năm, ngày 30 tháng 8. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đi đến Thành Đô để đàm phán nội bộ với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười, đã có ban hành lời mời phía Việt Nam. Bây giờ thử xem Việt Nam trả lời thế nào. Chủ Nhật, ngày 02 tháng 9. 15 giờ 30, tôi lên chiếc máy bay chuyên cơ, cất cánh từ vùng ngoại ô sân bay Tây Giao Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 00 đến sân bay Thành Đô. Chúng tôi di chuyển bằng ô-tô qua lộ trình mất hơn 20 phút đến Kim Ngưu tân quán (宾馆金牛), Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đang chờ đợi. Đồng chí Giang Trạch Dân đáp một chiếc bay chuyên cơ đến Thành Đô chậm hơn tôi nửa giờ sau, tôi đến Thành Đô. 08 giờ 30 tối. Đến 11 giờ đêm, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi chính sách cho cuộc đàm phán với phía Việt Nam vào ngày mai. Thành Đô thứ Hai, ngày 03 tháng 9. Buổi sáng, tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc tiến hành đàm phán với phía Việt Nam. Khoảng 14 giờ 00, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng cùng đến Kim Ngưu tân quán Thành Đô (成都宾馆金牛) [4]. Giang Trạch Dân và tôi chào đón họ tại tầng lầu 1. Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, mặc veston cà phê, phong thái học giả. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Đỗ Mười mái tóc bạc trắng cũng có thái độ mạnh mẽ, mặc veston màu xanh. Họ là những người trên bảy mươi tuổi, và Phạm Văn Đồng thị giác mắt nheo đục, mặc veston đại cán phù hợp với màu xanh, ông cũng là cựu chiến binh Trung Quốc. Kim Ngưu tân quán Thành Đô Tứ Xuyên (成都宾馆金牛) Buổi chiều, cuộc đàm phán bắt đầu, Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên thực hiện một bài phát biểu dài. Mục đích mong muốn bày tỏ giải quyết các vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt, đồng thời đàm phán việc thành lập Hội đồng tối cao của Campuchia là một phần ưu tiên, không nên loại trừ bất kỳ bên nào, không thể bày tỏ sự miễn cưỡng để can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem ra về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh có vẻ chỉ muốn bày tỏ thái độ tuyên bố về nguyên tắc, trọng điểm là đặt vào phương diện bình thường hóa quan hệ Trung-Việt. Cuộc đàm phán tiếp tục cho đến 8 giờ 00, sau 08 giờ 30 mới bắt đầu mở tiệc buổi tối. Bên bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lần lượt làm việc với Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh? Thứ Ba, ngày 04 tháng 9. Buổi sáng, chúng tôi tiếp tục họp với các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Tại thời điểm này, có thể nói những vấn đề nêu ra trong đàm phán đã đi đến sự đồng thuận một cách khá thỏa đáng, cùng quyết định soạn thảo một bản "Kỷ yếu hội nghị". 14 giờ 30, trong hai bên Trung-Việt tổ chức một buổi lễ ký kết tại khách sạn trên tầng số 1 Nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt đồng ký do Tổng bí thư và Thủ tướng Chính phủ tương ứng. Đây là một bước ngoặc lịch sử trong quan hệ Trung-Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đọc câu thơ của Lỗ Tấn "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Tặng cho các đồng chí Việt Nam. Về vấn đề này, các đồng chí Việt Nam tỏ ra hài lòng. 16:00, chuyên cơ cất cánh về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 như vậy đã đến nơi. Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội 7 Thứ Bảy, ngày 29 tháng 6 năm 1991. Đại hội 7 Đảng cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được đắc cử Tổng bí thư, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng làm cố vấn. Những giai điệu tổng thể của Đại hội 7, Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh kiên trì giáo lý chủ nghĩa xã hội, tham gia vào các cải cách kinh tế, chủ trương tình hữu nghị Việt-Xô, Việt-Trung. Tinh thần của Đại hội 7 có lợi cho việc cải thiện quan hệ song phương Trung-Việt. Bắc Kinh thứ ba, ngày 30 tháng 7. Buổi chiều, tôi đã gặp gỡ các đại diện đặc biệt của Lê Đức Anh của Ủy ban Trung ương Việt Nam và Hồng Hà. Họ yêu cầu mở cuộc họp cấp cao Trung-Việt tổ chức tại Việt Nam. Tôi cho rằng, để nhân dân hai nước có sự chuẩn bị trước, để cho ASEAN và các nước khác không nảy sinh nghi ngờ, hai bên Trung-Việt. Cần tiến hành cuộc đáp ứng, gặp ở các cấp thứ trưởng và bộ trưởng ngoại giao trước đã, như cuộc họp cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng không có vấn đề về nguyên tắc. Ngày hôm sau Tổng bí thư Giang Trạch Dân sẽ trả lời chính thức với phía Việt Nam. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, cả hai đối tác thông qua tham khảo ý kiến và giải quyết. Trung Quốc giữ thái độ tích cực với tất cả các lĩnh vực về thương mại, bưu chính, vận chuyển, thanh toán ngân hàng, khôi phục giao thông đường bộ. Thứ Ba, 17 giờ 00, ngày 05 tháng 11. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đã đã tổ chức lễ đón chính thức Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tại quảng trường ở ngoài cửa phía đông Đại lễ Đường Nhân dân. Tiếp đó, chúng tôi tổ chức tiến hành cuộc đàm phán. Đỗ Mười có thái độ rất rõ ràng về vấn đề Đài Loan. Đồng chí Giang cho biết, sau khi quan hệ song phương một thời quanh co, nay đã trải qua một quãng đường gập ghềnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam có thể ngồi lại với nhau để tiến hành cuộc đàm phán cấp cao mang ý nghĩa quan trọng. Đây là một kết thúc của các cuộc đàm phán trong quá khứ, hướng tới tương lai, nó đánh dấu sự bình thường hóa trong quan hệ hai nước, sẽ có tác động sâu sắc đến sự phát triển của quan hệ song phương. Đỗ Mười nói rằng, bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, đồng thời cũng giúp ích cho hòa bình và ổn định của khu vực và trên thế giới. Tiếp đó, tổ chức bữa tiệc. Thứ Tư, ngày 06 tháng 11. Buổi chiều, tôi đàm phán với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt, bầu không khí rất tốt. Đầu tiên tôi nêu ra rằng Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tiến hành đàm phán khả quan, đã trao đổi đầy đủ quan điểm. Về vấn đề Đài Loan, thái độ Võ Văn Kiệt thể hiện rất tốt. Tôi điểm qua các vấn đề về vay nợ, biên giới, người dân tị nạn… trong cuộc hội đàm. Hai bên đồng ý sau này sẽ không bàn tới nữa. Với các dự án vay vốn do phía Việt Nam vừa đề xuất, tôi đã hứa sẽ cho khảo sát các dự án của phía Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, tôi nêu rõ, thỏa thuận về giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia đã được ký tại Paris, việc thực hiện thỏa thuận vẫn đòi hỏi các bên phải tiếp tục nỗ lực. Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆) Thứ Năm, ngày 7 tháng 11. Buổi chiều, Hiệp định Thương mại Trung-Việt và Hiệp định tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới giữa hai nước đã được ký kết và thỏa thuận tại Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài Quốc Tân Quán (钓鱼台国宾馆). Các lãnh đạo đảng và chính phủ hai nước đã dự lễ ký kết, sau đó, tôi cùng đồng chí Giang Trạch Dân chia tay Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi du lịch đến Quảng Châu, Thẩm Quyến và đến thăm những nơi khác. Huỳnh Tâm (Dân Làm Báo)
......

Chuyện Lăng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh (HCM) chết ngày 2-9-1969.   Ngày 2-9 là quốc khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên Bộ chính trị đảng Lao Động (BCTĐLĐ), sợ xui xẻo, cho đổi ngày chết của HCM là 3-9-1969.  Di chúc chót (thứ ba) của HCM bị Lê Duẫn, bí thư thứ nhất đảng LĐ, sửa đổi rồi mới cho công bố, đề ngày 10-5-1969. (Toàn văn các bản di chúc của HCM được Nxb. Thanh Niên, TpHCM ấn hành năm 1990.) Bản di chúc do Lê Duẫn sửa đổi, hoàn toàn không đề cập đến việc chôn cất HCM.  Trong bản di chúc đầu tiên do HCM đánh máy và ký tên ngày 15-5-1965, có chữ ký "chứng kiến"[nv] của Lê Duẫn, HCM viết: "Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là "hỏa táng"... Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn.  Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt... thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam…" (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc, Nxb. Thanh Niên, TpHCM, tt 13-16.)  Hồ Chí Minh sửa đổi đôi chút về việc chôn tro cốt trong bản di chúc thứ hai viết năm 1968, theo đó "Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành.  Một hộp cho miền Bắc.  Một hộp cho miền Trung.  Một hộp cho miền Nam.  Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó... " (HCM, sđd. tr. 26-29.)  Dầu tỏ ra khiêm nhượng, nhưng cho đến khi gần chết, HCM vẫn còn tham vọng muốn dân chúng chiêm ngưỡng ông rộng rãi khắp nước sau khi chết.  Gần ba tháng sau khi HCM chết, trong cuộc họp ngày 29-11-1969, BCTĐLĐ quyết định ướp xác HCM và xây dựng mộ phần HCM mà CS gọi là lăng.  (Bài nầy gọi mộ HCM là lăng theo tên gọi chung.)  Nếu để đến ba tháng mới ướp xác thì cái xác HCM đã bị sình thối, nên chắc chắn việc ướp xác đã được BCTĐLĐ cho thi hành ngay sau khi HCM chết.  Một chuyên viên Liên Xô đã bí mật đến Hà Nội vào năm 1968 để cố vấn tiến trình ướp xác HCM.  Tháng 3-1969, một toán chuyên viên Bắc Việt được gởi qua Moscow tham khảo thêm.  Khi HCM chết ngày 2-9-1969, Bắc Việt lúng túng, phải giữ xác HCM trong hầm nước đá, và vào giữa tháng đó, một chuyên viên thứ hai của Liên Xô được gởi sang Hà Nội để lo ướp xác HCM.  (William J. Duiker, Ho Chi Minh, Nxb. Hyperion, New York, 2000, tr. 565, và phần chú thích số 3 tr. 669.)  Vậy tất cả mọi việc đều đã được chuẩn bị ngay cả trước khi HCM qua đời, và ngày 29-11-1969 chỉ là ngày BCTĐLĐ công khai hóa vấn đề ướp xác, xây lăng mà thôi. Cộng sản vốn chủ trương duy vật vô thần, chống lại các tín ngưỡng, tiêu diệt các tôn giáo, triệt hạ các đền đài, chùa chiền và nhà thờ, tại sao đảng LĐ lại đi ngược lại di chúc HCM, ướp xác xây lăng HCM để mọi người chiêm bái?  Trước khi chết, HCM đã viết trong di chúc: "...Vì vậy tôi để sẵn mấy lời nầy, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin và các vị c. m. đàn anh khác..." Khi chết, HCM không đi thăm ông bà cha mẹ, mà đi thăm người nước ngoài chưa một lần gặp mặt.  Dầu sao, điều nầy còn có nghĩa là trước khi chết, HCM tin tưởng rằng linh hồn con người còn hiện hữu sau khi qua đời, và cũng có nghĩa là HCM phản bác lại chủ nghĩa duy vật, quay về với tín ngưỡng linh hồn cổ xưa của người Việt.  Về phía BCTĐLĐ, chắc chắn không phải vì tin vào sự hiện hữu của linh hồn, mà BCTĐLĐ quyết định xây lăng cho HCM.  Ý đồ của  đảng LĐ được dân chúng phỏng đoán khi đảng LĐ xây lăng HCM là:  1) Vinh danh sự thừa kế. 2)  Sùng bái cá nhân. 3)  Duy trì chế độ độc tài. 4) Bất tử hóa đảng LĐ. Một uỷ ban xây dựng lăng HCM được thành lập, gồm đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng do Đỗ Mười, lúc đó là Uỷ viên Trung ương đảng, làm chủ tịch.  Uỷ ban nầy nghiên cứu nhiều kiểu mẫu kiến trúc lưu niệm như Kim tự tháp Ai cập, Đền Victor Emmanuel ở Rome, Đài tưởng niệm Lincoln ở Washington D.C. và lăng Lenin ở Moscow.  Những dự án kiến trúc đề nghị được BCTĐLĐ đưa ra trưng bày trên toàn quốc để hỏi ý kiến công chúng.  (Tại sao những vấn đề chính trị quan trọng không hỏi ý kiến dân chúng mà chỉ hỏi mẩu mộ HCM?)  Tháng 12-1971, BCTĐLĐ quyết định lần chót đồ án xây cất.  Công cuộc xây lăng bắt đầu một thời gian ngắn sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27-1-1973). (William J. Duiker, sđd. tt. 565-566.)  Lúc đó, Bắc Việt không còn sợ bị Mỹ ném bom.   Quần thể lăng HCM Lăng HCM được xây dựng tại khu vực Quảng trường Ba Đình, gần vườn Bách thảo, phía trước Phủ Chủ tịch chính phủ VNDCCH.  Đồ án lăng HCM được BCTĐLĐ chọn lựa do người Liên Xô vẽ kiểu, đứng  cao lên giữa Hà Nội, được giải thích là hình ảnh một đóa hoa sen nhô cao lên mặt nước, theo kiểu dáng một ngôi chùa gần đó, chùa Một Cột, được xây dựng vào thế kỷ 11.  Thật ra, ai cũng thấy lăng HCM giống như lăng Lenin ở Công trường Đỏ tại Moscow.  Liên Xô cử người sang làm tổng công trình sư, điều khiển tiến trình thiết kế thi công, và chỉ để cho phía Bắc Việt cung cấp nhân công và vật liệu mà thôi.  Công trình xây cất kéo dài hơn 2 năm, tập trung tất cả những vật liệu quý hiếm khắp nơi trong nước, như gỗ quý từ lâm viên Quốc gia Cúc Phương, những vật liệu quý hiếm ở các tỉnh miền Nam như đá cẩm thạch Non Nước, Đà Nẵng, và đặc biệt sử dụng cả những khối đá lớn mua từ Crimée, tây nam Liên Xô.  Lăng HCM được khánh thành ngày 29-8-1975, mở đầu tuần lễ mừng chiến thắng miền Nam sau khi CS Bắc Việt tràn quân cưỡng chiếm miền Nam tháng 4-1975, mừng quốc khánh của CS (2-9) và kỷ niệm ngày chết của HCM theo chủ trương lúc đó là 3-9.  Đây là tòa nhà công cộng duy nhứt lúc đó ở Bắc Việt được điều hòa không khí, đứng sừng sững đơn độc cao ngất trước và trên Phủ chủ tịch, ngự trị một cách oai vệ vùng trung tâm thành phố Hà Nội.  Lăng HCM là công trình xây cất duy nhứt ở Hà Nội trong suốt hơn 20 năm cầm quyền của đảng LĐ ở Bắc Việt từ năm 1954.  Từ năm 1954 đến 1975, toàn bộ thành phố, đường sá, nhà cửa, kể cả nhà cửa tư nhân ở Hà Nội đều vẫn như cũ.  Không xây nhà cho dân chúng hoặc công trình tiện ích xã hội, mà đảng LĐ lại tập trung tài vật toàn quốc xây một nhà mồ ướp xác như các hoàng đế Ai Cập cổ xưa xây Kim tự tháp.  Điều nầy cho thấy quan niệm của CS chỉ là "Trung với đảng, hiếu với lãnh tụ". Trước khi ra mắt công chúng, đảng LĐ ra lệnh cho toàn thể các tỉnh thành khắp nước gởi về các loại cây cối, bông hoa quý hiếm trồng chung quanh lăng để tạo phong cảnh thiên nhiên Việt Nam.  Lăng HCM, ngay khi mới khánh thành, đã bị nhiều người lúc đó phê bình về nhiều điểm: Trước hết, người ta nói rằng đảng LĐ (nay là đảng Cộng Sản) đã vi phạm di chúc của HCM.  HCM muốn thiêu xác sau khi chết, chứ không phải ướp xác trưng bày trong lăng.  Mô hình lăng có tính cách ngoại lai theo kiểu vua chúa ở Âu châu chứ không mang những đặc tính Việt Nam.  Điều nầy không lấy gì làm lạ vì người Liên Xô vẽ kiểu theo mẫu lăng Lenin ở Công trường Đỏ tại Moscow, Liên Xô.  Đương nhiên, người Liên Xô muốn chứng tỏ ưu thế chính trị và văn hóa của họ ở Bắc Việt nên đã xây lăng HCM theo mô thức lăng Lenin ở Moscow.  Ngay từ đầu, đảng LĐ  gọi ngôi mộ của HCM là “lăng”.  Trong tiếng Việt, "lăng, hay lăng miếu, lăng mộ, lăng tẩm" là những từ ngữ để gọi ngôi mộ của vua chúa hay các đại quan thời quân chủ (ví dụ lăng Gia Long, lăng Ông tức lăng Lê Văn Duyệt...), trong khi chế độ CS luôn luôn tự cho là dân chủ, hô hào chống lại nền quân chủ phong kiến.  Đảng LĐ xây lăng HCM quá đồ sộ trong lúc dân tình đói khổ, nhà cửa cũ kỹ xơ xác, nghèo khổ.   Sự tương phản lớn lao nầy ngay tại thủ đô Hà Nội tạo ra một hình ảnh xã hội cách biệt sâu rộng giữa người cầm quyền và dân chúng dưới chế độ CS.  Nhà cầm quyền CS lại còn bắt dân chúng cung phụng những gì quý hiếm ở các địa phương, đưa về trang trí lăng HCM, không khác gì các vua chúa ngày xưa đòi các địa phương phải hiến dâng phẩm vật tiến triều. Sau khi lăng HCM xây xong, việc tổ chức và duy trì lực lượng quân sự để bảo vệ lăng HCM hao tốn một ngân quỹ nhà nước hằng năm hết sức lớn lao từ 1969 cho đến nay.  Báo chí hải ngoại ước tính trung bình mỗi năm việc bảo trì xác ướp và bảo vệ lăng HCM tốn kém trên một trăm ngàn Mỹ kim, nhưng theo một đảng viên trong nước tiết lộ, thì số tốn phí mỗi năm cao hơn rất nhiều.  Các chi phí gồm có:  Quân đội bảo vệ lăng, đứng đầu là một sĩ quan cấp tướng, với ít nhất hai tiểu đoàn chính quy, và không biết bao nhiêu cảnh sát vừa nổi vừa chìm đứng gác.  Tiền lương cho ông tướng, bộ tham mưu và hai tiểu đoàn cùng đám cảnh sát mỗi tháng đã khá cao.  Sinh hoạt của lăng nầy tiêu thụ một lượng điện và nước tiêu dùng bằng một quận lớn ở thành phố, trong khi lúc đó dân chúng thiếu thốn điện nước trong sinh hoạt hằng ngày.  Để quảng cáo cho lăng HCM, nhà nước CS ra lệnh các trường học và các địa phương phải tổ chức những cuộc đi thăm lăng "bác".  Có khi ít người thăm viếng lăng nầy, ban Bảo vệ lăng có sáng kiến tặng quà, kể cả thức ăn, cho những ai chịu khó sắp hàng vào thăm lăng.  Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, ở Hà Nội việc duy trì xác ướp HCM gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh.  Hiện nay, tại Hà Nội, dư luận đồn rằng việc bảo trì không được tốt, nên xác HCM đã bị hư thối, và dư luận cũng cho rằng cái xác trong lồng kính hiện đặt ở Ba Đình chỉ là hình nộm bằng sáp hóa học mà thôi. (Robert Templer, sđd. tr. 43.) Nhắm mục đích vinh danh sự thừa kế, sùng bái cá nhân và duy trì chế độ độc tài đảng trị, BCTĐLĐ đã phản lại di chúc HCM, quyết định xây lăng HCM bất kể tốn kém và xem lăng nầy là một quốc bảo.  Các khách quý nước ngoài đến Việt Nam đều được mời thăm lăng HCM.  Hai quốc gia có nhiều liên hệ văn hóa, lịch sử, chính trị với Việt Nam trong giai đoạn cận và hiện đại là Pháp và Hoa Kỳ, nhưng tổng thống hai nước nầy khi đến Hà Nội đều không vào thăm lăng HCM. Tổng thống Pháp, François Mitterand, đến Việt Nam từ ngày 23 đến ngày 27-6-1993, và tổng thống Hoa Kỳ, Bill Clinton, đến Việt Nam từ 16 đến 18-11-2000, đều không vào lăng viếng HCM. Trong khi đó, cả hai ông đều vào thăm Văn Miếu Hà Nội, nơi tụ khí anh linh văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam do vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054-1072) lập ra năm 1070 (canh tuất). Nghe nói lãnh đạo đảng CSVN hiện nay đang tìm cách “hạ cánh an toàn”. Người thì làm sui với Việt Kiều, người qua Mỹ trị bệnh, người gởi tiền qua các ngân hàng Tây Phương (Không ai dại gởi tiền qua ngân hàng Trung Cộng hay Nga cả.). Thế thì đã đến lúc cũng nên cho HCM “hạ cánh an toàn”, hỏa thiêu và đem chôn HCM theo ý muốn của HCM.  Làm như thế, đảng CSVN vừa làm gương trước dân chúng, học tập và thi hành đúng di chúc HCM, vừa tiết kiệm ngân sách bảo vệ lăng vốn do tiền thuế của dân đài thọ, vừa dành cho kẻ chết chỗ yên nghỉ cuối cùng theo ý muốn.  Trong dịp Tết vừa qua, ngày 3-2-2014, có bốn người vác búa dự tính đập phá lăng HCM, có lẽ nhằm tiêu hủy xác chết HCM.  Cả bốn người đều bị bắt và bị kêu án tổng cộng là 19 năm tù.  Nếu bốn người thành công, có lẽ HCM đã bị bêu đầu. Thật ra, không nên đập phá lăng nầy vì lăng là tài sản của toàn dân. Chắc chắn một ngày gần đây sẽ có sự thay đổi chế độ, vì không một chế độ độc tài nào trường tồn trên cõi đời nầy, thì lúc đó sẽ không biết số phận xác chết HCM như thế nào, vì không ai cản nỗi tâm lý đám đông nổi giận, và cũng không ai công đâu mà lo chôn cất một cái xác thối nát. Chỉ riêng cái lăng đồ sộ nầy sẽ là nơi thích hợp nhứt để làm trung tâm triển lãm tội ác HCM và tội ác đảng CSVN. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 01-09-2014)
......

CCRĐ – Tội ác vượt chỉ tiêu trên giao

Hiện nay, nhà nước cộng sản Việt Nam đang cho mở triển lãm về cải cách ruộng đất (1947-1957) nhằm tuyên truyền sai sự thật về cuộc cải cách vô cùng àn bạo này, khoác lên mình toàn máu của nó những đóa hoa của nhân bản và thắng lợi; rằng cải cách đã chia ruộng cho dân nghèo. Để hai năm sau, năm 1958, phong trào hợp tác hóa sản xuất nông nghiệp đã cướp hết ruộng đất , trâu bò, cày cuốc …của nông dân nghèo vừa được chia ruộng, gom vào trong tay một tên đại địa chủ khét tiếng khác có tên là nhà nước. Riêng việc ông Hồ Chí Minh đã ký quyết định đấu tố và xử bắn bà địa chủ yêu nước, tham gia kháng chiến , có công lớn với dân tộc đất nước là bà Cát Hanh Long ( tức bà Nguyễn Thị Năm) đã nói lên bản chất phi nghĩa của cuộc cải cách ruộng đất. Thử tưởng tượng nếu không có sự đóng gióp vô cùng to lớn của hàng chục vạn địa chủ trong kháng chiến chống Pháp thì thử hỏi Việt Minh của ông Hồ Chí Minh lấy đâu ra thóc gạo để nuôi ngót một triệu bộ đội cùng dân quân và bộ máy khổng lồ chỉ đạo cuộc kháng chiến ? Thế mà, thay vì trả công cho tầng lớp địa chủ kháng chiến yêu nước này, các ông lại ký lệnh bắt nhốt hàng vạn địa chủ yêu nước lại, rồi đấu tố họ tàn bạo và bắn giết họ không thương tiếc mà còn dám huênh hoang khoe khoang rằng cải cách ruộng đất tốt đẹp lắm thì còn giời đất gì nữa ? Quê tôi làng Bình Hải, năm ấy có tên là xã Thúc Kháng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định được trên ưu ái cho long trời lở đất làm cuộc cải cách ruộng đất vào đông xuân 1956-1957 khi tôi đã 10 tuổi; nên tôi đã là chứng nhân, là một thành viên trong cuộc cải cách đầy máu và nước mắt này. Như có lần tôi đã kể, tôi có hai ông nội. Một ông nội nuôi bố tôi từ thơ bé, theo đạo Thiên Chúa, đã dựng vợ gả chồng cho bố tôi, rồi năm 1954 di cư vào Nam nên ông nội họ Trần của tôi và các cô chú tôi thoát khỏi tai nạn cải cách ruộng đất. Ông nội sinh ra bố tôi họ Phạm, theo đạo Phật, gia đình nuôi cán bộ trong kháng chiến nên không bị quy lên địa chủ, chỉ phải nhục nhã kiểm thảo trước nhân dân vì tội có học, biết chữ Hán và chữ quốc ngữ, nhà có nhiều sách, để cho ông em ruột có chữ, được vua ban cho chức quan thấp nhất là cửu phẩm. Chính ra ông nội họ Phạm của tôi đã bị xử bắn vì bị quy lên hàng trí thức, nhưng vì có quý nhân là quan lớn cải cách che đỡ nên cho thôi. Chỉ có một ông em ruột, em út của ông nội họ Phạm của tôi là cụ sư Niên ( Phạm Văn Niên) là sư cụ trụ trì một ngôi chùa to trong huyện bị quy lên địa chủ và bị đội cải cách lệnh cho phá chùa. Trước ngày bị đấu tố, biết chắc chắn sẽ bị chúng xử bắn, cụ sư Niên đã treo cổ chết phản đối chính quyền đã vu oan giá họa cho sư cụ nhằm phá chùa. Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị trói nhốt chuồng trâu chờ ngày đấu tố. Tôi đã chứng kiến Tậy đi càn quét nhưng không khí làng tôi những ngày cải cách đấu tố bắn bỏ địa chủ còn kinh khủng hơn nhiều đầu năm 1954 quân Pháp càn quét tìm Việt Minh. Cùng với các ông đội bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính ( hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ : rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư… Bọn thiếu nhi thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiêu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước. Đến lượt mình, tôi run bắn ấp úng thưa : - Kính thưa các bác đội, con xin đấu tố bố con là bố Hiền ạ ! Ông đội hét : Không được gọi bố, vì nó là giai cấp bóc lột, em phải gọi nó bằng thằng ! Tôi run run lí nhí : - Dạ em đấu tố thằng bố em ạ ! - Không, nó không còn là bố em nữa, em là con của đảng, nó là thằng đối kháng giai cấp, đã đảo tên địa chủ Hiền… Tất cả bọn thếu nhi hô to đả đảo làm tôi mất hết tinh thần, run lên như chính mình sắp bị xử bắn. Tôi bèn kể lể dông dài một cách điêu toa là thằng địa chủ Hiền kia đã bóc lột con gà nhà bà Lộng, bóc lột con chó nhà bà Y, bóc lột gạo thóc ngoài ruộng nhà bần cố nông…Ông đội chỉ đạo cuộc đấu tố thí nghiệm hét lên : - Tội nó ác hơn nhiều, em không đấu tố nó thì nó sẽ bị xử bắn. Tôi hết hồn, điên lên hét thật to : - Thằng địa chủ Hiền gian ác đã giết cả làng ta, đả đảo ! Trong tiếng hô đả đảo vang trời của bọn thiếu niên thiếu nhi con cái các ông bà nông dân, thì ông đội tát cái bốp vào mặt tôi, khiến tôi ngã dúi, vừa tát ông vừa hét : - Thôi, câm ngay, đấu tố, chửi bố mình vượt chỉ tiêu trên giao ! Nghĩa là tôi đấu tố bố mình điêu hơn, ngoa hơn cả bài tố điêu tố gian của toàn đảng toàn dân ta đang long trời lở đất, kinh quá ! Lấy ý của ông đội cái cách tát bốp vào mặt tôi như vừa kể trên trong ngày giáp tết năm 1956-1957 ấy, tôi xin kết luận rằng : TỘI ÁC MÀ CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT từ năm 1947-1957 xảy ra ở Việt Nam do cấp trên Stalin, Mao Trạch Đông giao cho những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã vượt chỉ tiêu trên giao.,. Sài Gòn ngày 12-9-2014 T.M.H
......

Cải Cách Ruộng Đất : Sự Thật vẫn bị che dấu !

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...   Ngày 8/9/2014 tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia ở Hà Nội đã tổ chức cuộc triển lãm với 150 hình ảnh và các di vật về “Cải cách ruộng đất” trong khoảng thời gian từ 1946-1957.  Khác với cuộc triển lãm được tổ chức năm 1955 tại khu triển lãm Cát Linh với diện tích máy ngàn mét vuông, cuộc triển làm này chỉ trong không gian hẹp 250 mét vuông. Đây là sự kiện thu hút sự quan tâm của giới sử học và nhiều người dân… Chủ đề triển lãm tái hiện giai đoạn lịch sử mà Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng đã giúp “người cày có ruộng, xóa bỏ giai cấp bốc lột ở nông thôn”. Nhưng  trên thực tế họ đã phản bội giai cấp nông dân, lừa dối họ để huy động lưc lượng đóng góp rất lớn vào trường kỳ kháng  chiến chống thực dân  Pháp. Cảm nhận chung là cuộc triển lãm cải cách ruộng đất này là không trung thực. Sự thật của cuộc cải cách ruộng đất vẫn bị che dấu.   Từ Hà Nội, sau khi xem triển lãm, nhà báo tự do JB Nguyễn Hữu Vinh đã nói lên những cảm nhận của mình qua cuộc  phỏng vấn của phóng viên Trần Quang Thành. Nội dung như sau. Mời quí vị theo dõi : http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/09/20140911-ctm-...
......

Putin và bài học cho Việt Nam

Không có nước Nga, chỉ có người Nga Chúng ta không bình luận đến vấn đề đúng sai. Điều đó thuộc vào góc nhìn của từng người. Nhưng thông điệp đá tảng mà Putin gửi đến cho tất cả rất rõ ràng, không dấu giếm, và không hai nghĩa: Biên giới nước Nga mở rộng đến nơi nào có người Nga sinh sống. Lời nói và hành động của Putin đã làm cho NATO phải thay đổi. Chẳng thế mà NATO đã phải vội vã nhóm họp để có những biện pháp thích nghi cần thiết. Riêng tổng thống Obama còn phải vội vã bay đến Estonia để trấn an các đồng minh Estonia, Latvia và Lituanie, là các quốc gia thuộc Liên Xô trước đây có nhiều người Nga sinh sống. Bài học cho Việt Nam Yêu hay ghét Putin, bênh vực hay phê phán Putin, đó không phải là chủ đề và đó không phải là quan trọng. Điều quan trọng là từ thông điệp và hành động của Putin, nhất thiết phải rút ra những bài học cho Việt Nam. Có thể cô đọng ở mấy điểm chính sau đây. 1. Dân tộc là tối thượng Putin nói rằng: “Không có nước Nga, chỉ có người Nga”. Còn Obama thì tuyên bố: “ Chúng ta là khác biệt”. Phát biểu của hai người đứng đầu hai cường quốc thế giới đương thời đã nói lên tất cả. Nhưng Mao Trạch Đông còn vượt xa cả Putin lẫn Obama về dân tộc chủ nghĩa. Từ tháng 10 – 1959 tại hội nghị Quân ủy Trung ương, Mao Trạch Đông đã nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”. Nước Mỹ chỉ mới hơn hai trăm năm. Nước Nga chưa đủ mười thế kỷ. Còn dân tộc chủ nghĩa của đế chế Trung Hoa thì đã tồn tại chí ít cũng hơn bốn ngàn năm. Không có tình đồng chí đồng giai cấp đồng minh nào bằng tình máu mủ. Tình máu mủ đồng bào là sản phẩm của tạo hóa. Bởi vậy dân tộc là tối thượng. 2. Không để tồn tại các phố xá người Hoa Nước Nga chỉ có một Crưm, một Donbas. Vì người Nga sống ở Crưm mà Putin đã lấy gọn Crưm về Nga. Vì người Nga sống ở Donbas mà Putin đã tách Donbas thành nước Nga mới. Chúng ta không đề cập đến lý do, không bàn đến đúng sai. Chúng ta chỉ nói đến sự kiện thực tế tồn tại. Nhưng China Town thì hằng hà sa số. “Nạn Hoa kiều” đã là một trong những cớ để Đặng Tiểu Bình mang 60 vạn quân tiến đánh Việt Nam ngày 17-2-1979. Điều đáng sợ nhất là chính quyền Việt Nam hiện nay đang tạo nên cơ hội thuận lợi chưa bao giờ có cho sự phát triển các phố xá người Hoa tại Việt Nam. Dân tộc Nga và Ucraina có quan hệ cả ngàn năm chung sống, nhưng ở Ucraina người Nga chỉ sinh sống chủ yếu ở phía Đông Ucraina, còn phía Tây là người Ucraina. Còn ở Việt Nam hiện nay, người Hoa đã có mặt từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, khắp cả hang cùng ngõ hẻm. Một “Nạn Hoa kiều” có thể tạo dựng ra bất cứ lúc nào. Lúc đó không như Crưm, không như Donbas ở Ucraina, khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều là Crưm, đều là Donbas. Cũng không cần đến “Nạn Hoa kiều”, khi Trung Quốc dấy binh thì khắp mọi nơi trên đất Việt Nam đều có nội ứng người Hoa. Một số người cầm quyền ở trung ương và địa phương ngây thơ tin rằng, khi hết hạn hợp đồng là đưa được lao động Trung Quốc về nước. Họ không biết rằng người Trung Quốc đã kịp lấy vợ khi vừa đặt chân đến đất Việt Nam. Họ cũng không ngờ rằng nhà cầm quyền Trung Quốc bí mật cho tiền những kẻ bất lương tội phạm ra nước ngoài sinh sống, một kiểu lưu đày trá hình trong thời đại tích hợp toàn cầu. Hãy chặn đứng ngay việc đưa người Hoa sang Việt Nam buôn bán làm việc. Đừng mang họa về cho dân tộc. 3. Các cường quốc sẽ tránh đối đầu Ngày 29-8-2014 trong cuộc gặp mặt với thanh niên ở hồ Seliger Putin nói: “ Nước Nga sẽ không can dự vào các đụng độ lớn… Và ơn Chúa, chắc cũng không có ai có ý định phát động một cuộc xung đột lớn với Nga. Nga là cường quốc hạt nhân hàng đầu. Đây là sự thật”. Việc Mỹ và NATO không ủng hộ mạnh Ucraina trong vấn đề Đông Ucraina cũng chính là tránh đối đầu trực diện với Nga. Và có thể nhận thấy ngay rằng NATO sẽ không mặn mà với việc kết nạp Ucraina là thành viên NATO. Nga sẽ làm mọi biện pháp có thể để ngăn chặn điều này. Và như thế sẽ dẫn đến sự đối đầu trực diện giữa Nga và NATO. Kết quả là Ucraina sẽ hoàn toàn bị chia rẽ. NATO chỉ có thể giúp đỡ Ucraina bằng tiền bạc, vũ khí, phương tiện kỹ thuật, và chuyên gia huấn luyện; nhưng sẽ không có quân đội NATO đến Ucraina để tham chiến chống lại Nga. Thảm họa hạt nhân và sức mạnh của vũ khí hủy diệt là lý do căn bản buộc các cường quốc phải né tránh đối đầu. Các cường quốc cũng sẽ không vì các quốc gia khác mà đi đến đối đầu. Không chỉ không phát động xung đột, ngay cả khi bị ràng buộc bởi một cam kết liên minh quân sự, các cường quốc cũng phải tìm cách không cho leo thang, giảm dần căng thẳng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đụng độ. Khi xẩy ra chiến tranh, các nước nhỏ sẽ phải tự chiến đấu bằng chính con người của nước mình. Bởi vậy ngoài liên minh ra, nhất thiết phải xây dựng được một Việt Nam giàu mạnh tự cường. 4. Việt Nam phải đối mặt với đế quốc Đại Hán còn đáng sợ nhiều lần hơn các đế chế khác Sự phản ứng của nước Nga cũng là điều tự nhiên. NATO đã tiến sát đến sườn nước Nga. Không chỉ thế, phương Tây bắt đầu chọc vào da thịt người Nga khi động đến Ucraina, một trong ba bộ tộc Slavo gần gũi nhất: Nga, Bạch Nga và Ucraina. Nước Nga quẫy mạnh vì bị đâm vào sườn. Còn đế chế Đại Hán từ mấy ngàn năm luôn mang gươm đi xâm chiếm nước khác mà không cần bất cứ lý do nào. Số phận đã buộc Việt Nam phải sống cạnh một đế chế ngang ngược đáng sợ nhất trong lịch sự phát triển nhân loại. 5. Hãy hành động cương quyết vì quyền lợi dân tộc Thống kê xã hội cho thấy Putin đang có uy tín cao trong nhân dân Nga. Tại sao vậy? Đơn giản là Putin đang làm sống lại một đế chế Nga. Điều mà nhiều người Nga rất mong mỏi. Nhiều người Hoa cũng sẽ rất phấn khích khi lãnh đạo Trung Quốc tiến hành một chính sách bá quyền. Nếu lãnh đạo Trung Quốc làm cho đế chế Đại Hán bành trướng lớn mạnh, thì họ sẽ được nhiều người Hoa ủng hộ, bất chấp các biện pháp mà giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành. Bởi vậy, bất cứ lúc nào khi liên quan đến dân tộc thì phải suy nghĩ kỹ nhưng lại phải hành động kịp thời và rất cương quyết, không do dự, không nhu nhược, không đớn hèn. Sức mạnh dân tộc sẽ truyền vào người ra quyết định, hợp thành một sức mạnh nối dài vô địch. Putin thì rất cương quyết rất tiến công. Còn lãnh đạo Việt Nam thì ngược lại. Vai trò lãnh tụ rất quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Chừng nào Việt Nam chưa có phương thức dân chủ thực sự để chọn ra được những người lãnh đạo xứng đáng thì chừng đó số phận dân tộc còn long đong. Bài học từ Putin dễ thấy nhưng lại khó học. V.T.D. Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Đặng Tiểu Bình Chỉ Huy Trận Chiến Hoàng Sa 1974

Ký giả Bill Hayton vừa cho xuất bản một quyển sách rất hay liên quan đến Biển Đông: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Trong Chương 3 đề cập về “Danger and Mischief từ 1946 -1995”, tác giả đã dựa theo tài liệu quân sự của Hoa Kỳ thập niên 70 được giải mật, và một tài liệu được soạn thảo bởi Hải quân Trung cộng vào năm 1987 – trong đó, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai là người - vào năm 1973 - đã đưa ra quyết định đánh chiếm Hoàng Sa, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao và Nixon năm 1972. Người được giao trách nhiệm thực hiện quyết định này là Đặng Tiểu Bình do sự đề bạt của Chu Ân Lai. Đặng Tiểu Bình lúc đó đang bị thất sủng sau cuộc cách mạng văn hóa vào năm 1966, và phải sống lưu đày cùng với vợ tại Giang Tây từ năm 1969 đến 1973. Chu Ân Lai đã cho đưa họ Đặng về Bắc Kinh vào ngày 20/3/1973 để tiến hành quyết định đánh Hoàng Sa của hai thủ lãnh Mao, Chu. Kế hoạch đánh chiếm bắt đầu được chuẩn bị và luyện tập từ tháng 9/1973. Theo tin tức tình báo Hoa Kỳ vào lúc đó, cảng Beihei đã được Trung Cộng cho kiểm soát gắt gao và từ giữa tháng 12/1973, hàng trăm lính Trung Cộng được đưa xuống 6 tàu đánh cá, hàng ngày rời khỏi cảng Beihei và trở lại cảng lúc trời tối, liên tục trong vòng 10 ngày. Kế hoạch đưa người ra chiếm Hoàng sa hoàn tất vào đầu tháng 1 năm 1974. Những nghiên cứu của ký giả Bill Hayton nói trên đã cho chúng ta thấy là việc đánh chiếm Hoàng sa của Trung Cộng là bước khởi đầu, nằm trong chiến lược khống chế biển Đông đã được vạch ra từ những lãnh đạo cao cấp nhất của Bắc Kinh là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Vì thế mà sau khi đưa hàng trăm lính ra chiếm các đảo của Việt Nam Cộng Hòa, ngày 11/1/1974, Bộ Ngoại giao Trung Cộng ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đương nhiên Việt Nam Cộng Hòa đã ra tuyên bố khẳng định Hoàng sa, Trường sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ mọi cáo cuộc phi lý của Trung Cộng. Lo ngại Trung Cộng có thể đưa quân chiếm đóng, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribou để chuyển quân nhanh ra các đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm. Nhưng đã quá trễ. Ngày 16/1/1974 khi phái đoàn Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra thăm các đảo ở Hoàng sa để nghiên cứu thiết lập phi trường thì đã phát hiện lính Trung Cộng nằm đầy trên các đảo. Trận hải chiến Hoàng Sa bùng nổ và kết thúc vào ngày 19/1/1974. Lý Thái Hùng 8/9/2014
......

Trường Sa của chúng ta sẽ bị uy hiếp

Khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dươg 981 vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta, nhân dân ta phẫn nộ đấu tranh quyết liệt, báo chí dư luận thế giới phê phán như tát nước vào mặt Trung Quốc, tiếc rằng lãnh đạo Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội kiện Trung Quốc. Rát mặt quá, giới cầm quyền Trung Quốc tạm rút giàn khoan đi nơi khác để tình hình lắng dịu xuống. Nhưng âm mưu của Trung Quốc đối với Biển Đông không thay đổi, họ vẫn dựa vào cái “lưỡi bò” phi lý, phi pháp của họ để tuyên bố chủ quyền biển, đảo của họ trong đó và họ vẫn từng bước lặng lẽ tiếp tục hành động... Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh Trung Quốc là kẻ cướp đất, cướp biển, Việt Nam là nạn nhân, Trung Quốc là kẻ mạnh, đặc phái viên của TBT Nguyễn Phú Trọng đi cầu hòa là ở thế yếu. Thông thường thì trong đàm phán, kẻ mạnh thường áp đặt điều kiện cho kẻ yếu. Ví dụ như trong đàm phán về lập lại quan hệ bình thường ở Thành Đô, do Việt Nam ở thế yếu nên sau khi đoàn về, phía lãnh đạo ta không còn đả động gì đến cuộc xâm lược của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới của ta năm 1979, đến cuộc đánh chiếm điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Không truy tặng liệt sĩ cho bộ đội chiến đấu hy sinh năm ấy và 64 cán bộ chiến sĩ hy sinh năm 1988 ở Gacma. Không ai chăm sóc mồ mả và hương khói cho các liệt sĩ, sau đó là Bộ Trưởng Ngoại giao đầy tài năng Nguyễn Cơ Thạch đã sớm biết rõ dã tâm của Trung Quốc, mất chức. Đối với “đặc phái viên” Lê Hồng Anh, phía Trung Quốc có nêu điều kiện gì không thì không biết. Trong hội đàm với Lưu Vân Sơn, đặc phái viên Lê Hồng Anh cầm giấy đọc, nội dung những gì thì không được biết. Sau đó Lưu Vân Sơn phát biểu, khi hội kiến TBT Tập Cận Bình thì Tập Cận Bình cũng phát biểu. Qua báo chí công khai của cả ở Việt Nam và Trung Quốc, tổng hợp lại phát biểu của hai nhà lãnh đạo Trung Quốc cơ bản không có gì mới, chủ yếu vẫn là những câu phỉnh phờ, mê hoặc, “ăn người’ lâu nay họ từng nói, nào là: Trung Quốc rất tôn trọng Việt Nam, là hai nước láng giềng không tránh khỏi “va chạm” (!), vấn đề chính là xử lý như thế nào..., mâu thuẫn ở Nam Hải (Biển Đông) song phương đàm phán tìm giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được, hợp tác cùng khai thác, cùng là Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng có mục đích xây dựng Chủ nghĩa xã hội, cần thường xuyên giao lưu trao đổi ý kiến, lấy đại cục quan hệ Trung - Việt làm trọng, giữ gìn truyền thống hữu nghị giữa hai nước, kiên trì phương châm 16 chữ và 4 tốt, hai bên quan tâm định hướng dư luận nhân dân hai nước... Thử phân tích xem những nhà lãnh đạo Trung Quốc nói như trên có thật không và có ý gì? -Trung Quốc rất tôn trọng Việt Nam: Có thật vậy không? Vài năm trước báo chí Trung Quốc không ngớt thóa mạ và đe dọa Việt Nam, nào là Việt Nam là lang sói, là quân ăn cháo đá bát, phải dạy cho Việt Nam bài học thứ hai, gần đây trong chuyến đi Việt Nam của Dương Khiết Trì, báo Trung Quốc còn đăng câu: “Hãy đưa đứa con hoang đãng trở về” (ám chỉ Việt Nam). Lần này họ nói với Việt Nam như thế để buộc chặt Việt Nam vào cỗ xe của họ. Đừng gần gũi quá với họ. - Hai nước láng giềng có “va chạm” nhau là điều không tránh khỏi, quan trọng là xử lý thế nào... Trung Quốc lấn, cướp của Việt Nam chứ đâu phải là va chạm, họ muốn ta không đấu tranh, không làm ồn ào, các mâu thuẫn họ gây ra ở Biển Đông, họ muốn ta đàm phán “song phương” để dễ bắt nạt, đồng thời chia rẽ ta với các nước Đông Nam Á. - Hợp tác cùng khai thác: Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng nêu “Chủ quyền về ta” (Trung Quốc), gác tranh chấp cùng khai thác”. Nay họ tạm giấu đi mấy chữ “chủ quyền về ta” để dỗ ta cho khai thác trong phạm vi thuộc chủ quyền của ta. - Gìn giữ truyền thống hữu nghị giữa hai nước: Làm gì có truyền thống hữu nghị mà giữ gìn? Ai cũng biết từ các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh cho đến thời Đặng Tiểu Bình đều đem quân xâm chiếm nước ta, giết hại nhân dân ta, Đặng còn cướp Hoàng Sa của ta, lấn thác, lấn đất biên giới, lấn Vịnh Bắc Bộ của ta. Ngay trong hai cuộc kháng chiến, Trung Quốc có giúp ta nhưng cũng có lợi ích của họ đồng thời cũng nhằm thu phục ta vào vòng tay của họ. Khi ta thắng lợi, họ lại phản bội ta. Giữa Trung Quốc và Việt Nam chỉ có xâm lược và chống xâm lược mới là truyền thống. - Hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đều có chung mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm: Từ khi Đặng Tiểu Bình phát biểu: “Mèo trắng mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì thực tế Trung Quốc đã từ bỏ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, rẽ theo con đường khác rồi, nên ba thập niên qua, họ đã tiến những bước khổng lồ. Họ vẫn nêu “xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc nhưng họ đương thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình để trở thành một thứ Đế chế hùng cường. Còn Việt Nam thì đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên mây. Họ cứ nói bừa cùng chung mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội để buộc ta với họ, không ngả về Mỹ. - Kiên trì phương châm “16 chữ, 4 tốt”, định hướng dư luận nhân dân: Từ khi nêu ra chiêu ấy, chỉ có lãnh đạo Việt Nam thực hiện, Trung Quốc có thực hiện đâu? Toàn làm ngược lại, còn yêu cầu Việt Nam tuyên truyền cho thứ “hữu nghị giả dối” ấy, ngăn chặn tuyên truyền và biểu tình chống Trung Quốc. Đoạn trình bày trên đây cho thấy giới cầm quyền Trung Quốc có tài lừa phỉnh, có tài đổi trắng thay đen, đem 60 vạn quân xâm lược nước ta, lại nói là “phản kích tự vệ”, đánh cướp đảo của Việt Nam lại nói là “thu hồi”, đưa hàng trăm tàu có cả tàu chiến, đâm hỏng tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư, đâm chìm tàu cá của ngư dân ta lại nói là “tàu Việt Nam khiêu khích”. Giới cầm quyền Trung Quốc, chuyên nói một đàng làm một nẻo, mồm nói “hữu nghị”, nhưng đương chuẩn bị căn cứ để “đánh chiếm đảo”, cụ thể là: Gần đây máy bay do thám của nước ngoài cho biết trên bãi đá Gacma không người ở trong quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đánh chiếm của chúng ta năm 1988, Trung Quốc đương đổ cát đá để xây dựng Gacma và các bãi đá xung quanh thành các đảo nhân tạo nhằm khẳng định chủ quyền của họ đồng thời sẽ xây dựng thành căn cứ chiến đấu có đường cho máy bay cất, hạ cánh. Sự kiện nguy hiểm này lẽ nào lãnh đạo và Bộ Quốc phòng Việt Nam lại không biết. Bộ máy truyền thông không đả động, lãnh đạo vẫn im lặng. Nếu giới cầm quyền nước ta không sớm tố cáo, đấu tranh, lại bưng bít thông tin, không để cho nhân dân đấu tranh... để đến khi căn cứ quân sự của Trung Quốc hoàn thành sẽ trở thành sự uy hiếp nặng nề đối với quần đảo Trường Sa của chúng ta. Không hành động, không chuẩn bị là có tội với Tổ quốc./.   N. T. V.
......

Tranh luận cần thiết và hữu ích

Hy vọng cuộc tranh luận trong Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là hữu ích Thưa các anh. Bước đầu, chúng ta đã có thể thở phào, khi được nghe cả 2 anh Phạm Chí Dũng và Ngô Nhật Đăng phát biểu trên RFA, nói chung là đúng mực và xây dựng. Nhưng bây giờ phải ngồi lại với nhau, thẳng thắn bàn những việc căn bản. Nội quy tuy đã có như trong quá trình hình thành cần kịp thời tu chỉnh. Tôi xin phép được góp mấy ý kiến, mong được cả 2 trang Web và Facebook đều chấp nhận đăng. Kính thư Hsp   Vừa qua, một số bài tranh cãi nảy lửa giữa mấy thành viên chủ chốt trong Hội nhà báo Độc lập (ngay lúc sơ sinh mới tròn 2 tháng tuổi) không khỏi làm cho nhiều người lo lắng trước nguy cơ tan vỡ, nói ví von thì “khiến cho kẻ thù khoái trí người thân đau lòng”. Phạm Chí Dũng - Ngô Nhật Đăng Nhưng cuộc giãi bày tâm tư trong một bài phỏng vấn của chính hai “đối thủ” trẻ đang “so găng” (nói vui thế cho thân mật), nhà báo kiêm chủ bút Phạm Chí Dũng và blogger Ngô Nhật Đăng, đã khiến cho những người trong cuộc tạm thời có thể thở phào, cơn giông bão tạm qua để cùng ngồi lại với nhau bàn lại những chuyện căn bản. Mong sao sự “thở phào” này không trở thành vô duyên. Cuộc tranh cãi trong một hội có tên là “hội nhà báo độc lập” thì tất nhiên xoay quanh quan niệm làm báo và viết báo. Cái đích hướng tới thì quá lớn: phải dân chủ hóa đất nước để hồi sinh một dân tộc đã quá mệt mỏi, chán chường, nhân tâm ly tán, đang lao vào sống gấp hoặc sống cam chịu, để tìm lại sức chiến đấu cho một cuộc vừa chống nội xâm vừa chống ngoại xâm, đáp ứng nhu cầu xây dựng xã hội và bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm đã đến bên thềm! Nhiệm vụ đã khó tày trời lại phải tiến hành trong điều kiện chưa được tự do và hầu như tay trắng! Thật là một bài toán đố hóc búa, trong tình hình như vậy thì giữa những người tiên phong nếu không tranh cãi kịch liệt mới là chuyện lạ. Tôi mừng vì đã có tranh cãi, mà tranh cãi quyết liệt, và hy vọng sẽ được tiến triển theo chiều hữu ích. Thật vậy, có hai luồng suy nghĩ: - nên tìm sức mạnh ở tính có tổ chức, có chỉ đạo nhất quán, có điều lệ bài bản tương đối, có một đầu mối chỉ huy (coi là phương án 1), - hay bước đầu cứ tạm lỏng lẻo, mạnh dạn khơi dậy tính năng động đa dạng rồi từ thực tế sẽ phát hiện, sàng lọc và hun đúc ra cái tối ưu (coi là phương án 2)? Phương án nào có độ an toàn và hiệu quả cao, có độ phiêu lưu (rủi ro) thấp nhất? Thực ra xã hội loài người vốn đã phải đối mặt với hai con đường này quá nhiều rồi. Phương án 1 sẽ là tuyệt vời nếu có một minh quân, một thủ lĩnh tuyệt vời muôn năm, và phương pháp là cho thủ lĩnh đó càng độc quyền càng tốt, càng nhanh đến đích. Nhưng nếu có rủi ro thì rủi ro sẽ cực lớn khó lòng cứu vãn, kiểu được ăn cả ngã về không!. Chủ nghĩa CS đã đi đúng con đường đó và kết quả là đảng CS đã “ăn cả” còn nhân dân thì đã “về không”, vì biết bao người “chân chính” đã đinh ninh là tìm được Minh… quân rồi nên quyết lao theo, không tiếc cả mạng sống! Vẻ bề ngoài thì đó là bản lĩnh, là kiên quyết nhưng thực chất đó là tư duy ngại khó nên muốn liều đi thẳng một phen cho đơn giản. Phương án thứ hai thì “cứ phải có nhiều để chọn lọc”! Tất nhiên đã nhiều thì tốt xấu cùng xuất hiện, xen kẽ nhau, nên phải thi đua, phải cạnh tranh, phải cọ xát. Các thủ lĩnh ham quyền thường không ưa sự thi đua “mất thì giờ” này, nhưng nhân dân thì được lợi. Nêu ra hai đường lối ấy chẳng qua là điển hình hóa rành mạch cho dễ hiểu thôi. Trường hợp cụ thể của Hội nhà báo độc lập chúng ta không phải điển hình như vậy đâu, có mặt thế này, có mặt thế khác, nên phải dung hòa. Để khỏi mất thì giờ, xin cho phép tôi, với tư cách một hội viên, thử nêu mấy giải pháp dung hòa như sau: 1/ Vẫn có tính tổ chức của một hội nghề nghiệp nhưng tạm thời chỉ nên lỏng lẻo. Đừng “bắt” Hội trưởng Phạm Chí Dũng phải chịu trách nhiệm quá nặng nề, cái gì cũng đổ lên đầu Chủ tịch hội thì TS Dũng không chịu nổi đâu. Nói chữ nghĩa thì đó là sự phân quyền, đồng thời phân trách nhiệm, sẽ nói rõ trong những phần sau. 2/ Là Hội nhà báo tất nhiên phải ra báo, nhưng ngoài ra còn những hoạt động khác. Cần có một tờ báo của hội (đang là Việt Nam thời báo), nhưng ông Phạm Chí Dũng không làm trưởng Ban biên tập, để có thì giờ lo công việc chung. Ban Biên tập cũng không nên quá thuần nhất. 3/ Ngoài tờ báo chính thức của Hội, các cá nhân hội viên hoặc các nhóm hội viên cùng ý tưởng có thể ra các Blog hay Facekook khác nhau (nghĩa là có thể nhiều chứ không phải chỉ một Facebook của ông Ngô Nhật Đăng hiện nay). Báo của nhóm nào thì nhóm ấy phải chịu trách nhiệm mọi mặt về tờ báo của mình. Ban Chấp hành Hội chỉ có trách nhiệm liên đới. 4/ Vì có trách nhiệm liên đới nên khi một nhóm nào định ra báo cần thảo luận trước với BCH, trên manchette phải có 2 dòng, một dòng “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” và dòng dưới là tên cụ thể của nhóm, của phân hội ra báo đó. Các báo của nhóm (hay phân hội) được quyền tự biên tập, không cần BCH hội phải duyệt. Nhưng sự tự do ấy cần theo tinh thần hợp tác, nhìn nhau mà làm, khi có vấn đề quan trọng thì cần phối hợp, và điều này không cản trở quyền tự do tư tưởng và tinh thần tự do báo chí của hội viên. 5/ Tổ chức nào, càng sơ khai càng phải coi trọng tính “nội bộ”. Những ý kiến trao đổi cá nhân hoặc trao đổi nội bộ, muốn đăng công khai phải được sự đồng ý của cá nhân đó hoặc tập thể đó. Vi phạm nét văn hóa trao đổi này sẽ phá vỡ sự đoàn kết, phá vỡ sự tin cậy để đàm thoại, và dẫn đến sự phân ly không thể khác. 6/ Vì nhu cầu ra báo nên ngoài sự phân chia thành 3 chi hội Bắc-Trung-Nam có thể thành lập các nhóm hay các phân hội theo sự tương đồng về ý tưởng, về sở trường, sở thích. Các nhóm hãy đặt một tên cho nhóm mình để dễ xưng danh, dễ gọi. Một mặt về phía hội viên cần chia nhỏ để dễ gặp nhau, dễ sinh hoạt, nhưng một mặt không để tình trạng BCH hội bị đơn độc như thời gian vừa qua. Ở Hà nội và nhất là Sài gòn cần bổ sung thêm người vào BCH, đại diện được nhiều thế mạnh khác nhau, để cùng hỗ trợ nhau. Thực tế vừa qua Chủ tịch Hội phải gánh quá nhiều việc trong khi lại đơn độc, thiếu sự hỗ trợ của một tập thể các ủy viên. Mấy ý chắc còn vội vàng, xin mạnh dạn góp vào công việc của Hội, và xin chúc thành công. Đà Lạt 7/9/2014H.S.P
......

Buổi tọa đàm về UPR tại Sài Gòn

Buổi Tọa Đàm về UPR (Kiểm điểm định kỳ toàn cầu) diễn ra tại số 38 Kỳ Đồng   (05.8.2014) – Sài Gòn – Để ‘phổ biến kết quả Kiểm điểm định kỳ toàn cầu 2014 (Universal Periodic Review – UPR) của Việt Nam’, và để áp dụng cơ chế nhân quyền này nhằm ‘chuyển tiếng nói [đối lập] ra diễn đàn quốc tế’, liên minh 3 tổ chức xã hội dân sự bao gồm Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, Phong trào Con đường Việt Nam, Văn phòng Công Lý-Hòa Bình đã tổ chức buổi tọa đàm chuyên đề: “UPR Việt Nam: Tiến trình – Tiềm năng và Thực tiễn”. Buổi tọa đàm diễn ra hôm nay, thứ Sáu, 5/9 tại số 38 Kỳ Đồng quận 3 Sài Gòn (DCCT), với sự tham gia của các đại diện đại sứ quán Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sỹ, các tổ chức Xã hội Dân sự (XHDS) và các chức sắc tôn giáo. Sự kiện diễn ra chỉ hơn hai tháng sau khi Việt Nam hoàn thành kỳ Kiểm điểm định kỳ Phổ quát (UPR) nhân quyền lần 2 tại Geneva hôm 20/6/2014. Diễn giả của buổi tọa đàm bao gồm những nhân vật đã tham dự các kỳ UPR Việt Nam như tiến sĩ Nguyễn Quang A, thân phụ ông Trần Huỳnh Duy Thức, ông Phạm Lê Vương Các và ông Bùi Tuấn Lâm. Kiểm điểm Định kỳ Toàn cầu (The Universal Periodic Review – UPR) là một tiến trình độc nhất trong đó các thành tích nhân quyền của tất cả 193 thành viên Liên Hợp Quốc sẽ được kiểm điểm định kỳ. Cơ hội chuyển tiếng nói nhân quyền ra quốc tế Trong kỳ UPR 2014 vừa qua, Việt Nam chấp nhận 182 trong tổng số 227 kiến nghị của 106 nước. Tuy nhiên ông Phạm Lê Vương Các, một blogger cho biết, “trong thời gian vừa qua, chúng tôi ghi nhận nỗ lực rất ít của nhà nước trong việc phổ biến kết quả [UPR] này” vì thế qua buổi tọa đàm “chúng tôi hy vọng rằng công chúng sẽ biết đến UPR nhiều hơn”. Ông Các nhấn mạnh: “theo tôi đánh giá, cái cơ chế để mình có thể chuyển tiếng nói nhân quyền từ trong nước ra đối với quốc tế, không gì khác hơn ngoài việc tham gia vào tiến trình UPR này.” Ông Các giải thích thêm: “ở trong nước, giữa nhà nước và các tổ chức XHDS có một khoảng cách chênh lệch rất lớn, tuy nhiên khi tham gia diễn đàn quốc tế [UPR] thì chúng ta [các XHDS] bình đẳng với nhà nước”, đây cũng “là cơ hội để các nhóm XHDS phát biểu trước Hội đồng nhân quyền LHQ.” Tiến sĩ Nguyễn Quang A thuộc tổ chức Diễn Đàn XHDS cũng đồng thuận với ý kiến trên và cho rằng: “sự hiện diện của các tổ chức XHDS” tại các diễn đàn quốc tế là điều quan trọng. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một trong 4 người thuyết trình tại buổi tọa đàm Ông nói: “ở trong nước, các tổ chức XHDS chưa được đăng ký bị chính quyền coi là tổ chức thù địch và phản động. Sự hiện diện của họ tại LHQ, EU, các bộ ngoại giao … chứng tỏ họ là một đối tác được quốc tế công nhận, tôn trọng” vì “quy định của quốc tế là một tổ chức có được đăng ký hay không là không quan trọng, miễn là nó hoạt động như thế nào… và trách nhiệm của nhà nước là phải để họ được đăng ký”   “Các tổ chức XHDS hiện nay chưa có cơ hội đối thoại với chính quyền nên phải thông qua sự hiện diện như thế để đối thoại một cách gián tiếp,” ông nói tiếp: “chúng tôi kỳ vọng sẽ dần dần, [các XHDS] có thể đối thoại trực tiếp” vì các tổ chức ”XHDS rất cần cho chính hoạt động của chính quyền và xã hội.” ‘Một thông điệp gửi tới chính phủ’ Buổi tọa đàm về UPR cũng có sự tham gia của các đại diện đại sứ quán nước ngoài. Ông Andrej Motyl, Đại sứ Thụy sĩ, chia sẻ, ông đến để ‘học hỏi và tìm hiểu’ những gì đang xảy ra. Ông còn cho biết, sự hiện diện của ông như là ‘một thông điệp’ gửi tới chính phủ Việt Nam về sự ủng hộ của Ông đại sứ đối với hoạt động của các tổ chức XHDS. Quá trình UPR còn cần đến các XHDS chứ không chỉ của nhà cầm quyền Việt Nam. Tuy không đưa ra phát ngôn chính thức nào, nhưng Charles Sellers thuộc Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ cũng cho biết, ông đến “để học hỏi và quan sát.” Ông khẳng định, Hoa Kỳ muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam và mong muốn Việt Nam thi hành đầy đủ các hiệp ước về quyền con người, trả tự do vô điều kiện các tù nhân chính trị. Bên cạnh việc thừa nhận tầm quan trọng của cộng đồng quốc tế, tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng lưu ý không nên kỳ vọng quá nhiều. Ông nhận định thêm, tuy Việt Nam Việt Nam chấp nhận 182 trong tổng số 227 kiến nghị của các nước trong kỳ UPR vừa qua, nhưng các kiến nghị bị bác bỏ đều là ‘những khuyến nghị hết sức cốt lõi về nhân quyền’ về ‘đa nguyên, quá trình dân chủ, tự do biểu đạt.’ Các tổ chức XHDS cần tìm ra những điểm tích cực mà Việt Nam đã chấp nhận để đối thoại, ông kết luận. Đức Thiện, VRNs Nguồn: VRNs
......

VÌ SAO MẶT TRẬN TỔ QUỐC KHÔNG THẾ CÓ TIẾNG NÓI ĐỘC LẬP ?

Bù nhìn rơm còn tác dụng đuổi chim, giữ cho ruộng lúa chín. Còn MTTQ VN, quả là hình nộm để Đảng khoác lên đó chiếc áo dân chủ ma mị. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam – một văn bản như Luật Đảng: “Đảng viên có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng”. (Điều 2) Cũng theo Luật Đảng, nhân sự trong bộ máy nhà nước, tất cả đều phải là đảng viên. Những nhân sự chủ chốt như bí thư các tỉnh, thành phố, bộ, ngành đều phải được Bộ Chính trị - cơ quan cao nhất của Đảng chuẩn y. Các tổ chức tiếng là “xã hội nhân sự”, như Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) cũng không ngoại lệ, tất cả đều phải là đảng viên. Mà đảng viên thì có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. Một tiếng nói trái tai Đảng là không thể. Độc lập trong vòng kim cô của Đảng Vừa qua đã diễn ra Hội nghị Đoàn chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ VN lần thứ 15 khóa VII, thảo luận các báo cáo và công tác nhân sự Đại hội Mặt trận lần thứ 8. Nhiều ý kiến cho rằng, vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận vừa qua còn mờ nhạt. Nguyên Phó chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ VN Lê Truyền góp ý: Cần làm rõ tính độc lập của Mặt trận trong điều kiện Đảng vừa lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. “Tính độc lập không phải là Mặt trận thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, mà độc lập để nói được tiếng nói của các tầng lớp nhân dân", ông Truyền nói. Quan điểm của ông Lê Truyền cho thấy sự mâu thuẫn: đã gọi là “độc lập” sao lại phải lệ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng? Tiếng nói của các tầng lớp nhân dân hiện nay, có thể như lời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, là không còn tin Đảng. Như vậy, đây có thể coi là “thoát ly sự lãnh đạo của Đảng”? Bù nhìn rơm còn giữ được ruộng lúa Hiến pháp 2013, tại Điều 9 quy định “MTTQ VN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. “MTTQ VN là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, quyền được trao cho MTTQ VN là “tham gia xây dựng Đảng”, mà lại tự ti cho rằng mặt trận không được thoát ly sự lãnh đạo của Đảng – như lời của ông Lê Truyền, thì quả thật khó lòng kỳ vọng vào điều gì ở MTTQ VN. Bù nhìn rơm còn tác dụng đuổi chim, giữ cho ruộng lúa chín. Còn MTTQ VN, quả là hình nộm để Đảng khoác lên đó chiếc áo dân chủ ma mị. Nước đẩy thuyền thì cũng lật thuyền Ông Lê Truyền cũng không sai. Ở văn bản có tên “Quy định 172-QĐ/TW quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của đảng đoàn, ban cán sự đảng Trung ương do Bộ Chính trị ban hành”, do ông Lê Hồng Anh ký ngày 7-3-2013, tiếp tục trao cho đảng viên “quyền bắt buộc” là lãnh đạo, chỉ đạo những định hướng chính trong các dự án luật, pháp lệnh, các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng mà cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể có trách nhiệm trong soạn thảo; những nội dung quan trọng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. (Trích Điều 2.2) Đã nói đến “tiếng nói độc lập” thì không thể chấp nhận một cơ chế giám sát hay hạn chế nào riêng biệt, vì những hành vi quá đà tự thân nó không còn là “tiếng nói độc lập” và đã được các bộ luật hành chánh, dân sự và hình sự điều chỉnh.   Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, kể rằng năm 2011, khi ông cùng cộng sự thành lập hãng truyền thông tại Hoa Kỳ. Sau khi hoàn thành mọi thủ tục và đã ra mắt, ông đề nghị những cộng sự viên của mình là công dân Hòa Kỳ đến cơ quan quản lý báo chí tiểu bang và liên bang để đăng ký và xin phép cấp mã số báo chí để làm thẻ cho các nhà báo. Các cơ quan chức năng xứ Mỹ bảo rằng quý vị hãy về tự cấp thẻ lấy và tự chịu trách nhiệm về uy tín của tấm thẻ của mình. Ngay các hãng lớn như CNN hay AP cũng làm thế đó. Nói thật, mất lòng. Trung ngôn thì nghịch nhỉ. Dẫu vậy, mất lòng và nghịch nhỉ cùng lắm chỉ tạo sự khó chịu. Ở đây, nếu “tiếng nói độc lập” không theo ý “lãnh đạo của Đảng” thì chuyện tù tội như từng xảy ra với các anh, chị Nguyễn Văn Hải (tức Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Lê Công Định, Trương Duy Nhất…, có lẽ sẽ còn xảy đến dài dài khi Đảng Cộng sản Việt Nam đang công nhiên vi hiến. “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Trích Điều 4.3, Hiến pháp 2013).   Minh Tâm Nguồn: Trí Nhân Media
......

Ngày độc lập nào?

Từ lâu tôi luôn tự hỏi phải chăng ngày 2 tháng 9 năm 1945 thật sự là ngày độc lập của nước Việt Nam mới sau gần một thế kỷ làm thuộc địa của Pháp? Trước khi trả lời câu hỏi nghiêm túc này, cần lần giở lại các trang sử hiện đại của nước nhà, để ghi nhận một số sự kiện quan trọng sau đây: Cảnh ngày 2-9-1945 tại Sài Gòn Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng, Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngay sau đó, vào ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại ký đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Đây là thời điểm đáng lưu ý. Ngày 7/4/1945, vua Bảo Đại chuẩn y thành phần nội các mới, trong đó học giả Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập. Tháng 6/1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Đến khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, Thủ tướng Trần Trọng Kim vào ngày 16/8/1945 khẳng định bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Sau đó, vào ngày 18/8/1945, vua Bảo Đại tái xác nhận nền độc lập của Việt Nam đã công bố vào ngày 11/3/1945. Cần lưu ý, tuy là một chính quyền thực tế và chính danh từ tháng 3/1945, nhưng Đế quốc Việt Nam không đủ lực lượng quân sự để kiểm soát tình hình. Đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn về chính trị. Nhiều tổ chức và đảng phái hình thành trước đó đã tranh thủ thế đứng chính trị riêng trước vận hội mới của Việt Nam, trong đó Việt Minh dường như là lực lượng được tổ chức hoàn bị nhất, khả dĩ tranh giành quyền lực vượt trội. Từ ngày 19/8/1945 tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh tiến hành đảo chính cướp chính quyền, buộc nhà nước Đế quốc Việt Nam chuyển giao quyền lực, một sự kiện mà sau đó được gọi là “Cách mạng tháng Tám”. Trước tình thế đó, vua Bảo Đại quyết định thoái vị và giải tán chính phủ Trần Trọng Kim. Dù tồn tại không bao lâu và phải dung hòa ảnh hưởng của các thế lực quốc tế cùng chủ thuyết Đại Đông Á của Nhật, nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế chính trị độc lập và mang đến niềm hy vọng về nền tự chủ đầu tiên cho Việt Nam sau ngần ấy năm lệ thuộc Pháp. Ngày 2/9/1945, chớp thời cơ về một khoảng trống quyền lực và sự yếu kém của các đảng phái chính trị khác tại Việt Nam khi ấy, đại diện Việt Minh là ông Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trong một buổi lễ long trọng tại Hà Nội, và sau đó tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sơ lược lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động như trên để thấy rằng nhiều điều bấy lâu nay bộ máy tuyên truyền và giới sử nô mặc định là đương nhiên đúng rất cần xem xét lại một cách công tâm, chẳng hạn nội các Trần Trọng Kim có thật là “bù nhìn” không, và ngày 2/9/1945 phải chăng là ngày độc lập trên phương diện thực tế và pháp lý? Như đã nói trên, sau khi bị quân đội Nhật đảo chính tại Đông Dương, nước Pháp trên thực tế đã đánh mất quyền kiểm soát về chính trị và quân sự ở các nước này, dù họ chưa bao giờ muốn từ bỏ thuộc địa béo bở như thế. Với tư cách là một đại diện chính danh và hợp pháp của một chính quyền đã và đang cai trị đất nước liên tục từ năm 1802, vua Bảo Đại ngay lập tức tuyên cáo Việt Nam độc lập. Ông đã thủ giữ vai trò đại diện đương nhiên của quốc dân và quốc gia trong sự chuyển tiếp từ thể chế chính trị cũ sang thể chế mới, mà không một nhân vật chính trị nào đương thời hội đủ tư cách thay thế được. Do đó, xét về phương diện thực tế và pháp lý, Việt Nam đã thực sự độc lập từ ngày 11/3/1945. Vậy không lý gì đến ngày 2/9/1945 người ta lại cần tuyên bố độc lập một lần nữa, mà người tuyên bố đơn thuần chỉ là thủ lĩnh của một phong trào chính trị, dù là mạnh nhất trong số nhiều tổ chức và đảng phái khác nhau cùng tồn tại khi ấy, và người đó cũng chưa bao giờ được quốc dân lựa chọn hoặc công nhận, dù mặc nhiên hay bằng một thủ tục hợp pháp, là đại diện chính danh của quốc gia tính đến thời điểm ấy. Cần lưu ý, trước thời điểm 2/9/1945 danh tính Hồ Chí Minh chưa từng được biết đến rộng rãi như một nhân vật chính trị có uy tín, còn Nguyễn Ái Quốc chỉ nổi danh như một trong các nhà cách mạng đương thời tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam mà thôi. Hai tên ấy của một con người vốn luôn thích bí ẩn, dù về sau rất nổi tiếng, vẫn chưa đủ mang đến cho ông tư cách chính danh và hợp pháp vào lúc đó để có thể đứng ra đại diện tuyên bố độc lập cho quốc gia. Tất nhiên, chân lý thuộc về kẻ mạnh, nên khi thắng cuộc người ta có thể diễn giải mọi sự kiện lịch sử theo ý riêng của mình, rằng ngày 2/9/1945, chứ không phải ngày 11/3/1945, trở thành ngày độc lập của nước Việt Nam mới. Tuy nhiên, với cách đọc sử không lệ thuộc vào ý thức hệ, từ lâu tôi đã bác bỏ lối tường thuật và nhận định lịch sử theo hướng bóp méo vì mục đích chính trị như vậy. Cho nên, nếu gọi đó là ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn có thể đồng ý, nhưng nếu áp đặt đấy là ngày độc lập thì dứt khoát không đúng, bởi với tôi chỉ có thể là ngày 11/3/1945 khi vua Bảo Đại tuyên cáo Việt Nam độc lập mà thôi.   nguồn: facebook.LSLeCongDinh
......

ĐẶC SẢN CÔNG LÝ CỦA CHXHCNVN

1. Theo tin DCCT (nguồn: http://www.chuacuuthe.com/2014/08/cong-an-danh-chet-nguoi-dan-bi-18-than...): Ông Y Két Bdap trú buôn Kmar, xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuini đã bị hai công an viên trên đánh chết ngày 28.11.2013 vì bị tình nghi ăn trộm bò. Trong đồn, ông Y Két bị trói vào cửa sổ và công an dùng gậy cao su tra tấn, buộc ông nhận tội, cho đến chết. 2 công an dùng nhục hình chỉ bị xử 18 tháng tù. 2. Vụ án Đồng Tháp mà dân cư mạng mỉa mai là "2 xe đi hàng 3" xử bà Bùi Thị Minh Hằng 3 năm tù về tội gây rối giao thông. Vụ án vô lý đến nỗi Đại sứ quán Đức tại Hà Nội vốn rất hiền lành và nhân bản đã phải ra một thông báo phản đối. Xin trích lời ông đặc sứ Christoph Strässer:   "Tôi lo ngại về hình phạt tù giam nhiều năm đối với ba nhà hoạt động nhân quyền vì tội "gây rối trật tự công cộng". Như vậy ba nhà hoạt động này bị giam trong tù nhiều năm chỉ vì cản trở giao thông trong một thời gian ngắn. Điều đó hoàn toàn không tương xứng và kỳ lạ. Rất tiếc là nó cho thấy rằng, tình hình nhân quyền ở Việt Nam vẫn rất khó khăn: Những người khác chính kiến vẫn tiếp tục bị trấn áp, đe dọa hoặc bắt giam. Tôi yêu cầu các cơ quan chức trách Việt Nam đình chỉ án phạt tù và thả ngay ba người này. Việt Nam là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc và đã ký kết nhiều công ước Liên hiệp quốc về nhân quyền. Việt Nam phải coi đó là thước đo." Nguồn: http://www.hanoi.diplo.de/Vertretung/hanoi/vi/05-Aussenpolitik_20u_20D-V...
......

SỨC MẠNH CỦA MỘT NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ

Nhớ lại. Ngày 27/01/1973, hiệp định Paris được ký kết, mở đầu cho Cộng sản miền Bắc, hai năm sau đó, không tốn nhiều súng đạn, đã thôn tính miền Nam Việt Nam. Uất ức, đau đớn cùng cực, người dân miền Nam kết tội người Mỹ là kẻ phản bội đồng minh Việt Nam Cộng hoà, bán đứng miền Nam tự do cho độc tài Cộng sản miền Bắc. Nhưng bình tĩnh và khách quan, chúng ta sẽ không thể đứng trên quyền lợi của mình để kết tội người khác như vậy.   Người Mỹ biết rất rõ, không thể kéo dài cuộc chiến tại Việt Nam, một cuộc chiến không có ánh sáng ở cuối đường hầm. Họ phải rời Việt Nam trong danh dự. Họ không thể để cho con em họ chết trên rừng rậm tại một đất nước xa xôi. Họ phải hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam trong mỗi người Mỹ, mỗi gia đình Mỹ. Người Mỹ phải dành thì giờ để ổn định lại nền kinh tế của đất nước họ sau 20 năm lâm chiến tại Việt Nam. Họ ra đi, trong tư thế của kẻ thua trận sau khi có gần 60 ngàn đồng đội của họ đã vĩnh viễn nằm xuống. Vậy người Mỹ bỏ miền Nam là để cứu đất nước họ, và có thể để nghỉ ngơi trước khi chuẩn bị cho những dự định tốt đẹp khác. Hiểu một cách độ lượng và công bằng như thế, chúng ta sẽ thấy người Mỹ không phải là kẻ phản bội đồng minh miền Nam Việt Nam. Khi quân đội Mỹ ra đi khỏi Việt Nam, 7 căn cứ không quân của Mỹ ở Thái Lan đóng cửa (1961-1976). Dân Phillippines đứng lên đòi Mỹ trả lại căn cứ Không quân Clark và căn cứ Hải quân tại vịnh Subic. Đây là hai căn cứ hải quân và không quân lớn nhất của Mỹ ở ngoài nước Mỹ. Chúng được xây dựng từ năm 1903 và đóng cửa gần 100 năm sau, năm 1991. Do áp lực của dân chúng, Nhật Bản cũng đã lập kế hoạch để yêu cầu quân đội Mỹ rời khỏi đảo Okinawa. Thế rồi, mộng Trung Hoa hoá thế giới của Cộng sản Trung Quốc trỗi dậy như Tổng thống Eisenhower của Mỹ đã cảnh báo cách đây 70 năm trong lý thuyết “domino” của ông. Trung Quốc đưa ra đường lưỡi bò 9 đoạn chiếm gần trọn biển Đông. Họ lập ra Vùng Nhận dạng Phòng không. Đưa Giàn khoan HD981 vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Một phần lãnh thổ của Phillippines bị đe doạ. Tranh chấp quyết liệt về quần đảo Điếu Ngư hay Senkaku đã xảy ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Biển Đông dậy sóng. Trước sự hung hãn ấy của một nước Cộng sản độc tài hùng mạnh Trung Quốc, những nước nhỏ khó bề ngăn cản được con hổ Trung Quốc. Nhật Bản cấp tốc hoãn lại, nếu không nói là bỏ hẵn kế hoạch đòi Mỹ trả lại căn cứ quân sự trên đảo Okinawa. Tháng 6 năm 2012 Phillippines đã mời Mỹ trở lại vịnh Subic và căn cứ Clark như xưa. Sau khi bị người anh em “4 tốt” Trung Quốc ức hiếp và sỉ nhục, đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã phải buộc lòng tìm đến cầu cứu kẻ cựu thù Mỹ. Vốn rất thực dụng và thực tế, như người Mỹ đã tiên đoán trên 40 năm về trước rằng họ sẽ trở lại Việt Nam và vùng đất ở châu Á, và sẽ trở lại trong tư thế để chiến thắng, như họ thua lần đầu khi đổ bộ lên bờ biển Normandy ở Pháp và họ đã trở lại Normandy và đã chiến thắng, giải phóng toàn châu Âu thoát khỏi hoạ phát xít Đức. Gần 10 ngàn người lính Mỹ đủ các loại cấp bậc đã nằm xuống chỉ cho một mục tiêu duy nhất: bảo vệ lý tưởng tự do. Vậy, lần này người Mỹ trở lại Việt Nam và biển Đông không phải vì Việt Nam hay Phillippines hay vì Nhật Bản mà, để họ phục vụ đất nước Mỹ, phục vụ mục tiêu hoà bình, dân chủ, thịnh vượng cho người Mỹ và các nước đồng minh trên vùng biển Đông. Người Mỹ và mọi người trên thế giới đã thấy thủ đô kinh tế tài chính thế giới ngày nay không còn ở London, New York hay Tokyo mà đang tiến dần về khu vực Đông Nam Á. Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) lúc đăng ký đầy đủ sẽ có 12 quốc gia thành viên trong đó có 4 quốc gia sáng lập là Bruney, Chile, New Zealand, Singapore và 8 nước đang đàm phán gồm Mỹ, Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản. TPP lúc ấy sẽ trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế toàn cầu. Tiềm năng của TPP rất lớn: GDP trên đầu người: 34.750 tỷ đô la Mỹ chiếm 37,5% GDP của thế giới, có dân số là 798,5 triệu người chiếm 11,2% dân số thế giới, và kim ngạch thương mại bằng 25% kim ngạch của thế giới. Với một khu vực có một nền kinh tế tiềm năng như vậy chắc chắn, bằng mọi giá, con người trong các quốc gia TPP phải đồng lòng, nhất trí trong việc tránh chiến tranh, giữ gìn an ninh, ổn định, hoà bình, để tập trung vào phát triển. Để đạt được những mục tiêu ấy điều căn bản là phải có sự đồng thuận của mọi người, nghĩa là các xã hội phải dựa trên nền tảng dân chủ. Dân chủ là đầu mối của tự do, công bằng, chính trực. Chính những giá trị này sẽ làm cho con người tin tưởng nhau để tập trung xây dựng cuộc sống cho cao đẹp hơn, nhân hậu hơn, hạnh phúc hơn. Nước Mỹ đã tốn không biết bao nhiêu xương máu để có được một nền dân chủ và một nền kinh tế hàng đầu thế giới như ngày nay. Người Mỹ tự hào đã xây dựng được một nền khoa học, kỹ thuật phục vụ cuộc sống có chất lượng của con người. Họ muốn các nước trong vùng xuyên Thái Bình Dương cũng có những nền kinh tế mạnh và cuộc sống bình an, hạnh phúc. Họ muốn Việt Nam có một chính quyền dân chủ, minh bạch và một đất nước có nhiều tổ chức xã hội dân sự. Chính những tổ chức này sẽ tạo nên một đất nước công bằng, quý trọng sự khác biệt của nhau, giúp chính phủ nghe được tiếng nói của lương tâm, thấy được trong lòng người dân mình muốn gì. Giống như xã hội Mỹ, nhờ có dân chủ, có nhiều tổ chức xã hội dân sự mà đất nước họ tự do được phát triển hơn, giàu mạnh hơn. Đối với Việt Nam, dân chủ, tự do còn là sức mạnh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Độc tài, toàn trị, quan liêu, tham nhũng, bất công, xem quyền lợi cá nhân, đảng phái lên trên lợi ích của quốc gia là cái hoạ lớn cho toàn dân tộc Việt Nam. Người Mỹ thích giúp các nước đối tác mạnh. Một nước đối tác mạnh là một nước hợp lòng dân, được người dân hỗ trợ. Với nhiệm sở ở nước ngoài như Toà Đại sứ, Tổng lãnh sự, người Mỹ có hàng trăm cách để biết một chính phủ có hợp lòng dân hay không, những ai tham nhũng, những ai độc tài, những ai thân Trung Quốc, những ai bài Mỹ, những ai theo Nga, những ai thân Pháp. Đối với các nước tự do, đây là chuyện bình thường, họ không quan tâm đến các vấn đề nội bộ của người khác. Nhưng trong quan hệ quốc tế, muốn có lòng tin và sự ủng hộ của nhau, Việt Nam không nên nói điều không thực, tránh thói quen tuyên truyền. Phải làm cho được những điều mình đã hứa. Việt Nam sẽ là một thành viên của TPP. Nếu hợp lòng dân, giữa chính phủ và nhân dân là một. Đó là một sức mạnh vũ bão. Ngoài ra, Việt Nam còn có thêm sự hỗ trợ chân tình của các nước thành viên trong Hiệp định TPP và các nước bằng hữu dân chủ khắp mọi nơi trên thế giới. Sức mạnh của Việt Nam lúc đó là một sức mạnh tổng hợp. Không có một nước nào dám đe doạ Việt Nam. Nguyễn Phương Linh 21/08/2014   Nguồn: diendantheky.net
......

VIỆT NAM : QUỐC GIA CHUỘT NHẮT ?

Việt Nam, ôi quê hương yêu dấu rừng vàng biển bạc của chúng ta, nhưng mà có phải nó đang tụt xuống hàng “hố rác” của nhân loại?   Từ Bắc chí Nam, từ Quảng Ninh đến Cần Thơ các cô gái trẻ nườm nượm đi thi để lọt qua vòng tuyển lấy chồng Hàn Quốc. Với một lý do mở màn rất đơn giản, ít nhất người ta được xuất ngoại lần đầu, được đáp máy bay lên bầu trời. Trái lại, nếu không dám dứt bỏ một lần làm sao thoát cảnh lội bì bõm bên bờ ruộng để leo lên phi cơ phản lực vượt ra quốc tế? Những cô gái Việt này ao ước đàn ông Hàn Quốc chẳng khác gì “tây mũi tẹt”, giống cha ông châu Á đã từng khao khát phương Tây như thần thánh cái gì cũng có. Trời ơi, quả là một trời một vực, cùng da vàng mũi tẹt như nhau, chỉ sau vài thập kỷ, một đằng thì thành tây, đi đâu cũng leo lên xe hơi và máy bay; một đằng thì bán cả đời mình chỉ để nếm một lần leo phi cơ. Tại sao? Có phải tại trí khôn của người Việt mà rất nhiều người chúng ta lúc nào cũng thường trực tự hào? Có nhiều người Việt phản ứng rất mạnh mẽ khi thấy ai nói về cái xấu của người Việt, như thể nói thế là chạm đến quốc hồn – quốc túy, nói xấu tổ tiên, ông cha… và họ phản đối như thể đó là thước đo chứng minh lòng yêu nước của mình rằng: tôi yêu tổ quốc, tổ tiên, dân tộc, giống nòi, và tôi phản đối lại là để bảo vệ tổ quốc. Họ có bảo vệ tổ quốc không? Thực ra, họ chỉ bảo vệ cái xấu trong chính con người họ. Hoàng đế Napoleon có nói “Bao dung với cái xấu là sự đồng tình với nó”. Đúng vậy một kẻ ăn cắp thường có cái nhìn vô tội với một thằng ăn cắp khác. Kẻ nói dối cũng vậy. Kẻ độc ác, đố kỵ, ích kỷ cũng thế, nó không giành cho những ai giống nó một cái nhìn phán xử khác lạ… Kết quả bao dung cũng là bao che cho cái ác tràn lan vô bờ đến vậy dẫn đến dân tộc Việt ngày nay theo các bảng sắp hạng đều không ngoi ra khỏi vị trí đội sổ, thua xa cả những nước trong khu vực từ 50 đến 100 năm. Nói đâu xa, nước Lào là nước nhỏ bé nghèo nàn bậc nhất thế giới, nhưng từ xưa đến nay luôn trở thành giấc mơ của người Việt. Thời bao cấp, mấy anh sinh viên Lào chỉ có vài cái nhẫn vàng đeo ngón tay đã trở thành niềm ao ước của nhiều cô gái Việt. Còn giờ đây, xe hơi loại bán tải của Lào nhiều như xe đạp từ quê lên phố vẫn là mơ ước của giới trung lưu Việt Nam. Còn giới cán bộ trung lưu Việt hí hửng về thu nhập cỡ dăm chục triệu đồng mỗi tháng thì vẫn còn thua loại rửa bát, làm thuê ở Singapore, một nước nằm trong khu vực. Sự bao dung – bao che – cũng là đồng hóa đó đã gây ra vô số cái xấu cái ác ở Việt Nam: nào ăn cắp nắp cống, tháo đinh đường tầu, tháo đinh rầm cầu, cắt đường dây điện thoại, rải đinh “đa cạnh” ra đường, rồi xi măng cốt tre…đã gây ra nhiêu tai nạn khủng khiếp. Mới nhất là nạn pha trộn tạp chất vào xăng dầu đã gây ra hàng loạt vụ cháy xe gây thiệt hại tài sản và chết chóc tang thương. Đó là một thảm họa! Nhưng còn thảm họa hơn ngay khi đã tìm ra mầm mống của những vụ pha trộn, người ta vẫn triển khai sự bao dung, nghĩa là vẫn bao che cho những thứ nguy hiểm chết người rình rập ngay trong chiếc xe của người dân. Tại sao? Vì các công ty xăng dầu đều thuộc các ông lớn, chẳng lẽ ông lại muốn phơi áo sân sau của mình! Trong một buổi gặp mặt các phóng viên. Một vị quan chức nêu ra ý kiến chỉ đạo: để kích thích du lịch Việt Nam báo chí cần khai thác đưa tin về những lời nói tốt đẹp của khách thăm quan nước ngoài, như vậy mới lôi kéo được du lịch. - Vậy những lời nói về cái xấu của người Việt thì sao? – một nhà báo hỏi lại. Vị quan chức cười xòa “cái này thì…” – có nghĩa là không được đăng. Tóm lại, người Việt chỉ quen với những “sự thật” được biên tập, nói thẳng ra chỉ thích lời khen mà không muốn bị chê. Như vậy là người Việt chưa trưởng thành, chỉ là những đứa trẻ thích nghe lời khen mà không muốn bị chê. Mới đây có nhiều bài báo như của học giả Vương Trí Nhàn tập hợp những bài viết của các học giả lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Đặng Thái Mai … hoặc của nhà báo Hoàng Tùng… đã nêu ra từ xưa, nhiều chuyên gia phương Tây đã nhận xét người Việt rất nặng như: “nói dối”, “ăn cắp”, và “sát nhân”.   Đặc biệt có chuyên gia nói: “Việt Nam là quốc gia của những con chuột”.   Trong một phóng sự truyền hình, người ta phản ánh nạn người Việt qua các nước Tây Âu, có rất nhiều người tham gia trồng cây cần sa. Họ bị giam trong nhà kín, không được ra ngoài, suốt ngay lo chăm bón các cây cần sa dưới ánh đèn điện. Việc họ bị giam cầm trong nhà không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời liệu có phải là những con chuột? Gần hơn, một loạt các vụ giam cầm công nhân người Việt tại Nga, ăn ở và làm việc trong nhà hầm như súc vật, đến khi cháy không có đường thoát hiểm đành ôm nhau chết. Liệu có phải họ bị đối xử như những con chuột và chết như những con chuột? Và ai đã đối xử với họ như chuột? Bọn thực dân ư? Không, đó chính là những người Việt mới đó vẫn còn chân lấm tay bùn nhưng đã sớm bước vào con đường lưu manh hóa tiểu nông, rồi thành tư bản đỏ học đòi. Ai mà nói về cái xấu của người Việt thì đám này uất ức đầu tiên. Tại sao? Vì đó là những cái xấu mà chính họ mới là đại biểu cao cấp nhất.   Một quốc gia muốn trưởng thành và tiến bộ thì nó phải kiện toàn pháp luật bởi vì không có pháp luật không thể thành quốc gia mà đó chỉ là sắc tộc gia đình trị bán khai. Điều kiện đầu tiên để có pháp luật là không ai cho dù là vua chúa, chủ tịch hay thủ tướng được ở trên pháp luật. Vua phạm tội xử như thứ dân. Nhưng cái điều hiển nhiên đó cho đến nay đã đầu thiên niên kỷ thứ ba người Việt vẫn không được sống trong Nhà nước pháp quyền. Cái gọi là nhà nước của chúng ta là thứ hầm bà làng, đồng nát như lãnh đạo vẫn thường cất tiếng nói cửa miệng “đảng, nhà nước, và nhân dân”. Trong câu nói này dù bao sân nhưng vẫn thiếu một cơ quan trực tiếp của pháp luật đó là “chính phủ”, và như thế chẳng có ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi đó ở các nước người ta luôn phải tuyên bố: chính phủ đã làm việc này việc kia. Việt Nam làm sao có pháp luật khi điều bốn của hiến pháp, Đảng tuyên bố “lãnh đạo tất cả”, cả quốc hội là cơ quan lập hiến, cả chính phủ là cơ quan hành pháp. Người ta nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao”, nhưng mở màn kỳ họp quốc hội, người ta lại đem nghị quyết của trung ương đảng vào đọc như một định hướng bất khả biện, thì làm sao quốc hội còn là cơ quan tối cao được. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng lại chịu sự lãnh đạo cao nhất hơn của đảng, thử hỏi ai thứ nhất? ai thứ nhì? Có một việc giản dị như vậy sao người ta vẫn ấp úng che đậy, không thể minh bạch? Vì thế ở Việt Nam, từ lập pháp đến hành pháp đều chỉ là lối tập trận giả, nhưng có một sự thực bên trong đó: là mong muốn và định vị tuyệt đối của quyền lực. Quyền lực tuyệt đối để làm gì? Để có được quyền lợi tuyệt đối! Quốc hội Việt cộng ở trình độ nào? Quốc hội đúng nghĩa là bàn của chủ tịch đoàn ngồi thấp hơn ghế của các nghị viên, được đặt ở giữa, để các nghị viên thoải mái tranh biện. Trái lại quốc hội Việt cộng thì nghị viên ngồi dưới như xem kịch, còn chủ tịch đoàn ngồi phía trên như ban giám khảo. Chủ tịch bước ra bệ nói như Mc, còn ở dưới giơ tay tán thưởng. Đúng là hình thức văn công chẳng giống ai. Đó là bằng chứng sờ sờ chứng tỏ cái gọi là quốc gia của chúng ta còn ấu nhi đến mức nào? Hội trường quốc hội đúng nghĩa của Việt nam vẫn đang xây để chờ cơ hội sánh bước với loài người. Than ôi vào thiên niên kỷ thứ ba rồi mà người Việt vẫn chưa nhấc chân bước đầu tiên vì HIẾN PHÁP ĐÍCH THỰC. Thử hỏi người Việt là người hay là chuột? Theo các chuyên gia, chuột là thứ sống theo bầy và thuộc loại thông minh bậc nhất, chúng không bao giờ để bị dính bẫy đến lần thứ hai. Một con bị sập bẫy, cho dù bẫy sắt, bẫy tre hay bẫy dính, thì chúng liền tụ lại họp hành rút kinh nghiệm rồi thông báo cho cả bầy trên toàn lãnh thổ cống ngầm cách thức nhận biết và tránh bẫy. Nhưng dù bầy chuột có khôn đến mấy, chúng cũng không phải là thứ kiêu hãnh của ánh sáng. Sự khôn ngoan của chúng chỉ là chui rúc để tồn tại, mà không phải là vươn thẳng để sống minh bạch và tiến bộ. Đó là quan lại cũng như dân chúng. Giờ đến văn hóa. Thơ là thứ phổ biến cũng như dễ nhất của Việt Nam hiện nay. Thôi thì tiểu nông, tiểu thương, các cụ hưu trí, các em mới lớn đua nhau làm thơ. Giờ hãy nhìn tập đoàn làm thơ, có đông rinh rích và rúc ríc làm thơ không? Mới đây Trung quốc lĩnh giải Nobel văn học lần hai. Tại sao họ có hai thành tựu đó? Bởi vì cách đây hơn nửa thế kỷ người Trung Quốc đã bỏ làm thơ, và coi thường thơ.   Ai chẳng yêu quê hương. Nhưng người đi xa về bao giờ cũng yêu quê hương hơn, yêu da diết và đau đáu. Tại sao? Bởi vì tình yêu của họ đã lên men rất nhiều bởi nỗi nhớ cồn cào. Người làm thơ sẽ yêu thơ hơn nếu người ta biết từ bỏ thơ để sống trong một cuộc đời toàn diện có công lý, tình yêu, tranh đấu, sám hối và cứu chuộc.   Văn là người! Thi ca là cuộc đời! Người làm thơ sẽ trở về với thơ như nước nguồn từ đỉnh cao ùa xuống, chứ không phải như tí nước mài mực rồi cọ lên giấy vòi vĩnh khúc vinh quang. Hãy viết văn làm thơ như những con đại bàng sà xuống từ lý tưởng cuộc đời, chứ không phải bằng những khúc rúc ríc lẩn trốn khôn ngoan của bầy chuột chỉ quen thủ thế trong cơ chế xin cho của bóng tối. Một chút thành công tem phiếu bao cấp chỉ là cách con chuột chui qua kẽ hở kiểm duyệt bé tí của ông chủ, đó không phải là cách con ngựa phi nước đại cùng những con khác trên thảo nguyên để tìm xem con nào mạnh nhất?! Dám ra gió cuộc đời! Dám ganh đua minh bạch! Mới có thể tìm được giải quán quân đại bàng, hay những con chiến mã! Còn đua trong ao hợp tác ư? Chính những nhà quán quân mậu dịch đã thừa nhận “chúng ta chỉ là tép”. Mong rằng mọi người Việt đều biết vượt qua tự ái để phấn đấu cho một xã hội tiến bộ, minh bạch và kiêu hãnh thực sự. XIN ĐỪNG ĐỂ BỊ HẠ NHỤC VÌ LÀ THẦN DÂN CỦA VƯƠNG QUỐC CHUỘT !! N H Đ Nguồn: ViệtNamThờiBáo
......

Tuyên bố chung của các Tổ chức Xã hội Dân sự

Tuyên bố chung của các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập tại Việt Nam trước phiên xử Bùi Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh Theo công văn số 69/2014/HSST-QĐ do thẩm phán Bùi Phước Lộc ký ngày 28-07-2014 với nội dung “đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự truy tố về tội “gây rối trật tự công cộng” theo Khoản 2, Điều 245 BLHS”, bà Bùi Minh Hằng, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và ông Nguyễn Văn Minh sẽ bị xét xử vào lúc 7g30 ngày 26-08-2014 tại tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Cả 3 người đã bị bắt giam từ ngày 11-02-2014 tại đồn công an huyện Lấp Vò (Đồng Tháp), sau đó bị chuyển về giam giữ tại trại giam công an tỉnh Đồng Tháp (xã An Bình, huyện Cao Lãnh). I- Chúng tôi, các Xã hội Dân sự ký tên dưới đây đồng nhận định: 1- Vụ việc xảy ra tại con đường nông thôn liên xã thuộc khu vực cầu Nông Trại, xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp ngày 11-02-2014 liên can đến 3 bị can nói trên và 18 bạn đồng hành đang trên đường viếng thăm một gia đình đồng đạo là vợ chồng ông Nguyễn Bắc Truyển, nạn nhân của công an mấy ngày trước đó. Đa phần trong đoàn đã cùng làm chứng họ bị một lực lượng công an hàng trăm người cải trang thành côn đồ, mai phục trong rừng cây bên đường, bất ngờ xuất hiện chặn xe máy của họ, hạch sách giấy tờ, khiêu khích thóa mạ. Trước việc đòi cho ra lẽ của đoàn người, công an đã phản ứng bằng cách dùng gậy gộc đánh đập dã man tất cả, bất kể nam phụ lão ấu, vừa quay phim chụp hình với máy móc chuẩn bị sẵn (x. Đơn tố cáo của tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm ngày 23-02-2014 và Thư gởi đồng bào của Đặng Thị Quỳnh Anh -con gái bà Hằng- ngày 05-03-2014). Sau khi nhiều người đã bị đổ máu, thương tích và bất tỉnh nhân sự, các nhân viên cảnh sát công an này (trong đó có đại úy Huỳnh Văn Thuận, đội phó an ninh huyện Lấp Vò và thượng tá Lê Hoàng Dũng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra Công an Lấp Vò, kẻ nặng tay nhất với bà Hằng và sau này sẽ là người ký lệnh khởi tố) mới khoác sắc phục công an rồi dẫn giải cả 21 người về giam giữ, đồng thời tước đoạt mọi tài sản họ mang theo (máy vi tính, máy chụp hình, điện thoại, băng-rôn…). Tất cả bị bỏ đói nửa ngày, bị ép tội “chống người thi hành công vụ”, bị giam trong nơi tối tăm bẩn thỉu và sau đó 18 người được thả ra. 2- Trong ba người còn lại bị giam giữ với lý do “gây rối trật tự công cộng” thì bà Hằng là một chiến sĩ dân chủ nổi tiếng và kiên cường, có mặt từ các cuộc xuống đường biểu tình ôn hòa chống quân xâm lược Trung cộng đến những phiên tòa bất công xử người yêu nước. Từ các phong trào khiếu kiện đòi công lý của dân oan mất đất đến những chuyến đi phát Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Bà từng bị giam giữ 5 tháng tại trại Thanh Hà năm 2012. Cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh thì từ năm 2010 đã tham gia phong trào biểu tình ở Sài Gòn để chống hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, sau đó dấn thân vào nhiều hoạt động nhân quyền dân chủ. Còn ông Nguyễn Văn Minh là một tín đồ nhiệt thành thuộc Phật giáo Hòa Hảo độc lập, con rể và anh rể của hai cha con tù nhân lương tâm là ông Bùi Văn Trung và anh Bùi Văn Thâm. Khi bị bắt, cả 3 đã bắt bắt đầu tuyệt thực để phản đối. Riêng cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị dụ dỗ hãy buộc tội bà Hằng như kẻ cầm đầu việc tổ chức gây rối để được thả ngay (nhưng cô không làm). Còn bà Hằng thì đã tuyệt thực đến 04 lần dài ngày và mãi tới gần đây (19-08-2014) mới được gặp con gái. 3- Ngày 27-02-2014 chương trình “Vì An ninh Tổ quốc” của Đài truyền hình Đồng Tháp đã thực hiện phóng sự về việc bắt giữ ông Nguyễn Bắc Truyển rồi 21 người liên quan trong vụ án nói trên. Mọi sự đã được ghi hình chu đáo ngay từ lúc vụ việc xảy ra, nhằm mục đích miêu tả lại toàn bộ diễn biến của vụ việc, cho dư luận thấy những người bị bắt giữ trong vụ án này đã vi phạm pháp luật, và Công an Đồng Tháp đã thực hiện đúng theo quy định luật pháp!?! Phân tích băng hình phóng sự, người ta thấy tất cả các cáo buộc của công an đưa ra đối với 3 người đang bị bắt giữ là “gây cản trở giao thông nghiêm trọng”, “chống người thi hành công vụ”, và “gây rối trật tự công cộng” đều vô căn cứ. Dù phóng sự đã được dàn dựng và chuẩn bị từ trước, công an đã không thể đưa ra bất kỳ bằng chứng nào cho các cáo buộc đã nêu. Trái lại, nó là bằng chứng tố cáo cách hành xử côn đồ, lối vu khống công dân, thói đổi trắng thành đen của công an Đồng Tháp. 4- Ngày 10-03-2014, để tìm chứng cứ gian, nhằm hợp thức hóa hành vi “vô cớ hành hung công dân” và “bắt giam người trái pháp luật”, công an huyện Lấp Vò đã triệu tập 5 người thuộc nhóm đồng hành là ông Tô Văn Mãnh, anh Phan Đức Phước, anh Nguyễn Vũ Tâm, chị Bùi Thị Diễm Thúy và chị Đỗ Thị Thùy Trang. Cả 5 người ngay sau đó đều tố cáo trước công luận (qua đài RFA ngày 11-03-2014:http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/lap-vo-poli-comp-witns-031...) rằng nhân viên điều tra đã có hành động mớm cung và ép cung, tự tiện ghi trên biên bản nhiều điều mà các nhân chứng hoàn toàn không nói tới. Thêm nữa những điều họ chứng kiến, khai ra thì nhân viên điều tra không ghi vào biên bản. Trong các buổi làm việc ấy, để xây dựng “người đầu vụ”, công an luôn xoáy vào vai trò “tổ chức gây rối” của bà Hằng, ngõ hầu dễ đưa bà vào tròng pháp luật. Rõ ràng công an muốn bằng chứng hóa lời vu cáo của thượng tá Huỳnh Văn Thạnh, phó trưởng Công an Lấp Vò: “Đoàn người đó đánh công an trước, tấn công công an trước, công an không thể đánh lại, thì dân ở hai bên đường mới nhảy vào đánh phụ công an”!?! 5- Chưa hết, Công an huyện Lấp Vò còn gửi thông báo cho luật sư Trần Thu Nam (văn phòng luật sư Tín Việt – Hà Nội) nói rằng bà Bùi Minh Hằng từ chối thuê luật sư. Nhưng trước bằng chứng không thể chối cãi do luật sư Nam cung cấp là bản hợp đồng trợ giúp pháp lý chính tay bà Hằng đã ký với ông cùng văn phòng luật sư của ông (chính các con của bà Hằng cũng đồng lòng với ý muốn nhờ luật sư Nam tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mẹ), nên ngày 12-03-2014, công an huyện Lấp Vò đã buộc phải gửi giấy chứng nhận người bào chữa số 03 cho luật sư Trần Thu Nam và đồng ý để luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hằng. 6- Cũng phải kể thêm: Tối ngày 22-03-2014, sau thánh lễ cầu nguyện cho bà Bùi Hằng và 2 người bạn Thúy Quỳnh và Văn Minh tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội, cô.. II- Từ những nhận định nêu trên, chúng tôi, các tổ chức Xã hội Dân sự ký tên dưới đây đồng tuyên bố: 1- Ba bị can Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh phải được trả tự do lập tức và vô điều kiện vì họ vô tội hoàn toàn. Chính công an mới là những kẻ mắc tội “gây rối trật tự công cộng” vì đã âm mưu từ trước, lén phục kích, đánh người dã man, khiến cho nhân dân phải tụ tập lại đông đảo. 2- Những động thái đầy mưu mô xảo trá của nhà cầm quyền tiếp đó (ép cung chứng nhân, bức bách nạn nhân, đầu độc công luận…) nhằm đưa những người hoạt động nhân quyền can đảm vào vòng tù tội chứng tỏ đây không phải là một vụ án hình sự bình thường mà đã được chính trị hóa, xuất phát từ động cơ chính trị. 3- Việc đánh đập giam giữ hoàn toàn phi lý rồi tiến hành tố tụng hoàn toàn phi pháp này không chỉ là hành vi chà đạp nhân quyền trầm trọng mà còn chà đạp cả chính bộ mặt pháp quyền giả tạo của chế độ. Đây mới là thực tế tình trạng nhân quyền tại Việt Nam chứ không phải như những luận điệu dối trá của mọi quan chức của bộ máy cầm quyền CSVN khi trả lời các chất vấn và phê phán của công luận hoàn vũ. 4- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như toàn thể phong trào dân chủ quốc nội lẫn hải ngoại hãy chung tay và kiên trì tranh đấu (với sự trợ giúp của các quốc gia dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế) cho một nền pháp chế theo đúng những chuẩn mực của nhân loại văn minh, một nền pháp chế không còn là công cụ trong tay đảng cầm quyền độc tài. Làm tại Việt Nam ngày 21-08-2014 Các Tổ chức Xã hội Dân sự đồng ký tên: 1) Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải2) Cao Đài: Ông Hứa Phi, Bà Bạch Phụng3) Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn ĐanQuế4) Con Đường VN: Ông Hoàng Văn Dũng5) Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A6) Hiệp Hội Dân Oan: Ông Nguyễn Xuân Ngữ7) Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo: Ông Nguyễn Bắc Truyển8) Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài9) Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo: Lm. Nguyễn Ngọc Thanh10) Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng11) Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi12) Hội Đồng Liên Tôn: Lm. Đinh Hữu Thoại13) Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts. Phạm Chí Dũng14) Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, Bà Trần Thị Hài15) Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh16) Mạng Lưới Blogger: Cô Nguyễn Hoàng Vi17) Nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải18) Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm19) Phong Trào Liên Đới Dân Oan: Bà Trần Ngọc Anh20) Tăng Đoàn PGVNTN: HT. Thích Không Tánh21) Tin Lành: MS Nguyễn Hoàng Hoa, MS Nguyễn Mạnh Hùng
......

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Trong những lúc gần đây nhân sĩ trí thức Việt Nam đang cố vươn tới điều mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm cách nay nhiều thập niên đó là nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung Quốc. Liệu đây là nỗ lực có tỷ lệ thành công ra sao và vai trò nhà nước trong vận động này là gì? Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến tham dự một cuộc họp của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc tổ chức tại Hà Nội hôm 22/12/2011.   Khi nói về văn hóa không những chỉ có yếu tố tích cực mà còn những tiêu cực, do hoàn cảnh lịch sử khiến cả một dân tộc trong nhiều thế kỷ phải theo đuổi một cách mù quáng đôi khi miễn cưỡng một triết thuyết do tập đoàn cầm quyền hay chế độ phong kiến muốn áp đặt cho dễ dàng trong việc cai trị. Lệ thuộc văn hóa Trung Quốc đến từ đâu? Văn hóa Trung Quốc với Khổng giáo làm chủ đạo thâm nhập vào Việt Nam đã hơn 1.000 năm, tại sao giờ này mới nảy sinh ý định thoát ra khỏi nó và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu có khác gì với Nhật Bản và Hàn Quốc hay không?   Ngoài nguyên nhân văn hóa, hệ thống chính trị của Trung Quốc đã làm cho Việt Nam không thể độc lập tự chủ, ít nhất trong các quyết sách chính trị mà lý tưởng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi đường lối. Nguyên nhân ấy ăn sâu vào từng con người trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam khiến mọi nỗ lực thoát Trung gần như tuyệt vọng trong một giai đoạn kéo dài gần một thế kỷ. Nhà văn Hoàng Hưng, một trong những người tổ chức buổi tọa đàm có tên “Thoát Trung về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết quan điểm của ông: "Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó. Họ đưa vào điều lệ đảng, đưa vào hiến pháp các thứ. Trong xã hội thì ai cũng biết rằng bản thân người lãnh đạo Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đang tìm cách để thoát dần dần ra khỏi nó. Thí dụ như về kinh tế thì rõ ràng họ đã thoát ra và chấp nhận kinh tế thị trường chứ không còn chấp nhận cái đuôi Xã hội chủ nghĩa, cái cách mà nhà nước nắm quyền chi phối. Nếu mà nói đúng thì nó phải là một nền chuyên chính vô sản của công nhân, của nông dân. Thế nhưng ai cũng biết công nhân và nông dân hiện nay là tầng lớp khổ nhất trong xã hội. Đất đai không được ai bảo vệ, nghèo khổ bị đàn áp. Cái được gọi là chủ nghĩa Mác Lênin thực chất chỉ là cái vỏ đễ giữ lại nội dung chuyên chính độc tài toàn trị của một giới đặc quyền nắm quyền cai trị. Cái giả dối lớn nhất là giả dối về lý tưởng rao truyền trên xã hội. Những điều giả dối như vậy thì làm sao xã hội không giả dối theo trên tất cả mọi lãnh vực?" Khổng giáo và ý thức nữ quyền   Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011. Nhà báo Lê Phú Khải nhìn nguyên nhân ở một góc độ khác: sự lệ thuộc Khổng Mạnh một cách mù quáng đã khiến xã hội Việt Nam rơi vào quỹ đạo mà vua quan phong kiến thiết lập ra cho dễ bề thao túng quyền con người, đặc biệt là ở người phụ nữ:   "Khổng giáo nó ngấm vào mạch máu, nó ngấm vào từng con người và người ta xem đó là chân lý. Chẳng hạn người ta nói người phụ nữ chồng chết thì phải theo con. Tại sao phải theo con mà không lấy chồng khác? Nhưng người phụ nữ Việt Nam lại xem đó là chân lý, là lẽ phải. Trinh tiết, tiết tháo, thủy chung với chồng. Những chân lý mà người ta tiếp thu giống như người khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Cái nguy hiểm của văn hóa Khổng Mạnh tức là anh khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Điều này nó ngấm vào tiềm thức của xã hội Việt Nam và rất khó cho phép con cãi lại cha. Cha có thể sai chứ? Cấp trên có thể sai chứ? Thứ văn hóa bầy đàn mà chúng ta không thể thoát ra vẫn đi theo con đường toàn trị. Cho nên cái gốc của nó là như thế." Giáo sư Ngô Đức Thọ, người nghiên cứu văn hóa Trung Quốc trong hàng chục năm trời cho biết kinh nghiệm của ông và nguyên nhân chính khiến Việt Nam lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc là do nhà cầm quyền cố ý tránh né sự thật lịch sử Việt Nam bị nô lệ hàng ngàn năm từ cái gọi là giao lưu văn hóa hai nước:   "Ba cuộc chiến tranh dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc thì mọi người Việt Nam học lịch sử đều thuộc cả, ta gọi là ba lần Bắc thuộc. Chính xác phải là 13 thế kỷ hơn 1.300 năm. Như vậy nó là một trang sử rất u tối của chúng ta. Nói đến 1.000 năm Bắc thuộc thì mọi người nói rất nhiều mà sử sách thì viết không biết được bao nhiêu phần trăm? Lướt qua một cách thoải mái. Thực ra trong một nghìn năm đó lịch sử Việt Nam đau thương vô cùng mà lớp trẻ bây giờ không rõ. Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư của chính phủ Trần Trọng Kim thời trước khi chúng tôi còn đi học thì người ta vẽ một vài tấm tranh trong thời kỳ đó rất tang thương. Những ngôi mộ thời Đường như thế nào, cảnh hoang tàn của quân Nam Chiếu ở trên Vân Nam nó tàn sát như thế nào. Thế hệ bây giờ thì không có nữa, rõ ràng là rất thiếu. Cứ nghiên cứu trên quan niệm là giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc nên mới có chuyện người Việt học chữ Hán… Rất nhiều lĩnh vực của xã hội đen tối dưới thời Bắc thuộc, tội ác của những thái thú đối với người dân Việt Nam thế nào trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc đấy tàn sát bao nhiêu vụ? bóc lột thu thuế má vượt sản như thế nào, bắt quân dịch các đợt như thế nào …nhưng lịch sử chính thức của nước ta bây giờ hỏi số liệu đó thì hoàn toàn không có, không một trang nào viết cả, đó là một thiếu sót rất lớn." Nô bộc chính trị Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định tính chất nô bộc chính trị của lãnh tụ đã biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Sự coi thường văn hóa nước nhà đã gây ra hậu quả ngày nay: "Có một thời gian dài mình đã gửi cái hồn phách cho Tàu còn cụ Hồ thì nói là gửi hồn sang Mạc Tư Khoa thì đều không đúng. Vấn đề là phải gửi gấm cái hồn dân tộc vào văn hóa của mình vào lòng người, vào văn hóa. Đấy là những cái mà chúng tôi muốn nói đến. Hai nữa văn hóa nó phải bồi đắp cho một sức sống mới của một dân tộc cho nên vấn đề quốc văn quốc sử phải xem xét lại. Vấn đề quốc sử chẳng hạn: hiện nay có một điều là giới sử học, chính trị thì đã đành rồi, nhưng giới sử học ngay vấn đề lịch sử ¼ thế kỷ của Việt Nam Cộng Hòa chả ai nghiên cứu cả mặc dù nó là một thực thể lịch sử, nó có cái hay, cái dở, cái đúng cái sai nhưng trong ¼ thế kỷ ấy không có nghiên cứu, tức là một khoảng trống của một nửa nước. Và bây giờ rõ ràng về mặt chính trị người ta muốn thừa kế nó thì phải thừa nhận tính chính thống trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình nhưng các mặt khác thì mình có thừa kế không và làm sao bỏ nó đi được?" Thói quen theo đuôi hữu nghị   Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa).   Từ Úc châu, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết những quan sát của ông về thói bắt chước một cách mù quáng của hệ thống cầm quyền Việt Nam đã khiến đất nước này biến thành một phiên bản của Bắc Kinh từ ngôn ngữ hành chánh cho tới sinh hoạt khoa học và thậm chí trong cả lãnh vực quốc phòng, ông nói: "Những motif về tham nhũng, phong trào các quan lớn có bồ nhí… tất cả đều xuất phát từ bên Tàu, Việt Nam chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. Nếu xem lại các tàu kiểm ngư của Việt Nam mình thì sẽ thấy nó có màu trắng có vẽ mấy cái gạch xéo xéo xanh đỏ trên sườn tàu. Nếu nhìn những cái gạch đó của tàu cảnh sát biển Việt Nam và cảnh sát biển Trung Quốc thì giống y chang nhau! Hóa ra trước đó có mấy ông cảnh sát biển của Tàu nó qua giao lưu với Việt Nam và 4 tuần sau thì xảy ra xung đột. Trong khoa học, khi qua thăm Trung Quốc trong mấy năm gần đây mình thấy Việt Nam quan tâm tới vấn đề như phòng thí nghiệm trọng điểm hay các chương trình có những con số như 322 này nọ… khi mình qua Tàu mình thấy cũng y như vậy. Nó cũng có chương trình trọng điểm, những chương trình khoa học 917… như vậy thì mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!"   Lệ thuộc chính trị kéo theo bất động của cả nước trước sự xâm lấn văn hóa của phương Bắc ngày càng trầm trọng. Nỗ lực thoát ra khỏi những hệ lụy ấy đang là đầu đề của các buổi thảo luận căng thẳng đầy khó khăn. Câu hỏi đặt ra trước mắt: Thoát Trung, phải thoát điều gì? Nhà văn Hoàng Hưng cho biết những suy nghĩ của ông trước câu hỏi hóc búa này: "Khi ta bàn thoát Trung về Văn hóa là phải thoát cái gì. Tôi nghĩ rằng có một nét văn hóa tồi tệ vì giới cầm quyền Maoist của Trung Quốc đã xây dựng trên xã hội của họ và truyền sang xã hội Việt Nam do quan hệ được gọi là môi răng. Một nền văn hóa mà tôi đặt là “văn hóa giả dối”. Bây giờ nó đã thành một cái nạn rất là tệ hại, nghiêm trọng đối với toàn bộ đời sống tinh thần của tất cả các tầng lớp trong xã hội từ quan cho đến dân. Về lâu dài tôi cho nó là một tội ác. Nó phá hoại nền tảng tinh thần của Việt Nam rất là nguy hiểm. Tôi cho đó là một trong những tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao và nó gây hại cho dân tộc Việt Nam." Văn hóa quỳ lạy Nền “văn hóa giả dối” ấy theo nhà báo Lê Phú Khải cần phải nâng lên một tầng nấc khác, đó là “văn hóa quỳ lạy” do Khổng Mạnh cấy vào xã hội Trung Hoa từ hàng ngàn năm về trước. Sự quỳ lạy mà cộng đồng ngấm ngầm chấp nhận và thực hiện như một ước mơ đã tạo ra hàng trăm thế hệ hư đốn mà không nhận ra sự nô dịch của mình. Văn hóa quỳ lạy ấy đã tràn sang Việt Nam và nở rộ như nấm dưới mưa trong thời đại cộng sản: "Văn hóa nào thì nó chọn cái chính trị đó. Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa quỳ lạy tức là anh chí thú đi học để làm quan, để quỳ lạy trước nhà vua, để được hậu thưởng bổng lộc và chỉ có vua là đúng còn tất cả bàng dân đều là số không. Chỉ có anh ta đúng thôi. Ý vua là ý trời! Trong khi đúng vào cái thời kỳ đó thì ở phương Tây Aristos nói rằng có tranh luận, có đi tìm chân lý thì mới có chân lý. Thoát Trung là thoát khỏi văn hóa Khổng Mạnh của Trung Quốc, ảnh hưởng giới trí thức Việt Nam. Căn bản nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa chỉ có trên đúng còn dưới thì sai. Chỉ có vâng lời không có đối thoại. Tôi cho cái đó là quan trọng nhất." Chủ nghĩa cộng sản Giáo Sư Ngô Đức Thọ trong khi công tác tại Viện Hán Nôm ngoài kinh nghiệm về lịch sử giữa hai nước, ông phân tích sự lệ thuộc một cách mù quáng của lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã bất chấp giá nào để đạt được mục đích ngay cả phải hy sinh con người trong những phong trào đấu tố diệt chủng. Chủ tịch HCM đã nhắm mắt theo lời Stalin để cải cách ruộng đất và từ đó đất nước thấm đẫm oan khiên. Lịch sử này nếu không thoát ra hôm nay liệu Việt Nam còn có cơ hội nào khác nữa?   "Về mặt tư tưởng ta phải thoát Trung. Thoát Trung là gì? Đó là thoát tư tưởng đấu tranh giai cấp, tư tưởng Mao Trạch Đông, những tư tưởng này rất ảnh hưởng đến Việt Nam. Chúng ta đã biết những tư tưởng này là cách mạng chuyên chính của Mao được các cán bộ tầm cỡ của ta mang về từ Diên An. Kể cả Đề cương Văn hóa của đồng chí Trường Chinh viết năm 1943 cũng đậm màu sắc Trung Quốc trong đó văn học đại chúng không khác gì các đề cương văn hóa của Trung Quốc ở Diên An cả. Cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông tại Diên An  gần như được mô phỏng trong đề cương Văn hóa Việt Nam, tôi ví dụ như vậy. Cái tư tưởng này là gì thì mọi người đều biết rồi. Tư tưởng của anh Tàu rất tai hại. Theo tôi nghiên cứu tài liệu thì trước đây chỉ có mỗi Tàu nhưng sau này đọc lại thì thấy cũng ảnh hưởng quốc tế cộng sản từ Nga. Vấn đề “Cải cách ruộng đất” không hẳn của Tàu, chính Stalin chỉ thị cho Chủ tịch HCM về Việt Nam cải cách ruộng đất còn nếu không làm cải cách thì không công nhận đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên đảng cộng sản ra đời phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất này. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng rằng thời gian rồi nó sẽ qua, lấy thời gian làm vũ khí nhưng vũ khí thời gian không nghĩa gì cả bởi vì tai nạn này, kiếp nạn này là rất lớn."   Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh sự lệ thuộc về văn hóa từ mỗi cá nhân do tác động từ các việc làm của hệ thống chính trị. Cá nhân phải tự thân ý thức sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc của mình có hại cho quốc gia dân tộc như thế nào mới may ra cải đổi khuôn mặt văn hóa Tàu trong lòng từng người như hiện nay:   "Muốn hay không muốn thì văn hóa của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu rất lâu. Một ngàn năm bị đô hộ, sống chung với họ thì rất là khó để mình gột rửa nét văn hóa của họ đặc biệt dưới sự cai trị khắc nghiệt như thế này thì nó lại càng khó hơn. Cả Việt Nam mình hiện nay nó như một phiên bản của Trung Quốc, rập khuôn Tàu trên tất cả mọi lãnh vực từ chính trị cho đến tổ chức xã hội, kinh tế, khoa học và khá là ngạc nhiên vì tôi mới phát hiện nhiều cái rập khuôn về khoa học nữa. Thậm chí có những cái tên nhiều khi mình không để ý. Những cái tên mình đang dùng hiện nay cũng là bắt chước, xuất phát từ Tàu. Nếu muốn thoát Trung Quốc thì không phải chỉ thoát về hệ thống chính trị hay các thiết chế và tổ chức xã hội mà còn phải thoát từ trong tư tưởng của mỗi người, thậm chí thoát những cái bắt chước từ Trung Quốc. Tôi nghĩ nó không phải bắt đầu từ chính quyền mà bắt đầu từ mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân cần phải gột rửa những ý tưởng, những cách hành xử mà lâu nay mình tưởng là của truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng là của Tàu." Nhà văn Thùy Linh, người luôn có mặt trong các cuộc biều tình chống Trung Quốc cho biết quan sát của bà về vấn đề này mà theo nhà văn chính Khổng giáo là nguyên nhân sâu xa nhất nhưng nhà cầm quyền hiện nay muốn nó tồn tại để dễ dàng thao túng:   "Đời sống văn hóa Việt Nam sau năm 1945 đến giờ gần như đã bị chính trị hóa cho nên không còn đời sống văn hóa thật sự nguyên bản. Ngay cả tín ngưỡng dân gian cũng đã bị chính trị hóa. Đầu tiên người ta dẹp bỏ và cho đấy là mê tín dị đoan nhưng sau khi mở cửa thì tất cả những tín ngưỡng dân gian đều bị biến màu. Không có cái gì trong đời sống văn hóa mà không bị ảnh hưởng trong đời sống chính trị. Chính trị Việt Nam và Trung Quốc thời gian gần đây, cận hiện đại, hai nước có sự giao thoa ảnh hưởng rất sâu sắc, nhưng lui về trước nữa thì đạo Khổng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam. Chính Khổng giáo làm méo mó nhân cách, méo mó tất cả đời sống tự nhiên của con người và Việt Nam bị ảnh hưởng trong cái vòng ảnh hưởng đó. Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu. Hiện tại Khổng giáo đang làm cho chính quyền hưởng lợi chính vì vậy việc thoát Trung tại Việt Nam hết sức cam go."   Câu hỏi đặt ra, nếu sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc sẽ làm đất nước trì trệ, lạc hậu và không có cơ hội phát triển như các nước lân cận liệu chính quyển có đủ can đảm từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nay đã mịt mùng cộng với sự mê đắm vào Khổng giáo làm mê muội trí thức hầu củng cố quyền lực của mình hay không? Nhật hay Hàn, bài học nào cho Việt Nam? Nếu cho rằng thoát Trung là một ý tưởng hoàn toàn không thể thực hiện được người lạc quan có ngay một motif để chứng minh ngược lại, đó là sự thành công của hai nước lân cận với Trung Hoa là Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ không những đã thoát được vòng kểm tỏa của văn hóa Khổng Mạnh mà còn vượt ra khỏi hủ lậu của cả Châu Á nữa là đằng khác. Nhật Bản có lẽ là nước sâu sát với Trung Quốc hơn ai hết nhưng sau thế chiến thứ II nước này ý thức được muốn đứng lên bằng đôi chân của mình phải chịu đau đớn rời bỏ hai thanh nạng mà Trung Quốc ép vào tay trong suốt hàng ngàn năm qua chủ thuyết Khổng Mạnh mà nói theo nhà báo Lê Phú Khải là văn hóa quỳ lạy. Tinh thần Samurai không cho phép người Nhật quỳ lạy dù bất cứ trước thần tượng nào để đổi lấy miếng đỉnh chung như triết lý Khổng Mạnh của người Trung Quốc. Thiên Hoàng của Nhật được thần dân kính trọng và tôn sùng như thần thánh vì là hiện thân của con cháu Thái Dương Thần Nữ trong phạm trù tín ngưỡng và sự tôn sùng ấy vẫn được gìn giữ cho tới ngày nay. Ngược lại, Nhật Hoàng luôn tỏ ra là một minh quân hết lòng chăm lo cho dân chúng đã khiến niềm tin của người dân thêm được củng cố. Khổng Mạnh không chiếm giữ được văn hóa Nhật Bản mặc dù chủ nghĩa này được du nhập rất sớm vào xứ sở Phù tang. Việc du nhập văn hóa, văn minh phương Tây và chủ trương các trường quốc học Kokugaku là nỗ lực thành công thoát ra khỏi quỹ đạo văn hóa Trung Quốc vào cuối thế kỷ 17 đã mang Nhật đến gần hơn niềm mơ ước tự lực tự cường. Nam Bắc Triều và Hà Nội- Sài Gòn Hàn Quốc gần với tình trạng Việt Nam hơn nhưng họ vượt qua được cũng từ ý chí muốn đất nước thoát ra nghèo đói và nhục nhã. Thoát Trung nảy sinh trong lòng người dân Hàn Quốc phát sinh từ sự phân ranh Nam Bắc mà phía bên kia là Trung Quốc, một thế lực lớn lao công khai ủng hộ, giúp đỡ cho Bình Nhưỡng chống lại Seoul. Hoàn cảnh lịch sử này ngược lại với Việt Nam khiến người dân và chính phủ Hàn Quốc ý thức rõ rằng, thoát nền văn hóa Trung Quốc là tiền đề cho việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Lý do thứ hai làm cho thoát Trung thành một yếu tố cần thiết hiển nhiên là sự vận động dân chủ của Hàn Quốc đã tới mức cao nhất có thể. Một đất nước có dân chủ thật sự sẽ không thể chịu nổi bản chất độc tài đảng trị mà thể chế cộng sản theo đuổi. Không ai bỏ căn nhà tiện nghi của mình để chấp nhận vào hang động trú thân nhằm tìm cho ra chủ nghĩa xã hội là gì như Việt Nam đang lần mò trên con đường vạn dặm. Nhà văn Thùy Linh tự hỏi không biết Việt Nam rồi đây sẽ làm gì và bằng cách nào để có thể theo chân hai nước đồng văn đồng chủng với Trung Quốc này:   "Nhật hay Hàn quốc họ cũng bị ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng tại sao họ thoát được? Họ phải xây dựng một nền văn hóa thoát được Khổng giáo, họ xây dựng được một bản sắc rất độc đáo vậy thì tại sao chúng ta không làm được điều đó? Gần đây chúng ta mới đặt ra việc thoát Trung, chặng đường ấy tôi nghĩ rất dài nhưng chúng ta phải làm. Việt Nam bị ảnh hưởng Trung Quốc gần như một số phận khiến chúng ta phải ở cạnh một đất nước như thế nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể thoát nỗi sự ảnh hưởng của gã khổng lồ đó. Muốn phát triển phải có con đường đi riêng giống như Hàn Quốc hay Nhật." Hãy giải phóng chính mình   Nhà báo Lê Phú Khải chủ trương cổ vũ cho một tư duy độc lập trước khi có được một thái độ độc lập đối với sự cai trị nếu muốn thoát Trung như Nhật và Hàn Quốc đã làm:   "Như Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn họ còn muốn thoát Á nữa. Nó đã dân chủ, văn minh rồi tại sao vẫn muốn thoát Á? Bởi vì nó muốn thoát hẳn cái văn hóa Khổng Tử, cái văn hóa không có tranh luận, văn hóa bầy đàn mà họ muốn phải giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân rất quan trọng. Mỗi một con người đều là một tiềm năng nếu giải phóng được thì giống như phản ứng hạt nhân còn không có nó thì không có sức mạnh của cả dân tộc. Con số 1 đứng trước 6 con số 0 thì thành hàng triệu nhưng nếu mất con số 1 rồi thì 6 số không kia cũng vô nghĩa. Nhưng nếu con số 0 ấy là số 1 thì nó không cần ai chăn dắt cả." Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định một chính sách đứng đắn của nhà nước tạm gọi là “quốc chính” phải được đặt ra nếu muốn thoát Trung. Tấm gương của Hàn Quốc rất rõ trong trường hợp này, ông cho biết: “Quốc chính” là một nền chính trị để nó cầm nhịp cho bước phát triển mới tiến bộ nhân văn…thế nhưng hiện nay nền quốc chính của ta có nhiều điều rất lạc hậu. Một đội ngũ công chức đáng lẽ là lực lượng cầm nhịp cho sự phát triển xã hội thì tham nhũng là chính, hành dân là chính, làm sao mà đưa dân tộc phát triển được, đấy là các vấn đề phải đặt ra. Khi nói văn hóa mà quên đi vấn đề làm sao đưa giá trị văn hóa để cho nền chính trị của đất nước nó tử tế hơn lên, làm thăng hoa giá trị con người. Nhân văn, nhân ái, tình thương, dân chủ, tôn trọng con người….những vấn đề ấy văn hóa phải đóng góp và sửa đổi sớm những lệch lạc của cái được gọi là nền quốc chính, tức là nền chính trị của đất nước." Những ý kiến, tư duy cũng như trăn trở cho một tương lai đất nước vẫn đang được nhiều người, nhiều giới hưởng ứng, đồng tình. Tuy nhiên nếu mọi cố gắng thoát văn hóa Trung Quốc này không được nhà nướ quan tâm kể như 3 phần 4 câu chuyện sẽ không có hồi kết thúc.   Nguồn: rfa.org
......

Trần Đĩnh và tác phẩm Đèn Cù

Trong chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu tác phẩm Đèn Cù của nhà văn nhà báo Trần Đĩnh. Sách dày 600 trang sẽ được nhà xuất bản Người Việt phát hành vào hạ tuần tháng 8 này. nhà văn nhà báo Trần Đĩnh Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận. Những phân tích tinh tế   Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản. Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân, tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.   Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc. Những ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái tim thi sĩ. Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật. Khi đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết: “Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu”. Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy, do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính. Nhân chứng lịch sử Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật. Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do tác giả cung cấp.   Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”. Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật. Qua lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới Bắc Kinh. Chính ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể: “Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam? Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức. Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”. Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh… Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi. Những con rối không tự biết mình là rối   Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do tác giả cung cấp.   Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này. Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như nguyên bản. Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.   Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số phận Việt Nam: “Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh”. Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào. Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.   Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”. Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản. Và rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ cộng sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh. Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.   Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do tác giả cung cấp.   Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế  An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai… Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại: “Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba màu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã. Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng... Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng. Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì? Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười”. Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”. Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.   Thất tình Hồ Chí Minh? Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế? Trần Đĩnh: Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi. Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp. Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy? Trần Đĩnh: Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc. Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lênin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lênin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi. Ông Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế! Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiển viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông? Trần Đĩnh: Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được. Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay? Trần Đĩnh: Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được. Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không? Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.   Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ? Trần Đĩnh: Trước hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lênin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”. Có nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản tổng giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.   Anh hùng hay anh hèn? Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về việc này? Trần Đĩnh: Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa. Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không? Trần Đĩnh: Bây giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ, nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nổi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ. Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.   Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một show về thời trang của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!   Mặc Lâm: Xin cám ơn ông. M.L.- T.Đ. nguồn: rfa.org Bài liên quan Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt nam http://www.ttdq.de/node/1678  
......

LÊ VĂN TÁM - " I NỚP U"

Anh yêu thương! Tính đến ngày em hết là "con lừa" thì em đã yêu anh ngót nghét được 20 năm có lẽ..., em bắt đầu yêu anh kể từ ngày em nhập học lớp 1, em bị nhét vào ngôi trường mang tên Lê Văn Tám, và thế là cái tên anh lúc nào cũng nằm chình ình ngay trên ngực áo em, phập phồng theo nhịp thở của trái tim em, sáng nào tung tăng đến trường em cũng hát vang toáng cả con đường như con điên bài hát về anh mà em đã bị bắt học thuộc, và điều đặc biệt là em đã được vinh dự chọn đi thi kể chuyện về "Lê Văn Tám - người anh hùng tí hon giả tưởng của chế độ"...em đã rinh 1 cái giải cộng với phần thưởng lớn lao bao gồm 1 tấm giấy khen, 1 bịch kẹo và 1 cuốn sổ. Ôi chao ơi cái đám bạn em "lồng lộn" lên vì ghen tức với em, cả lũ chúng nó cũng đều rất yêu anh nhưng chưa có đứa nào được vinh dự học thuộc lòng và kể vanh vách chiến công của anh trước "Trại súc vật" toàn tai to mặt lớn...trong cái đại hội gì đó em quên mẹ nó rồi. Em đành an ủi chúng nó bằng cách chia kẹo và cả lũ giơ tay "thề quyết tâm" sẽ noi gương anh là bọn lừa chúng em sẽ sẵng sàng là "ngọn đuốc sống" thiêu cháy tất cả những gì Đảng và NN cho là "phản động"...   Anh yêu! Em những tưởng tình yêu em dành cho anh sẽ theo em mãi mãi đến suốt đời suốt kiếp nhưng không ngờ tình chúng ta ngang trái quá. Em đã đau đớn vật vã, khóc lóc suýt đâm đầu vào xe bus tự tử mấy lần khi cái thằng "in tẹt nét" nó dám bảo là anh không có thật, anh là do một bọn chính trị khốn nạn vẽ vời xây dựng lên. Nó và một số người có tên tuổi như GS Phan Huy Lê khẳng định cái hình tượng chúng em yêu dấu là hình ảnh giả tưởng "láo toét, bịa đặt" do ông Trần Huy Liệu bị ép viết theo yêu cầu của chế độ. Em đau đớn đến bầm tím ruột gan, sao lại có sự thật phũ phàng đến thế? Sao tình yêu quê hương, đất nước, yêu anh hùng của em và các thế hệ chung "chuồng lừa" lại có thể bị "chà đạp" đến như vậy? Tụi em đã được "nhồi sọ" là phải yêu anh đến chết bỏ thì làm sao mà chúng em không đau đớn, vật vã cho được khi phát hiện ra Honey của em chỉ là sản phẩm của một sự tuyên truyền, dối trá, lừa lọc... Anh yêu thương! Dù sao em cũng đã lỡ yêu anh, vì yêu anh nên em phải nói cho cái bọn khốn nạn tạo dựng nên anh biết rằng: dù anh là ai? Anh là thật hay là giả thì tụi nó cũng là lũ vô lương tâm và bỉ ổi khi dùng thủ đoạn chính trị, dùng hình tượng "trẻ em" để tuyên truyền kích động trẻ em "tự sát". Bọn chúng chẳng khác gì các bọn khủng bố trên Thế Giới bắt trẻ em ôm bom tự sát, lợi dụng trẻ em cho những mưu đồ chính trị... Nói trắng ra tụi nó còn tàn độc và thâm hiểm hơn nhiều vì chúng dùng quyền của chúng ngụy tạo lịch sử, bơm đầy gian dối vào sách giáo khoa, chúng nhồi sọ, đóng gói biết bao điều tàn tệ, man trá, phi lí vào đầu hàng triệu hàng triệu đứa trẻ, từ thế hệ này sang thế hệ khác... để rồi lớp trẻ VN sau 1975 không khác gì những con cừu ngây ngô bảo sao nghe vậy, cho gì ăn nấy, chỉ biết ấm ức cúi đầu thinh lặng, vô cảm vô tình với quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước...Chúng đã sử dụng thuốc độc tiêm vacxin cho tụi em từ lúc mới học mẫu giáo cho đến lớp Đại học, chúng em đã miễn nhiễm với các từ "tự do, dân chủ, hạnh phúc", chúng em chỉ biết có mỗi "độc lập" và hả hê với vinh quang "chiến thắng quân thù" của đất nước VN. Chúng tạo dựng dây chuyền sản xuất và thải ra hàng loạt các thế hệ có mắt, có tai, có tim, có óc... cũng như mù, câm, điếc vì mắt chỉ thấy có mỗi Đảng CSVN quang vinh, tai chỉ nghe những được những thông tin gian dối 1 chiều bị bóp méo, óc chỉ luẩn quẩn nghĩ đến cơm ngày 3 bữa, tim luôn phập phồng nơm nớp lo sợ, hèn kém chưa bao giờ dám lên tiếng đòi hỏi quyền lợi chung và đấu tranh vì chính nghĩa...Ôi, chúng đã thành công và hả hê trước "sự im lặng của bầy cừu"...!   Lê Văn Tám, anh là minh chứng hùng hồn nhất cho sự man trá của chế độ này. Nếu anh có "linh thiêng ", hãy châm ngọn lửa dũng cảm vào các thế hệ trẻ, hãy giúp họ nhận ra đâu là sự thật, hãy giúp họ cởi bỏ lốt cừu, lên tiếng và hành động để xứng đáng là thế hệ tiên phong trong công cuộc "giải phóng" đất nước. Your Love!
......

Hoàng Sa - dữ kiện lịch sử từ wikileaks

Hoàng Sa - những diễn biến lịch sử theo các tài liệu của wikileaks lại các điện tín mà Wikileaks đã lưu trữ và công bố trên trang của họ [1], mình có thể liệt kê các biến cố quan trọng theo tình tự thời gian: 1) Ngày 11 tháng Một năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) bất thình lình tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Ngày 16 tháng Một năm 1974, tàu Lý Thường Kiệt (HQ-16) ra Hoàng Sa để kiểm sát thì phát hiện có hai "tàu cá" của Trung Quốc ở đó. Chiều ngày 16 tháng Một năm 1974, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc thay mặt chính phủ VNCH chính thức lên tiếng lên án thái độ phi pháp của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc về việc tuyên bố sai sự thật và việc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam bất hợp pháp. Ngoại trưởng Bắc liệt kê những bằng chứng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của VNCH: - Vua Gia Long năm 1802 đã hình thành quân đội kiểm soát quần đảo Hoàng Sa theo tài liệu của Đại Nam Nhất Thống Chí. - Vua Minh Mạng năm 1834, trình điều Huế đã có bản đồ Hoàng Sa trong Hoàng Việt Địa Du. - Thời Pháp thuộc đã có sắc luật 156/SC vào ngày 16 tháng Sáu năm 1932 ấn định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của tỉnh Thừa Thiên. - Vua Bảo Đại một lần nữa ra quyết định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của Thừa Thiên vào 30 tháng Ba năm 1938. - Toàn quyền Đông Dương một lần nữa xác định quyền quản lý Hoàng Sa thuộc chính phủ bảo hộ vào ngày 5 tháng Năm 1939. - Dưới thời đệ nhất VNCH, sắc lệnh 174-NK vào năm 1961 quyết định quần đảo Hoàng Sa thuộc Định Hải, Hoà Vang, Quảng Nam thay vì Thừa Thiên. - Dưới thời đệ nhị VNCH, sắc lệnh 079-BNV quyết định Định Hải sáp nhập với Hoà Long thuộc Hoà Vang. - Phái đoàn Việt Nam tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam và không có bất cứ quốc gia nào trong 51 nước tham dự đã phản đối. [2] "Đại Nam nhất thống toàn đồ” vẽ năm 1838 triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán. 2) Ngày 18 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc với vai trò thành viên dự khuyết của nước VNCH gởi thư đến chủ tịch LHQ Gonzalo J. Facio về thông tin đã được phát thanh vào chiều 16 tháng Một năm 1974 [3]. 3) Ngày 19 tháng Một năm 1974, hải quân VNCH và hải quân CHNDTH đụng độ tại Hoàng Sa. Báo Hoà Bình, một tờ báo độc lập của nam Việt Nam lên tiếng chỉ trích cộng sản Bắc Việt hoàn toàn im lặng trong khi họ rêu rao việc đấu tranh cho độc lập và trọn vẹn lãnh thổ [4]. 4) Ngày 20 tháng Một năm 1974, đại diện VNCH gởi thư cho chủ tịch LHQ thỉnh cầu triệu tập cuộc họp khẩn cấp để giàn xử việc CHNDTH cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và phía VNCH hiểu được tình trạng có thể thiếu sự ủng hộ của các thành viên của hội đồng bảo an LHQ [5] và bức thư này đã được ký nhận [6]. 5) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận việc phía VNCH đã kêu gọi hội đồng bảo an LHQ triệu tập cuộc họp khẩn cấp [7]. 6) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cho biết đã gặp phía VNCH và đại diện VNCH nhận thấy sẽ có những khó khăn để tìm 9 phiếu ủng hộ từ hội đồng bảo an LHQ nhưng phía VNCH cho biết họ sẽ làm việc với phía Anh, Pháp, Indonesia và Úc cũng trong ngày [8]. 7) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cũng đã chuyển thư thỉnh cầu của phía VNCH đến tổng thư ký LHQ Kurt Waldheim [9]. 8) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía VNCH và VNCH cho biết họ xác nhận cần tiến hành cuộc họp khẩn cấp với hội đồng bảo an LHQ và cần 3 ngày để sắp xếp nhân sự có mặt ở New York. Facio cũng cho biết chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, ông bắt đầu làm việc với từng đại diện của hội đồng bảo an LHQ, bắt đầu với Trung Quốc và sẽ cho phía VNCH biết tình hình vào sáng 22 tháng Một năm 1974 [10]. 9) Chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía CHNDTH và cho biết phía CHNDTH rất giận dữ và họ xác định chuyện Hoàng Sa là chuyện nội bộ của Trung Quốc và việc ông chủ tịch làm việc với các thành viên hội đồng bảo an LHQ để đưa đến cuộc họp khẩn này có thể dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền quốc gia Trung Quốc. [11] 10) Cũng trong chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, theo Kissinger, đại sứ Phương (của VNCH) đã gọi cho Hummel [12] và Stearns [13]. Phương cho biết dù nhận thấy những điểm bất lợi của vụ họp khẩn này của hội đồng bảo an LHQ nhưng VNCH không có chọn lựa nào khác trong tình thế này. Hummel và Stearns cho biết họ e ngại rằng phía Trung Quốc sẽ đưa ra một phiên bản khác và lật ngược thành chuyện VNCH đã khiêu khích và xâm chiếm và sự vụ sẽ trở nên rắc rối và bất lợi cho phía VNCH. Họ cũng cho biết, trong tình trạng này, sự từ chối khiếu nại của VNCH sẽ có hại cho VNCH [14]. 11) Cũng trong ngày 21 tháng Một năm 1974, Kissinger đánh giá tình thế bất lợi của VNCH do thành viên của hội đồng bảo an LHQ có những thay đổi: Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ tốt với VNCH. VNCH cần 9 phiếu thuận (trong 15 phiếu) trong tình trạng gấp rút này e rất khó thành [15]. 12) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Phillipines cho biết quan điểm của họ về vụ Hoàng Sa là "thái độ xâm lấn của Trung Quốc là kết quả của việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam". Sự vụ này cho thấy Philippines nên tiếp tục duy trì căn cứ của Hoa Kỳ tại Phillipines. Phillipines cũng nhận định sự vụ này nhắm vào phía VNCH khiến Hà Nội ắt đã vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên, Hà Nội có lẽ cũng đã nhận ra rằng sự mất mát Hoàng Sa là sự mất mác không thể lấy lại được [16]. 13) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Mã Lai yêu cầu cho biết thêm chi tiết về sự vụ và nghi ngờ rằng đây là một trong những bước đầu tiên Trung Quốc kiểm soát tất cả các đảo trong khu vực mà họ đã công bố chủ quyền [17]. 14) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Liên Xô cho biết nhận định của họ về sự vụ cần được giải quyết giữa các phía liên can (VNCH, CHNDTH và Phillpines). Theo Liên Xô, bắc Việt (VNDCCH) chưa bao giờ xác nhận chủ quyền của họ ở quần đảo Hoàng Sa. Theo Trifonov, sự vụ này diễn ra do VNCH muốn hợp tác với Mỹ để khai thác dầu hoả [18]. 15) Ngày 22 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio liên lạc với phía VNCH và đánh giá tình hình. Ông cho rằng VNCH đang nằm trong thế bất lợi để có thể có đủ phiếu thuận. Theo thẩm định của ông, Phiếu thuận: Úc, Áo, Anh, Mỹ và Costa Rica Phiếu chống: Beylorussia, Trung Quốc, Indonesia, Iraq và Liên Xô Phiếu trắng: Careroon, Pháp, Kenya, Maritania và Peru [19]. 16) Ngày 23 tháng Một năm 1974, phía Indonesia xác nhận quan điểm của họ là Hoàng Sa thuộc Trung Quốc theo hội nghị San Francisco 1951. Tuy nhiên, đại diện Indonesia từ dối xác định vị thế của họ trước cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [20]. 17) Ngày 23 tháng Một năm 1974, đại sứ Martin cho biết vì thiếu mối quan hệ ngoại giữa VNCH và Peru cho nên Peru sẽ chọn phiếu trắng trong cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [21]. 18) Ngày 23 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc kêu gọi SEATO áp dụng điều khoản 4 của hiệp định Manila và kêu gọi các quốc gia trong hiệp hội SEATO có những động thái cần thiết [22]. 19) Ngày 23 tháng Một năm 1974, theo Kissinger thì chính phủ Hoa Kỳ đã nhận được tuyên bố phía Indonesia cho rằng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và được quốc tế công nhận [23]. 20) Ngày 23 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ đã xác nhận phổ biến bức thư của đại sứ VNCH Nguyễn Hữu Chi, đại diện VNCH như thành viên dự khuyết của hội đồng bảo an LHQ trình bày sự vụ Hoàng Sa [24]. 21) Ngày 23 tháng Một năm 1974, Kissinger chuyển gởi thông tin đến phía VNCH về việc Costa Rica xác định ủng hộ VNCH. Tuy nhiên tình thế vẫn rất bất lợi cho phía VNCH vì chỉ có 5 phiếu thuận, 5 phiếu trắng và 5 phiếu chống [25]. 22) Ngày 24 tháng Một năm 1974, Kissinger cho biết phản ứng của SEATO với sự vụ VNCH kêu gọi ngày 23 tháng Một năm 1974 là "tiêu cực" (negative) và Hoa Kỳ rất ngờ vực khả năng của SEATO [26]. 23) Ngày 25 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc gởi thông điệp qua đại sứ thường trực Nguyễn Hữu Chi về việc phía VNCH rút thỉnh cầu kêu gọi cuộc họp khẩn cấp dựa theo quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng mong mỏi hội đồng bảo an LHQ ghi nhận trường hợp này và xử lý sao cho thích hợp [27]. 24) Ngày 25 tháng Một năm 1974, chính phủ Pháp xác nhận việc Pháp dự định bỏ phiếu trắng là không đúng sự thật. Tuy nhiên, đại diện chính phủ Pháp cho rằng sự vụ rất phức tạp và ngay lúc này họ không thể chọn ủng hộ bên nào. Pháp muốn biết quan điểm cụ thể của Hoa Kỳ như thế nào [28]. --------------------------------------- Nhận định cá nhân: - Sự việc xảy ra nhằm lúc có những điểm bất lợi cho VNCH vì hội đồng bảo an LHQ vừa thay đổi thành viên thường trực. Trong đó, Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ mật thiết với VNCH. Byelorussia thuộc USSR thì việc ủng hộ VNCH là việc không thể. - Chính phủ VNCH đã cố gắng hết sức để vận động cả hội đồng bảo an LHQ lẫn tổ chức SEATO nhưng SEATO không mang lại kết quả nào tích cực. - Liên Xô dù đang va chạm với Trung Quốc nhưng không muốn ủng hộ VNCH và cũng không muốn ra mặt đối chọi với Trung Quốc trong việc ra phiếu thuận cho VNCH. - Indonesia và China bắt đầu quan hệ ngoại giao từ năm 1950 nhưng bị ngưng vào năm 1967 vì biến cố Gestok năm 1965 tại Indonesia. Tuy nhiên, Indonesia luôn luôn xác định Hoàng Sa là của Trung Quốc và cho đến phút chót, vị trí bỏ phiếu chống VNCH của Indonesia vẫn không thay đổi mặc dù theo dư luận chung của quốc tế, quần đảo Hoàng Sa thời điểm này vẫn thuộc dạng "dispute" (tranh chấp). Indonesia đã tạo thêm bất lợi cho VNCH. - Pháp có thái độ mập mờ về việc ủng hộ VNCH với chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mặc dù trong thời Pháp thuộc, Pháp đã nhiều lần xác định cơ quan hành chánh cho Hoàng Sa. Sự quyết định chậm trễ và mập mờ của Pháp đã góp phần vào việc VNCH phải huỷ bỏ cuộc họp khẩn cấp về sự vụ Hoàng Sa. - Nếu Ấn Độ và Sudan vẫn còn là thành viên thường trực của hội đồng bảo an LHQ và Indonesia và Pháp có động thái tích cực và chính xác hơn thì có lẽ VNCH đã có thể chiếm 9 phiếu thuận trên 15 phiếu và sự vụ đã được khép lại. - Hội đồng bảo an LHQ và phía Hoa Kỳ đã làm việc rốt ráo và có những đóng góp ý kiến có giá trị vì nếu VNCH không nắm tình hình mà lao vào cuộc biểu quyết và bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Phía VNCH và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định rút đơn thỉnh cầu và đó là một quyết định đúng đắn vì nếu VNCH bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Sau 1975, chính phủ VNDCCH chưa bao giờ đưa sự vụ Hoàng Sa ra LHQ. Cho đến ngày nay, Hoàng Sa đã trở thành căn cứ và thuộc đơn vị hành chánh "Tam Sa" nhưng chính phủ CHXHCNVN chưa bao bao giờ có bất cứ động thái rốt ráo và quyết liệt nào cả. Chú thích: [1] wikileaks.org [2] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00752_b.html [3] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00175_b.html [4] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00859_b.html [5] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00188_b.html [6] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012722_b.html [7] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012732_b.html [8] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00190_b.html [9] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00192_b.html [10] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00194_b.html [11] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00203_b.html [12] Hummel, Arthur William, Jr. trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [13] Stearns, Monteagle, phó trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [14] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013405_b.html [15] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013407_b.html [16] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MANILA00775_b.html [17] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974KUALA00310_b.html [18] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MOSCOW01036_b.html [19] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00219_b.html [20] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974JAKART00961_b.html [21] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01039_b.html [22] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974BANGKO01283_b.html [23] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE014788_b.html [24] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00233_b.html [25] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015338_b.html [26] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015405_b.html [27] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01040_b.html [28] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974PARIS02298_b.html Nguồn: https://www.facebook.com/notes/773727779316198/  
......

CHUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974.  Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây. 1.-  TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển.  Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển.  Riêng  quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị:  3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý.  Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất.  Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.  Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.)  Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau: (1)   Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc. . . . . . . . . . . . . . . (4)  Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).  Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý.  Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].  Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.  Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay. 2.-   CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam.  Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo.  Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.  Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.  Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”  Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông thường.  Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.” Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt.  Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I.  Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai.  Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.  3.-  TRUNG QUỐC BIỆN MINH Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện. Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc.  Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng. Thứ nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc.  Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”  Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược]. Người thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5.  Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai...  Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975.  Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.” 4.-   CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.  Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.  Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý...” Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của chính phủ mình.  Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy.  Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy. 5.-  HIỂU CÁCH NÀO? Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.  Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.    Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.”  Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài.  Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”?  Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt Nam.  Khi  cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài?  (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao - danlambaovn.blogspot.com) Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).  Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ.  Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng.  Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội.  Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản.  Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội.  Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết. Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).  Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau.  Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.  Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm.  Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc. 6.-  LIÊN MINH QUÂN SỰ? Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc.  Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn. Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.) Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức ...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)   Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới.  Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi.  Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)?  Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.  Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa.  Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.  Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?  Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước.  Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai.  Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng. Như thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để chống Trung Quốc.  Trung Quốc dư biết điều đó.  Cộng sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra.  Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm.  Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước ... 7.-   PHẢI QUYẾT ĐỊNH Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài.  Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình. Muốn thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.  Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm.  Phạm Văn Đồng đã chết.  Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn.  Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội.  Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.  Có hai cách giải thể: Thứ nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết.  Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen. Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông? Thứ hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản.  Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng.  Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.  Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.  Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN  theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi.  Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 5-6-2014)
......

Khắp nước biểu tình chống Trung Quốc

Sáng hôm nay Chủ Nhật ngày 11 tháng 5. 2014, người dân quan tâm đến việc Trung Quốc kéo giàn khoan dầu HD 981 vào sâu trong khu đặc quyền kinh tế Việt Nam biết rằng sẽ có biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn để chống lại hành động xâm lược này. Được biết hàng ngàn người đã âm thầm chờ đợi để sáng hôm nay biểu lộ lòng yêu nước cũng như sự phẫn nộ qua hành động biểu tình chống Trung Quốc lần đầu tiên trên ba miền đất nước. Tại Hà Nội vào lúc 8 giờ hàng trăm người dân đã tập trung đông đảo tại công viên Lenin và cùng nhau tiến tới trước Đại sứ quán Trung Quốc. Trên tay họ là những biểu ngữ chống Trung Quốc bằng nhiều câu chữ khác nhau. Anh Nguyễn Đức Quốc, từ Lăng Cô, Huế ra Hà Nội hai ngày trước đây cho biết: “Bây giờ mọi người đang dần dần đổ về tại công viên Lenin cũng được ba bốn trăm người rồi theo thông báo thì lúc 9 giờ mới bắt đầu. Công an đứng chung quanh rất nhiều nhưng chưa thấy hàng rào. An ninh cầm máy quay phim quay người tham gia biểu tình rất đông. Đồng bào các nơi đổ vể rất đông có Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An đang tập trung lại.” Sài Gòn Biểu tình chống Trung Quốc Xâm lược Đà Nẵng bất ngờ biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Không khí biểu tình rực lửa tại Hà Nội     Chị Nga một khuôn mặt bất đồng chính kiến nổi tiếng cho chúng tôi biết cụ thể: “Hôm nay người dân Việt Nam có xuống đường để phản đối Trung Quốc xâm lược trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc. Lực lượng an ninh mật vụ cùng lực lượng dư luận viên từng đàn áp các cuộc biểu tình trước đây cũng có mặt. Hôm nay được huy động thêm bộ đội thanh niên sinh viên cầm biểu ngữ cờ đỏ sao vàng để chống Trung Quốc.” Không riêng tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài gòn, thành phố tiêu biểu của miền trung là Đà Nẵng cũng có biểu tình chống Trung Quốc, Anh Nguyễn Văn Thạnh có mặt từ sớm tại công viên 2 tháng 9 cho biết: “Hôm nay chắc cũng trên trăm người. Anh chị em đến thể hiện chính kiến củ mình đố với hành vi xâm lược của Trung Quốc có rất nhiều khẩu hiệu và an ninh cũng như lực lượng chức năng không làm khó dễ gì anh em họ chỉ thực hiện chức năng của họ. Bây giờ sau khi làm lễ các anh linh liệt sĩ anh em sẽ tập trung tuần hành đến Hội đồng Nhân dân thành phố.”   Ở Đà Nẵng không biết chắc chắn số lượng người biểu tình là bao nhiêu nhưng tại Thp.HCM thì người ta đoán chừng con số có thể lên tới it nhất hai ngàn người sẽ có mặt tại Nhà Hát lớn thành phố và Nhà văn hóa Thanh Niên gần khu vực Hồ Con Rùa. Tại Nhà hát lớn thành phố từ 8 giờ đã có vài chục người tập trung và 30 phút sau đã lên đến vài trăm người. Có một trở ngại cho người biểu tình giống như tại Hà Nội trước đây đã làm.  Đó là một dàn nhạc đã được mang tới trước nhà hát thành phố.   Không biết đây là sự sắp đặt hay chỉ vô tình nhưng ông Lê Công Giàu một thành viên trong nhóm người kêu gọi biểu tình cho biết: “Bây giờ đang tập họp trước nhà hát lớn nhưng chưa đông lắm chỉ vài trăm người. Có một dàn nhạc trước nhà hát theo tôi nghĩ thì nó vẫn chơi hàng tuần lát nữa mình sẽ nói với họ. Tôi nghĩ lần này nhà nước sẽ không cản trở đâu.” Tuy nhiên khác với sự yên ắng tại các nơi, nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế không được tự do tập trung người biểu tình như những khu vực khác. Lúc 8 giờ một số an ninh, dân phòng cùng với cảnh sát giao thông đã bao vây DCCT. Những khuôn mặt trước đây từng đàn áp dân oan cũng có mặt như muốn cảnh cáo những người biểu tình sáng nay. Chị Trần Ngọc Anh, một trong hàng chục dân oan chuẩn bị tham gia biểu tình cho biết:   “Đúng rồi đang bị bao vây và bây giờ bắt đầu xuất phát. Chúng nó bao vây thì kệ nó mình cứ ra chứ biết sao bây giờ? Những khuôn mặt mà chúng tôi thường bị cưỡng chế bắt lên xe gặp tụi tôi biết chứ. Chúng tôi là dân oan chúng tôi biết tụi nó chứ.” Bùng nổ Đến 9 giờ 30 sáng tại Hà Nội người biểu tình tập trung rất đông đảo con số đã lên đến hơn hai ngàn người.   Những khuôn mặt từng biểu tình chống Trung Quốc trước đây gần như đầy đủ. Có rất nhiều an ninh, dư luận viên, dân phòng trà trộn vào nhưng tất cả đều hướng về Đại sứ quán Trung Quốc để tỏ thái độ chống đối sự xâm lược của Bắc Kinh và không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra trong đoàn người biểu tình. Blogger Khúc Thừa Sơn cho biết: Từ chuyện giàn khoan HD 981 của Trung Quốc xâm phạm biển Đông thì người dân Việt Nam đều xuống đường để chống đối. Không những tại Hà nội mà người dân cả nước đều cùng chung một tiếng nói. Chưa bao giờ thấy người dân Việt Nam đoàn kết một lòng như thế này. Mọi người đang diễu hành trên đường rất là khí thế tập trung đầy đủ các nhân sĩ trí thức đủ mọi thành phần. Hình ảnh cho thấy hàng trăm dân phòng đứng sau những hàng rào dã chiến mang băng đỏ đứng nhìn nhưng không có một sự cố nào xảy ra.   Nhà báo tự do JB. Nguyễn Hữu Vinh ghi nhận: Đoàn biểu tình đã từ sứ quán Trung Quốc ra đến bờ hồ. Khí thế người dân hết sức hừng hực và mạnh mẽ. Khá nhiều người không thể đếm hết được nhưng tôi nghĩ phải hơn nghìn người. Hôm nay công an khá mềm mại hòa nhã không đến nỗi làm những trò bẩn như các cuộc biểu tình trước đây. Tại Đà Nẵng do con số người tham gia biểu tình ít ỏi hơn và không khí biểu tình cũng êm dịu hơn so với Hà Nội và ThP-HCM. Hơn trăm người đã giải tán vào lúc 10 giờ sáng sau khi tuần hành tới UBND thành phố. Không có ghi nhận rắc rối nào xảy ra. Anh Nguyễn Văn Thạnh cho biết: Tình hình phản đối đã xong bây giờ đã giải tán rồi ạ. Tuy nhiên nhìn chung cuộc biểu tình lớn và đa dạng, quan trọng nhất đã diễn ra tại thành phố HCM. Lúc 9 giờ 30 sáng nhà thơ Đỗ Trung Quân thuật lại: Sáng nay rất nhiều đoàn, do đó ai nhập vào đoàn nào thì chỉ biết đoàn đó. Đoàn của chúng tôi vừa mới ra Lãnh sự quán Trung Quốc xong và một nhóm khác rẽ ra. Bây giờ tôi thấy một nhóm lớn tập trung rất đông tại Nhà hát thành phố. Thực ra tình hình cài răng lược đã xảy ra. Tôi cho là khí thế hừng hực và một điều đáng ghi nhận là lực lượng an ninh giữ trật tự khá tốt cho đoàn biểu tình. Hai nữa họ không phá sóng điện thoại như mọi lần ở khu vực nhạy cảm và cũng chưa xảy ra va chạm gì cho tới giờ này. Hiện tại tôi đang đứng trước nhà hát thành phố và tôi cho rằng người tham dự biểu tình hôm nay có thể hơn ba ngàn người. Nhóm biểu tình "quốc doanh"!   Trước nhà hát lớn thành phố nơi một nhóm nhân sĩ tổ chức biểu tình đã có một sự cố nhỏ đó là sự không đồng thuận giữa ban tổ chức cuộc biểu tình và Thành đoàn. Theo lời kể lại của ông Huỳnh Kim Báu thì có sự phá rối âm thanh khi ông Huỳnh Tấm Mẫm phát biểu. Cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn được Thành đoàn cho một số rất lớn thanh niên tham gia nhưng các phát biểu của họ làm người dân phẫn nộ. Các ngôn từ như “Việt Nam muốn giữ hòa hiếu với Trung Quốc” hay “Việt Nam luôn kiểm chế”, “người dân đứng sau chính phủ” hay “sống và làm việc theo pháp luật”…đã bị la hét chống đối và cuộc biểu tình đôi lúc tưởng có thể vỡ ra nhưng cuối cùng không có gì đáng tiếc xảy ra.   Ông Huỳnh Kim Báu một thành viên tổ chức thuật lại sự việc này:   Bọn quốc doanh, cái đoàn thanh niên nó cướp diễn đàn nó đem khẩu hiệu của nó ra kêu gọi “bình tĩnh, hòa khí” tùm lum hết thì tụi anh chiếm lại diễn đàn để hô đúng khẩu hiệu của tụi anh. Cái thứ hai là hai mươi tổ chức xã hội dân sự tại số 4 Duy Tân thì lực lượng khoảng 2 ngàn người còn lực lượng bên này tổ chức thành đoàn thì khoảng 1.000 người. Bây giờ anh đang tham gia cuộc biểu tình của 3 ngàn người của quần chúng nhân dân tự phát đang đi trên đường Võ Thị Sáu dự kiến sẽ kéo đến Lãnh sự quán Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ bị nó ngăn. Ông Huỳnh Tấn Mẫm, người có phát biểu trước Nhà Hát lớn hôm nay thuật lại: Thấy rõ ràng là họ muốn phá nhưng phá không được. Thành đoàn thì nó không phối hợp nhưng nó có mặt nó cố ý phá. Không biết từ phía công an hay phía Thành đoàn nhưng rõ ràng là vào giờ chót thì nó lại có phá rối đối với một số anh em phát biểu, có sự giằng co chỗ đó. Mình thấy khí thế quần chúng rất là dữ dội, nhìn chung rất tốt, khí thế quần chúng đang lên quyết tâm phản đối Trung Quốc rất mạnh mẽ. Lúc 10 giờ 30 hơn năm ngàn người đã tập trung biểu tình tại nhiều địa điểm của thành phố HCM. Từng đoàn người kéo ngang Lãnh sự quán Trung Quốc, Nhà văn hóa Thanh Niên ở số 4 Duy Tân và trên các con đường như Võ Thị Sáu, Đồng Khởi cùng vài con đường khác cho thấy khí thế của người dân đã bùng dậy không còn bị kềm chế như trước đây. Trong tất cả các đoàn biểu tình đều có an ninh và thành đoàn thanh niên trà trộn cái răng lược. Người biểu tình đều biết nhưng không cần chú ý và không gây đụng chạm. Những biểu ngữ của nhà nước ghi các dòng chữ như: “Biểu tình bằng lòng yêu nước, không lợi dụng xuyên tạc và kích động bạo lực” chen với một rừng biểu ngữ cầm tay tuy nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của nhân dân và các tổ chức dân sự.   Từ Hà Nội Luật sư Hà Huy Sơn có mặt trong đoàn biểu tình cho biết nhận xét của ông: Trước hết cuộc biểu tình này là thành công và theo quan sát của tôi thì cuộc biểu tình này được nhà nước ủng hộ. Tôi cho rằng đây là dịp thức tỉnh cái nhận thức của người dân vể vấn đề chủ quyền cũng như bày tỏ quan điểm trước các vấn đề xã hội của đất nước. Con số người dân tham gia biểu tình vượt trội thành phần nhà nước tại thành phố HCM đã làm các cuộc biểu tình mang một ý nghĩa rất lớn. Những nhân vật bất đồng chính kiến tham dự biểu tình nói với đài Á Châu Tự do họ tin rằng nhân dân sẽ thức tỉnh trước dã tâm thôn tính Biển Đông của Trung Quốc sau những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa của ngày hôm nay. Nguồn: rfa.org Hình Internet tổng hợp:   Người biểu tình tại Hà Nội căng tấm băng rôn: “Thủ tướng Đức chỉ cho Tập cận Bình bản đồ TQ không có Hoàng sa Trướng sa” Khu vực chợ Bến Thành Khu vực nhà thờ Đức Bà Hai hình ảnh biểu tình trái ngược Đây là cuộc biểu tình quốc doanh để chụp hình  đăng báo của nhà cầm quyền tại Sài Gòn:  
......

Pages