2014

61 đảng viên đòi đảng CSVN phải dân chủ hóa

Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng CSVN   Ngày 28 tháng 07 năm 2014 THƯ NGỎ Kính gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam   Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.   Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ. Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua. Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị. Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:   1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước. Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị. Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình. 2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v… Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình. Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi. Tổ quốc đang lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.   Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc! - - -   DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KÝ THƯ NGỎ GỬI BCH TW VÀ TOÀN THỂ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Nguyễn Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939, Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc, Hà Nội.2. Đào Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.3. Trần Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.4. Nguyễn Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.5. Lê Duy Mật, vào Đảng năm 1947, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà Nội.6. Tạ Đình Du (Cao Sơn), vào Đảng năm 1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội. 7. Vũ Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.8. Nguyễn Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2, Hà Nội.9. Hoàng Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên Trung tá Hải quân, Hà Nội.10. Đỗ Gia Khoa, vào Đảng năm 1949, nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.11. Hà Tuân Trung, vào Đảng năm 1949, nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Kiểm tra, Hà Nội.12. Nguyễn Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa, Quân Y viện 108, Hà Nội.13. Phạm Xuân Phương, vào Đảng năm 1949, Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.14. Tô Hòa, vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng.15. Võ Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.16. Hoàng Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư Toán học, Hà Nội.17. Huỳnh Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Hà Nội.18. Tạ Đình Thính, vào Đảng năm 1951, nguyên Vụ trưởng Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.19. Nguyên Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.20. Tương Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.21. Nguyễn Khắc Mai, vào Đảng năm 1959, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.22. Đào Công Tiến, vào Đảng năm 1960, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.23. Vũ Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên Chủ nhiệm chương trình PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội.24. Nguyễn Kiến Phước, vào Đảng năm 1962, nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân Dân, TP. Hồ Chí Minh.25. Nguyễn Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm 1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội26. Võ Văn Thôn, vào Đảng năm 1965, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.27. Nguyễn Trung, vào Đảng năm 1965, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.28. Huỳnh Kim Báu, vào Đảng năm 1965, nguyên Tổng thư ký‎ Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.29. Hạ Đình Nguyên, vào Đảng năm 1965, nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.30. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm 1966, nguyên thư k‎ý của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh31. Lê Công Giàu, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.32. Kha Lương Ngãi, vào Đảng năm 1966, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh.33. Tô Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.34. Phạm Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968, Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.35. Bùi Đức Lại, vào Đảng năm 1968, nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội. 36. Lữ Phương, vào Đảng năm 1968, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.37. Nguyễn Lê Thu An, vào Đảng năm 1969, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.38. Nguyễn Đăng Quang, vào Đảng năm 1969, Đại tá công an, đã nghỉ hưu, Hà Nội.39. Trần Văn Long, vào Đảng năm 1970, nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.40. Nguyễn Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971, Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.41. Huỳnh Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, nguyên đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.42. Võ Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm 1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.43. Hà Quang Vinh, vào Đảng năm 1972, cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.44. Nguyễn Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao Động tại khu vực Miền Trung – Tây Nguyên, TP. Huế.45. Lê Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.46. Chu Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.47. Nguyễn Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.48. Nguyễn Vi Khải, vào Đảng năm 1974, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40 tuổi đảng, Hà Nội.49. Cao Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.50. Lê Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite, TP. Hồ Chí Minh.51. Ngô Minh, vào Đảng năm 1975, nhà báo, nhà văn, TP. Huế.52. Trần Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976, cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.53. Hồ An, vào Đảng năm 1979, nhà báo, TP. Hồ Chí Minh.54. Đoàn Văn Phương, vào Đảng năm 1979, nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí Minh.55. Hồ Uy Liêm, vào Đảng năm 1980, nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.56. Trần Đình Sử, vào Đảng năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.57. Lê Văn Luyến, vào Đảng năm 1987, nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP. Hồ Chí Minh.58. Nguyễn Gia Hảo, vào Đảng năm 1988, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội.59. Phạm Chi Lan, vào Đảng năm 1989, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.60. Đào Tiến Thi, vào Đảng năm 1991, Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội61. Nguyễn Nguyên Bình, vào Đảng năm 1996, Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.   Nguồn: http://anhbasam.wordpress.com/
......

Putin: Sự thèm khát quyền lực của nước Nga

Ngay khi chiếc máy bay dân dụng MH-17 rơi trên phần đất Ukraine do bị hỏa tiển Buk bắn, cả thế giới chỉa mũi dùi vào Nga nơi được xem là dung dưỡng, huấn luyện và cung cấp vũ khí cho phiến quân thân Nga do Igor Strelkov dẫn đầu chống lại chính phủ Ukraine. Putin vốn là người bình tĩnh đến lạnh lùng cũng không khỏi chới với. Phản ứng mạnh mẽ, đồng bộ từ các lãnh đạo thế giới khiến một tổng thống dù có KGB đến mức nào cũng không khỏi rối trí. Đứa con nuôi thời vụ Igor Strelkov chẳng những không biết che chắn cho Putin mà còn huênh hoang khoe nhặng lên trên trang mạng xã hội rằng: “Chúng tôi đã cảnh cáo các người đừng bay trên vùng trời của chúng tôi”. Putin không còn cách nào khác là tạm im lặng. Không những ông ta chọn giải pháp im lặng mà còn buộc tất cả truyền thông Nga phải im lặng theo ông ta. Thói quen “chỉ đạo truyền thông” của Putin từ khi lên cầm quyền đến nay đã như bát nước đầy, giọt nước cuối ấy đã lên tiếng tẩy chay kênh truyền hình Russia Today vì Putin buộc nói theo cung cách của Liên xô chứ không phải của nước Nga dân chủ. Người phóng viên phản kháng ấy là cô Sara Firth, nhân viên làm việc tại Anh của kênh truyển hình này. Sara Firth không phải là người đầu tiên, trước cô là ban nhạc nữ Pussy Riot, từng chế giễu châm chọc Putin nơi công cộng khiến ông tổng thống thích cởi trần này điên tiết gô cổ cho biết mặt anh hùng! Nước Nga sau một thời gian dài phân hóa, tan tác và tưởng chừng như không vực dậy nổi đã vươn vai trong tám năm Putin cầm quyền. Người dân từ đói, tới đủ ăn và dần dà vượt qua ngưỡng cửa mà trong suốt thời gian cộng sản họ không ngớt mơ mộng tới: sống sung túc và dư giả. Nga xem Putin là thần tượng, là cứu rỗi và ông ta nhanh chóng thay thế Lenin đứng trên các tượng đài trong nhiều gia đình người Nga. Nhân dân Nga thừa nhận công trạng của tổng thống Putin vì đã đưa nước Nga ra khỏi bờ vực của đói nghèo, tự kỷ, và bị khinh thị bởi thế giới chung quanh. Nước Nga với lịch sử huy hoàng không cho phép nó thua kém bất cứ nước nào tại Châu Âu. Dù sao thì Nga cũng từng dẫn dắt phân nửa thế giới dưới màu cờ đỏ. Putin nhìn thấy và ông đã làm được điều đó. Hai năm liền là người của năm do tạp chí Times bình chọn. Hai lần thủ tướng và hai lần trong cương vị tổng thống, Putin đã chiếm trọn cảm tình của người dân Nga dành cho ông. Tuy nhiên chính cái niềm tự hào, khuynh hướng dân tộc cực đoan của người dân Nga cộng với giải pháp bạo lực của Putin trong chính sách đối với các vùng đòi tự trị đã đẩy ông ta vào con đường không lối thoát. Năm 2008 Putin nhúng tay vào cái gọi là yểm trợ người dân miền Nam Ossetia để cưỡng chiếm Gruzia. Tháng Ba năm 2014 một lần nữa quân đội Nga lại mang quân vào lãnh thổ Crimea để bảo vệ kiều dân Nga và cuộc lật đổ chính quyền Ukriane êm ái đã diễn ra. Putin lấy đất đai của người khác cho dân Nga cai trị bên ngoài lãnh thổ của Nga đã khiến thế giới tự hỏi khi nào thì Putin ngừng lại vai trò chính phục những nơi nào có người Nga sinh sống khi chế độ ấy không đồng thuận với gấu Nga trong chính trị cũng như kinh tế. Putin không chần chừ khi dùng chính sách mạnh bạo với những ai không đồng ý với cách mà Putin bẻ cong luật pháp, cưỡng bức tự do báo chí, đàn áp đối lập và bỏ tù bất cứ ai chống lại ông ta. Cách mà ông xử sự vào những năm đầu thế kỷ 21 khiến người ta nhớ lại thời vàng son của Xô viết khi tất cả đều ngẩng cao đầu tung hô thần tượng Lenin mặc cho bụng đói mắt hoa và tem phiếu dẫn đường phía trước. Dân chúng Nga thiếu ăn nên mơ ngày mà đất nước của họ chinh phục thế giới bằng bất cứ phương tiện gì. Putin đã làm điều đó, và dân Nga vỗ tay tán thưởng. Người dân nào sản sinh ra chính phủ ấy là một câu đáng suy nghĩ, ít nhất trong trường hợp này. Putin lấy dầu hỏa của đất nước làm vũ khí và nguồn tài nguyên trời cho ấy đã dần kiệt quệ khi bị khai thác tận cùng giới hạn. Người Nga cảm thấy điều đó đang tiến tới dần với nền kinh tế "tự ăn lấy mình" và giải pháp mà họ trông chờ vẫn là thụ động dựa vào cơn hứng khởi của Putin. Putin làm gì dân cũng tán thành. Putin sai thì toàn dân im lặng như không biết. Putin thắng thì cả nước mừng như chính mình chiến thắng. Hội chứng dựa dẫm và tôn sùng lãnh tụ ấy đã đẩy Putin vào vụ máy bay MH-17 vì kẻ chiến thắng nào cũng có thói quen xem sức mạnh là cứu cánh của mọi giải pháp. Sức mạnh của Putin lần này xem ra khó được dân Nga hưởng ứng bởi cả thế giới lên án và đang cùng nhau vây quanh con gấu Nga nay đang lẻ loi trong khu rừng Bạch dương trắng toát cô đơn. Dân sẽ không đứng về kẻ yếu. Putin đã tự làm yếu mình khi dùng con cờ Igor Strelkov phá hoại Ukraine. Putin tính sai nước cờ và người dân Nga đã bắt đầu tỉnh ngộ. Putin có lỗi với dân tộc Nga khi tán dương và song hành với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của một bộ phận dân chúng. Putin xem thường đối lập vì đã đưa ra những ý kiến khác biệt. Putin giam giữ niềm tin vào luật pháp của người bất đồng chính kiến qua sự hò hét của dân chúng đòi đưa ông lên làm vua vĩnh viễn, miễn là Nga trở thành một đế chế như xưa kể cả một đế chế được xây bằng máu xương đồng loại. Hai trăm chín mươi tám con người với máu thịt tung tóe trên bầu trời là tiếng chuông nguyện cuối cùng cho Putin và cho nước Nga, với những thần dân tin vào lãnh tụ một cách mù quáng và rồ dại. Thế giới đã thấy rõ hơn sức mạnh của vũ khí Nga cũng như tác hại của nó nếu qua tay một nhà độc tài máu lạnh. Nó còn nguy hiểm hơn vạn lần nếu được sử dụng bởi cả một dân tộc khi chỉ cần máu và ánh sáng lóe lên từ gươm bén mở đường cho sự phồn vinh mà họ ao ước. Putin đang sống trong sự may rủi ấy. Liệu thế giới có để cho ông ta thử thời vận thêm một lần nữa hay không? Nguồn: canhco's blog
......

Lãnh đạo nào của VN chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc Báo cáo viên Liên hiệp quốc?

Vụ việc Công an TP.HCM và công an một số địa phương ngăn chặn không cho ra khỏi nhà đối với những người đấu tranh dân chủ vào ngày 25/7/2014 và cả một số ngày sau đó là bằng chứng mới nhất, sống động nhất và cũng lộ liễu nhất về việc “Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người”. Ngày 25/7 cũng là thời điểm mà một đoàn giám sát về tự do tôn giáo của Liên hiệp quốc dẫn đầu bởi ông Heiner Biederfeldt, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ, vào TP. HCM để gặp gỡ một số chức sắc tôn giáo và nhân chứng, nhằm kiểm chứng tính thực chất về việc “Việt Nam chấp nhận các khuyến nghị của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc” là như thế nào.   Không chỉ bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, bà Dương Thị Tân (vợ tù nhân Điếu Cày Nguyễn Văn Hải), cựu tù nhân chính trị Phạm Bá Hải, mà hai mục sư Tin Lành là Nguyễn Hoàng Hoa và Nguyễn Mạnh Hùng cũng bị công an địa phương ngăn chặn ngay tại nhà riêng nhằm không cho tiếp xúc với ông Heiner Biederfeldt – Báo cáo viên đặc biệt của LHQ. Bất cứ động tác nào của công dân hợp pháp muốn rời khỏi nhà đều bị nhân viên an ninh và cảnh sát xô đẩy bằng hành vi thô bạo và hoàn toàn bất hợp pháp. Vi phạm cam kết Trước khi được chấp thuận tham gia chính thức vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, Nhà nước Việt Nam đã cam kết trước chủ tịch Hội đồng nhân quyền 14 điều, trong đó có nội dung sẽ mời báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo đến Việt Nam, và “sẽ tạo điều kiện tốt nhất” để báo cáo viên này được tiếp xúc với những ai mà Liên hiệp quốc thấy cần gặp. Vào nửa đầu năm 2014, cam kết trên được giới lãnh đạo cao cấp Việt Nam là ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước, và ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng chính phủ, cùng Bộ Ngoại giao và Bộ Công an Việt Nam nhiệt tình lặp lại trong những cuộc làm việc với Thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Wendy Sherman và Cố vấn đặc biệt của Chính phủ Hoa Kỳ. Cam kết về tự do tôn giáo cũng được đưa vào báo cáo chính thức của Phái đoàn Việt Nam tại buổi xem xét báo cáo đầu ra của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc vào tháng 6/2014 tại Thụy Sĩ. Một ủy viên Bộ chính trị khác và được xem là ứng viên tiềm tàng cho cương vị Tổng bí thư tại đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 vào năm 2016 – ông Phạm Quang Nghị – cũng vừa đưa ra khẩu hiệu “Việt Nam luôn bảo đảm nhân quyền” trong chuyến công du của ông ở Hoa Kỳ vào thời gian này. Để có được sự thuận thảo của các quốc gia trong khối Hiệp định đối tác thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Nhà nước Việt Nam đã chấp nhận tham gia vào Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc cùng các điều kiện về nhân quyền và dân chủ hợp lý mà cộng đồng quốc tế đòi hỏi. Tuy nhiên, bằng chứng ngăn chặn công dân mới nhất vừa nêu đã cho thấy đối với giới lãnh đạo cao cấp Việt Nam, nói và làm vẫn là hai hành vi khác nhau về bản chất, không chỉ bản chất chính trị mà cả về tư cách chính khách. Tư cách chính khách? Sự khác biệt quá cơ bản về bản chất trên có lẽ đã là nguyên do đủ nặng ký để Nhà nước Úc, dù trước đây khá nhã nhặn với chính quyền Việt Nam, nay cũng phải tỏ thái độ kiên quyết hơn trong việc đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng hơn nữa các quyền con người. Ngay trước thềm cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Úc sẽ diễn ra vào cuối tháng 7/2014, chính quyền Việt Nam lại ghi thêm một điểm rất xấu về “thành tích” vi phạm nhân quyền. Việc vi phạm không chỉ lần đầu và mang tính hệ thống như thế tất yếu dẫn đến những câu hỏi không thể lảng tránh:   1. Việc ngăn chặn bất hợp pháp đối với công dân như trên là do Công an TP. HCM và công an một số địa phương “chủ động biện pháp nghiệp vụ”, hay những cơ quan công an này được chỉ đạo bởi những cấp lãnh đạo nào? 2. Nếu cơ quan công an được chỉ đạo, vậy những lãnh đạo nào của Việt Nam đã chỉ đạo ngăn chặn công dân tiếp xúc với Báo cáo viên Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo?   3. Nếu việc chỉ đạo ngăn chặn công dân như thế thuộc về trách nhiệm của lãnh đạo Việt Nam – những người vẫn thường ra mặt hứa hẹn với Liên hiệp quốc và Hoa Kỳ 14 điều cam kết về nhân quyền, liệu Liên hiệp quốc và chính giới phương Tây nên có cái nhìn sâu xa và rạch ròi đến mức nào đối với những lãnh đạo ấy, kể cả một cái nhìn liên đới với hai dự luật Nhân quyền Việt Nam và Chế tài nhân quyền Việt Nam còn đang treo ở Thượng nghị viện Mỹ? Phạm Chí Dũng Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Việt Nam Phát ngôn viên Hội Cựu tù nhân lương tâm Việt Nam Thành viên Diễn đàn Xã hội dân sự Việt Nam * * *What government leaders of Vietnam ordered to prevent citizens from meeting UN Rapporteur? Pham Chi Dung Ho Chi Minh City Department of Police and some local policemen barred some pro-democracy activists from going out of home from July 25, 2014 to some days later it’s the latest, liveliest and most blatant example about “State of Vietnam always respects and guarantees human rights.” On July 25, Mr. Heiner Biederfeldt, the UN Special Rapporteur on freedom of religion arrived HCM city to meet a number of religious leaders and witnesses to verify how the nature of the “Vietnam accepted the recommendations of the Human Rights Council of the United Nations” is. Not only Dr. Nguyen Dan Que, independent journalist Pham Chi Dung, Mrs. Duong Thi Tan(ex-wife prisoner Nguyen Van Hai Dieu Cay), former prisoner of conscience Pham Ba Hai were prevented at their home gate, but also two Protestant pastor Nguyen Hoang Hoa andNguyen Manh Hung did. Any movement of legitimate citizens to go out one’s houses was pushed inside by security policemen rudely and entirely illegally. Breached its Commitment Before being formally approved to be a member of the Human Rights Council of the UN, the Vietnam authorities committed 14 conditions, including inviting the UN special rapporteurs of religious freedom to Vietnam, and “creating the best conditions” so that he can meet anyone necessarily. In the first half of 2014, the above commitment was reiterated by the high-level leaders, President Truong Tan Sang, PM. Nguyen Tan Dung, the Foreign Ministry and the Ministry of Public Security in the meeting with U.S. Deputy Secretary of State Wendy Sherman and Special Advisor to the Government of the United States. Commitment to religious freedom also integrated in the official report of the Vietnam delegation at the UN Human Rights Council in June 2014, Switzerland. One other member of Politburo Mr. Pham Quang Nghi, considered as a potential candidate for General Secretary of the Communist party in the 12th congress in 2016, also just launched the slogan “Vietnam always ensures human rights” in his tour to the United States recently. By the agreement of nations within Trans-Pacific Partnership (TPP), the State of Vietnam was accepted to participate in the Human Rights Council at the United Nations with condition that it meets human rights and democracy the international community requires. However, the most last evidence to prevent citizens mentioned has shown that to senior leaders in Vietnam, “sayand do” are still two different acts, politically and morally. Morality of politician? The said difference may be the reason that Australia, though formerly quite courteous to the government of Vietnam, expressed their stronger stance in demanding the Vietnam state should respect more human rights. Ahead of the human rights dialogue between Vietnam and Australia on late July 2014, Vietnam government scored a very bad point about the “achievement” of human rights violations. Such not-to-be-the-first violation but systemic, inevitably leads to questions can not be avoided: 1. Illegal prevention with “actively operational measures” to the above citizens executed by either themselves – the HCMC police and some local police or order from the higher levels? 2. If the police was directed, so what leaders of Vietnam have instructed to prevent citizens contacting with the UN Rapporteur on freedom of religion? 3. If such direction to prevent citizens is the responsibility of Vietnam’s leaders who often come out promising with the UN and the U.S. about 14 commitments on human rights, what extend the UN and the Western world should have a deep and sharp look at these leaders, including a link with two bills, Vietnam human Rights Act and the Vietnam Human Rights Sanctions, are still pending in U.S. Senate? Pham Chi Dung, PhD. President of Independent Journalists Association of Vietnam Spokesman of Former Vietnamese Prisoner of Conscience Member of Vietnam’s Civil Society Forum Translated by Trang Thien Long
......

Xây ga tàu điện ngầm, phá xóa trung tâm Sài Gòn

SÀI GÒN - Đứng nhìn cảnh những hàng cây cổ thụ trước nhà hát thành phố bị đốn hạ, dọn dẹp lấy đất cho việc xây nhà ga tàu điện ngầm đang làm dư luận người dân thành phố Sài Gòn đắng lòng. Ở một đất nước mà chính quyền độc tài tự cho phép mình muốn làm gì thì làm, bất cần hỏi, bất cần biết ý dân, việc thay đổi hay phá hỏng di sản cảnh quan, kiến trúc của một đô thị như Sài Gòn là thứ độc tài khinh dân. Các công trình như Công viên Lam Sơn trước nhà hát thành phố, cây xanh hai bên công viên, đài phun nước ở giao lộ Lê Lợi - Nguyễn Huệ, vòng xoay Quách Thị Trang, tượng đài Trần Nguyên Hãn... sẽ lần lượt được di dời giải tỏa. Chúng tôi có mặt ở khu vực trung tâm Sài Gòn tan tành này vào ngày thứ hai của việc phá dọn mặt bằng. Nhìn những gốc dương liễu có tuổi đời năm sáu chục năm quanh đài phun nước bị bứng. Một người đàn ông lớn tuổi, xúc động nói. "Hồi tôi còn nhỏ, mỗi khi ra Sài gòn là chạy quanh bồn nước này, mua bong bóng, kẹo, bánh, chụp ảnh gia đình... Hồi đó đã có mấy cây dương liễu này rồi, bây giờ thấy nó chết tươi, mà chú có hiểu chết tươi là chết ra sao mới biết đau lòng cỡ nào." Trước và sau chúng tôi, những người đi đường dừng xe lấy điện thoại ghi lại những hình ảnh cuối cùng của đài phun nước, của hàng cây dầu cổ thụ. Điện thoại trong túi tôi cũng rung, tôi mở ra đọc được tin nhắn của một người bạn thân có nội dung: Sài Gòn đang bị xóa đó anh! Tôi hiểu người bạn này muốn nói gì. Sau biến cố 1975, ai cũng biết Sài Gòn đã mất vị thế lịch sử thủ đô của một chính thể dân chủ - tự do VNCH, giá trị văn hóa-văn minh của một đô thị kế thừa và thượng tôn ý thức dân tộc. Từ đó đến nay, Sài Gòn mất tên, đường phố thay danh... Sài Gòn bị chế độ cộng sản hành hạ bằng những thay đổi cực đoan và ấu trĩ, nhưng dù khu trung tâm Sài Gòn bị khoác hình thức và nội dung tuyên truyền nào, thì ít ra tinh anh Sài Gòn vẫn may mắn không bị xóa trắng như lần này. Một bà vừa đi mua sắm ở chợ Sài Gòn ra, nói. "Tại sao họ không xây ga điện ngầm ở khu công viên 23/9 cho dễ coi. Tui nghe nói họ dẹp luôn tượng Trần Nguyên Hãn, rồi tới đây phá luôn chợ Sài Gòn để làm siêu thị cao cấp. Vậy là kể như Sài Gòn chết hết rồi." Dưới chính thể VNCH, để tôn vinh những anh hùng dân tộc, Sài Gòn đã có những tượng đài đạt tầm nghệ thuật rất cao như những tượng đài An Dương Vương, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ... Tượng Phan Đình Phùng ở bồn binh Cây Gõ đã bị lấy chỗ xây cầu vượt, và tới đây sẽ tiếp tục biến mất tượng Trần Nguyên Hãn. Hẳn nhiên việc di dời hay xóa bỏ một tượng đài nào đó vì tuổi thọ công trình hay vì nhu cầu phát triển giao thông là điều không thể tránh khỏi, nhưng người Sài Gòn cảm thấy bị xúc phạm tình yêu nước và lòng kính trọng lịch sử dân tộc khi mà toàn bộ các công trình tượng đài mới được chế độ này xây chỉ để tôn vinh lãnh tụ và những anh hùng của chế độ Cộng Sản. Chúng tôi tìm cách bắt chuyện với những người chứng kiến cảnh đốn hạ cây xanh khu trung tâm Sài Gòn. Họ đều buồn đến ngơ ngác! Với người Sài Gòn, cả cố cựu và người nhập cư đều cho là xâm phạm khu trung tâm trước nhà hát lớn để đào xới  làm ga tàu điện ngầm là xâm phạm trái tim Sài Gòn và trái tim họ. Ngay cả những người trẻ sinh sau năm 1975, vốn không mường tượng được thế nào là một Sài Gòn hòn ngọc viễn đông và không  có xu hướng tưởng vọng về chính thể VNCH, một chính thể đã tạo ra một "Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi!"  cũng không dấu thất vọng trước việc phá nát cảnh quan khu trung tâm. Một bạn trẻ đang làm trưởng phòng Marketing của một công ty Nhật, hỏi tôi. "Hồi chế độ trước, có ông Tổng Thống hay Thủ Tướng nào xây cho mình tượng đài không chú?" Tôi trả lời anh là không có. Anh cười gật gù. "Cháu chẳng hiểu chế độ đó nhiều, nhưng nếu họ không xây tượng đài cho mình là tự trọng." Không lâu nữa, một bức tượng ông Hồ Chí Minh sẽ được đặt trên nền của cái đài phun nước đã tan hoang hôm nay. Và không cần ai gợi ý mà cũng không cần nói ra, người Sài Gòn đều biết số phận của các tượng đài lãnh tụ xứ cộng sản, lãnh tụ ở các nước độc tài sẽ ra sao. (PC)                 Ảnh Người Việt và VNExpress. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Sài Gòn lại bị bức tử

Các bạn từ Sài Gòn đang kéo còi báo động; gửi đến tất cả những tấm lòng yêu nhớ Sài Gòn đang sống khắp cả nước, đang sống rải rác khắp các châu lục. Cây cổ thụ hàng chục năm tuổi, đường kính 50-60 cm, cao hàng chục mét bị chặt. Sài Gòn lại đang bị bức tử, để bị buộc phải chết dần chết mòn, để không còn gì là Sài Gòn nữa hết. Mấy ngày nay, từ ngày 25/7/2014, sở công viên thành phố cho hạ hàng loạt cây cổ thụ trong công viên Lam Sơn trước Nhà hát thành phố, quanh Đài phun nước, vùng ngã tư đường Lê Lợi và đường Nguyễn Huệ . Cuộc giải tỏa đang mở rộng ra khu vực bùng binh Quách Thị Trang, đến tận khu tượng đài Trần Nguyên Hãn. Hàng loạt cây dầu bách niên gốc bự, hàng loạt cây dương liễu quý yểu điệu đang bị máy cưa đốn hạ không chút tiếc thương, như cứa vào lòng mỗi người yêu nhớ Sài Gòn, một thời từng là Viên Ngọc Viễn Đông, niềm kiêu hãnh của người Việt. Họ đang một lần nữa bức tử Sài Gòn, sau cuộc bức tử tàn bạo năm 1975, khi lột tên truyền thống của thành phố được mang từ thời sơ sinh – Sài Gòn -  để mang một tên khác vốn lạ hoắc với người dân Sài Thành. Cuộc bức tử lần nay độc ác là nhằm triệt hạ, xóa bỏ khu vực trung tâm lịch sử- chính trị - kinh tế - văn hóa của Sài Gòn, trái tim của Sài Thành, vẫn theo nếp nghĩ tật bệnh dai dẳng của giới lãnh đạo cộng sản, hận thù và cao ngạo. Họ vin cớ xây dựng Khu trung tâm mới, một nhà Ga tầu điện ngầm hiện đại  làm nét kiến trúc đặc sắc đầu tiên rồi mở rộng  với những tượng đài hoành tráng của thời Cộng sản. Những tượng đài CS hoành tráng nhất, giữa lúc đảng CS đang suy thoái và đang « chết tươi », theo cách nói của đại tá an ninh Nguyễn Đăng Quang, với cái nghĩa thâm thúy là nó chết do chính những bầy sâu độc hại nảy nở từ xương tủy của chính nó. Đảng CS luôn leo lẻo «nhân dân làm chủ». Nhưng nhân dân Việt Nam, nhân dân Sài Gòn, nhân dân Quận 1 / Sài Gòn…  có được hỏi ý kiến gì về cuộc cải tạo địa bàn hệ trọng này? Quốc hội, Hội đồng nhân dân Sài Gòn, các chuyên gia trong Hội kiến trúc sư có được tham gia ý kiến gì không ? Báo chí có được huy động để nhân dân góp ý về một chủ trương lớn này không?   Đã có ý kiến cái Ga tầu điện ngầm nên đặt ở khu vực Công viên 23 tháng 9, gần nhà Ga xe lửa cũ, sau trở thành bến xe ô tô khách, ở quận 3, là thích hợp hơn cả. Nhiều nhà kiến trúc nêu ý kiến trong các thủ đô và thành phố hiện đại, các nhà ga nên đặt ở nhiều hướng, xa vùng trung tâm. Tại sao Ga tầu điện ngầm Sài Gòn lại phải đặt giữa thành phố, ở ngay quận 1, phá nát vùng trung tâm độc đáo với bao kỷ niệm lịch sử, là nét đẹp cố hữu truyền thống của thành phố rộng lớn nhất, đông dân nhất cả nước này.   Tại sao khu phố cổ Hà Nội được bảo tồn thành khu vực thương mại, du lịch, tản bộ độc đáo, trường tồn, mà Sài Gòn lại không có được cái quyền văn hóa chính trị cao quý ấy? Một so sánh, ở Pháp, chính quyền đã có quyết định xây dựng một sân bay lớn hiện đại nhất  gần thành phố Nantes phía Tây - Nam thủ đô Paris, nhưng đang bị đình hoãn vì nhân dân địa phương chưa đồng tình, e ngại môi trường sống bị đảo lộn do tiếng ồn của máy bay, các đền bù thiệt hại đất đai nhà cửa di dời chuyển nhượng chưa hợp lý, nay đang phải xem xét lại sau những tranh cãi trên báo chí và qua các cuộc biểu tình dai dẳng của nhân dân địa phương trong đó có cả các dân biểu. Xin cám ơn các bạn yêu quý Sài Gòn đã báo động khi cuộc bức tử trung tâm Sài Gòn mới vừa khởi đầu. Hãy còn kịp để bảo vệ trái tim của Sài Gòn thân yêu. Trước hết các công dân Sài Gòn hãy lên tiếng mạnh mẽ và xuống đường. Xin nhớ ông Thủ tướng trong thông điệp đầu năm đã cam kết: nhân dân có quyền làm tất cả những gì luật pháp không cấm, cán bộ và viên chức chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.    Nhân dân chính cống của Sài Gòn hãy tự khẳng định quyền công dân trọn vẹn của mình, không thể để trên thực tế bị coi là công dân loại hai, phải bị những công dân loại một từ xa, từ rất xa vào cai trị và đàn áp mình; hãy cảnh tỉnh họ đứng về phía nhân dân, lẽ phải và nhân quyền, về phía Sài Gòn của đất Việt. Bùi Tín
......

Giỏi nhất thế giới hay là vớ vẩn nhất thế giới ?

Đây là thời hiệu điều tra vụ án trong luật tố tụng hình sự.   Điều 119. Thời hạn điều tra 1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Và đây là bản kết luận điều tra sau 5 tháng với tội Gây rối trật tự công cộng. http://vietnamhumanrightsdefenders.net/2014/07/26/ket-luan-dieu-tra-vu-b... Còn đây là khung hình phạt của tội Gây rối công cộng.   Tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 245, Bộ luật hình sự. Theo đó: - Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.   - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách; Có tổ chức; Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; Xúi giục người khác gây rối; Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng; Tái phạm nguy hiểm.   Tham khảo kết quả của một phiên toà xét xử tội Gây rối công cộng lớn nhất và gây nhiều thiệt hại nhất từ trước đến nay ở Bình Dương. http://petrotimes.vn/news/vn/phap-luat/xet-xu-3-vu-gay-roi-tai-binh-duon...   Đối chiếu những tư liệu tham khảo, có thể thấy vụ việc trong bản kết luận điều tra của công an tỉnh Đồng Tháp là lạm dụng luật tố tụng hình sự. Một tội danh đơn giản mà trong cáo trạng nói có đến 700 người dân hiếu kỳ đứng xem, tức có 700 nhân chứng. Thế nhưng phải đến 5 tháng sau khi bắt người, công an tỉnh Đồng Tháp mới đưa được ra kết luận điều tra. Việc giam giữ kéo dài hơn cả thời gian trong khung hình phạt bộ luật, cho thấy công an đã quá lạm quyền của toà án. Đáng lẽ thời hạn điều tra không thể vượt quá khung hình phạt tù thấp nhất. Nếu thời hạn giam giữ điều tra quá khung hình phạt tù thấp nhất thì rõ ràng cơ quan công an đã xác định mức án thay cho toà một phần nào đó. Như vụ án này mức án xử tù giam thấp nhất là 3 tháng (chưa kể phạt hành chính, án treo) mà việc giam giữ đưa ra kết luận đến 5 tháng. Rồi thời gian đưa ra cáo trạng và xét xử nhanh cũng mất một tháng. Nếu vậy toà án phải chạy theo công an và đưa mức án trên 6 tháng để hợp thức hoá việc bắt giam của công an. Với một tội danh như tội gây rối trật tự công cộng, thời hiệu điều tra không thể quá 2 tháng. Tuy nhiên đến tháng thứ 3, công an Đồng Tháp vẫn còn phải diễn màn đối chất nhân chứng với đương sự. Ở vụ viêc Bình Dương gây chấn động xã hội, phức tạp, thiệt hại lớn, nhiều người tham gia. Quá trình bắt giữ và xét xử vỏn vẹn chỉ hơn một tháng. Bị cáo lãnh án cao nhất trong bài báo bị kết án 7 tháng tù giam. Chỉ riêng với thời hiệu điều tra của vụ việc Đồng Tháp này, đã cho thấy công an Đồng Tháp là vớ vẩn, tuỳ tiện.   Sự tuỳ tiện của công an sẽ kéo theo sự tuỳ tiện của VKS. Chúng ta sẽ chờ thấy một bản cáo trạng mà VKS sắp tơi đưa ra chứa đầy những áp đặt , suy diễn cho những người bị giam giữ. và toàn án sẽ làm phần việc kết thúc chuỗi tuỳ tiện pháp luật của cơ quan hành pháp theo hướng bảo vệ cho các cơ quan này. Một vụ án đã bất công ngay trong quá trình điều tra mà vẫn được VKS và toà án chấp nhận. Phải chăng đó là điều đặc trưng của hệ thống hành pháp ở nước ta. Đáng buồn là kiểu điều tra vớ vẩn này lại được tung hô là giỏi nhất thế giới. Nguồn: nguoibuongio1972.blogspot.no
......

BÁO CHÍ CÔNG KHAI THÁCH THỨC HÀ NỘI

Ngày 3/7/2014 tại dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, các nhà báo và nhân sĩ trí thức khao khát tự do, họp thảo luận về tình hình đất nước trước cảnh ngoại xâm mà nhà nước luôn luôn bưng bít thông tin, buộc báo chí phải hoạt động trong khuôn khổ được chỉ thị gọi là “lề phải”. Kết quả những nhà báo tham dự cuộc họp tuyên bố thành lập “Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam” và ra mắt dư luận ngày 4/7/2014 với chủ trương: “Phải làm thế nào để các nhà báo được cất tiếng nói theo đúng nghĩa của hai chữ Tự Do”. Và “làm thế nào để báo chí được sinh hoạt đúng thiên chức của mình là góp phần xây dựng một xã hội công bằng, một đất nước thật sự độc lập tự chủ, không cúi đầu run sợ trước hiểm họa ngoại xâm”. Lời tuyên bố và chủ trương của Hội Nhà Báo rõ ràng là một thách thức đối với chế độ độc tài Hà Nội, họ đã từng cúi đầu run sợ trước tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Dĩ nhiên có người cho rằng sự thách thức của một số ít người không bạo động, không vũ khí trong tay, so với cả một guồng máy công an, cảnh sát, quân đội sẵn sàng đàn áp để bảo vệ cường quyền thì có nghĩa lý gì? Người ta còn nói có bao nhiêu bloggers đã từng làm công tác phản biện, chỉ trích, đối kháng mà cũng bị bắt bớ giam cầm không đi tới đâu! Có người còn hỏi đã có bao nhiêu Tướng Tá, đảng viên cao cấp, kể cả công thần, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp khuyến cáo không nên giao Cao Nguyên cho Tàu Cộng mà lời nói, thư từ của ông cũng bằng “chó sủa lỗ không”. Vậy thì sá gì một nhóm ký giả chỉ dùng ngòi bút, làm sao châm chích được bạo quyền? Đông tây vẫn thường ví “một cây bút bằng một sư đoàn”. Sự so sánh nầy thật ra không quá đáng bởi vì một bài viết đúng sự thật, hợp hoàn cảnh, thuận lòng người sẽ ảnh hưởng hàng vạn người, sẽ đánh thức hàng vạn con tim, sẽ tạo dựng một phong trào đối kháng, sẽ thúc giục con người hy sinh vì chính nghĩa. Huống chi đây là cả chục, cả trăm, và biết đâu sẽ có cả ngàn ngòi bút chỉnh sửa xã hội, thậm chí có thể thay đổi chế dộ. Hãy đọc lại bài báo “J’accuse” (Tôi tố cáo) của ký giả Emile Zola, buộc nước Pháp phải xét lại vấn đề phản quốc của Đại Úy Dreyfus.Hãy xem lại quyển “Contrat Social” (Hợp đồng xã hội) của Jean-Jacques Rousseau để hiểu rằng muốn thay đổi xã hội cần phải có những ngòi bút như vậy.Hãy đọc lại “Les Misérable” (Những kẻ khốn cùng) của Victor Hugo để dọn đường cho sự công bằng xã hội. Cho nên đốm lửa của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam có thể đốt cháy đống “bổi” bất công, tham nhũng, cửa quyền, cướp đất, đàn áp tôn giáo, bán nước cho Tàu, v.v. Ban lãnh đạo của hội nhà báo nầy gồm 5 vị, trong số đó hai người được dư luận chú ý là: Chủ tịch Phạm Chí Dũng, một hoàng tử đảng, con trai ông Phạm Văn Hùng, cựu Trưởng Ban Tổ Chức Thành Ủy Sài Gòn. Dũng tốt nghiệp Học Viện Kỹ Thuật Quân Sự, tiến sĩ kinh tế, cán bộ ban an ninh nội chính, thân cận với Trương Tấn Sang khi ông nầy còn là Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn. Dũng từng là nhà văn nhà báo, thường viết bài chỉ trích các lãnh đạo đảng. Do đó, Dũng bị bắt ngày 17/7/2012 vì tội có hành vi cấu kết với tổ chức phản động lưu vong ở Mỹ, phá hoại nội bộ đảng nhằm lật đổ chính quyền. Dũng gởi tâm thư từ bỏ đảng ngày 5/12/2013 vì lý do: “Tất cả những gì mà đảng cộng sản thể hiện vai trò lãnh đạo toàn diện trong ít nhứt một phần tư thế kỷ qua đã khiến cho tôi, cũng như nhiều đảng viên khác, đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí lẫn tinh thần”. Và ông kết luận: “Một công dân tốt có ý nghĩa hơn nhiều so với một đảng viên tồi”. Phó chủ tịch thường trực là một tu sĩ Công Giáo thuộc dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, người điều hành Ban Truyền Thông của nhà dòng từ năm 2009. Ông được tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới vinh danh hồi tháng 4/2014.Ông muốn “làm sao cho nhiều người biết sử dụng các mạng xã hội để truyền tin cho nhau vì bây giờ có quá nhiều oan sai, quá nhiều bất công ở khắp mọi nơi”. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng trong chế độ độc tài độc đảng, báo chí bị đảng kiểm soát hoàn toàn, mà có một Hội Nhà Báo Độc Lập chủ trương gần như một đảng đối lập thật là đáng hoan nghênh kính nể. Việc gì sẽ xẩy ra?Nhà cầm quyền sẽ phản ứng như thế nào?Họ lo ngại?Họ chấp nhận? Họ thẳng tay đàn áp bắt bớ tù đày? Hay là họ sẽ bị dư luận lên án và toàn dân nổi dậy lật đổ chế độ? Báo chí Độc Lập có thể tạo nên một phong trào đòi hỏi phải có tự do dân chủ và công bằng xã hội. Xu thế của thời đại chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả nói trên. Bởi vì trong lúc lòng dân phẫn nộ vì đảng viên tham nhũng, cướp đất của dân, hèn với giặc, ác với dân, mà có những tiếng nói độc lập, vạch trần những sai trái của nhà cầm quyền, điều đó sẽ tác động tinh thần đấu tranh của quần chúng, đòi quyền tự do sinh sống của con người. Điều đó cũng sẽ khuyến khích, đôn đốc toàn dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Trong hoàn cảnh hiện tại, những ngòi bút của Hội Nhà Báo Độc Lập sẽ có ảnh hưởng và tác động trên quần chúng mạnh hơn những tổ chức đối lập âm thầm, rình rập, rỉ tai, vạch trần sai trái của chính quyền, trong khi Hội Nhà Báo là cả trăm, hay cả ngàn ống loa, cả ngàn khối óc, phóng ra những tư tưởng khác biệt với sự nhồi nhét gian xảo, bất chính của đảng cộng sản cầm quyền, Cho nên hiệu quả có thể đoán được là không sớm thì muộn cũng dẫn đến tự do dân chủ, công bằng xã hội và đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm. Khởi đầu đã có 42 nhà báo khắp nơi xin gia nhập, và sẽ còn bao nhiêu người khác xin gia nhập trong tương lai?Ông Phạm Chí Dũng tuyên bố Hội vẫn mở rộng cho cả các “nhà báo quốc doanh” muốn hồi tâm chuyển ý. Theo bản tuyên bố ngày ra mắt thì Linh Mục Lê Ngọc Thanh cùng với nhà báo Ngô Nhật Đăng phụ trách hai trang báo của Hội trên Internet là Việt Nam Thời Báo và Việt Nam Times. Dĩ nhiên chính quyền sẽ không bao giờ cho phép ra báo giấy, đài phát thanh.Nhưng thời đại ngày nay với kỹ thuật của Internet, Facebook, Twitter là những phương tiện truyền đến người dân những gì họ muốn biết.Đành rằng không phải thường dân nào cũng có thể sử dụng những phương tiên nói trên.Nhưng Linh Mục Lê Ngọc Thanh đã trả lời phỏng vấn rằng ông từng huấn luyện cho nhiều thanh thiếu niên biết sử dụng các mạng xã hội để truyền tin cho nhau, và ông buồn vì nhiều học trò của ông bị bắt cầm tù. Phương tiện truyền thông không chỉ có báo giấy chính thức, truyền thanh, truyền hình công khai, mà còn báo chui, báo nói, một loại truyền khẩu còn nguy hiểm hơn vì nó thêm mắm dậm muối cho đậm đà hấp dẫn. Ngày xưa dưới thời Việt Nam Cộng Hòa có vấn đề “thiên hạ đồn rằng” trong dân gian, vô tình nó làm thay đổi nội các liên miên sau năm 1961. Báo miệng truyền khẩu cũng là một phương tiện giúp những người không sử dụng được các mạng xã hội. Nếu phải đánh cưộc Hội Nhà Báo Độc Lập sẽ tác động được quần chúng không?Sẽ gây được sự chú ý của dư luận nước ngoài không?Tôi tin họ sẽ đạt mục đích.Và tôi hy vọng sẽ không thua cuộc trong cuộc thách đố nầy. VLT. Nguồn: Việt Nam Thời Báo  
......

Gian dối từ trên xuống dưới

Một bức hình được truyền đi trên mạng trong tuần qua cho thấy cảnh một đống tiền lẻ, đồng đô la Canada, để lộn xộn trên mặt một hộp cao bằng kim loại, tại cửa ra vào trạm xe điện ngầm (metro). Người chuyển bức hình đi giải thích rằng máy bán vé tự động bị hư nên hành khách đã để tiền lên mặt vuông cái máy, thay vì “nhẩy rào” qua mà đi. Nhiều người lên tiếng khen ngợi dân Canada lương thiện; so sánh với tiếng tốt của dân Nhật Bản vẫn được truyền tụng từ lâu. Có người, ở một nước Châu Âu, viết rằng, “Nếu ở nước tôi thì mấy đồng tiền đó đã biến mất sau mấy giây đồng hồ!”   Không ai kiểm chứng bức hình trên là thật hay một trò đùa nghịch. Nói như vậy không phải vì nghi ngờ tính lương thiện của dân Canada. Tôi đã sống ở Montréal, Canada hơn 20 năm dài (hơn thời gian từng sống ở Sài Gòn hay Hà Nội) nên đã gặp rất nhiều người thành thật, lương thiện, rất đáng kính trọng. Nhưng trong một thành phố lớn (cho nên lập đường metro) mấy triệu người, chắc một phần tư dân chúng là di dân mới một đời, ta không biết ai là “người Canada” thật sự. Di dân mới tới có khi vẫn “nhẩy rào” để được đi metro miễn phí! Tôi đã chứng kiến, ở một xứ được coi là lương hảo nhất thế giới, là Thụy Ðiển, cảnh người đi xe lửa bị lấy trộm, người thì bị móc túi. Bạn tôi ở Phần Lan kể trước đây 20 năm dân xứ này bỏ xe đạp trước cửa nhà, không cần khóa, mà không bao giờ mất. Nhưng mươi năm nay, sau khi các chế độ cộng sản sụp đổ ở Âu Châu thì người Phần Lan cũng bị mất trộm; vì rất nhiều di dân mới đổ vào. Du lịch ở các nước khác như Anh, Pháp, Ý, người ta cũng được khuyến cáo phải coi chừng kẻ cắp. Dân Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada vẫn thường đứng đầu trong bảng xếp hạng các nước có “cuộc sống hạnh phúc” trên thế giới. Những người hạnh phúc thường cũng sống thật thà, lương thiện; có thể tin như vậy. Nhưng dân các nước nghèo không nhất thiết phải sống kém lương thiện. Một thế kỷ trước đây, Huân tước Baden Powell, người sáng lập phong trào Hướng Ðạo thế giới, đã viết những lời nồng nhiệt ca ngợi đời sống hiền hòa, lương hảo của dân Miến Ðiện. Mà lúc đó Miến Ðiện còn nghèo hơn Việt Nam bây giờ! Khi nào thì một nước sinh ra đầy trộm cắp? Khi có nhiều người dân nghèo và xã hội bất công, thì nạn trộm cắp sẽ phát sinh. Khi một nước có cả hai yếu tố, nghèo và bất công, thì do “thượng bất chính, hạ tất loạn” nên mới có “bần cùng sinh đạo tặc.” Giữa Nghèo và Bất Công thì nạn Bất Công là thủ phạm chính gây ra cảnh “trộm cắp như rươi;” nếu chỉ nghèo không thôi người ta vẫn muốn sống lương thiện. Khi mọi người đều tôn trọng luật pháp, ai làm giầu được đều do công sức của chính họ, thì cả xã hội vẫn có thể sống trong đạo lý. Giấy rách giữ lấy lề. Ðói cho sạch, rách cho thơm. Người Việt Nam vẫn dạy con cháu như thế, từ lúc cả nước cùng nghèo. Quý vị độc giả có thể mới đọc bản tin về một cô gái lấy cắp của đại sứ một nước Trung Á, trong một siêu thị ở Hà Nội. Người Việt Nam xưa nay vốn thật thà, hay là vốn tính bất lương? Cũng vậy, hãng Hàng Không Việt Nam mới lập “sổ đen,” kê tên những người Trung Quốc đã từng lấy trộm trên máy bay. Nếu Hàng Không Việt Nam gửi cả danh sách này cho các công ty hàng không khác trong vùng thì có bêu riếu cả dân tộc Trung Hoa hay không? Cũng không khác gì các cửa hàng bên Nhật viết bảng cảnh cáo “không được lấy trộm,” viết bằng tiếng Việt, cho khách hàng dễ hiểu! Tôi không tin rằng dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có tính trộm cắp. Thói ăn cắp, ăn trộm phát triển trong các nước này, vì hoàn cảnh sống trong cảnh vừa nghèo lại vừa bất công. Suốt từ thế kỷ 19, 20 dân Việt Nam đã sống trong chế độ thuộc địa bóc lột và bất công. Nước Trung Hoa sống dưới chế độ ngoại thuộc Mãn Thanh từ thế kỷ 17, rồi bị các cường quốc Tây phương lấn ép. Rồi cả hai dân tộc, Trung Hoa và Việt Nam đều sống dưới chế độ cộng sản hơn nửa thế kỷ vừa qua. Chế độ cộng sản tàn phá luân lý, đạo đức của hai dân tộc mạnh hơn các chế độ ngoại thuộc, thực dân. Vua quan nhà Mãn Thanh và thực dân Pháp gây ra cảnh bất công, nhưng họ không tìm cách xóa bỏ các nền nếp đạo lý của dân bản xứ. Trái lại, các chế độ cộng sản đều lật đổ, xóa sạch các quy tắc luân lý cổ truyền, đề ra mục tiêu “xây dựng những con người mới,” mà không biết phải xây dựng như thế nào. Khi Hồ Chí Minh viết về việc xây dựng một nền đạo đức mới, thì các đảng viên cộng sản được dạy rằng đạo đức cách mạng quan trọng nhất là “luôn luôn tuân phục đảng.” Ðiều này ông ta cũng chỉ họ được từ Mao Trạch Ðông và Lưu Thiếu Kỳ. Hậu quả là người ta không cần theo một quy tắc luân lý nào khác, nếu chỉ hành động theo lệnh “Ðảng.” Mà Ðảng chính là các lãnh tụ; không còn ai khác nữa.   Các chế độ độc tài chuyên chế đều kèm theo một guồng máy tuyên truyền dối trá. Khi người dân một nước phải nghe nói dối ngày này sang ngày khác, phải lấy giả làm thật, đen nói ra trắng, nếu không biết dối trá, không biết cúi đầu sợ sệt thì không sống được, khi đó xã hội sẽ phải suy đồi, không còn chút luân thường đạo lý nào nữa. Các đảng Cộng sản Trung Hoa và Việt Nam đã phá hủy nền đạo lý cổ truyền của hai dân tộc. Hơn nữa, họ xóa bỏ tập quán sống theo pháp luật, vì đặt chính trị lên trên luật pháp. Do đó, tới khi họ mở cửa cho kinh tế thị trường xuất hiện, thì những tệ hại lớn nhất của thời “tư bản hoang dã” bộc phát rất nhanh.   Từ khi các đảng cộng sản quay chiều theo kinh tế tư bản, nói chung dân Việt Nam và Trung Hoa không thể coi là nghèo được nữa. Nhưng vì chế độ vẫn độc tài chuyên chế, cho nên xã hội càng bất công hơn các nước tư bản vào thế kỷ 19. Tiền của được tích lũy vào tay các lãnh tụ, các đảng viên, cho đàn em và phe cánh. Khi những người nghèo khổ sống bên cạnh những kẻ làm giầu vừa bất hợp pháp vừa không bất lương, thì người ta không còn tin ở đạo lý nữa, dễ làm bậy. Khi lòng tham nổi lên, kẻ trộm cắp và tự biện hộ với lương tâm mình rằng chung quanh họ bao nhiêu đứa nó trộm cắp nhiều gấp hàng ngàn lần mình, nếu mình có tội cũng là tội nhỏ! Những người Trung Hoa đi máy bay chắc không thể coi là nghèo. Cô gái ăn cắp trong siêu thị chắc cũng có công việc làm đủ sống. Tại sao họ lại ăn cắp? Vì họ đã chứng kiến cảnh những kẻ khác đã trộm cắp hàng triệu, hàng tỷ đô la, giầu gấp trăm, gấp ngàn họ, vẫn sống nhởn nhơ! Ðạo lý suy đồi không phải chỉ là một vấn đề xã hội, văn hóa. Khi nhìn về lâu về dài, thì cảnh cả luật pháp lẫn đạo lý suy đồi sẽ khiến cho kinh tế một nước không thể tiến lên được. Nền kinh tế tư bản dựa trên luật pháp, mà nhờ luật lệ nghiêm minh nên mọi người bị bắt buộc phải sống lương thiện hơn. Tại các quốc gia bình thường, dù là ở những nước nổi tiếng lương thiện như Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada, vẫn có kẻ trộm. Nhưng khi làm ăn, làm ăn lớn, thì người ta có thể tin nhau, vì có luật pháp. Nếu luật pháp không đủ rộng để ràng buộc tất cả, thì còn có đạo lý. Kinh tế thị trường phát triển nhờ các nền tảng đó. Những người Trung Hoa ăn cắp trên máy bay không làm hại cho kinh tế Trung Quốc bằng quan chức điều khiển các doanh nghiệp nhà nước, hoặc tư doanh. Bởi vì khi họ gian dối, người ta sẽ sợ không còn muốn làm ăn với nước Trung Hoa nữa. Công ty hàng ăn McDonald hôm qua vừa quyết định ngưng không mua thịt từ một xí nghiệp Trung Quốc nữa. Các công ty Burger King và Yum Brands, chủ nhân các cửa hàng KFC cũng làm theo. Công ty Trung Quốc là Phúc Hỷ, ở Thượng Hải đã cung cấp thịt cũ, quá hạn cho các cửa hàng ăn này. Từ nay, McDonald sẽ mua thịt từ Thái Lan. Tháng trước, mấy ngân hàng ngoại quốc, trong đó có Citigroup và Standard Chartered đã lâm nạn vì một vụ gian trá khác của mấy xí nghiệp Trung Quốc. Một công ty Trung Quốc vay, Ðức Thành Khoáng Nghiệp vay tiền của nhiều ngân hàng và đem một số kim loại làm thế chấp. Nhưng người ta khám phá ra là số kim loại này, chứa trong nhà kho tại hai cảng Thanh Ðảo và Bồng Lai, đã được đem thế chấp cho nhiêu món nợ khác nhau! Những vụ gian dối của các công ty Phúc Hỷ và Ðức Thành sẽ làm hại cả các công ty Trung Quốc khác, điều này hiển nhiên. Từ chuyện ăn cắp trên máy bay đến chuyện đánh lừa trong thương trường quốc tế, tất cả đều là hậu quả của một chế độ gian dối, tham nhũng, bất công. Không thoát khỏi chế độ đó thì tương lai sẽ mù mịt! Nguồn: nguoi-viet.com
......

Hãy yêu nước theo cách của bạn

  Con người cũng như bao động vật khác, động lực sinh tồn là một động lực lớn chi phối hành động. Hoạt động chính của con người hướng đến nâng cao chất lượng sống cho mình và cho con cháu. Trong xã hội hiện đại, hành động đó hướng đến việc kiếm tiền, kiếm quyền, kiếm lợi,..Những động lực này là hợp lẽ tự nhiên, chúng ta cần tôn trọng. May mắn, con người là động vật bậc cao nên ngoài hoạt động sinh tồn cho mình con người còn có tình cảm. Một trong những tình cảm thiêng liêng là lòng yêu nước. Nhờ tình cảm này mà nhiều cộng đồng, nhiều dân tộc đã chung lưng cùng nhau chống lại nhiều hiểm họa cho sự sinh tồn chung, xây dựng những bản sắc, những nền văn hóa riêng rực rỡ trong nền văn minh nhân loại.   Dân tộc VN chúng ta trường tồn đến ngày hôm nay cũng nhờ vào lòng yêu nước. Nếu không có nó, có lẽ chúng ta đã bị tận diệt bởi những đạo quân hung hãn từ phía bắc. Hơn lúc nào hết, hôm nay thế hệ chúng ta hãy thổi bùng lòng yêu nước để chung tay giữ gìn và kiến tạo một đất nước Việt Nam tươi đẹp cho con cháu. Ngày xưa, từ lòng yêu nước, ông bà tổ tiên giữ đất nước cho chúng ta sinh tồn, lẽ nào chúng ta chỉ biết thụ hưởng mà thôi? Trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt, sự hy sinh được đề cao đã làm nhiều người tưởng rằng yêu nước đồng nghĩa với cầm súng ra chiến trường, không ngại hy sinh, là tổ quốc gọi chúng con sẵn sàng, .... Thật ra, đây chỉ là một cách yêu nước và nó chỉ phù hợp với thời chiến. Nhiều người nói với tôi: "trong tình hình hiện nay, yêu nước, tôi làm được gì? Tôi không có khả năng viết lách, tôi có gia đình, vợ con, tôi không dám xuống đường biểu tình, tôi không dám hành động như bạn,....". Tôi biết người tâm sự với tôi điều trên, họ đã là người yêu nước. Khi bạn quan tâm đến tình hình đất nước, bạn đã là người yêu nước. Có nhiều người không chỉ quan tâm mà họ có những hành động thầm lặng để góp công sức cho đất nước tiến lên nền dân chủ. Tôi biết nhiều người bỏ công sức tham gia các mạng lưới bán hàng đa cấp. Họ tham gia không phải vì công việc hay thu nhập mà để giúp đỡ những người tham gia mạng lưới mở tài khoản email, hướng dẫn họ sử dụng internet rồi qua đó giới thiệu họ những trang web có thông tin đa chiều về tình hình đất nước. Đây là một công việc đòi hỏi sự kiên trì, giúp đỡ cả ngàn người, chỉ được vài chục người quan tâm đất nước. Tuy xác xuất thấp nhưng họ vẫn làm. Họ làm vì yêu nước, vì muốn góp một tay cho sự nghiệp khai dân trí. Tương tự như vậy nhiều anh kỹ thuật viên mạng internet, ngoài khắc phục sự cố còn bỏ thời gian để hướng dẫn chủ nhà sử dụng rồi qua đó khéo léo giới thiệu họ các trang web tranh đấu cho nền dân chủ. Nhiều bạn trẻ in các bài viết trên mạng rồi tặng cho anh xe ôm, chị quán nước, .... Nhiều sinh viên chia sẻ nhau qua mail, face những bài viết hay cổ vũ nền dân chủ,....Nhiều, nhiều lắm những hành động các bạn có thể làm được nếu bạn có lòng yêu nước. Tôi biết nhiều người yêu nước thầm lặng như vậy, tôi khâm phục họ. Để đất nước tiến lên nền dân chủ, phát triển, dân tộc này rất cần những hành động yêu nước bình dị nhưng cao cả như vậy. Hãy yêu nước theo cách của bạn, đất nước cần lòng yêu nước của bạn. Nguyễn Văn Thạnh Nguồn: facebook.com/nguyenvanthanh  
......

Cuộc đấu tranh theo hai hướng

Giàn khoan HD-981 đã được kéo ra khỏi vùng biển VN, vừa đúng khi cơn bão Rammasun kéo đến. Xin những ai còn lo đến vận mệnh của đất nước chớ vội thở phào nhẹ nhõm, coi như mối đe dọa từ phương Bắc đã thuộc về quá khứ, và từ nay ta có thể ngủ yên. Nghĩ như vậy là rơi vào bẫy của bành trướng. Cuộc khủng hoảng Biển Đông còn nguyên vẹn, khi giàn khoan HD-981 rút về, vì Bắc Kinh luôn luôn coi 'vùng biển Hoa Nam' - Biển Đông của Việt Nam - là vùng «lợi ích cốt lõi» của Trung Quốc, cho nên độc chiếm nó là mục tiêu chiến lược hàng đầu của họ. Do vậy, toàn dân phải tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ hơn, bền bỉ dẻo dai hơn, toàn diện hơn, chống bành trướng Bắc Kinh trên mọi lĩnh vực - quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa - không phải vì TQ  tạm rút giàn khoan do mùa mưa bão mà giảm khí thế đấu tranh. Nhà báo Roger Mitton trên báo Myanmar Times (7/7/2014) cho rằng lãnh đạo VN đã có sự chia rẽ, và kết luận rằng “về cơ bản VN đã đầu hàng". Rõ ràng là nhóm lãnh đạo đã không ngang tầm với trách nhiệm bảo vệ đất nước chống bành trướng và xâm lược, còn ngáng trở cuộc đấu tranh của nhân dân, không đi cùng với nhân dân, luôn tỏ ra lập trường hai mặt; khi bọn bành trướng hoàn toàn giở trò vũ phu cậy nước lớn đông người, vừa ăn cướp vừa la làng, hoàn toàn xóa bỏ phương châm «Bốn Tốt, 16 chữ vàng» do chúng đề ra. Vậy thì phía VN còn có lý do gì mà còn coi TQ là bạn, thậm chí là «bạn tốt», còn có lý do gì mà không tìm bạn khác đáng tin cậy để kết thân, thậm chí kết liên minh theo quyền tự do của mỗi nước. Các lực lượng dân chủ nhân quyền trong xã hội dân sự hãy mở tiếp mặt trận đối ngoại năng động và sáng tạo ra ngoài biên giới nước ta. Anh chị em vận động dân chủ và nhân quyền vừa qua đã tỏ ra là một mũi nhọn xung kích của nền ngoại giao nhân dân đúng nghĩa, bổ sung và thay thế cho nền ngoại giao nhà nước ù lỳ, nhu nhược, vừa chống vừa run trước thế lực bành trướng. Một hướng đấu tranh cần đẩy mạnh trong nước là hướng dẫn dư luận xã hội chỉ ra cho lãnh đạo đảng, Nhà nước, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, cho Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS rằng nếu họ tự nhận là lực lượng lãnh đạo đất nước thì họ phải đi đầu trong cuộc đấu tranh chống bành trướng, phải sát cánh với nhân dân trong các cuộc xuống đường, biểu tình ôn hòa chống bành trướng, phải mạnh dạn phát đơn kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như chính phủ Philippines đã làm. Nhân dân ta cần chất vấn các cấp chính quyền, các đại biểu Quốc hội về một loạt vấn đề như: Vì sao lại hạn chế, cấm các cuộc biểu tình ôn hòa chống bành trướng, bảo vệ ngư dân ta, vì sao lập trường công khai, chính thức của lãnh đạo Đảng CS và Nhà nuớc VN lại yếu kém rõ rệt so với lập trường chính thức của Philippines, Nhật Bản và Hoa Kỳ trong vấn đề biển Đông, một vấn đề sinh tử của chính nước ta?  Vì sao khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cử cố vấn đặc biệt, Giám đốc Á châu vụ của Hội đồng An ninh Quốc gia Evan Medeiros sang Hà Nội ngày 14/7 vừa để thúc đẩy việc ký kết Hiệp ước Kinh tế Xuyên Thái Bình Dưong TPP, vừa để bàn sâu thêm về cuộc khủng hoảng biển Đông trong triển vọng nâng cao thêm quan hệ đối tác toàn diện, về quốc phòng và an ninh, phía VN lại tỏ ra thiếu sốt sắng, còn có vẻ lạnh nhạt một cách khó hiểu và dại dột nữa. Người tiếp đặc phái viên Tổng thống Hoa Kỳ là Ngoại trưởng Phạm Bình Minh, một người không có chân trong Bộ Chính trị, chỉ là ủy viên mới trong Ban Chấp hành Trung Ương, không có quyền uy gì đáng kể. Ông cũng không thể trả lời rõ ràng về việc ký kết hiệp cuối về TPP  cũng như về  biển Đông, không đáp ứng điều gì về những gợi ý tăng cường quan hệ đối tác toàn diện Việt - Mỹ trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Ông Minh từng được Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry mời gấp sang Washington DC để bàn về tình hình biển Đông ngay từ đầu tháng 5, nhưng cứ lần lữa mãi. Nay chính phía Mỹ cử phái viên đặc biệt của Tổng thống sang, mà không có một vị nào trong Bộ Chính trị tiếp. Rõ ràng là một nền ngoại giao nhà nước ốm yếu, tê liệt, bị bọn bành trướng khống chế, một nền ngoại giao đầu hàng từ sự kiện Thành Đô (tháng 9/1990) với những thỏa thuận bí mật sau lưng nhân dân, sau lưng cả Quốc hội; những thỏa thuận bất hợp pháp vì không được Quốc hội thỏa thuận, đã đến lúc cần công khai hóa, minh bạch hóa cho toàn dân sáng tỏ và phủ định. Đây là biện pháp «Thoát Trung» cơ bản, cấp bách. Trong hoàn cảnh hiện nay, Bộ Chính trị nên xem xét kỹ tình hình, lắng nghe nguyện vọng của lao động, nông dân, tuổi trẻ, thuận theo kiến nghị của trí thức tiên phong của dân tộc, ra nghị quyết theo 2 hướng: 1/ Cải cách cơ chế chính trị, chuyển đổi từ hệ thống độc đảng lạc lõng cô đơn sang hệ thống đa đảng đa nguyên phổ cập của thế giới, để công dân được lựa chọn hiền tài thay mặt cho mình cầm quyền ở các cấp, chấm dứt việc Ban Tổ chức của Đảng CS ở Trung ương và các cấp tùy tiện ban phát chức vụ theo phe nhóm lợi ích, nguyên nhân cơ bản của sự xuống cấp thê thảm của chế độ hiện nay. Công đoàn tự do được thành lập ở các địa phương, ngành nghề, xí nghiệp. Trả tự do cho những người bị giam vì lý do chính trị như đã trả tự do cho các công dân Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Đỗ Thị Minh Hạnh … 2/ Trong lĩnh vực đối ngoại: chủ trương giữ mối quan hệ láng giềng tốt, bình đẳng, tôn trọng nhau với TQ, đồng thời thực hiện quan hệ hợp tác toàn diện, bè bạn thân thiết, đối tác chiến lược với các nước tán thành chủ trương đối nội và đối ngoại mới của VN, có thể kể ra là Hoa Kỳ, Philippines, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên Âu, Úc ... Các mối quan hệ chặt chẽ ,tin cậy trên đây không nhằm chống một nước nào. Các chủ trương cụ thể trong mục 1 trên đây cũng là để dọn đường cho VN gia nhập thuận lợi Hiệp ước TPP, mang lại nhiều lợi thế và lợi ích cho VN. Giao cho Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng chuẩn bị thật tốt cho cuộc họp đối tác chiến lược Việt - Mỹ dự định vào tháng 9 tới tại VN. Theo AP và báo The Washington Post (13/7/2014) Bộ truởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel sẽ tham dự cuộc họp quan trọng này.  Cuộc họp sẽ đề cập đến vấn đề tăng cường quan hệ giữa Hải quân VN với Hạm đội 7 của Hoa Kỳ cũng như vấn đề Hoa Kỳ có thể thỏa thuận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trên đây là những chủ trương mang tính đột phá chiến lược, cấp bách và hoàn toàn chín muồi, mang lại cho VN một thế chiến lược mới để bảo vệ nền độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, mang lại phát triển, thịnh vượng và hạnh phúc lâu bền cho toàn dân tộc. Đây là nguyện vọng của đông đảo nhân dân ta mong được bàn luận rộng rãi và tạo nên công luận làm áp lực có sức thuyết phục với những người lãnh đạo CS, với đông đảo đảng viên CS còn có lương tâm và trách nhiệm với nhân dân, với đất nước. Bùi Tín Nguồn: voatiengviet.com
......

Kiểm Duyệt Truyền Thông Xã Hội Tại Việt Nam

Tháng 7, 2014   Lịch sử cho thấy là vũ khí tốt nhất để đấu tranh cho tự do là thông tin. Những phương tiện truyền thông cổ điển được sử dụng để thách thức nhà nước, nhưng đã bị tước đoạt một cách dễ dàng. Bây giờ, truyền thông xã hội cũng đang phải đối diện với những tấn công tương tự tại những nước như Trung Quốc, Việt Nam, Cambodia và Thái Lan, tất cả đều cố gắng giám sát và kiểm duyệt những trang mạng như Facebook và Twitter.   Thực vậy, ngày nay thay vì đoàn kết trong hòa bình, hợp tác quân sự và kinh tế, viễn ảnh của một cộng đồng ASEAN, thì các nước lại đoàn kết trong việc giám sát ngành truyền thông bằng những quy luật nặng nề. Đặc biệt là ở Việt Nam, nhiều trang mạng đã bị ngăn chặn, bao gồm những trang mạng của các đảng phái chính trị tại hải ngoại, những tổ chức quốc tế về nhân quyền, những tài liệu chính trị hay tôn giáo có thể phương hại tới Đảng Cộng Sản. Những quy định này thường được gọi là "bức tường lửa tre". Nhưng những tiến bộ về kỹ thuật đã thường xuyên làm giảm thiểu sự hữu hiệu của kiểm duyệt. Tại Việt Nam, trách nhiệm quản lý truyền thông thuộc hai bộ, tùy thuộc bản chất của vấn đề. Bộ Văn Hóa và Thông Tin chuyên về những nội dung có tính chất khiêu dâm, mê tín dị đoan, hoặc bạo lực. Bộ Công An giám sát những nội dung có tính cách chính trị. Những bài viết mới đây đã gọi sự kiểm duyệt truyền thông bằng từ ngữ "độc tài mềm". Tại Việt Nam, có những chứng cớ cho thấy rằng chính sách, hơn là cá nhân và phe nhóm, điều hướng chính trị thượng tầng của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì vậy những cải tổ thường không được mạch lạc và rõ ràng. Đó là bởi vì những người lãnh đạo của Đảng không có được sự đồng lòng của tập thể những người có quyền lực chính trị và kinh doanh và sử dụng báo chí để kiềm chế những tiếng nói ngày một gia tăng trong hệ thống chính trị. Sự kiềm chế này trở nên khó giữ vững với những vụ bê bối chính trị và tham nhũng ngày một gia tăng. Với tình trạng bán dân chủ trong truyền thông ở Việt Nam, việc kiểm duyệt là một sự giằng co giữa thế lực bảo thủ, nghị trình của phe cải cách, và sự tự do của xã hội dân sự. Việc kiểm duyệt internet tại Đông Nam Á là một dấu hiệu đáng buồn của sự thụt lùi của dân chủ, với việc những người cầm quyền hăm dọa truy tố trước pháp luật những người lên tiếng phê phán. Truyền thông dòng chính ở Việt Nam nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ và những mạng xã hội thường xuyên bị ngăn chặn. Các bloggers thường bị truy tố và lãnh án tù. Biện pháp kiểm duyệt gây nhiều tranh cãi nhất là Nghị Định 72 về việc "Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và nội dung thông tin trên mạng", được Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 15 tháng 7 năm 2013. Nghị định cấm chia sẻ các bản tin giữa các trang mạng xã hội. Nghị định cũng có một số điều khoản mơ hồ. Điều 20.4 quy định những trang mạng thông tin cá nhân không được phép cung cấp những thông tin tổng hợp mà không định nghĩa "tin tổng hợp là gì". Căn bản là công chúng không thể loan truyền và chia sẻ những quan điểm chính trị vì đó là hành vi phạm tội. Thứ Trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông Lê Nam Thắng tuyên bố: "Những trang mạng cá nhân chỉ được quyền cung cấp những thông tin cá nhân, và cấm không được lấy tin tức từ những cơ quan truyền thông và sử dụng như là tin của mình." Chính phủ Việt Nam đã bị các tổ chức nhân quyền như tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền, chỉ trích nặng nề. Lý do là những luật lệ trên cho phép chính quyền tùy tiện truy tố những người mà chính quyền thấy có vấn đề. Chính phủ Việt Nam đã bác bỏ những chỉ trích. Họ nói rằng mục đích chính của nghị định la để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền của những cơ quan báo chí bằng cách ngăn chặn chia sẻ tin tức. Có sự mờ ám về phương hướng của chính quyền. Sự mờ ám này không chỉ ở trong ngôn từ của chính nghị định mà còn ở trong một số ví dụ điển hình mới đây. Cho tới gần đây, báo chí Việt Nam chỉ đăng nguyên văn những thông tin chính thức của Trung Quốc. Nhưng với sự tranh chấp chưa lối thoát giữa Việt Nam và Trung Quốc về giàn khoan dầu, nhà nước đã thay đổi thái độ nhũn nhặn trước đây với Trung Quốc. Thực tế là chính phủ lên tiếng phản đối những đòi hỏi của Trung Quốc, nói rằng Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền Việt Nam. Vào ngày 4 tháng 6 nhân dịp kỷ niệm biến cố Thiên An Môn, những người theo dõi internet đã truy cập được dữ kiện về các cuộc biểu tình. Tuy nhiên, những bài viết này bị lấy ngay ra khỏi các trang web truyền thông của chính quyền mặc dầu nhà nước phủ nhận có nhúng tay vào vụ này. Lại lần nữa chính quyền dường như đang lưỡng lự: dằn xé giữa ước muốn tiến bộ và tự lập, và tư tưởng bảo thủ của sự trung thành và nhà nước kiểm soát thông tin. Chính phủ Việt Nam đang chơi trò đu dây. Họ phải cân bằng tinh thần chống Trung Quốc trong truyền thông và trong dân chúng mà không để xảy ra một cuộc đối đầu toàn diện với Trung Quốc. Những cuộc bạo động mới dây tại các tỉnh Bình Dương và Hà Tĩnh và sự di tản của hàng ngàn công nhân Trung Quốc đã bị Trung Quốc lên án. Đối với nhà cầm quyền Việt Nam, tình hình rất phức tạp. Rõ ràng là chỉ 5 năm trước đây, ngày kỷ niệm biến cố Thiên An Môn không phải là cái gì mà truyền thông Việt Nam đăng tải. Tình hình bây giờ đang thay đổi. Việc bắt giữ các bloggers mới đây chỉ làm mọi người tức giận thêm, và có thể tạo thêm những tiếng nói chống đối mới trên mạng. Tuy nhiên nhiều tiếng nói chống đối vẫn còn lạc quan về internet. Khi một blogger bị bỏ tù, tiếng nói đối kháng không yên lặng. Nhờ có internet, mọi người biết được việc gì đang xảy ra và tại sao. Thêm nữa, như nhà báo Ngô Nhật Đăng nói: "Bạn biết là khi bạn bị bắt, có cả một mạng lưới nhân sự lo toan cho gia đình bạn, thăm nuôi bạn trong tù, và khiến cho người ta cảm nhận được sự yêu thương, bớt sợ hãi." Internet chỉ mới được thiết lập tại Việt Nam từ thập niên 1990 vì trước đó chính phủ Việt Nam không cho phép. Ngăn chặn và sàng lọc nội dung từ lâu đã là một phần của việc quản lý internet tại Việt Nam. Nhưng sự bộc phát của truyền thông xã hội và được người dân dùng nó như một công cụ để nối kết và tổ chức là điều không ai ngờ đến. Hiến pháp Việt Nam bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và tự do hội họp. Tuy nhiên, luật lệ về an ninh quốc gia và những quy định khác đã giảm thiểu hoặc triệt tiêu những bảo đảm trên đối với người dân. Nguồn: http://www.idgconnect.com/blog-abstract/8518/social-media-censorship-vie... ===========   Social Media Censorship in Vietnam Saadia Gardezi - IDG Connect July 14 2014 History has shown that the best weapon in the fight for freedom has always been information. Traditional media used to challenge the state, but was easily curtailed. Now social media is facing the same attack, with countries like China, Vietnam, Cambodia, Singapore and Thailand all trying to monitor and censor sites like Facebook and Twitter. In fact today, rather than being united in terms of peace, military cooperation and commerce, the vision of a single ASEAN community, is united over the heavy regulation of the media. In Vietnam specifically, many sites are blocked. These include sites of expatriate political parties, international human rights organizations, and politically or religiously critical materials that might undermine the Communist Party. These regulation efforts are often called the "Bamboo Firewall". But advances in technology have consistently diminished the effectiveness of censorship. Regulatory responsibility in Vietnam is shared between two ministries based on subject matter. The Ministry of Culture and Information focusing on sexually explicit, superstitious, or violent content, while the Ministry of Public Security monitors political content. Recent literature has termed media censorship as “soft authoritarianism”. In Vietnam there is some evidence that policy, rather than personality and patronage, guides elite politics in the Communist Party of Vietnam (CPV). Thus state reform is not as coherent and clear. This is because Party leaders don't have consensus across the spectrum of political and business elites and use the press to manage a growing number of voices in the political system. This management is becoming increasingly untenable with escalating volumes of political and corruption scandals. The media in Vietnam is semi-democratic and censorship will need to be understood as a tussle between conservative power, the reformist agenda, and freedom of the civil society. Censorship of the internet in Southeast Asian is a sad sign that democracy is regressing, with public officials threatening to use legal action against critics. Vietnam’s mainstream media remains under strict state surveillance and social media networks are regularly blocked. Bloggers are often prosecuted and given prison sentences. The most controversial of measures taken by Vietnam is the Decree 72, or the "Management, Provision, Use of Internet Services and Information Content Online". This was signed by Prime Minister Nguyen Tan Dung on July 15, 2013. The decree bans the sharing of online news stories on social media sites. The decree has a confusing number of provisions. Clause 20.4 states that a personal information webpage is not allowed to provide aggregated information without defining “aggregated information”. It basically means the general public is not able to air or share any political views by making the exchange of information a criminal act. The Deputy Minister of Information and Communications Le Nam Thang said, “Personal webpage owners are only allowed to provide their own information, and are prohibited from taking news from media agencies and using that information as if it were their own.” The Vietnamese government has come under intense criticism from organizations like Reporters Without Borders, Human Rights Watch and other human rights groups. This is because the laws can be used for selective persecution and against certain people with whom the government has a problem. The Vietnam government has dismissed these criticisms. It says the primary intent of the decree is to protect intellectual property rights and the copyrights of press agencies by curtailing sharing. There is a lack of clarity with which the government seems to be moving. This is not only found in the vagueness of the language of the decree itself but also in several recent examples. Until recently newspapers in Vietnam would simply quote the Chinese official lines. But with the Vietnamese standoff with China in the South China Sea over an oilrig, the state has changed it uncritical stance towards China. In fact the government has been vocal in it opposition to China claiming that China had violated Vietnamese sovereignty. On June 4th, at the 25th anniversary of the Tiananmen Square massacre, internet viewers in Vietnam found they could access information about the protests. However, these articles were soon taken down from most of the official media websites, even though the government denies it had a hand in this. Again the government seems to be of two minds: torn between its own desires for progress and self-reliance, and conservative notions of loyalty and state control over information. The government is playing a balancing act. It has to balance the anti-China sentiments in the media and amongst the population while not engaging in an all out conflict with China. Recent anti-China riots in Binh Duong and Ha Tinh provinces and the evacuation of thousands of Chinese workers from Vietnam have been condemned by China. The situation is complicated for the authorities. But five years ago it was clear that the Tiananmen anniversary was not something that got any media coverage in Vietnam. Now things are changing. The recent arrests of bloggers in Vietnam are likely to make people angrier, and may inspire new online voices of dissent. However, may of these dissident voices are still optimistic about the internet. While one blogger goes to jail, it is not in silence. Due to the internet, everyone knows what is happening and why. Additionally, as Vietnamese journalist Ngo Nhat Dang put it, “You know that if you get arrested, there is a network of people who will take care of your family, who will visit you in prison, and that makes people feel loved and less scared.” The internet wasn’t established in Vietnam until the 1990s because the government would not consent to it. Blocking and filtering content have long been a part of Vietnam’s internet regulation practices. But the rise of social media and its use as a tool for citizens to connect and organize has been unexpected. Vietnam guarantees freedom of speech, of the press, and of assembly through constitutional provisions. However, state security laws and other regulations reduce and eliminate these guarantees afforded to the citizens.http://www.idgconnect.com/blog-abstract/8518/social-media-censorship-vie...
......

Mảnh Bằng Khen cho Cột Mốc Sống

Ngửa mặt lên trời Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi. Trôi theo con sóng vỗ Trôi theo phận nước tôi (Viết về ngư dân Việt Nam - Tuấn Khanh)   Gần đây lãnh đạo đảng lại vừa cho thực hiện các phong trào cổ động và phát bằng khen cho ngư dân. Từ vụ bà Bộ trưởng Bộ Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến phát động chương trình “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển” tại đảo Lý Sơn, đến vụ Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng tặng bằng khen cho các ngư dân tham gia đánh bắt bảo vệ chủ quyền vùng biển Hoàng Sa. Điều nghịch lý là trong lúc lãnh đạo tiếp tục ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân Việt Nam với súng ống, tàu sắt, tàu ngầm, tên lửa phải tuyệt đối bám chặt bờ, thì ngư dân tay không, nghèo kiết xác, thuyền gỗ mong manh lại được đẩy ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước?! Chắc chắn bà Bộ trưởng Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến chưa một ngày phải sống với nỗi lo sợ, nỗi đau của những người vợ, người mẹ của ngư dân. Bà cũng chưa từng phải nặn những hình nhân bằng đất để đắp cho chồng, cho con một ngôi "mộ gió" trên đảo Lý Sơn (vì đã chết mất xác), nên bà mới có thể mạnh miệng phát biểu: “Ngư dân còn, biển còn. Ngư dân khỏe sẽ tiếp tục bám biển, tiếp thêm lực lượng, thêm sức mạnh bảo vệ quyền và chủ quyền về biển, đảo của Việt Nam.” Ngày về đẫm lệ của ngư dân bị Trung Quốc bắt (Nguồn: Một Thế Giới) Thử hỏi ngư dân tay không thì bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng cách nào? Gặp tàu Trung Quốc họ đã phải chạy trối chết để thoát thân, chạy không thoát thì bị chúng dùng tàu vỏ thép va đập, thậm chí đâm chìm như tàu cá DNa90152 của vợ chồng bà Huỳnh thị Như Hoa. Có khi chúng thản nhiên xả đạn bắn vào thuyền ngư dân bất cần có gây thương tích hay thiệt mạng ai không, như trường hợp tàu cá của thuyền trưởng Phạm Quang Thạnh. Có lúc chúng lại xấc xược, trắng trợn như trường hợp mới xảy ra vào sáng ngày 3/7/14. Ngư dân của tàu cá QNg94912TS đang đánh bắt ở vùng biển Việt Nam thì bị tàu Trung Quốc ép sát rồi bắt giữ. Xin ghi lại nguyên văn lời tường thuật của thuyền trưởng Võ Tấn Tèo:“Đang đánh bắt ở biển của mình, Trung Quốc bắt, dìu đi qua biển Trung Quốc, rồi họ dừng lại, bắt ngư dân trên tàu chỉ vô máy định vị lúc đó hiện tọa độ của họ, rồi họ quay phim, chụp hình vu khống mình đánh bắt trái phép biển của họ.” Bị bắt và bị dẫn độ về đảo Hải Nam, tại đây các ngư dân Quảng Ngãi bị buộc phải ký vào những biên bản sai trái trên rồi mới được thả về. Toàn bộ ngư lưới cụ và gần 3 tấn hải sản đánh bắt được đều bị phía Trung Quốc thu giữ với lý do các ngư dân này đã đánh bắt trên vùng biển của chúng. Có những vụ ngư dân bị "quân nước lạ" giết chết nhiều đến độ cả làng để tang như làng đánh cá Hoà Lộc năm 2005. Suốt 10 năm trường đối diện với những hành động tàn ác bức hiếp ngư dân ta của Trung Quốc, chẳng thấy nhà nước có bất cứ một động thái, một biện pháp nào nhằm để bảo vệ ngư dân ngoài việc phát bằng khen và thúc họ ra bám biển tiếp. Những tấm bằng khen của lãnh đạo đã trở thành hiện thân của sự vô cảm, quá lạnh lùng đối với máu và nỗi thống khổ của ngư dân. Nếu nhà văn Victor Hugo, tác giả cuốn “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables), tái sinh ở VN không chừng lại có một tác phẩm vĩ đại về ngư dân Việt. Và những kẻ khốn cùng này thực sự sẽ lấy hết nước mắt của thế giới! Khốn cùng vì gần như họ không có một chọn lựa nào khác. Cuộc sống khó khăn đến nỗi nếu không ra biển thì kiếm sống bằng cách nào? Ra biển gặp tàu Trung Cộng thì một mình, bơ vơ, đối phó làm sao được với tàu sắt và súng ống. Đành để chúng tha hồ làm nhục; tha hồ đánh, cướp, phá, đâm chìm, hay bắt giữ đòi tiền chuộc... Nhưng lết được về đến bờ, thoát chết thì lại trắng tay, tài sản mưu sinh mất sạch. Về đến nhà để phải nhìn cảnh gia đình đối diện với đói rách, với nợ nần chồng chất theo các thiết bị đã mất. Có ai không khỏi mủi lòng khi chứng kiến hình ảnh đen đủi thất thần của 13 ngư dân thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi vừa được Trung Quốc thả cho về. Tiếng khóc nức nở của những người mẹ, người vợ các ngư dân này đã dậy lên ở cửa sông Loan, huyện Quảng Trạch trong buổi chiều đón họ về bến ngày 16/07 vừa qua. Khốn khổ cho những người vợ trẻ, những đứa con thơ và cha mẹ già phập phồng trông ngóng tin con từng ngày. Bây giờ một lần đưa chồng, đưa con ra đi, họ biết đây có thể là lần cuối. Khi tàu các anh Võ Tấn Tèo, Lê Văn Thun bị Trung Quốc bắt, mẹ anh Thun suốt ngày ra cửa biển Sa Huỳnh ngóng tin con. Trong ngôi nhà nhỏ của anh, người mẹ chồng cùng cô con dâu trẻ đang mang thai ngày nào cũng tràn nước mắt. Chị Thuỳ và anh Thun vừa mới cưới nhau đầu năm, nghe tin vợ có thai anh bảo đi biển chuyến này cố gắng kiếm tiền về cho vợ sanh nở. Gia đình bà Trần thị Mầy, mẹ anh Tèo, cũng không khá hơn, bà thương đứa con dâu suốt ngày núp trong phòng thui thủi khóc một mình. Bà lo lắng cho đứa con trai sợ nó bị Trung Quốc đánh đập, hành hạ. Lo lắng hơn nữa cho con dâu, vợ anh Võ Tấn Tèo, đang bụng mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở không có chồng bên cạnh! Khốn quẫn hơn nữa cho một đất nước mà chuyện ngư dân bị "tàu lạ" bắn giết trong hải phận nước mình như vậy lại được người đứng đầu Bộ Quốc Phòng xem là chuyện nhỏ, chuyện lục đục trong gia đình. Và vì là chuyện nhỏ nên tàu hải quân VN sẽ chỉ bám bờ, không can thiệp. Nhưng KHỐN NẠN nhất là những ngư dân tay không ấy lại được khen ngợi là những "cột mốc sống". Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như: “ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những "cột bia xi măng" vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những "cột gỗ mục" vô giá trị. Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những "cột mốc sống dở chết dở" ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các "cột mốc còn sống" khác ra khơi trở lại. Những mảnh bằng khen này làm nhiều người nhớ lại loại bằng khen dành cho các bà mẹ liệt sỹ, các "bà mẹ anh hùng" đã hy sinh tất cả đàn con của mình cho cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước". Sau cùng, công trạng "giải phóng miền Nam" là của đảng. Còn cái bằng khen và chỉ cái bằng khen là của mẹ. Và mẹ ôm nó trước ngực, với hai hàng nước mắt ngồi bệt trên mảnh đất duy nhất còn lại đang bị cưỡng chế. Tôi tự hỏi sau Lý Sơn, Đà Nẵng, ... sẽ còn bao nhiêu mảnh bằng khen khốn nạn ấy nữa treo rải khắp các tỉnh duyên hải Việt Nam? Nguồn: viettan.org
......

Mao Trạch Đông qua sách báo Trung Quốc ngày nay

Bí ẩn lớn nhất trong 'di chiếu' của Mao Trạch Đông Tại “phiên tòa thế kỷ” (tháng 11.1980), hơn 850 người ngồi ở ghế dự thính đã vỗ tay tán thưởng khi Giang Thanh bất ngờ tiết lộ thêm 6 chữ trong “mật chiếu” của Mao Trạch Đông viết cho Hoa Quốc Phong trước ngày qua đời... Giang Thanh tại “phiên tòa thế kỷ” (ảnh tư liệu Internet) Giang Thanh giữ thái độ cứng cỏi, một mực phủ nhận tội trạng của mình, có lúc dám cương giọng hô khẩu hiệu “đặc sản” của thời cách mạng văn hóa trước tòa làm mọi người bất bình. Khi bị vạch tội cướp quyền và công kích Hoa Quốc Phong, Giang Thanh lớn tiếng phản bác: - “Tôi muốn cho các vị biết một việc, câu “đồng chí làm việc tôi yên tâm” Mao Chủ tịch viết cho Hoa Quốc Phong tối hôm đó không phải là toàn bộ nội dung Mao viết cho Hoa, ít nhất còn thiếu 6 chữ “có vấn đề, hỏi Giang Thanh”. Mấy câu trên của Giang khiến phiên tòa đại loạn. Giang cười nhạt: - Ta bất chấp phép nước, đạo trời ư? Trong những hồi chuông dồn dập, Giang một lần nữa bị lôi ra khỏi phòng xử án, nhưng trên những hàng ghế dự thính, mọi người vỗ tay rầm rộ, đây là những lời khen chân tình, bởi Giang Thanh đã vạch ra một sự thật quan trọng nhất: Người kế tục mà Mao chỉ định là Giang, chứ không phải là Hoa Quốc Phong. Hoa chỉ là viên cận thần có việc cần thỉnh thị Nữ hoàng. Hoa làm việc Mao yên tâm, nhưng không phải Hoa muốn làm gì thì làm, mà phải thỉnh thị Giang, làm theo chỉ thị của Giang” - theo Tân Tử Lăng. Sáu chữ trong mật chiếu của Mao “có vấn đề - hỏi Giang Thanh” mặc nhiên đặt vị trí Giang Thanh lên trên Hoa Quốc Phong (Thủ tướng - Phó Chủ tịch đảng thứ nhất). Sớm biết vị trí đó, khi Mao nằm trên giường bệnh, Giang Thanh đã dám đứng lên công khai phê bình Hoa Quốc Phong tại Hội nghị công tác kế hoạch toàn quốc ngày 1.8.1976. Các tuần lễ tiếp đó, Giang Thanh ôm “giấc mộng Nữ hoàng” của mình đi diễn giảng khắp nơi. Hồi ký của vệ sĩ Trần Trường Giang nhắc chuyện Giang Thanh đến Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, nhà máy in Tân Hoa với “danh nghĩa thị sát” để “kích động phản cách mạng, nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng” (28.8), đến thăm liên đội anh hùng ở quân khu Tế Nam để “cổ xúy cho “chủ nghĩa đại nữ tử” không bắt tay với đàn ông, và còn nói: “Chủ tịch không còn nữa, tôi sẽ trở thành quả nhân”.   Trong từ vựng của tiếng Trung, từ “quả nhân” có hàm nghĩa đặc biệt, đây là cách xưng hô của các vị vua. Bà Giang Thanh nói ra những lời này tại thời điểm đó (lúc Mao Trạch Đông sắp mất), tại địa điểm đó (quân khu Tế Nam) không phải là ngẫu nhiên hay vô ý, mà đã ngang nhiên bộc lộ tham vọng quyền lực của mình” qua cách “chơi chữ” hai mặt (30.8 ). Lúc Mao Trạch Đông rơi vào hôn mê sâu (8.9), Giang Thanh “lấy lý do giúp Mao Chủ tịch trở mình” để lật người Mao trên giường bệnh dò soát lần cuối xem còn sót di thư nào không và “tìm chìa khóa tủ tài liệu của Mao Chủ tịch” - nửa khuya hôm ấy Mao qua đời. Đã có chuyện một số tỉnh “đua nhau gửi thư ủng hộ Giang Thanh làm chủ tịch đảng”. Sau này ban chuyên án cũng thu bản danh sách lãnh đạo trung ương theo dự kiến của Giang Thanh: “Chủ tịch đảng: Giang Thanh. Phó Chủ tịch đảng : Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Tôn Ngọc Quốc, Mao Viễn Tân. Thường vụ Bộ Chính trị: ngoài sáu người trên, thêm: Tạ Tĩnh Nghi, Trương Thu Kiều, Vương Tú Trân. Chủ tịch Quốc hội: Vương Hồng Văn. Thủ tướng: Trương Xuân Kiều”. Danh sách trên gạt hẳn Hoa Quốc Phong ra ngoài. Ý đồ của Mao là đưa “Giang Thanh lên nắm quyền”, sau đó Giang Thanh sẽ “truyền ngôi” lại cháu ruột của Mao là Mao Viễn Tân.   Về Mao Viễn Tân, tài liệu Tân Tử Lăng ghi: “Trước khi vào Trung Nam Hải, Mao Viễn Tân là Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh, Chính ủy Đại quân khu Thẩm Dương. Từ 10.10.1975, Mao Viễn Tân được cử làm “liên lạc viên” cho Mao. Bộ chính trị họp, Mao Viễn Tân ngồi trên ghế Chủ tịch truyền đạt “khẩu dụ” của Mao. Y coi các ủy viên Bộ chính trị như cấp dưới, đã có lần y nói: “Tôi thuận miệng nói vài câu, đủ để bọn họ học tập mấy tháng ròng”. Điều bí ẩn lớn nhất nằm ở mục đích cuối cùng của Mao được che đậy khéo léo để mọi người không dễ nhận biết, đó là: “khoác chiếc áo lý luận hiện đại nhất, cách mạng nhất” đẩy nước Trung Hoa trở lại thời vua chúa, thiết lập trật tự của “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - để làm gì? Tân Tử Lăng giải đáp từ “gốc rễ” của vấn nạn: “Thông qua Đại cách mạng văn hóa, Mao hầu như đã trị hết các công thần danh tướng. Mười năm tai họa, các nhân vật trên vũ đài chính trị lớp này đến lớp khác như chạy tiếp sức trên một vòng cung lớn nhằm chuyển chiếc gậy “đại vương” đến tay Giang Thanh, để Giang kịp thời kế vị lúc Mao nhắm mắt xuôi tay. Âm mưu gia đình trị của Mao bị phơi trần đã làm nát vụn những phỏng đoán của các nhà trí thức lương thiện về động cơ “cao thượng” của cuộc Đại cách mạng văn hóa do Mao phát động. Nếu không có sai lầm của ba năm Đại tiến vọt, chưa chắc Mao phải dùng đến hạ sách này. Mao truyền ngôi cho Giang Thanh có phần bất đắc dĩ. Mao không tin vào ngàn đời vạn thế, mà tính toán chỉ cần hai thế hệ (Giang Thanh và Mao Viễn Tân) là đủ thời gian hoàn toàn viết lại lịch sử”, chối phắt trách nhiệm làm 37,55 triệu người chết đói- Vì “lịch sử xưa nay đều do kẻ thắng viết nên” (còn nữa) … Giao Hưởng nguồn: http://motthegioi.vn/tieu-diem/
......

NSUT Kim Chi từ Mỹ về và câu chuyện đất nước với thể chế?

NSUT Kim Chi, người từ chối giấy khen của Thủ tướng, vừa ở nước Mỹ về, hiện đang ở Hà Nội, sáng nay, ngày 22.7, tại tư gia TS khoa học Nguyễn Thanh Giang, đã có cuộc trò truyện với một số người về hoạt động của đoàn và cá nhân nghệ sĩ tại nước Mỹ trong thời gian nghệ sĩ đến làm việc và quan sát nước Mỹ. NSUT Kim Chi coi cuộc trò chuyện này là một diễn đàn quan trọng nên NS đã có sự chuẩn bị chu đáo. Ngoài những hoạt động của nhóm với quốc hội Mỹ, với một số các nghị sĩ của nước Mỹ như thông tin trên mạng đã được cập nhật, NS còn cho biết những cảm nhận riêng của NS khi sống trong lòng nước Mỹ, đặc biệt NS còn có cuộc gặp riêng với TS Cù Huy Hà Vũ.   Trả lời các câu hỏi về dân sinh nước Mỹ như thế nào? NS Kim Chi nêu một ví dụ, mẹ của NS chỉ là một bà lão, không có lương hưu nhưng được trợ cấp mỗi tháng 800 đô-la. Khi Mẹ NS do tuổi cao sức yếu phải đi viện, chi phí của bệnh viện tốn tới 200 ngàn đô-la, nhưng nhờ có bảo hiểm mà gia đình chẳng mất một đồng nào. Về an ninh của nước Mỹ, NS nói, chẳng thấy công an, cảnh sát ở đâu cả. Ở đường phố, công viên, các khu dân cư, ngõ ngách, chỗ nào cũng sạch sẻ trật tự. NS Tô Oanh, một trong những người cùng đoàn, cùng ở Mỹ với NS Kim Chi bổ xung: “Trước khi rời Việt Nam ông có đem theo một tuýt si đánh giày, nhưng cả hai tuần ở Mỹ, giày ông đi vẫn sạch trơn, không phải đánh lần nào”. Tôi có thắc mắc, xem phim hành động của Mỹ thấy nhiều cảnh rùng rợn, ghê người có phải là hiện thực Mỹ được phản ánh lên phim”. NS Tô Oanh cho rằng, vì xã hội Mỹ là một xã hội ngăn nắp trật tự, nếu phản ảnh hiện thực đó lên phim ảnh thì có mấy ai xem, bởi vậy mà các nhà làm phim phải sáng tạo ngược lại hiện thực Mỹ thì mới có người xem”. Hóa ra là như vậy. Nước Mỹ làm phim hành động thì ghê người là một phản ánh ngược với những gì đang diễn ra ở Mỹ. Một điều thú vị là trong những ngày ở nước Mỹ, NSUT Kim Chi còn giành thời gian đến thăm vợ chồng TS Cù Huy Hà Vũ. Vợ và Tiến sĩ Hà Vũ vô cùng tức giận khi nghe ở Việt Nam có dư luận TS sẽ lập chính phủ Việt Nam lưu vong tại Hòa Kỳ và tiến sĩ sẽ nhận chức thủ tướng. Chuyện dân chủ cho Việt Nam là một câu chuyện dài và luôn là câu chuyện thời sự cho bất kỳ ai có tấm lòng yêu nước từ trước cũng như trong giai đoạn này. Buổi gặp mặt NSUT Kim Chi và Tô Oanh tại nhà TSKH Nguyễn Thanh Giang cũng không thoát ra được đề tài dân chủ và yêu nước. Thời sự bây giờ nổi lên năm chủ đề lớn: Giàn khoan HD-981 của Tầu Cộng rút khỏi lãnh hải của Việt Nam, tương lai liệu nó còn tác oai, tác quái trên lãnh hải của Việt Nam nữa không? Thứ hai là chủ đề thoát Quốc Cộng, thoát như thế nào? Thứ ba là thượng tầng có thực là có hai phe thân Tàu Cộng và phe ngã về phương Tây hay không; liệu cuộc đấu đá của các nhóm lợi ích có là cứu cánh cho đổi mới và dân chủ của Việt Nam hay không? Thứ tư là lực lượng dân chủ của Việt Nam có làm nên trò trống gì cho cuộc đấu trành vì dân chủ cho nước Việt Nam hay không? Thứ năm là câu chuyện vợ con và nhân cách của ông Hồ Chí Minh”. Toàn là những vấn đề lớn. Nhưng thưa các bạn, tuy là vấn đề lớn, nhưng dân Việt Nam ta hiện tại ở đâu đâu cũng bàn đến, dù họ là ai và ở trình độ nào, chỉ có những người, dù trình độ cỡ nào, chức vụ cỡ nào vô cảm với nhân dân với đất nước mới ngoảnh mặt đi và mở miệng ra là “không nói chuyện chính trị”. Tôi cho rằng, những người này không có tư cách làm người, vì suy cho cùng thì có cái gì lại không liên quan đến chính trị? Vâng, câu chuyện chính trị tại nhà TSKH Nguyễn Thanh Giang đã diễn ra thật sôi nổi và mang tinh thần đa nguyên.   Ai ai cũng vui vì giàn khoan HD- 981 xâm lược lãnh hải Việt Nam đã rút khỏi lãnh hải. Nhờ có hai tháng nó xâm lược mà đã lộ ra mặt những người định bán rẻ đất nước cho Tầu Cộng; nhờ đó mà những người đấu tranh cho dân chủ đất nước, cho mưu đồ thoát Cộng được tự do hơn lên một chút, lực lượng an ninh tỏ ra biết điều hơn. Bằng chứng nhãn tiền là hôm nay chúng tôi có cả thảy 9 người nổ xe máy ầm ầm lao tới nhà TS Nguyễn Thanh Giang mà không gặp bất kỳ một trở ngại nào? TSKH Nguyễn Thanh Giang cũng cho biêt, tổ “ bảo vệ” TS đã rút khỏi địa bàn từ khi có HD-981 xâm lược lãnh hải nước ta. Có lẽ cũng vì lý do đó mà đoàn báo chí tự do nước ta trong đó có NSUT Kim Chi và Tô Oanh từ Mỹ trở về nước được bằng an không bị bắt giam, tra khảo nhiều. Có lẽ vì lý do đó mà các hội đoàn, trong đó có Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (vừa thành lập) đã được hưởng sự yên ổn. Dân tộc ta có câu thành ngữ: trong họa có may. Áp vào giàn khoan HD-981xâm lược không thể không thấy đúng. HD-981 còn tạo cớ cho hàng trăm ngàn tiếng nói thoát Cộng của những con tim yêu nước Việt mang tinh thần Việt vang lên. Thoát Cộng cụ thế là thoát cái gì? Có ý kiến cho rằng, thoát Cộng là thoát Hệ tư tưởng Mác-Lênin, thoát sự lệ thuộc về chính trị và kinh tế, phải vào được TPP, thân Mỹ, Nhật… TSKH Nguyễn Thanh Giang cho rằng, Tàu Cộng bây giờ là Tàu Cộng của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng hay mèo đen miễn là bắt được chuột”, làm gì còn mác – Lênin ở đây nữa mà thoát. Tầu Cộng đã vứt Mác- Lênin vào sọt rác ngay từ thời Mao rồi. Thời Mao là “Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” thì làm gì còn Mác-Lênin. Vì vậy, thoát Cộng bây giờ là phải thoát được sự mua chuộc của Tàu Cộng, thoát được sự bợ đít Tàu Cộng của một số người đang lãnh đạo Việt Nam. Chính một số người này vì hám quyền lực, vì lòng tham vô độ mà nước ta chưa thể thóat Cộng. Vậy trên thượng tầng hiện nay có hai phe phái thân Tàu Cộng và phe muốn thoát Tàu Cộng có thật không? Nhiều người cho rằng, có thật. Cầm đầu phe thân Tàu muốn mãi mãi bợ đít Tàu Cộng dẫn lối cho dân tộc trở thành phiên bang của Tầu Cộng, đứng đầu là Tổng lú. Bằng chứng, kể từ khi Tàu Cộng đưa giàn khoan HD-981 xâm lược lãnh hải Việt Nam cho đến khi tàu rút đi, Tổng lú không hề nói một chữ nào về Tàu Cộng. Cầm đầu phe muốn thoát Cộng là thủ tướng. Thông điệp đầu năm 2014, phát biểu tại hội nghị Shangri-la 2, trả lời phỏng vấn các hãng truyền thông quốc tế và Tàu Cộng chính thức bêu ríu tên thủ tướng trên báo chí của Tàu Công rằng thủ tướng là kẻ gây rối, thủ tướng phải chịu trách nhiệm… là bằng chứng muốn thoát Cộng của thủ tướng. Nhưng có ý kiến phản biện lại rằng, mọi quyết định của đảng ta đều do tập thể quyết định, biết đâu ông Dũng, một thành viên của Bộ chính trị, được phân công đóng vai quân xanh trong cuộc đấu thầu biển Đông, đấu thầu đất nước với Tàu Cộng? Thật chẳng biết đâu mà lường. Quả thật, ông Tổng lú im lặng trước nạn Tàu Cộng xâm lược đến mức bất kỳ người dân nào cũng tức, cũng oán; còn ông thủ tướng nói gì thì ít nhiều cũng đem lại hy vọng cho dân Việt Nam. Vậy liệu có cách mạng nhung ở Việt hay không? Người viết bài này nêu ý kiến khẳng định sẽ không bao giờ có cách mạng nhung, hay cam, hay vàng ở Việt Nam. Lý do, những tinh hoa, tinh anh của đất nước cơ bản đã chết hết trong mấy cuộc chiến tranh từ năm 1945 đến nay rồi. Người Việt Nam còn lại, dù đang ở cương vị nào, đang sống ở Hà Nội hay ở Mỹ đều là những người hèn, cơ hội, tham lam, ích kỷ, chữ “Tự do hay là chết” chưa bao giờ có trong dạ dày của họ nói chi đến nằm trong tim, trong óc những người còn lại. Và do di truyền những người còn lại này cũng chỉ đẻ và giáo dưỡng ra nhưng kẻ hèn, cơ hội, tham lam, ích kỷ cho thế hệ kế tiếp. Hèn, cơ hội, tham lam, ích kỷ như vậy làm gì có cách mạng nhung hay cam sẽ xảy ra? Có vẻ như mọi người đều tán thành nhận định này. Vì vậy, lực lượng dân chủ lớn mạnh là cần, nhưng sự thay đổi chế độ điểm ục vỡ nằm ở ngay chính sự tham lam, ích kỷ này, nghĩa là nó ục vỡ trên thượng tầng do các nhóm lợi ích tranh nhau quyền vơ vét và bán rẻ đất nước rồi từ đó mới có thể lan rộng ra được. Đề tài cuối cùng là chuyện bác Hồ. Chuyện cũ là bác Hồ có đúng là có nhiều vợ, nhiều con và là người Tàu Hồ Tập Chương như trong sách “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” của giáo sư sử học người Đài Loan Hồ Tuấn Hùng hay không? Rồi chuyện mới, có phải bác Hồ là nhà tình báo hoàn hảo, người Tàu, do đảng Cộng sản Trung Quốc cài vào đảng cộng sản Việt Nam như tài liệu 141 trang của tác giả Huỳnh Tâm, cũng là người Trung Quốc, đang phơi lộ trên internet hay không? Đa phần tán đồng đúng như vậy. Vì nếu không đảng ta đã làm xét nghiệm AND, rồi lấy kết quả đó mà đập vào miệng những nhà dân chủ đang ngày ngày “bôi xấu” lãnh tụ của đảng ta, dân tộc ta… Bác Lê Mậu Đậu, một người Hà Tĩnh nay đã ngoài bảy mươi tuổi, người có câu đối nổi tiếng về Bản đồ địa chính Tp Hà Nội mới: Thăng Long xưa thế Rồng cuộn Hổ ngồi vua triều Lý quyết xây đô tự chủ Hà Nội giờ thời Chó quỳ Ngựa cúi đảng Mác-Lê cam nhận quân chư hầu cho rằng: người Nghệ Tĩnh tôi luôn lấy đạo hiếu, đạo nghĩa làm đầu, không có bất kỳ người có chữ nào lại dám láo lếu xưng Bác với bàn dân thiên hạ, xưng Cha già với cả dân tộc. Một buổi gặp mặt rõ ràng là có ích khai trí cho nhau. Đúng sai chưa biết thế nào, nhưng rõ ràng nó đã giúp cho những thành viên tham gia hội luận không những có được thông tin từ chuyến đi Mỹ mới về của NSUT Kim Chi và NS Tô Oanh mà nó còn được “nhậu” thỏa thuê dân chủ, nhân quyền, đổi mới, thay đổi của đất nước. Nhưng cũng có trăn trở, đó là TSKH Nguyễn Thanh Giang, một cánh chim đầu đàn cho phong trào dân chủ, đổi mới đất nước có buồn khi đưa ý kiến có những người dân chủ thiếu bản lĩnh bị công an lợi dụng đã trực tiếp đâm nhiều nhát dao vào sau lưng ông và ông đã chính thức khen “Quả là an ninh nước mình giỏi thật”. Một người như ông luôn tìm mọi cách hỗ trợ, giúp đỡ cả về tinh thần, vật chất cho những người đấu tranh mà vẫn bị mang tiếng là người còn có điểm thiếu minh bạch về tiền tài. Những người có mặt tại cuộc gặp mặt này đều chia sẻ nỗi buồn, nỗi đau này với ông. Nhưng anh Giang ơi, con đường dân chủ cho Việt Nam còn dài dằng dặc, “cây ngay không sợ chết đứng”, lịch sử rồi đây sẽ mở hết các trang, ai ngay ai cong, ai sáng ai đen đều lộ rõ dưới ánh sáng mặt trời hết cả. Những người tham gia gặp mặt: TSKH Nguyễn Thanh Giang, NGUT Kim Chi, NS Tô Oanh, nhà giáo Vũ Mạnh Hùng, ông Lê Mai Đậu, Đại tá Trần Liêm, Kỹ sư Ngô Xuân Míc, ông Vũ Linh, ông Thế Hùng và Phạm Thành. nguồn: https://www.facebook.com/to.oanh
......

Tôi chửi tôi, tôi chửi Chính phủ, chửi cả Đảng

Là một thành viên của một dân tộc được xem là thông minh, cần cù, chịu thương chịu khó, quật cường, 4000 năm văn hiến, ấy vậy mà tôi không có được một đức tính của dân tộc là "thông minh". Sao vậy? Tôi đã vấp ngã trong bán chác với bọn thương lái Tàu một lần, vì chúng nó ma mãnh siêu quá. Nhưng vấp ngã đến lần thứ mấy rồi tôi mới khẳng định lỗi tại tôi: tôi không nhìn xa hơn cái mũi của mình. Tôi thiếu thông minh viễn kiến.   Từ vụ nuôi ốc vàng vì bọn thương lái Tàu vừa bán ốc con với giá rẻ vừa thu mua ốc lớn với giá cao nên tôi bỏ bê ruộng nương để kiếm lợi. Được vài vụ chúng nó không mua nữa! Ốc vàng đành phải thải ra ruộng ra sông mà không cần biết chúng sẽ ra sao. Kết quả là ốc vàng ăn ngấu ăn nghiến ruộng vườn để sinh sôi nẩy nở. Trước đó tôi đã rơi vào vụ mua nuôi chim cút của Tàu để bán trứng lại cho chúng nó với giá cao. Được hời. Khi cút của nó đã bán ra hết rồi thì chúng cuốn gói đi biệt. Thế là gánh trên vai những đàn cút phải cho nó ăn hàng ngày với thức ăn luồn lậu từ Tàu, bao nhiêu tiền hời rồi lại đổ vào đấy cho đến khi hết tiền thì cút cũng chết mà trứng cũng thối.   Tôi chửi tôi vì chỉ thấy cái lợi trước mắt cho tôi đến khi bị ma giáo hiểm độc lần 1, lần 2, lần 3... mới chịu mở mắt. Cũng với bọn thương lái Tàu, chúng nó tìm mua móng trâu, rễ quế vì móng trâu bọn Tàu thu mua giá hời hơn cả mua lại con trâu, còn rễ quế thì giá như vàng. Đâu chỉ mình tôi, làng làng xóm xóm thi nhau giết trâu bán móng, đào bới rễ quế.   Khi chúng ngừng mua thì cả làng ngơ ngác nhìn nhau, đành quay về nương rẫy thì ôi thôi còn trâu đâu nữa mà cày, quế rụi vì mất rễ. Lại đói. Thương lái Tàu sao khôn đáo để, chiêu của chúng vừa độc vừa thâm. Rồi đến vụ thu mua dừa, khoai lang...đất trồng lúa thành ruộng lang, vườn dừa để được giá hời với Tàu. Rồi cũng đùng một cái thương lái Tàu lại trốn biến mất. Trở lại trồng lúa đâu phải ngày một ngày hai. Chính quyền ở đâu, Đảng ở đâu? Dân ngu thì họ phải làm cho dân "sáng mắt sáng lòng" chứ. Bây giờ mới ngộ ra. Đâu phải mình tôi không biết nhìn xa hơn mũi. Chính quyền cũng thế. Vì cái lợi trước mắt nên để bọn thương lái Tàu tha hồ vào ra, thu mua, ra chiêu như chỗ không người. Chúng lại gom ruộng lúa để trồng thanh long. Thanh long chúng làm gì không biết nhưng ruộng lại mất lúa, gạo thiếu xuất khẩu. Cũng vì cái lợi trước mắt nên Tàu ra chiêu được ở cảng quân sự Cam Ranh, chỉ cách cảng 300m, vừa nuôi cá vừa dòm ngó. Đó là chiêu độc của thương lái gián điệp Tàu và chính quyền quân sự Cam Ranh đã mắc câu vì có món tiền béo bở chia nhau.   Vụ Bô Xít ở cấp nhà nước còn tệ hại hơn. Tiền của Tàu nên nhà thầu, công nhân phải là của Tàu, vật liệu xây cất từ cái bô, cái ống nhổ cũng đưa từ Tàu sang. Khoáng sản khui ra thì cứ về Tàu. Nếu chiến tranh xảy ra thì chúng nó đã có đầu cầu ngay nơi vùng chiến lược, thông qua con đường tiếp tế Miên, Lào để đánh vào lưng chúng ta. Chúng nó sẽ phá hồ thải Bô Xít để chất thải chảy ra tràn ngập, hủy diệt chúng ta dài hạn, hiểm độc. Bô Xít là quả bom tạ của Tàu đặt sẵn ở đấy, trước mũi và có sự tiếp tay của chính quyền. Nếu Chính quyền không có lời thì ít ra lãnh đạo chính quyền được hời. Họ cũng không nhìn xa hơn mũi như tôi. Đó là chưa kể đến các vụ thuê đất đầu nguồn chiến lược cho Tàu. Tôi chửi chính tôi, tôi chửi Chính quyền, rồi tôi chửi cả Đảng. Đảng ta thông minh, thần thánh mà sao không làm "sáng mắt, sáng lòng" cho dân, cho Chính quyền, để cứ rơi vào cái bẫy ma giáo độc hiểm của thương lái Tàu vì lợi nhuận riêng tư. Một đảng viên nói rằng Đảng cũng còn rơi vào bẫy ma giáo của Tàu thì "sáng mắt, sáng lòng" cho ai. Vụ Thành Đô, từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước, đến nguyên Thủ tướng Phạm văn Đồng đều luồn trôn vào cái bẫy quá dễ dàng. Một cán bộ cao cấp về hưu thì lắc đầu không tán thành: "Đảng ta tài tình, bách chiến bách thắng thì làm sao mà vào bẫy của ai. Biết đấy chứ, nhưng ta có lợi khác mà ít ai biết". Lợi gì thì cán bộ cao cấp lắc đầu quầy quậy, không mở miệng. Lợi cho đất nước thì sao không dám mở miệng? Đảng lại được giá hời chứ còn lạ gì. Đến khi Đảng rước từ Tàu về "16 chữ vàng" thì ông Nguyễn Phú Trọng được hời và Tàu thì ngang nhiên chiếm biển, lấn đảo, đặt giàn khoan. Giàn khoan được bọn Tàu khịa đặt ngay trên mũi của các lãnh đạo Việt Nam. Lòng dân căm phẫm đến cực độ đòi Chính quyền kiện chúng nó ngay lập tức. Anh Ba X(ạo) tuyên bố ngon lành phải kiện chúng nó nhưng đẩy trách nhiệm về Bộ Chính Chị . Bộ Chính Chị không dám kiện và câu giờ: nào là kiện thì sợ làm vỡ bát nước đầy, nào là phải chọn thời điểm thích hợp nhất để kiện, nào là chỉ nên xem hàng xóm nặng tiếng với nhau mà thôi, nào là giàn khoan cũng như giàn bầu bí, hết mùa hết bí thì giàn khoan cũng sẽ đi chổ khác thôi. Tôi chửi cha luôn cái bọn quân đội, chưa có nước nào mà quân đội sướng như ở nước ta. Quân đội nước ta lãnh lương ăn hưu, nhưng chỉ xui tàu cá của dân và hải giám ra chịu trận, còn quân đội co ro gìn giữ hòa bình để phát triển tham nhũng. Có đồng chí binh nhì bị chửi ức trả lời rằng: nhưng cấp trên không cho đánh thì chị phải chửi ba đời tam đại cấp trên chứ quân đội tội tình gì...   Tôi vừa chửi tôi, vừa chửi Đảng, chửi tôi một, chửi Đảng mười với tất cả ngôn từ mượn của bà mất gà. Nào là "con quạ mắt xanh mỏ đỏ, móng thép bấu vào mắt để cho cho nó thành đui, thành mù kẻ cắp gà tao". Nặng hơn chứ, tôi sẽ chửi thêm rằng đui mù sớm trở thành "G e n" truyền cho con cháu chúng nó đui mù suốt kiếp, dù có nằm trên đống vàng do tổ tiên chúng tham nhũng để lại... Bà mất gà chửi vì bà mất con gà, còn tôi thì mất cả biển đảo của cha ông, của con cháu. Mất đời đời. Phải chửi nặng hơn đi chứ. Tôi chửi tôi, chửi chính quyền và chửi cả Đảng quanh năm suốt tháng. Đảng không làm cho tôi "sáng mắt sáng lòng". Chồng tôi trừng mắt nhìn tôi: "Em chửi thế ở nhà chỉ có anh nghe, chứ ai vào đấy" vì vậy tôi xin đăng bài này cho Đảng, Chính quyền cùng nghe. Nguyễn Tố Nga Nguồn: danquyenvn.blogspot.de
......

Putin tự hại

Tổng Thống Nga Vladimir V. Putin đang lâm vào thế bí sau khi chiếc máy bay MH-17 của Hàng Không Mã Lai bị bắn hạ, làm chết 298 người.   Cả thế giới công nhận một hỏa tiễn SA-11 của Nga đã bắn rớt chiếc phi cơ này, từ vùng đất do quân phiến loạn kiểm soát, do ông Putin tiếp tế vũ khí và đưa biệt kích Nga sang chỉ huy. Nhưng ông Putin vẫn chối; trâng tráo nhất là các đài ti vi Nga đổ tội cho chính phủ Ukraine, với cơ quan tình báo Mỹ CIA đứng sau lưng. Nhưng quân đội Ukraine chưa bao giờ dùng đến loại hỏa tiễn từ dưới đất bắn lên (địa không) trong các cuộc tiễu trừ phiến loạn, giản dị vì quân nổi loạn chưa bao giờ có máy bay. Quân đội Nga hay Ukraine đều có khả năng xác định một chiếc máy bay trên cao 10,000 mét là phi cơ quân sự hoặc dân sự, quân phiến loạn thì không có dụng cụ kỹ thuật và được huấn luyện, cho nên mới họ lầm chiếc Boeing 777 là phi cơ chiến đấu. Nhưng họ cũng không có chuyên viên để điều khiển việc phóng chiếc hỏa tiễn “tầm nhiệt” SA-11 này. Phải có các chuyên viên trong quân đội Nga tham dự trong tội ác. Vladimir Putin vẫn tìm cách chối tội. Hai tướng lãnh người Nga vẫn còn lên tiếng đổ tội cho quân đội Ukraine, đòi hỏi chính phủ Mỹ phải trưng ra bằng cớ là quân phiến loạn đã phóng chiếc hỏa tiễn. Ông Putin còn một cách chối tội khác, là mô tả chiếc hỏa tiễn đó là do quân phiến loạn cướp được từ kho vũ khí của quân đội Ukraine, mà việc đó có thể xẩy ra. Nhưng các hỏa tiễn chứa trong kho thường không đầy đủ, đặc biệt là còn thiếu các đầu đạn chứa chất nổ và bộ phận kích hỏa. Vì vậy, câu chuyện dính tới cả chính quyền cộng sản Việt Nam. Cảnh sát quốc tế mới ngăn chặn được một kiện hàng chứa các bộ phận của hỏa tiễn SA-11, xuất phát từ Việt Nam trên đường chuyển tới Ukraine. Có thể chính quyền Nga đã yêu cầu cộng sản Việt Nam trả lại một số bộ phận viện trợ trong thời chiến tranh, và ra lệnh gửi thẳng sang miền Ðông Ukraine, nơi phiến quân kiểm soát để tránh tiếng cho Nga. Vladimir Putin đang tự đưa đầu vào chiếc thòng lọng mà ông ta tính dùng để treo cổ nền độc lập và chế độ tự do dân chủ tại Ukraine. Putin đã mù quáng vì tham vọng tái lập một đế quốc Nga, giống như từ thời các Nga hoàng và thời chế độ cộng sản. Năm 1994, Putin đã nói về nỗi ẩn ức của mình tại một hội nghị quốc tế ở St. Petersburg; khi đó ông ta mới chỉ là phụ tá cho vị thị trưởng thành phố này. Putin nói rằng lãnh thổ Nga đã bị xé mất quá nhiều đất đai sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Ông ta kể đến vùng Crimea, đến miền Bắc Kazakhstan, và những vùng khác như chung quanh Kaliningrad ở bờ biển Baltic. Ông nói rằng chính phủ Nga không thể “bỏ rơi” 25 triệu người nói tiếng Nga sống ở nước ngoài; và kêu gọi thế giới phải tôn trọng quyền của nước Nga phải bảo vệ “đại dân tộc Nga” (russkiy mir). Với luận điệu như thế, chính quyền cộng sản Bắc Kinh có thể cũng đòi “bảo vệ” các người gốc Trung Hoa ở khắp vùng Ðông Nam Á, kể cả Singapore!   Năm 1999, Putin lên làm thủ tướng, rồi trở thành tổng thống Nga trong hai nhiệm kỳ. Sau mấy năm đóng vai thủ tướng, ông ta trở lại làm tổng thống, với triển vọng thêm hai nhiệm kỳ bẩy năm nữa. Trong hai nhiệm kỳ đầu, Putin đã đóng vai trò một chính khách sẵn sàng cộng tác với thế giới bên ngoài. Năm 2001, Tổng Thống Mỹ George W. Bush sau khi gặp Putin đã tuyên bố, “có thể nhìn thẳng vào mặt nhau được,” ý nói có thể tin tưởng Putin không có tham vọng đế quốc. Trước khi đắc cử làm tổng thống lần thứ hai, Putin đã bắt đầu thực hiện tham vọng đó, với cuộc xâm lăng Georgia. Nhưng đến năm 2013, kế hoạch bành trướng của Putin mới lộ rõ, sau khi không thể ngăn cản nước Ukraine tiến đến gần với Liên Hiệp Châu Âu (EU) qua một hiệp ước hợp tác thương mại. Putin đã gây rối loạn rồi sát nhập vùng Crimea; và nay đang gây loạn ở hai tỉnh miền Ðông, sát biên giới Nga. Phản ứng của các nước dân chủ Tây Phương rất dè dặt trước các hành động của Putin. Dân Mỹ không ai chấp nhận đưa quân đến cứu nước Ukraine, cũng như trước đây không cứu Georgia. Vũ khí duy nhất để ngăn cản Putin là phong tỏa kinh tế, nhưng kinh tế các nước Âu Châu đều bị ràng buộc quá chặt chẽ với Nga. Một phần ba số khí đốt và dầu lửa dùng ở Châu Âu được nhập cảng từ Nga; trong quá khứ Putin đã dọa cắt nguồn tiếp tế này. Chính phủ Mỹ không thể đơn phương phong tỏa kinh tế Nga, vì sẽ thất bại nếu các nước Châu Âu không hợp tác. Vladimir Putin đã thực hiện một kế hoạch “tầm ăn dâu” đối với Ukraine. Sau khi nuốt được Crimea, Nga đã xúi giục những người gốc Nga ở miền Ðông Ukraine nổi lên đòi quyền tự trị, tuyên bố thành lập cả một “nước Cộng Hòa Nhân Dân” mới. Trong khi đó, Putin dùng thủ đoạn vuốt ve bên ngoài, và tuyên bố cộng tác với các nước khác để giữ “hòa bình, ổn định” trong xứ Ukraine. Chỉ có chính phủ Mỹ tiếp tục dùng các biện pháp cứng rắn, khi đơn phương ra lệnh phong tỏa hai công ty năng lượng lớn nhất của Nga và mấy ngân hàng quan trọng. Hành động “trừng phạt” này diễn ra một ngày trước khi xẩy ra vụ bắn hạ chiếc máy bay MH-17; với viễn tượng các nước Châu Âu vẫn chưa chịu hợp tác. Nhưng vụ MH-17 đã thay đổi tình thế. Phản ứng của cả thế giới là phẫn nộ, không những vì cảnh gần 300 thường dân vô tội bị thảm sát, mà còn vì thái độ trâng tráo của chính quyền Vladimir Putin.   Bà Thủ Tướng Ðức Angela Merkel, Thủ Tướng Anh David Cameron và Tổng Thống Pháp Francois Hollande đã nói chuyện với nhau vào cuối tuần qua, đồng ý rằng chính sách trong vụ Ukraine phải thay đổi; trong cuộc họp của ngoại trưởng các nước bắt đầu ngày hôm qua, Thứ Ba, 21 Tháng Bảy. Hòa Lan là một nước Âu Châu vẫn chủ trương dè dặt đối với Nga trong vụ này; nhưng chính phủ Hòa Lan đang bị áp lực từ dân chúng phải thay đổi, sau khi gần 200 công dân nước họ chết oan. Âu Châu sẽ phải chấp nhận thiếu thốn khí đốt trong mùa Ðông năm tới, để cho ông Putin một bài học. Một cuộc nghiên cứu của hãng dầu Total, Pháp, cho thấy Âu Châu có thể chịu đựng được một mùa Ðông nữa, dù Nga cắt đứt hơi đốt. nhưng các nước Bulgaria, Romania, Hungary and Slovakia sẽ gặp khó khăn nhất. Nước Ý cũng phụ thuộc vào nguồn hơi đốt của Nga nhưng có thể được bù đắp bằng nguồn khác, đến từ Bắc Phi và Trung Ðông.   Nếu cả Mỹ và Âu Châu cùng phong tỏa mạnh hơn, nền kinh tế Nga sẽ khốn đốn. Ngay từ tuần trước, hai thị trường chứng khoán đã mất 5% và 7% và đồng rúp của Nga đã xuống giá, sau khi chiếc máy bay MH-17 bị bắn hạ. Nhiều đại gia, tỷ phú đô la ở Nga đã than phiền rằng chính sách của ông Putin sẽ làm kinh tế Nga khánh kiệt. Chính ông Putin sẽ không thể quyết định cắt tất cả nguồn tiếp tế dầu, khí cho Âu Châu, kể cả đường dẫn qua Ukraine, vì nước Nga cũng đang cần ngoại tệ, như dân Châu Âu cần năng lượng. Một phần ba ngân sách chính phủ Nga tùy thuộc vào việc xuất cảng dầu khí. Vũ khí năng lượng của Nga chỉ có giá trị trong ngắn hạn, trong vài ba năm, vì nước Mỹ đang bắt đầu thặng dư dầu khí, sẽ trở thành một xứ xuất cảng nhiều hơn nhập cảng. Ông Putin có thể đang chiếm lợi thế về quân sự tại miền Ðông Ukraine, nhưng trên các mặt trận ngoại giao, kinh tế, ông ta đang bị đẩy vào chân tường. Về lâu dài thì tham vọng bành trướng để tái lập một đế quốc Ðại Nga sẽ hoàn toàn thất bại. Khi kinh tế suy sụp thì những vận động phản kháng của người dân Nga sẽ bùng lên, chính ngai vàng của ông Putin cũng khó vững. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Trung quốc sẽ thua nếu gây chiến tranh ở biển Đông

Trong tình trạng kinh tế toàn cầu chỉ vừa mới bắt đầu có chỉ dấu hồi phục, không một chính phủ tại nước dân chủ nào muốn xảy ra chiến tranh vào lúc này. Ngay cả tại những vùng sôi động trở lại như Iraq, Syria, Lybia, Palestine, các chính phủ Tây Phương vẫn cố chần chờ tránh bị hút vào các cuộc nội chiến. Bắc Kinh rõ ràng đã bắt mạch được sự e ngại của các nước phát triển, đặc biệt là thái độ dè dặt của chính phủ Obama, và vì thế họ quyết định chọn thời điểm này để nâng cấp ý đồ chiếm trọn Biển Đông. Thật ra thì các chỉ dấu về cuộc "Trỗi dậy không hòa bình chút nào" của Trung Cộng đã xuất hiện trong nhiều năm qua nhưng vẫn chỉ ở vận tốc tiệm tiến và bắt nạt riêng Hà Nội chứ chưa quá táo bạo tới mức báo động quốc tế. Nhưng bước nâng cấp qua việc kéo giàn khoan HD-981 khổng lồ vào giữa Biển Đông để khởi động một giai đoạn lấn chiếm mới của Trung Cộng đã thực sự làm giới nghiên cứu chính sách và chuyên gia quân sự của Nhật Bản lẫn Hoa Kỳ bắt đầu cảm thấy một cuộc chiến khó tránh trong tương lai trước mặt. Họ buộc phải chính thức lên kế hoạch phân tích và chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh rộng lớn giữa Trung quốc với các quốc gia trong vùng kể cả quân đội Hoa Kỳ đang trú đóng ở Á châu. Kế hoạch này phải có ngay vì không ai dám chắc chiến tranh sẽ xảy ra trong vài năm tới hay chỉ vài tháng tới. Những chi tiết, không rõ do vô tình hay cố ý cho rò rỉ ra từ phía chính quyền, mà giới truyền thông Nhật Bản thu thập được đều cho thấy Bắc Kinh chắc chắn nắm phần thua nặng nếu gây chiến ở Biển Đông. Đối sách của đồng minh Mỹ-Nhật-và các nước đồng minh có tên là Offshore Control Strategy (OCS), tạm dịch là Chiến Lược Phong Tỏa Từ Ngoài Khơi. OCS có diễn trình và các điểm chính sau đây: - Phần lớn năng lượng để nuôi sống nền kỹ nghệ, nền kinh tế, và sinh hoạt hàng ngày của Trung Quốc phải nhập từ bên ngoài. Và 90% lượng dầu thô mà Trung quốc nhập khẩu được chuyên chở bằng đường biển từ các nước Trung Đông, Đông Nam Á, và Trung Mỹ, Nam Mỹ về. Mục tiêu tối hậu của OCS, do đó, là bóp nghẹt các đường truyền máu này vào nội địa Trung Quốc.   - Theo giới chuyên gia quân sự Mỹ Nhật hình dung thì sớm muộn gì Bắc Kinh cũng sẽ bước tới lằn mức tung ra thông báo cấm mọi tàu thuyền đi qua vùng lưỡi bò mà không "xin phép" Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ tập trung tàu chiến, máy bay phát xuất từ các sân bay tại Hoàng Sa, Trường sa để áp đặt lệnh cấm này. - Nhưng đó sẽ là lý cớ cần thiết để Hoa Kỳ tập hợp công luận thế giới và bắt đầu phối trí lực lượng hải quân, không quân của mình từ các quần đảo phía Tây Nam nước Nhật đến quần đảo Philippines chạy song song với đường lưỡi bò. Khu vực đối đầu chính giữa Trung quốc với Hoa Kỳ là khoảng giữa hai đường vạch đỏ (đường lưỡi bò và đường phối trí lực lượng quân sự Hoa Kỳ từ Nhật đến Philippines)   - Kế hoạch Phong Tỏa Từ Ngoài Khơi bắt đầu với việc cấm tàu thuyền Trung Quốc, đặc biệt các tàu chở dầu, không được đi qua vùng biển giữa 2 vạch đỏ nêu trên. Nếu bất tuân, các tàu này sẽ bị tấn công. Tàu chiến Trung Cộng hiện không đủ số lượng và không có khả năng đối đầu với hải quân Hoa Kỳ để bảo vệ các tàu dầu này. Cùng lúc, Hoa Kỳ, với sứ mạng được thế giới giao phó vì quá bất bình trước hành vi của Bắc Kinh, sẽ kết hợp với các nước chủ nhà để phong tỏa các eo biển hệ trọng liên hệ. Đó là eo biển Malacca - nằm giữa bán đảo Malaysia và đảo Sumatra, nối liền biển Đông và Ấn Độ dương; eo biển Lombok - nối biển Java với Ấn Độ dương, nằm giữa các đảo Bali và Lombok ở Indonesia; kênh đào Panama và eo biển Magallanes ở Chile - 2 con đường tắt để chở dầu từ Trung và Nam Mỹ về Trung Quốc.   - Vì Hoa Kỳ không sử dụng vũ lực quân sự tấn công thẳng vào Hoa lục nên nhiều phần sẽ tránh được một cuộc chiến tranh nguyên tử. Bắc Kinh có vũ khí hạt nhân từ lâu nhưng chưa có loại hỏa tiễn liên lục địa để đưa vũ khí hạt nhân đi tấn công ở tầm hoàn cầu. Việc mua và vận chuyển loại hỏa tiễn liên lục địa từ Nga có thể xảy ra nhưng rất khó trốn thoát các dụng cụ theo dõi và khả năng phá hủy bằng drone (máy bay không người lái) của Mỹ. Ngay cả nếu Bắc Kinh xử dụng hỏa tiễn tầm trung và tầm ngắn để mở chiến tranh nguyên tử với Nhật Bản, Nam Hàn thì cũng chưa chắc thành công vì hệ thống hỏa-tiễn-chống-hỏa-tiễn hiện có của Mỹ. Cùng lúc đó, việc tấn công nguyên tử sẽ là lời mời liên quân thế giới đổ bộ trực tiếp vào Trung Quốc để thay đổi chế độ hiện tại.   - Do đó, nếu chiến tranh ở biển Đông xảy ra thì sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ không bị hao mòn bao nhiêu qua chiến lược Offshore Control, trong khi đó Trung quốc sẽ bị tê liệt không chỉ về kinh tế và cả khả năng vận hành xã hội hàng ngày. Tình trạng này chắc chắn dẫn đến sự nổi dậy của các phe cánh đang căm thù nhóm Tập Cận Bình đến xương tủy và dẫn đến nhiều nguy cơ sụp đổ chế độ Cộng sản, một chế độ mà người dân ở Hoa lục muốn dẹp bỏ khi có điều kiện. - Đặc biệt, nếu chính quyền của Thủ tướng Abe được Quốc hội Nhật thông qua việc sửa đổi điều 9 Hiến pháp cho phép cho phép Tự Vệ Đội nước này có thể nổ súng khi đồng minh chiến lược của Nhật bị tấn công thì Hoa Kỳ sẽ nhẹ gánh hơn vì lực lượng hải quân và không quân Nhật hiện nay một mình cũng đã có thể đương đầu với Trung quốc. Hải quân Hoa Kỳ sẽ rảnh tay phong tỏa một vùng hải dương rộng ngoài khơi. - Bắc Kinh, theo các chuyên gia hoạch tính quân sự nêu trên nhận định, đã dư biết sự thất lợi của họ và cũng biết luôn Chiến lược Offshore Control của Hoa Kỳ. Và đó là lý do mà Bắc Kinh còn dè dặt chờ cơ hội cho đến gần đây. Hiện nay để tránh né OCS, Bắc Kinh chỉ ra sức xây hệ thống dẫn dầu bằng đường bộ và cố tránh sử dụng tàu chiến hải quân để không tạo lý cớ cho đồng minh Mỹ Nhật báo động thế giới. Thay vào đó, Bắc Kinh dồn ngân sách nhiều cho việc gia tăng lực lượng cảnh sát biển. Cả 2 cách đối phó nói trên đều không hữu hiệu vì đường dẫn dầu trên bộ quá dài và bị tấn công ở bất kỳ điểm nào cũng sẽ tê liệt. Còn lực lượng cảnh sát biển nếu được dùng để cản trở tàu bè đi lại tại Biển Đông thì sẽ vẫn bị thế giới trừng phạt như tàu chiến hải quân. Cần nói thêm, riêng chiếc tàu sân bay (hàng không mẫu hạm) mua của Nga, theo giới phân tích quân sự, chỉ có thể dùng làm công cụ tuyên truyền với dân chúng Hoa Lục chứ không đóng góp gì cho cuộc chiến lần này. Ngược lại, nếu chiếc tàu sân bay này bị đánh chìm tương đối dễ dàng thì thiệt hại đó cũng làm sụp đổ nặng hình ảnh vô cùng hùng mạnh mà lãnh đạo Trung Cộng đã bơm vào đầu người dân trong nhiều năm qua. - Cũng theo truyền thông Nhật, trước đây giới chức quân sự Hoa Kỳ, Nhật, Úc, Philippines, Ấn Độ đã bàn đến vai trò của Việt Nam trong mạng lưới phòng thủ chung chống Trung Cộng bành trướng, nếu Hà Nội đồng ý tham gia liên minh. Vị trí địa lý của Việt Nam thuận lợi cho không quân ngăn chận các tàu dầu, tàu chở hàng Trung Cộng vì lý do nào đó chạy thoát được mạng lưới ngăn chận tại hai eo biển Malacca, Lombok, và các ngõ ngách khác từ phía Nam. Tuy không dám dùng tông điệu khẳng định, nhưng giới hoạch định quân sự Mỹ, Nhật và nhiều nước trong vùng đã lệt kê các dữ kiện rất vững chắc rằng nếu Trung Cộng giao tranh với liên minh này tại Biển Đông thì chắc chắn Trung Cộng thua. Cùng lúc, giới lãnh đạo đảng CSVN nay xác nhận tại các buổi học tập cho cán bộ trung cấp rằng nếu Việt Nam giao tranh với Trung Cộng thì chắc chắn Việt Nam thua. Khi tổng hợp 2 kết luận khó cãi này lại, cả người Việt lẫn quốc tế đều không sao hiểu được tại sao lãnh đạo CSVN lại cứ từ chối tham gia các liên minh phòng thủ chung và cứ nhất quyết chỉ giải quyết song phương với Bắc Kinh?
......

TRẰN TRỌC THÁNG BẢY - Phần 2

Phần 2 : Thoát Trung chủ yếu là thoát về chính trị, không phải văn hóa   Lịch sử đưa đẩy hai nước Việt Trung vào cùng một “đại gia đình Cộng sản” là tạo ra cơ hội bằng vàng, nhốt con thỏ và con sói vào cùng một chuồng thành hai anh em ruột, chị em ruột. Thế là toàn bộ chương trình dài hơi nhằm nô dịch Việt Nam, biến Việt Nam thành chư hầu kiểu mới của Trung Quốc được thiết kế trên cái nền Cộng sản, trong đó “quyền đảng” được nâng lên tối đa và “quyền dân” thực tế bị hạ xuống tối thiểu, khiến cho hai đảng cứ tự do làm việc ngầm với nhau, quyết định mọi việc trong quan hệ cá lớn nuốt cá bé, trong khi nhân dân bị đứng ngoài cuộc. Vậy đây là một cuộc cờ chính trị “vĩ đại”, yêu cầu thoát Trung chẳng qua là thoát khỏi sự kìm kẹp chính trị Cộng sản khủng khiếp ấy. Trong tiến trình ràng buộc có sử dụng sự ràng buộc kinh tế, ràng buộc tư tưởng, ràng buộc văn hóa – xã hội, nhưng tất cả chỉ là phương tiện nhằm cái đích nô dịch chính trị. Chính trị là cái nút thắt, cũng là nơi để chiếc chìa khóa mở ra. Nếu hiểu lý thuyết rằng văn hóa hoặc kinh tế là nền móng rồi dồn sức vào các lĩnh vực mênh mông là văn hóa hoặc kinh tế thì chỉ luẩn quẩn mãi trong rừng rậm không có lối ra, có khi gây tác dụng ngược, cuối cùng vẫn bị yếu tố chính trị thắt lại, vì chính trị nhanh tay hơn, ma mãnh hơn văn hóa và kinh tế rất nhiều. Thật vậy, về văn hóa, ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam tuy có những điều bất lợi nhưng nhìn tổng thể cũng là điều bình thường xưa nay, trong đó có xấu có tốt, có thể điều chỉnh, có yếu tố đã trở thành sức mạnh của Việt Nam. Thế giới có khoảng 200 quốc gia nhưng con số những nền văn hóa lớn thì ít hơn rất nhiều, mỗi nền văn hóa lớn thường tỏa rộng ảnh hưởng ra các quốc gia xung quanh, tạo nên những vùng “địa văn hóa”, “cụm văn hóa” gồm nhiều quốc gia lân cận. Quan hệ quốc tế hiện nay làm cho ranh giới “địa văn hóa” mờ dần đi, ngày càng thâm nhập vào nhau một cách đa phương nên muốn dùng độc quyền văn hóa làm công cụ nô dịch cũng không dễ dàng như trước. Trái lại những giá trị văn hóa dù hình thành ở đâu cũng là thành quả chung của loài người để dùng chung như ta dùng lửa, dùng điện, dùng Internet vậy. Không có gì phải mặc cảm khi một quốc gia nằm trong cụm văn hóa Hy-La hay văn hóa Trung Hoa (chưa kể theo tác giả Hà Văn Thùy thì văn hóa Trung Hoa bắt nguồn từ Văn hóa Việt!).…   Mặt khác, vì xã hội luôn có hai thành phần tương sinh tương khắc là nhân dân và tầng lớp thống trị nên nền văn hóa nào cũng cấu thành bởi hai nhân tố xung khắc ấy, vừa có mặt nhân văn tích cực của nhân dân, lại có mặt phản dân chủ mà giới cầm quyền khéo dùng làm công cụ để nô dịch dân mình và nô dịch cả dân nước khác, đồng thời tất cả vẫn nằm trong dòng tiến hóa từ lạc hậu đến ngày một văn minh hơn. Khi du nhập những nét văn hóa tích cực luôn phải thanh lọc những yếu tố nô dịch tiêu cực hoặc không phù hợp với tập quán dân tộc mình. Điều này dân tộc Việt Nam đã làm, làm khá thành công nên sau 1000 năm Bắc thuộc mà vẫn không bị đồng hóa. Tóm lại, thái độ đối với văn hóa là sàng lọc, đồng hóa hoặc tẩy trừ từng phần chứ không nhất thiết phải xử lý trọn gói. Tấm gương biết sàng lọc văn hóa không ai bằng cụ Phan Châu Trinh, xuất thân Nho học, tiếp tận Âu Tây mà biết sàng lọc rất trúng, vừa chống “hủ Nho” vừa chống “hủ Âu” trở thành nhà dân chủ, nhà cách mạng đầu tiên của nước nhà [*]. Cụ chẳng vì chuộng Âu mà phải thoát Á, vì khi đã lệch về một phía thì dễ thiên vị, quên sàng lọc mà tôn sùng cả cái xấu của người ta. Điều oái oăm với văn hóa Việt Nam là trong khi dòng chảy văn hóa đang từng bước tự hoàn thiện thì có sự du nhập “một nền văn hóa trọn gói” nặng tính ngoại lai và áp đặt, là “văn hóa vô sản” thực chất là “văn hóa Cộng sản”, “văn hóa đảng”. Nói văn hóa Cộng sản có tính “trọn gói” vì nó tách biệt hẳn ra thành một khối, không kế thừa, dính vào đâu là nó hủy diệt các giá trị truyền thống ở đó, nên không có khả năng hòa đồng vào bất kỳ nền văn hóa nào. Vì bản chất là phi dân chủ nhưng lại nhân danh dân chủ nên văn hóa Cộng sản cộng hưởng ngay với chất mị dân của chủ nghĩa thân dân phong kiến, mà thực chất là vương quyền áp đặt, tôn sùng minh quân, đồng thời làm mất gốc dân chủ và tương thân tương ái của văn hóa bản địa, thay bằng thứ tình yêu giai cấp vừa chật hẹp giữa con người lại vừa mở rộng phi lý vượt biên cương. Chính nền chuyên chính độc đảng toàn trị Cộng sản đã làm cho quan hệ “quỳ lạy-xin cho” tiêu cực của văn hóa phong kiến trỗi dậy và làm tha hóa xã hội đến mức bệnh hoạn. Tôi hiểu đấy chính là lý do khiến nhà báo Lê Phú Khải phải kịch liệt phê phán thứ “văn hóa quỳ lạy” đang chế ngự xã hội. Một nét tiêu cực của văn hóa phong kiến như thế tưởng đã qua đi, nay gặp môi trường mới thích hợp lại nảy nở thành một tệ nạn, chứ đạo Nho chỉ khuyên người ta đứng thẳng, không khuất phục trước uy vũ (uy vũ bất năng khuất) và con người phải biết tự trọng thì người khác mới trọng mình (ngô tự trọng nhi hậu nhân trọng chi, ngô tự khinh nhi hậu nhân khinh chi), Khổng giáo không khuyên người ta quỳ lạy. Văn hóa Khổng Mạnh vừa sinh ra Phan Châu Trinh rất dân chủ, vừa sinh ra tên vua Khải Định thích dân quỳ lạy. Cho nên Cụ Phan viết thư hạch tội vua Khải Định 7 điều, trong đó tội thứ nhất là quá tôn quân quyền, cậy quyền thế mà ép dân, tội thứ nhì là không công bằng và tội thứ ba chính là “Chuộng sự quỳ lạy”! Ngày nay một lực lượng vũ trang ăn lương của dân mà coi dân như cỏ rác, ngang nhiên thách thức “chỉ biết còn Đảng còn mình”, tất nhiên nịnh trên mà nạt dưới, thì chắc chắn người đưa ra khẩu hiệu rất “quỳ lạy” đó không hề đọc sách Khổng Mạnh mà chỉ nhiễm “văn hóa Đảng” thôi. Nhiều người dân vào đồn công an bị đánh đến phải quỳ lạy, nơi “quỳ lạy” ấy không hề có đạo Khổng, chỉ có “6 điều Bác dạy” (mặc dù lời dạy cũng có câu “với dân phải kính trọng, lễ phép”). Thuở nước nhà sơ khai, các trí thức chịu ảnh hưởng đạo Nho và văn hóa Trung Hoa rất nhiều, nhưng những Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt đã dùng chính chữ Nho làm vũ khí chống lại Tàu, sức mạnh Nho giáo đã thành sức mạnh dân tộc. Trong khi Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc lại dùng chữ Nho để theo Tàu phản bội Tổ quốc, còn khối kẻ hàng Tàu bây giờ đâu có biết một chữ Nho bẻ làm đôi? Vậy hèn mạt hay anh hùng ít khi do nền văn hóa, chủ yếu do nhu cầu chính trị, vì chính trị gắn với quyền lợi và nhu cầu sinh tồn.   Ngay chuyện bây giờ, khi ta nói sở dĩ đảng Cộng sản Việt Nam phải lệ thuộc Tàu là do Ý thức hệ Cộng sản thì cũng chỉ đúng một phần. Đâu có phải cứ hai nước cùng chung Ý thức hệ Cộng sản thì thôn tính nhau? Vấn đề là nước Cộng sản nhỏ muốn tiến hành chiến tranh, rồi lại muốn chống xu thế dân chủ để tiếp tục nắm quyền độc trị thì phải dựa vào nước Cộng sản lớn giúp đỡ, nước lớn vốn rắp tâm xâm lược nên sử dụng sự giúp đỡ làm cái bẫy để bắt Đảng CS nhỏ bán dần chủ quyền, mặc dù đến nay cả hai bên chẳng ai xây dựng chủ nghĩa CS gì hết, chẳng ai còn tin vào cái bánh vẽ “thế giới đại đồng”. Vậy bản chất sự lệ thuộc Tàu là do ràng buộc chính trị trong môi trường Cộng sản, như một hệ quả đau đớn của việc chọn con đường CS, chứ không phải do sự thấm nhuần Ý thức hệ. Ý thức hệ chỉ là yếu tố bắt nguồn lúc đầu. Những kẻ theo Tàu hiện nay là do nhu cầu chính trị, do quyền lợi chứ chẳng vì lý tưởng giai cấp vô sản gì hết. Lại so sánh chế độ miền Bắc và chế độ miền Nam trước đây về hai mặt Thoát Trung và Khổng học. Miền Nam còn giữ Khổng học rất nhiều, từ sách vở đạo đức, đến quan hệ xã hội nhưng họ dứt khoát Thoát Trung, biểu hiện ở việc chống Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974, và quy định một số nghề người Hoa không được làm để phòng người Tàu chi phối kinh tế và quốc phòng. Trong khi miền Bắc lúc đó bài trừ Khổng học, coi Khổng học là phong kiến phản động nên phá hết văn chỉ, đem câu đối làm cầu ao, chuồng lợn, đấu tố Nho học, thì lại ôm chân Tàu rất rõ, dập khuôn Tàu, phụ thuộc Tàu đến nỗi sinh ra nguy cơ Bắc thuộc hiện nay. Vậy không phải chống Khổng học thì Thoát Trung mà có khi ngược lại, vì nhiều nét của Khổng học đã được người Việt đồng hóa để thành vốn liếng văn hóa của chính người Việt. Cuối cùng, xin cảm ơn việc khơi ra cuộc thảo luận Thoát Trung, đã huy động được sự đóng góp từ nhiều phía, làm cho một vấn đề rất hệ trọng được sáng ra, lần đầu tiên được đề cập một cách hệ thống, thiết tưởng là một sáng kiến đóng góp rất hữu ích cho công cuộc Thoát Trung hiện nay. ***** TRẰN TRỌC THÁNG BẢY - Phần 1 http://www.ttdq.de/node/1537
......

HAI BÀ TRƯNG ĐÁNH GIẶC NÀO NHỈ?

Trước ngày nhập học, cháu gái tôi hầu như không rời mấy cuốn SGK còn thơm mùi giấy mới. Đang đọc say sưa bỗng nó chạy đến bên tôi, chỉ vào bài tập đọc Hai Bà Trưng (Tiếng Việt 3, tập 2, trang 4, 5) nói ông ơi, cháu đọc hoài mà vẫn không hiểu Hai Bà Trưng đánh giặc nào. Biết ngay “mặt mày” kẻ xâm lược nhưng nghĩ con bé đọc lớt phớt nên không nắm được nội dung, tôi chưa vội chia sẻ mà tranh thủ dạy cho cháu cách đọc sách. Rằng phải đọc từ từ cho thấm, kết hợp đọc với suy nghĩ, đừng đọc theo kiểu lấy được, lướt con mắt cho xong… Giờ cháu đọc lại đi. Làm gì có chuyện viết về khởi nghĩa Hai Bà Trưng mà không nêu đích danh giặc ngoại xâm.   Con bé nhăn mặt nói cháu đọc kỹ lắm rồi, vẫn không biết hai Bà đánh bọn xâm lược nào. Tôi nhổm dậy, cầm quyển sách, giương mục kỉnh lên. Và chợt ngớ ra: Lời con trẻ đúng quá. Bài học tuyệt không một chữ nào vạch mặt chỉ tên kẻ cướp mà toàn những danh từ nhợt nhạt, mập mờ, chung chung: tướng giặc, quân thù, giặc ngoại xâm, kẻ thù, quân xâm lược. Viết về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc (năm 40 - 43) gắn với tên tuổi Hai Bà Trưng lừng lẫy nhưng SGK không hề dám nửa lời chỉ đích danh bọn xâm lược. Thậm chí cụm từ có tính hàm ngôn “phương Bắc” sách cũng không dám đặt sau cụm từ “kẻ thù”. Vì sao SGK không cho các cháu biết quân giặc nào đã bắt tổ tiên của chúng lên non tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, để phải làm mồi cho hùm beo, thuồng luồng, cá sấu? Vì sao SGK không cho các cháu biết giặc ngoại xâm nào đã khiến “lòng dân oán hận ngút trời”? Và vì sao SGK không nói rõ cho các cháu biết Hai Bà Trưng đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược nào, chúng từ đâu đến? Cốt lõi của lịch sử là sự thật. Mỗi dòng lịch sử nước ta đều được viết bằng mồ hôi và máu của nhiều thế hệ. Nên có thể nói mỗi trang sử là một mảnh hồn thiêng sông núi. Không thể chấp nhận bài học lịch sử… nửa vời với cách trình bày ngắc ngứ, lấp lửng, loanh quanh, thiếu minh bạch, nếu không muốn nói là né tránh, bưng bít như thế. Ở Lạng Sơn từng xảy ra chuyện tấm bia kỷ niệm chiến thắng của bộ đội ta bị đục bỏ những chữ điểm tên chỉ mặt quân thù. Người ta đã đổ thừa cho mưa nắng, cho sức tàn phá của thời gian. Còn với SGK Tiếng Việt 3, người làm sách đổ thừa như thế nào? Người lớn sao lại làm khuất lấp tên tuổi kẻ thù của Hai Bà Trưng để trẻ con phải băn khoăn? Thật khó giáo dục HS niềm tự hào, lòng yêu nước khi SGK đã thiếu công bằng, thiếu trung thực đối với lịch sử. Trong lúc hy vọng bài học này sẽ được các nhà làm sách trả lại sự phân minh trắng đen sòng phẳng, tôi phải nói ngay trước đôi mắt mở to của cháu tôi rằng bọn giặc xâm lăng nước ta bị Hai Bà Trưng đánh không còn manh giáp chính là giặc Hán (Trung Quốc). Theo Trần Cao Duyên(Thanh Niên) Nguồn: http://m.vietnamnet.vn/vn/giao-duc/87108/hai-ba-trung-danh-giac-nao-.html ***** KHÔNG XÁC ĐINH ĐƯỢC KẺ THÙ THÌ LÀM SAO BẢO VỆ TỔ QUỐC? Ngô Minh Ngày 2/6/2014, tôi nghe Đài truyền hình VTV Huế đưa tin Trung ương đã mở lớp bồi dưỡng cho đối tượng từ thiếu tá trở lên của Công an và Quân đội về Chiến lược quốc phòng của Đảng, về chống âm mưu diễn biến hòa bình, âm mưu của các thế lực thù địch, về phát triển kinh tế… Tôi nghe biên tập viên không nói gì về kẻ thù đang xâm lược biển Đông của Việt Nam là Trung Quốc cả. Báo quân đội nhân dân số ra ngày 14/7/2014, trong bài Quân đội ta mang đậm bản chất cách mạng của giai cấp công nhân ,cũng viết : “Ngày nay, đất nước ta hòa bình và thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đang mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Các thế lực thù địch lại lợi dụng đẩy mạnh chống phá nước ta trên nhiều lĩnh vực thông qua thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, cùng tác động của nền kinh tế thị trường, tình hình thế giới và khu vực. Vì vậy, chúng ta càng phải giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, nhằm tăng cường bản chất chính trị của giai cấp công nhân trong toàn quân.” Bài viết cũng không nói gì về kẻ thù xâm lược là anh bạn 4 tốt 16 chữ vàng Trung Quốc khốn nạn ấy cả.   Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Ủy viên Bộ Chính trị Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 13 ở Singapore vừa qua cũng nêu rõ: “Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển. Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia, hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi…”. Nghĩa là theo quan điểm của lãng đạo Đảng CSVN hiện nay, Trung Quốc không phải là kẻ thù. Còn “thế lực thù địch” theo cách gọi của Trung Quốc (mà Việt Nam học theo) là những người đối lập, khác chính kiến, những người không theo quan điểm của Đảng Cộng sản. Mà những người như thế thì không thể tạo nên cuộc chiến tranh xâm lược nước ta được. Vậy là Đảng, nhà nước ta đến nay vẫn không xác định được ai là kẻ thù của đất nước để mà đề phòng và chống trả. Cách đây gần 10 năm, đọc mạng tôi thấy sự tiết lộ của một sĩ quan ở Tổng Cục 2 về đối tượng tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay vẫn là: "quân đội Mỹ”, quân đội Trung Quốc không phải là đối tượng tác chiến, mà là “anh em”. Hay thiệt! Quan niệm như thế cực kỳ nguy hiểm cho vận mệnh Tổ Quốc. Lịch sử từ ngàn năm trước, Trung Quốc đã là kẻ thù truyền kiếp của nhân dân Việt Nam. Chúng đã bị Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… đánh cho tan tành. Nhưng chúng vẫn không chừa tham vọng bành trướng xâm chiếm nước ta. Vua Trần Nhân Tông đã căn dặn: "Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gặm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu". Đặc biệt, từ thời kỳ Đảng Cộng sản lãnh đạo đất nước đến nay, chúng lợi dụng sự ngây thơ, tin tưởng “bốn phương vô sản đều là anh em” của ta để lấn tới. Trung Quốc đã mở nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm biên giới hải đảo nước ta: Chúng đánh chiếm Quần đảo Hoàng Sa năm 1974 làm 74 chiến sĩ ta hy sinh, Trung Quốc xua 60.000 quân tấn công toàn biên giới phía Bắc tháng 2-1979 làm hàng vạn chiến sĩ nhân dân ta hy sinh. Chúng gây chiến tranh xâm chiếm biên giới Vị Xuyên Hà Giang năm 1984; chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma năm 1988 làm 64 chiến sĩ ta hy sinh… Trên toàn tuyến biên giới Việt –Trụng, ở đâu chúng cũng lấn chiếm đất ta. Tổng diện tích chúng lấn chiếm bằng diện tích bằng tỉnh Thái Bình. Nguy hiểm hơn, chúng hạ đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 sâu vào thềm lục địa và cùng đặc quyền kinh tế Việt Nam từ 2-5-2014 đến 16-7-2014. Một khi giàn khoan đó và hàng trăm tàu và máy bay đủ loại đi kèm theo vào biển VN, đó là một hành động xâm lược trắng trợn. Chúng cắt cáp tàu thăm dò dầu khí Việt Nam; chúng xua đuổi, đâm chìm tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đánh cá trên vùng biển Việt Nam. Chúng bắt bớ đánh đập ngư dân Việt Nam. Có thể nói, chưa nước nào bị TQ xâm phạm chủ quyền biển đảo nhiều như Việt Nam, nhưng chưa thấy phía Việt Nam dám thực hiện bất kỳ vụ bắt giữ ngư dân TQ nào xâm phạm vùng biển nước ta, mặc dù hàng ngày hàng trăm tàu của Trung Quốc vào đánh cá tại ngư trường Việt Nam ở miền Trung, đảo Cồn Cỏ, cách bờ chỉ vài chục hải lý, mà chỉ thấy xảy ra trường hợp ngược lại: TQ liên tục bắt giữ, thậm chí đã bắn giết chết ngư dân VN trên vùng biển thuộc chủ quyền VN. Trong khi đó, các nước xung quanh đã không nương tay đối với TQ, khi những ngư dân TQ xâm phạm vùng biển các nước khác. Đã xảy ra nhiều vụ bắt giữ ngư dân và tàu đánh cá TQ khi họ xâm phạm chủ quyền các nước Philippines, Indonesia, Nhật, Nam Hàn… Những hành động đó của trung Quốc không thể gọi là gì khác ngoài ba chữ: Giặc xâm lược! Đã gọi là giặc xâm lược tức là kẻ thù của nhân dân ta, kẻ thù của dân tộc ta, dù nó mang danh chủ nghĩa nào. Sống bên cạnh một nước lớn chuyên môn dòm ngó nước ta, một mặt ta phải có chính sách ngoại giao khôn ngoan, mềm dẻo, nhưng tuyệt đối không quỳ gối trước chúng. Trước dã tâm xâm lược đất đai, biển đảo của bọn bành trướng Bắc Kinh, chúng ta phải chiến lược quốc phòng phù hợp để chống lại. Chúng ta sẽ dùng chiến trranh nhân dân để đánh trả như thế nào? Kế hoạch ra sao? Quân đội ta phải có kế hoạch tác chiến chống Trung Quốc khi chiến tranh xảy ra. Khi chúng đánh sang biên giới đất liền, bầu trời thì sẽ đối phó như thế nào? Khi chúng xâm chiến quần đảo Trường Sa, bộ đội ta sẽ tác chiến như thế nào, bằng thứ vũ khi gì để giữ đảo? Đến nay ở Trường Sa vẫn chưa bố trí tên lửa thì nguy quá. Rồi phải tính đến chuyện quan hệ với các nước trong khu vực, kể cả Mỹ để cùng chống giặc xâm lược. Luận điểm “Việt Nam không liên minh với nước khác để chống nước thứ ba” là luận điểm sai trái, là nghe theo sự xúi dục của Trung Quốc. Chúng ta liên minh là để chống bọn xâm lược, chứ không phải chống nước thứ ba. Nếu cần phải lên kế hoạch tác chiến ngay trên đất kẻ thù như Lý Thường Kiệt đã làm. Chúng ta phải lên kế hoạch đánh chiếm lại quần đảo Hoàng Sa thân yêu, v.v. Tất cả phải lên kế hoạch lâu dài, tỉ mỉ, đào tạo, trang bị cho quân đội thật thiện chiến, không được tư duy theo nhiệm kỳ, không một phút lơ là. Không xác định được kẻ thù thì làm sao bảo vệ được Tổ Quốc! Đề nghị các tướng lĩnh, các nhà lãnh đạo đất nước chia sẻ cùng tôi chuyện vô cùng cấp bách này. N.M. Nguồn: ngominh.vnweblogs.com
......

Việc thi hành hiệp đinh Genève

Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)? 1. Hiệp định Genève   Danh xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là HenriDelteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy. Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau: Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm "khu đệm", có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày). 2. Ai vi phạm hiệp đinh Genève Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam. Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định. Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau: Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet). Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức,Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.) Hai tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết. 3. Bắc Việt Nam đòi hỏi điều không có   Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S.Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.) Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiệnGenève nên không bị ràng buộc phải thi hành. Tuy sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958. Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genèvehọp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: "Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.) Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng "đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris:Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký. Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình. 4. Bắc Việt Nam bịa đặt lý do để tấn công miền Nam   Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước. Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành. Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam. Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng. Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm. Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng. Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.) Kết luận Hiệp định Genève là hiệp định đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định Genève, trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước. Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam điều khiển. Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới. Trần Gia Phụng  (Toronto, 20-7-2014)
......

Chiến thắng giàn khoan - Ai chiến? Ai thắng?

Vừa có tin Bắc Kinh rục rịch kéo giàn khoan HD981 đi vào ngày 15/7, dù chưa biết có phải vì trận bão Rammasun đang ập tới hay không và dù chưa biết giàn khoan được kéo vào gần hay xa hơn hải phận Việt Nam, giới lãnh đạo đảng nhanh nhạy tuyên bố "chiến thắng". Dĩ nhiên lãnh đạo đảng đủ khôn ngoan để tung ra trước một vài quả bóng thăm dò nhè nhẹ như Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Anh, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông của Học viện Ngoại giao Việt Nam. Bà nhận định trên đài BBC rằng việc Trung Quốc rút giàn khoan sớm hơn một tháng so với kế hoạch là “nhờ tiếng nói của Việt Nam cũng như dư luận thế giới”. Nhưng bà không cho biết loại "tiếng nói" nào của Việt Nam. Đó là những lời phản đối tràn ngập của người dân Việt Nam hay những câu "đây chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình" của lãnh đạo?   Sau đó, Ban Tuyên Giáo cho tăng cấp với việc báo đài đồng loạt đăng lời nạt với theo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: “Không được tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam". Người nghe lập tức phải tự hỏi: Trong 2 tháng rưỡi vừa qua ông Dũng đã làm gì và nếu Trung Cộng đem giàn khoan trở lại - và khá chắc là họ sẽ trở lại sau mùa biển động - ông Dũng sẽ làm gì?? Sẵn trớn xông lên, Ban Tuyên Giáo cho thêm ông Hà Lê, Cục phó Cục Kiểm ngư Việt Nam, bồi tiếp: "Tôi cho rằng Trung Quốc di chuyển giàn khoan vì sức ép đấu tranh của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam trên biển; trên nhiều mặt trận khác họ đều rơi vào thế bị động, cô lập". Chỉ mới vài ngày trước cái Cục của ông Hà Lê còn tung ra đủ loại hình ảnh về tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển Việt Nam bị đâm nát đuôi, nát sườn bơi lết về bờ để than thở với thế giới, nên người ta không hiểu lý do gì khiến Trung Cộng sau khi tha hồ đâm nát tàu của "lực lượng chấp pháp" Việt Nam lại sinh hãi sợ đến thế ??? Cư dân mạng trong mấy ngày qua lại có một dịp cười lăn lộn. Vì theo lẽ thông thường, để được gọi là "chiến thắng" thì ít nhất phải có phần “chiến” trong đó. Nhưng từ ngày 2/5, tức là ngày giàn khoan chính thức bỏ neo tại thềm lục địa Việt Nam, lãnh đạo đảng và nước cương quyết im lặng tuyệt đối nhiều tuần liền. Sau đó, khi áp suất dư luận quá lớn, họ đành thì thầm vài câu với vài tổ cử tri chứ không dám xuất hiện trên các diễn đàn quốc gia. Có vị lãnh đạo còn cho vợ ra đại diện mình tại... một quán cơm xã hội cho báo chí chụp hình. Không biết ông muốn nói lên điều gì qua động thái đó. Rất lạ!   Trong suốt 2 tháng rưỡi đó, may mắn có được một anh vừa tuyên bố một câu mạnh miệng ở Philippines "không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông", thì lập tức có hàng chục anh khác hốt hoảng chạy theo ráng xóa cho sạch, với hàng loạt các than thở mong muốn "hốt lại bát nước đầy". Họ hốt hoảng đến độ phải cử cả anh đứng đầu ngành bảo vệ tổ quốc ra đứng trước thế giới tuyên bố đây chỉ là chuyện lục đục rất thường trong gia đình chúng tôi thôi. Và chính anh bạo miệng tại Philippines nói trên cũng lập tức ôm hôn thắm thiết để tạ lỗi với viên quan đại diện mẫu quốc sang Việt Nam dạy bài “bốn không được.”. Sau đó, mọi tàu hải quân Việt Nam đều tuyệt đối "bám bờ" trong lúc lãnh đạo không ngừng đề cao và thúc đẩy ngư dân tay không ra khơi bám biển. Những bà con ngư dân này được ca ngợi là những "cột mốc sống". Và cứ thế, khi các "cột mốc sống" gặp tàu Trung Cộng thì bà con chúng ta lại cô đơn và đau đớn trở thành "cột mốc chìm", "cột mốc chết". Rồi các "cột mốc sống" khác lại bị đẩy ra trám chỗ. Không chỉ tàu hải quân, mà cả tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển CHƯA BAO GIỜ dám nhảy vào can thiệp cho ngư dân, dù chỉ một lần. Nhiều cư dân mạng đã nhận xét: lần này giới lãnh đạo đảng và nhà nước ta kết dính với nhau bằng một chữ HÈN. Hèn đến độ chỉ một bản nghị quyết chính thức của Quốc Hội - tức chỉ đấu võ mồm và trong phòng lạnh tại Hà Nội - mà cũng chỉ dáo dác nhìn nhau, không dám thông qua. Chỉ khi Quốc Hội Mỹ xa xôi - mà đảng ta tới nay vẫn coi là kẻ thù lâu dài - ra nghị quyết phản đối giàn khoan, thì báo đài của đảng liền vỗ tay khen ngợi. Mức hèn và mức bí lên cao đến độ trong mấy ngày trước thời điểm Bắc Kinh kéo giàn khoan đi, lãnh đạo đảng còn mang cả phi công Nguyễn Thành Trung (người phản bội VNCH năm 1975) ra phủi bớt bụi bặm rồi giao cho bài bản đổ tội mất Hoàng Sa cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Nhưng thôi kệ. Ai muốn nhận chiến thắng, chiến công gì cũng được. Người dân đã thấy quá rõ và đang cười lăn lộn. Nhưng cười xong mặt ai cũng méo xệch vì các hiểm nguy không những vẫn còn nguyên mà lại có xác suất cao sẽ tăng gấp bội sau mùa biển động năm nay. Thật vậy, sau mùa bão tố này, các giàn khoan sẽ mọc như nấm, vì giàn khoan HD981 đã giúp Bắc Kinh kiểm chứng: (1) Không như các vụ trong vùng biển giáp Nhật Bản, giáp Philippines, tại Biển Đông không có nước nào ra đối đầu quân sự với Bắc Kinh; (2) Bắc Kinh có thể vào và ra vùng Biển Đông của Việt Nam mà không có khó khăn, trắc trở nào về kỹ thuật, vận chuyển, bảo vệ an ninh; (3) Lãnh đạo CSVN không dám làm gì ngoài những thủ thuật tuyên truyền và các nỗ lực bịt miệng dân chúng. Không có liên minh nào thành hình nếu không có sự tham gia của Việt Nam. Song song với sự hiện diện của HD981 để thu hút sự chú ý của thế giới, Bắc Kinh đã gấp rút xây thêm các căn cứ quân sự tại cả Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Cộng đã xử dụng hữu hiệu thủ thuật cố hữu của các chế độ Cộng Sản. Đó là bóp cổ 10 phần rồi nới tay 1 phần, để nạn nhân khoan khoái quên luôn 9 phần kia. Thế giới đang thở phào về sự ra đi của giàn khoan HD981 và quên luôn các căn cứ quân sự Bắc Kinh vừa xây hoặc mở rộng tại Biển Đông. Trong thời gian trước mặt, nhân danh bảo vệ bí mật quân sự, Bắc Kinh sẽ khoanh nhiều vùng biển cấm tàu qua lại. Vùng Nhận Dạng Phòng Không mà họ tuyên bố gần đây cũng nằm trong tiến trình này. Và với sự bành trướng đó của Trung Cộng sau mùa biển động năm nay, số mạng của từng chiếc tàu đánh cá Việt Nam và sinh mạng của bà con ngư dân sẽ bị đặt vào tình trạng hiểm nghèo hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ việc thắt các "cột mốc sống" vào cổ họ lại hèn hạ và dã man hơn lúc này! Hầu hết, giới phân tích tình hình đều đồng ý Bắc Kinh không hề có ý định ngừng lại với HD981. Những nhận xét tiêu biểu như của ông Dương Danh Dy, một người từng phục vụ lâu năm trong ngành ngoại giao, cho thấy: "Chắc chắn khi mà có dịp thì họ còn giở trò nữa và những bước sau của họ đều nguy hiểm hơn những bước trước. Ở Biển Đông, trước đây họ làm những chuyện như chỉ cắt cáp và đâm tàu nhưng giờ họ đã đặt giàn khoan vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam"; hoặc như của Tiến sỹ Jonathan London: "Tôi đã đọc các tài liệu của Trung Quốc và họ nói rằng họ sẽ chiếm đảo của Việt Nam, và thậm chí có nguồn tin mà tôi đọc trên mạng của Trung Quốc còn nói rõ là chiếm một nửa Việt Nam, chứ không phải là họ để yên đâu". Chính báo chí Trung Cộng cũng khoe hiện có khoảng 30 giàn khoan lớn nhỏ đã được chuẩn bị để kéo xuống Biển Đông. Chính vì vậy mà mùa biển động hiện nay là khoảng thời gian vô cùng quí báu để giới lãnh đạo CSVN xúc tiến gấp các vụ kiện Trung Cộng ra các tòa án quốc tế, vì các lý do từ bảo vệ chủ quyền đến bảo vệ ngư dân. Việt Nam có đủ các chuyên gia về luật quốc tế để cố vấn về cho nỗ lực này (*). Và đây cũng là khoảng thời gian quí báu để tham gia hoặc xây dựng gấp các liên minh quốc tế để cùng nhau phòng thủ Biển Đông. Nhưng thay vì làm các việc đó, người ta chỉ thấy giới lãnh đạo CSVN bận rộn tuyên bố chiến thắng một cách trâng tráo như đã nêu trên, rồi cho đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc Lê Hoài Trung ngỏ lời mời Trung Cộng cùng thăm dò, khai thác dầu mỏ ở Biển Đông (**).   - - - (*) http://radiochantroimoi.com/phong-su/gs-ta-van-tai-phai-kien-gap-rut-keo... (**) http://vietnamese.ruvr.ru/news/2014_07_17/274752498/
......

Kỷ Niệm 60 Năm Hiệp Định Genève (1954-2014): Bài học gì cho Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay?

(Sydney, Australia – Tháng 3-2014)   Bài viết đánh dấu 60 năm Hiệp Định Genève được soạn thảo với một hi vọng nho nhỏ là chúng ta có thể học được kinh nghiệm của quá khứ đau buồn mà đất nước Việt Nam thân yêu đã phải trải qua. Hiệp Định này và hậu quả của nó đã được trình bày từ nhiều quan điểm khác nhau, kể cả tài liệu khá đầy đủ của Bộ Quốc Phòng Mỹ, The Pentagon Papers (1971). Tạ Quang Bửu (người ngồi, bên phải) đại diện Việt Minh ký hiệp định với Pháp chia đôi đất nước.       Từ năm 2004, một số tài liệu do Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phổ biến giúp chúng ta hiểu thêm về quan điểm và mục tiêu chiến lược của hai cường quốc cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc, trong vấn đề Việt Nam (Đông Dương) và thân phận của Việt Minh/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) trong quan hệ với hai đồng minh bảo trợ.   Tài liệu Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh xác nhận điều mà chúng ta đã suy diễn là VNDCCH - cũng như Quốc Gia Việt Nam/Việt Nam Cộng Hòa (QGVN/VNCH) - đã bị chi phối quá nhiều bởi chính trị đại cường và do đó đã không theo đuổi được chính sách độc lập.   Bài viết này phần lớn nhìn vào sách lược của Bắc Kinh tại Hội Nghị Genève trong nỗ lực củng cố và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc như là một đại cường đang bước chân vào diễn đàn quốc tế. Có thể nói, đây là sách lược mà Bắc Kinh theo đuổi liên tục trong 60 năm qua, kể cả trong vấn đề tranh chấp Biển Đông với Việt Nam hiện nay. Bối Cảnh Hiệp Định Genève 1954 giữ vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời hậu bán thế kỷ thứ 20 khi mà cuộc chiến tranh lạnh đang ở mức độ cao. Nhưng lý do dẫn đến sự chia cắt đất nước Việt Nam vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 bắt nguồn từ những biến cố lịch sử trong và sau Thế Chiến Thứ Hai, đặc biệt là tại Hội Nghị Potsdam. 1954... DI CƯ VÀO NAM TÌM TỰ DO.   Sau khi đã đánh bại Đức Quốc Xã và trước khi Nhựt Bản đầu hàng, lãnh đạo đồng minh gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Xô đã họp Hội Nghị tại Potsdam từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8 năm 1945 để qui định việc phân chia quyền lực và vùng ảnh hưởng trong thời hậu chiến. Việt Nam không phải là một vấn đề lớn trong chương trình nghị sự. Phe đồng minh quyết định trao quyền giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến thứ 16 trở ra Bắc cho Trung Hoa Dân Quốc (quân đội Tưởng Giới Thạch) và từ vĩ tuyến thứ 16 (từ phía nam Đà Nẳng) trở vào Nam cho Anh Quốc. Cũng tại Hội Nghị nầy, phe đồng minh đã chấp nhận lời yêu cầu của đại diện nước Pháp vừa được giải phóng, để Pháp có thể tiếp thu trở lại thuộc địa Đông Dương. Đây là một quyết định tai hại cho Việt Nam và đi ngược lại trào lưu dân tộc tự quyết trong vùng Đông Nam Á. Tướng Charles de Gaulle, được coi là anh hùng tranh đấu cho nền tự do của nước Pháp, nhưng trong vấn đề Đông Dương, Tướng de Gaulle là một tên thực dân không hơn không kém. Mặc dầu một hiệp ước sơ bộ được ký kết ngày 06.03.1946 với chính quyền Hồ Chí Minh, cuộc chiến Việt-Pháp đã không thể tránh được và trở nên khốc liệt hơn kể từ cuối năm 1949, sau khi Mao Trạch Đông chiếm Bắc Kinh và thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Quốc). Khối cộng sản (Liên Xô và Đông Âu) - và đặc biệt là Trung Quốc đã trở thành hậu phương lớn tiếp viện ồ ạt chiến cụ, và gởi cố vấn tham chiến tại Việt Nam. Năm 1952, Đại tướng Dwight D. Eisenhower đắc cử tổng thống Mỹ và vào giữa năm 1953, Washington ủng hộ Kế hoạch Navarre của Pháp nhằm thực hiện chiến lược mới và xúc tiến việc thành lập quân đội QGVN. Trong kế hoạch mới nầy, Điện Biên Phủ, một tỉnh lẻ tại vùng biên giới Lào-Việt được chiếm lại và tạo dựng thành một căn cứ quân sự với một lực lượng quân đội Liên Hiệp Pháp khoảng 10 ngàn người. Cũng vào giữa năm1953, chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) tạm thời được ngưng bắn (armistice) chính thức vào ngày 27 tháng 7. Phương thức ngưng bắn nầy được coi là có thể áp dụng tại Đông Dương. Có lẽ vì thế mà vào ngày 25.01.1954, tại Berlin, Hội Nghị Ngoại trưởng Tứ Cường (Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô) bày tỏ ý định triệu tập một hội nghị về Triều Tiên và Đông Dương tại Genève vào ngày 26 tháng 4 cùng năm. Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô gởi mật điện yêu cầu Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc thông báo và khuyến khích VNDCCH tham dự [1]. Cũng theo mật điện nầy, Liên Xô tin rằng QGVN, Lào và Cao Miên sẽ đồng ý tham dự. Mật điện nầy không nói lý do tại sao Liên Xô tin như vậy, nhưng một chi tiết ít khi được nhắc đến là Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm tham dự Hội Nghị Berlin với tư cách quan sát viên [2]. Theo một chiến lược cố hữu ‘vừa đánh vừa đàm’ mà Chu Ân Lai đề cập trong Bản Nhận Định và Đề Nghị trình Ủy Ban Trung Ương trước khi Hội Nghị Genève bắt đầu, và để tạo thế mạnh chính trị trước hoặc trong khi Hội Nghị Genève được triệu tập, Việt Minh tập trung một lực lượng hùng hậu nhằm bao vây Điện Biên Phủ. Vào tháng 3 năm 1954, tương quan quân số đôi bên là 50 ngàn chống 10 ngàn, tức là Tướng Võ Nguyên Giáp, dưới sự cố vấn của Đại Tướng Trung Cộng Trần Canh [3], có ưu thế gấp 5 lần nhiều hơn. Ngày 07.05.1954, Điện Biên Phủ thất thủ và tạo một ảnh hưởng chính trị lớn tại Paris vượt xa giá trị quân sự của tỉnh lẻ nầy. Bộ đội Việt Minh thiệt hại khoảng 8 000 nhân mạng so với khoảng 1500 của quân đội Liên Hiệp Pháp. Bảo Đại nói rằng sự thất thủ của Điện Biên Phủ chẳng phải là một tai họa chiến lược gì [4]. Nhưng mục tiêu của Việt Minh không phải, hoặc không chỉ là quân sự – mà là ảnh hưởng chính trị tại các thủ đô phương Tây. Mười bốn năm sau, Hà Nội đã mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 tại VNCH và đã thất bại nặng nề về mặt quân sự, nhưng lại chiến thắng về mặt chính trị tại Washington, dẫn đến Hòa Đàm Paris sau đó. Một ngày sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị Genève được khai mạc để thảo luận vấn đề Đông Dương (Hội Nghị đã bắt đầu từ 29 tháng 4, để thảo luận vấn đề Triều Tiên) Sự Kiện: Hội Nghị Genève về Đông Dương được triệu tập ngày 08.05.1954 và kết thúc vào quá nửa đêm ngày 20.07.1954 tức là ngày 21.07.1954.   Đồng Chủ tịch Hội Nghị là Anh Quốc và Liên Xô và thành phần tham dự gồm: Anh Quốc/United Kingdom: Anthony Eden, Bộ trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ/United States: General Walter Bedell Smith, Thứ trưởng Ngoại Giao U. Alexis Johnson Trung Quốc/People's Republic of China Chu Ân Lai/Chou En-lai, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại Giao Chang Wen-t'ien Li K'e-nung Việt Minh Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Ngoại Giao Ai Lao/Laos Phoui Sananikone, Bộ trưởng Ngoại Giao Liên Xô/USSR Vyacheslav Molotov, Bô trưởng Ngoại Giao Pháp/France Georges Bidault, Bộ trưởng Ngoại Giao (đến ngày 17.06.1954) Jean Chauvel Pierre Mendès-France, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại Giao (từ ngày 17.06.1954) Việt Nam Giáo sư Nguyễn Quốc Định, Bộ trưởng Ngoại Giao (trong chính phủ Bửu Lộc) Nguyễn Đắc Khê, Bộ trưởng (trong chính phủ Bửu Lộc) Bác sĩ Trần Văn Đỗ, Bộ trưởng Ngoại Giao (trong chính phủ Ngô Đình Diệm) Cao Miên/Cambodia Tep Phan, Bộ trưởng Ngoại Giao Sam Sary   Trong thành phần này, Việt Nam là nước duy nhất có hai phái đoàn đại diện cho hai chính phủ thù địch là QGVN và VNDCCH. Pathet Lào và cộng sản Khmer, mặc dầu được phe cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc và Việt Minh) ủng hộ, nhưng vẫn không được mời tham dự Hội Nghị. Thế nhưng, không phải vì thế mà họ bị bỏ quên, vì Molotov, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng lúc nào cũng nêu vai trò của phe cộng sản tại Ai Lao và Cao Miên với đòi hỏi là Hội Nghị phải giải quyết chung vấn đề cho cả 3 nước Đông Dương. Hai phái đoàn Ai Lao và Cao Miên lập luận rằng vấn đề Ai Lao và Cao Miên khác với vấn đề Việt Nam, nên cần có giải pháp riêng. Tuy lập trường nầy được phe phương Tây ủng hộ, sau cùng quan điểm của phe cộng sản được chấp nhận. Việt Nam có 3 trưởng phái đoàn liên tiếp, vì các thay đổi chính phủ tại Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Quốc Định là Bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Bửu Lộc (11.01 – 16.06.1954) và Ông Nguyễn Đắc Khê cũng là Bộ trưởng (phụ trách vấn đề dân chủ hoá) trong chính phủ Bửu Lộc. Còn Bác sĩ Trần Văn Đỗ là Bộ trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Ngô Đình Diệm đầu tiên và thứ nhì (16.06.1954 – 23.10.1955). Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 10 năm 1955, Ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống VNCH [5]. Trong thời gian Hội Nghị, Pháp cũng có thay đổi chính phủ: Chính phủ của Thủ tướng Joseph Laniel mà Bộ trưởng Ngoại Giao là Ông Georges Bidault bị phe nhóm trung tả của Ông Pierre Mendès-France đánh bại tại Quốc Hội. Ngày 17.06.1954, Ông Mendès-France trở thành Thủ tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao và thay thế Ông Bidault tại Hội Nghị Genève. Đây là biến chuyển chính trị vô cùng tai hại cho QGVN, như chúng ta sẽ phân tích ở phần sau của bài này. Hội nghị Genève thảo luận hai vấn đề chính là Triều Tiên và Đông Dương, nhưng đã dành phần lớn thì giờ cho Đông Dương hơn, vì Triều Tiên đã được ngưng bắn trong khi chiến cuộc vẫn tiếp diễn tại Việt Nam trong suốt thời gian Hội Nghị. Bài nầy chỉ chú trọng vào vấn đề Việt Nam tại Genève mà thôi. Ngoài diễn đàn chính tại Genève, đại diện quân sự đôi bên còn nhóm họp tại Trung Giã (Tỉnh Phúc Yên), từ ngày 4 đến 27 tháng 7 để bàn thảo về những vấn đề kỹ thuật như việc hạn chế hoạt động quân sự, rút quân, tập kết, trao đổi tù binh vv… Riêng về Việt Nam, Hội Nghị kết thúc với một Hiệp Định (Accords sur la cessation des hostilités en Indochine, Accords de Genève 1954 (20 juillet 1954) và Một Lời Tuyên Bố Sau Cùng (The Final Declaration of The Geneva Conference: On Restoring Peace in Indochina, July 21, 1954). Hiệp Định gồm 47 điều với hai bản văn chính thức bằng tiếng Pháp và tiếng Việt được ký bởi Thiếu tướng Henri Delteil, đại diện Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương và Ông Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc Phòng của VNDCCH. Một vấn đề còn tranh cãi Sáu mươi năm đã trôi qua, nhưng vấn đề tồn đọng và còn được tranh cãi là hiệu lực và tính cách ràng buộc của Lời Tuyên Bố Sau Cùng. Văn kiện nầy chỉ được vị đồng Chủ tịch Anthony Eden đọc lên trước khi Hội Nghị bế mạc [6] và không ai ký tên vào bản văn cả. Hoa Kỳ không phải là thành viên kết ước, nhưng tuyên bố tôn trọng Hiệp Định. QGVN từ chối ký tên và Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phát biểu rõ rệt là Việt Nam chống đối hoàn toàn giải pháp chia cắt đất nước. Vì vậy, mặc dầu Lời Tuyên Bố của Trưởng Phái Đoàn Trần Văn Đỗ không được chính thức ghi vào văn bản, nhưng không ai có thể coi là QGVN/VNCH chấp nhận kết quả của Hội Nghị Genève, kể cả Lời Tuyên Bố Sau Cùng. Tại Thủ đô Sài Gòn, Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên tiếng chống đối mạnh mẽ việc đặt nửa phần đất nước dưới chế độ cộng sản và cờ rủ được treo khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam từ phía nam Sông Bến Hải, như là ngày tang cho tổ quốc. Trong cốt lõi, Lời Tuyên Bố Sau Cùng gồm hai điểm quan trọng. Thứ nhất là vĩ tuyến 17 là ‘ranh giới quân sự tạm thời’ chớ không phải là ‘một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ’(đoạn 6). Và thứ hai là tổng tuyển cử dự trù được tổ chức 2 năm sau, tức là vào tháng 7 năm 1956, để thống nhất Việt Nam (đoạn 7). Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một văn kiện chính trị, bày tỏ ý muốn của phe cộng sản (Liên Xô, Trung Quốc và VNDCCH) và được Anh và Pháp đồng ý, nhưng ước muốn tự nó không thể có hiệu lực cưỡng hành như một hiệp ước. Phe cộng sản và một số tác giả phương Tây bằng vào các lời cam kết tôn trọng Hiệp Định Genève mà kết luận rằng Lời Tuyên Bố Sau Cùng là một phần của Hiệp Định và có tính cách ràng buộc. VNCH, thể chế chính trị kế thừa QGVN, không đồng ý với quan điểm nầy. Trên nguyên tắc, Tổng thống Ngô Đình Diệm không chống đối một cuộc tổng tuyển cử tự do và được Liên Hiệp Quốc giám sát. Không ai – kể cả những chính phủ và các tác giả ủng hộ phe cộng sản – có thể lập luận rằng bầu cử tự do có thể được tổ chức tại Bắc Việt trong năm 1956. Đấy là một chế độ độc tài toàn trị, do guồng máy công an kiểm soát chặt chẽ từng nhà bằng phương thức hộ khẩu, mô phỏng theo chế độ Mao Trạch Đông. Trái lại, Nam Việt Nam là một chế độ tự do, tuy chưa hoàn hảo. Người ta có khuynh hướng so sánh chế độ tự do tại VNCH với chế độ dân chủ Tây Âu và Bắc Mỹ, trong khi vì hoàn cảnh lịch sử, VNCH đáng lẽ phải được so sánh với các nước vừa được độc lập sau Thế Chiến Thứ Hai như Indonesia và Philippines – là những quốc gia non trẻ tập tễnh trên con đường dân chủ đầy chông gai. Điều trớ trêu là ông Hồ Chí Minh không bị chỉ trích vì chế độ độc tài toàn trị ở Miền Bắc, mà Ông Ngô Đình Diệm lại bị đả kích vì chế độ tự do tại Miền Nam ‘thiếu dân chủ’. Điển hình cho khuynh hướng nầy là tác giả Joseph Buttinger, thoạt đầu là một người bạn nhưng sau đó trở thành một người chỉ trích dữ dội ông Ngô Đình Diệm [7]. Người ta cũng thường trích dẫn nhận xét của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, theo đó ông Hồ Chí Minh có thể thắng trong một cuộc bầu cử tự do. Ngoài lý do nhận xét nầy thường được trích dẫn bên ngoài văn mạch (out of context) khi Tổng thống Mỹ so sánh ông Hồ Chí Minh với cựu Hoàng Bảo Đại, nhận xét này còn phải được hiểu, trong bối cảnh thực tế của năm 1956 khi Miền Bắc đông dân hơn Miền Nam. Bởi vậy, cho dầu 100% dân chúng Miền Nam ủng hộ ông Ngô Đình Diệm – một scenario không thể xảy ra bắt cứ tại đâu bên ngoài khối cộng sản – ông Hồ Chí Minh vẫn có thể đạt được đa số [8]. Còn việc giám sát của Liên Hiệp Quốc thì sao? Lập trường xuyên suốt của QGVN/VNCH là Liên Hiệp Quốc phải có vai trò chính trong việc giám sát cuộc đình chiến cũng như trong vấn đề tổ chức bầu cử tự do. Tại sao phe cộng sản tại Hội Nghị Genève cũng như sau Hội Nghị luôn luôn từ chối sự giám sát của Liên Hiệp Quốc trong vấn đề chấm dứt chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại Viêt Nam? Trước kia, chúng ta có thể suy đoán, nhưng ngày nay chúng ta có thể tìm được lý do trong số 80 công điện và phúc trình mật và tối mật mà Chu Ân Lai gởi về Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và được Bộ Ngoại Giao Bắc Kinh phổ biến hạn chế hồi năm 2004. Bằng chứng cũng có thể tìm thấy trong các nhật ký của Molotov trong số 8 văn kiện mật mà Moscow đã phổ biến. Phe cộng sản – cá biệt là Bắc Kinh – rất e ngại vấn đề Việt Nam được quốc tế hóa mà Bắc Kinh coi là con đường dẫn đến sự tham dự của Hoa Kỳ [9]. Liên Xô còn có thêm một lý do khác để chống đối sự tham dự của Liên Hiệp Quốc. Trong vấn đề Triều Tiên, Moscow đã không sử dụng quyền phủ quyết khi Hội Đồng Bảo An quyết nghị can thiệp, dẫn đến sự tham chiến quốc tế do Mỹ lãnh đạo trong cuộc chiến Triều Tiên (1950 - 1953). Trong vấn đề giám sát của Liên Hiệp Quốc, ông Hồ Chí Minh (mà các văn kiện mật và tối mật của Bắc Kinh và Moscow thường gọi với bí danh là “Comrade Ding/Đồng chí Ding”) tuân theo đường lối của hai đàn anh cộng sản. Ngày nay, trong bối cảnh khác và tác nhân tranh chấp khác – tức là giữa Trung Quốc và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hoặc với Philippines, Bắc Kinh cũng chống đối việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, dầu là dưới hình thức trước Tòa Án Quốc Tế hay dưới hình thức thương thuyết đa phương, mà mục đích là để ngăn ngừa sự tham dự của Mỹ. Một lập luận khác cũng thường được nêu lên là vì Pháp chấp nhận thi hành Hiệp Định Genève kể cả Lời Tuyên Bố Sau Cùng, nên QGVN/VNCH cũng bị ràng buộc và phải thi hành. Cơ sở của lập luận nầy là (a) QGVN chưa hoàn toàn độc lập trong Liên Hiệp Pháp, và (b) Pháp hành xử thẩm quyền ngoại giao thay cho QGVN tại Hội Nghị Genève. Luận điệu nầy không đúng. Việt Nam là một quốc gia độc lập và thống nhất Nam Bắc Trung theo Bản Tuyên Bố Chung Việt-Pháp tại Vịnh Hạ Long ngày 05.06.1948 và được chính thức xác nhận bởi Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ngày 08.06.1949. Trên cơ sở hai văn bản nầy, thì QGVN quả thật chưa hoàn toàn độc lập về phương diện tài chánh và ngoại giao. Thế nhưng, giới hạn cuối cùng nầy đã được tháo gỡ bởi Hiệp Ước Việt-Pháp mà Thủ tướng Bửu Lộc và Thủ tướng Joseph Laniel đã ký ngày 04.06.1954. Tại Hội Nghị Genève, Việt Nam là một quốc gia hoàn toàn độc lập và được ít nhất là 35 quốc gia khác trên thế giới công nhận từ năm 1949 đến năm 1955 so với 26 quốc gia có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc trong cùng khoảng thời gian ấy [10]. Quan điểm của Sài Gòn là VNCH không bị ràng buộc bởi Lời Tuyên Bố Sau Cùng là có cơ sở. Phân Tích: chính trị đại cường ‘Chính trị đại cường’ hay chính trị nước lớn là một nhóm chữ đơn giản nhưng không thể hiện được sự phức tạp trong quan hệ Anh-Pháp-Mỹ từ phía ‘đồng minh’ phương Tây. Từ phía cộng sản, quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow chưa có gì gây cấn và được coi là rất đầm ấm, vào thời điểm 1954 vì Trung Quốc, chỉ sau 5 năm thành lập, còn phải học hỏi nhiều từ Liên Xô về mặt ngoại giao trên diễn đàn quốc tế. Nhưng không phải vì sự khác biệt trong nội bộ cường quốc phương Tây và trong nội bộ cường quốc cộng sản mà hai phía đối nghịch Việt Nam không phải đối diện với nhiều khó khăn tại Hội Nghị. Đáng ngạc nhiên là những khó khăn này lại giống nhau, tức là những khó khăn với chính ‘đồng minh’của mình. Dị biệt giữa Washington, London và Paris sâu đậm và phức tạp hơn, nên QGVN đã không thể vượt qua những trở lực tại Hội Nghị và sau cùng đã phải chịu thất bại nặng nề hơn là VNDCCH [11]. Khởi thủy, lập trường của hai phe đối nghịch Việt Nam đều chống đối giải pháp chia cắt đất nước. Thế nhưng trong khi QGVN nhất quán duy trì lập trường bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ, thì VNDCCH đã không cưỡng lại được sức ép của Trung Quốc và Liên Xô nên phải chấp nhận giải pháp chia đôi. Chia đôi Việt Nam là giải pháp mà Moscow và Bắc Kinh chủ trương rất sớm từ đầu tháng 3 năm 1954. Lần đầu tiên bước vào sân khấu chính trị thế giới nên Bắc Kinh đã chuẩn bị rất kỹ. Chính Thủ tướng Chu Ân Lai đã soạn thảo chính sách chỉ đạo mà Ban Bí Thư Ủy Ban Trung Ương đã cứu xét và chấp thuận ngày 02.03.1954 [12]. Theo tài liệu quan trọng nầy, Trung Quốc đánh giá cao thành công của Liên Xô trong việc vận động triệu tập Hội Nghị Genève và coi việc tham dự của Trung Quốc là một bước tiến lớn, mặc dầu các cường quốc ‘phản động’ không tin là Hội Nghị có thể đạt kết quả gì. Bởi vậy, chính sách của Trung Quốc là phải tham dự̣ để cải thiện thể đứng ngoại giao và phá vỡ âm mưu gây chiến của ‘đế quốc Mỹ’. Trung Quốc phải nỗ lực đạt kết quả, dầu là kết quả giới hạn hoặc tạm thời, để mở đường cho việc giải quyết tranh chấp bởi các đại cường. Trung Quốc đã tự coi mình là một đại cường. Đối với Đông Dương, Trung Quốc phải cố gắng để hội nghị không thất bại, và tham dự để, nếu cần, tạo ra tình trạng vừa đánh vừa đàm (“negotiating while fighting”) nhằm gây khó khăn cho Pháp và tạo mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ. Một cách cụ thể, chính sách đã nói rõ là ‘ngưng bắn tại chỗ’ không tốt bằng chia đôi Nam/Bắc có thể là tại vĩ tuyến thứ 16. Chu Ân Lai còn nói thêm là Trung Quốc phải chuẩn bị thảo luận các giải pháp hợp tác kinh tế thương mại để bẻ gẫy phong tỏa của Mỹ - và bên lề hội nghị, cải thiện bang giao song phương với Anh, Pháp và Canada. Trong bản văn này, Chu Ân Lai đã nhận xét chính xác là các cường quốc phương Tây chia rẽ và có nhiều khó khăn chính trị nội bộ. Sự phối hợp giữa phe cộng sản chặt chẽ hơn là phe phương Tây. Ngày 22.04.1954, tại Moscow, Chu Ân Lai thảo luận với Đệ Nhất Bí Thư Nikita Khrushchev và Thủ tướng George M. Malenkov và Liên Xô đồng ý với chính sách của Chu Ân Lai. Khrushchev nói chính sách nầy phải được bảo mật. Khrushchev cho biết là đã tiếp Đồng chí Ding (bí danh của Hồ Chí Minh) và cho biết yêu cầu của Hồ Chí Minh có thể được thỏa mãn (satisfied), nhưng không nói rõ hoặc mật điện không ghi rõ là yêu cầu gì. Mật điện nói thêm là Hồ Chí Minh ghé lại Bắc Kinh để gặp Mao Trạch Đông trên đường về [13]. Một phiên họp quan trọng khác được tổ chức tại Liễu Châu / Liuzhou, Trung Quốc, ngày 04.07.1954 giữa Chu Ân Lai và các phụ tá với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, nhưng nội dung không được tiết lộ trong mật điện [14]. Bề ngoài, Chu Ân Lai có vẻ quan tâm đến uy tín của VNDCCH. Ngoài các phiên họp đặc biệt với Hồ Chí Minh, Chu Ân Lai không bỏ lỡ cơ hội than phiền với các trưởng phái đoàn phương Tây về việc mà ông gọi là “bất bình đẳng” (inequality) trong việc phương Tây phân biệt đối xử giữa QGVN và VNDCCH. Trong cuộc thảo luận với Ngoại trưởng Anthony Eden ngày 14.05.1954, Chu Ân Lai than phiền là Pháp đã không thèm trả lời đề nghị chính trị của Phạm Văn Đồng, vì Pháp chỉ coi QGVN là đại diện cho toàn thể Việt Nam. Theo lời Chu Ân Lai, người đòi hỏi quá nhiều không phải là Hồ Chí Minh mà là Bảo Đại, vì Bảo Đại không những coi mình là lãnh tụ duy nhất của Việt Nam mà còn đòi hỏi Liên Hiệp Quốc bảo đảm Bảo Đại là lãnh tụ duy nhất sau cuộc tổng tuyển cử – một đề nghị mà Moscow và Bắc Kinh đều không chấp nhận. Tất nhiên, Chu Ân Lai cũng không quên đòi hỏi cho chính mình là Trung Quốc xứng đáng được có qui chế của một đại cường [15]. Cũng theo Chu Ân Lai, Ngoại trưởng Georges Bidault chẳng những không công nhận Việt Minh mà còn coi họ là một ‘lực lượng phản loạn’ [16]. Thật vậy, nếu chúng ta có thể chia Hội Nghị Genève làm hai giai đoạn trước và sau ngày 17.06.1954, thì vị thế của phái đoàn QGVN trên chân hẳn phái đoàn VNDCCH trong giai đoạn đầu. Mặc dầu có sự nghi kỵ và khác biệt quan điểm giữa Anh-Pháp-Mỹ, Mỹ và đặc biệt là Pháp ủng hộ QGVN mạnh mẽ. Lập trường sơ khởi của Thủ tướng Joseph Laniel và Ngoại trưởng Georges Bidault không khác gì lập trường của QGVN. Thủ tướng Laniel đã đặt 5 điều kiện ngưng bắn là quân cộng sản phải rút khỏi Miên và Lào, thiết lập một vùng phi quân sự tại Đồng bằng Sông Hồng, di chuyển quân cộng sản tại Việt Nam vào vùng chờ đợi định trước, quân Việt Minh phải rút khỏi Nam Việt và bảo đảm ngăn cấm mọi tăng viện từ bên ngoài [17].   Thế đứng của QGVN sụp đổ cùng với sự sụp đổ của chính phủ Laniel. Ngày 17.06.1954, tân Thủ tướng thiên tả Pierre Mendès-France tuyên bố trước Quốc Hội Pháp rằng điều đình ôn hòa có thể̉ thực hiện được và ngưng bắn có thể đạt được. Tân Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Pháp tự đặt cho mình một thời hạn phải đem lại kết quả là ngày 20.07.1954. Bảo Đại coi đây là lời tuyên bố “lạ lùng” [18], nhưng quan trọng hơn là phái đoàn QGVN tại Genève bị cô lập hoàn toàn kể từ thời điểm nầy.   Vài ngày sau, Chu Ân Lai và Mendès-France gặp nhau lần đầu tiên tại Đại Sứ quán Pháp ở Bern, Thụy Sĩ. Theo phúc trình của Chu Ân Lai ngày 23.06.1954, Mendès- France đã nói rằng nhìn chung, mục tiêu của Trung Quốc và Pháp không có nhiều dị biệt về nguyên tắc. Mendès-France đồng ý với Chu Ân Lai về giải pháp 2 bước: đình chiến về quân sự và tiếp theo sau là giải pháp chính trị. Mendès-France cũng đồng ý với Chu Ân Lai là Pháp sẽ không để Mỹ lập căn cứ quân sự trong vùng [19]. Sự rạn nứt giữa Pháp và Mỹ được xác nhận. Trung Quốc rất lo ngại trước nguồn tin Mỹ thảo luận thành lập tổ chức Liên Phòng Đông Nam Á SEATO mà Chu Ân Lai coi như là một đe dọa cho chính Trung Quốc. Trong cuộc thảo luận nầy, Chu Ân Lai cũng cho biết là Trung Quốc thúc giục VNDCCH tiếp xúc với phái đoàn Pháp và phái đoàn QGVN và yêu cầu Pháp cũng có đề nghị ngược lại với Bảo Đại. Chu Ân Lai tiếp tục lo ngại về khả năng Mỹ thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Nam Á và nêu vấn đề nầy với Anthony Eden và Mendès-France. Eden giải thích rằng SEATO, nếu được thành lập, chỉ là một liên minh phòng thủ (defensive) trong khi đó Mendès-France nhắc lại quan điểm của Pháp là không có kế hoạch thiết lập căn cứ Mỹ trong vùng [20].   Thời hạn 20.07.1954 gần kề nên Mendès-France nỗ lực thu hẹp dị biệt lập trường giữa hai bên. Các đại cường đã đồng ý là thành viên Uỷ Hội Kiểm Soát Đình Chiến bao gồm các nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan. Vấn đề còn lại là Việt Nam sẽ bị chia cắt tại đâu và tổng tuyển cử được ấn định lúc nào? Không khác chi các chuyến ‘đi đêm’ giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ trong thời gian Hòa Đàm Paris vào đầu thập niên 1970, Pháp, Anh, Liên Xô và Trung Quốc cùng đi đêm với nhau mà phái đoàn QGVN không biết và có lẽ phái đoàn VNDCCH cũng không biết rõ [21]. Phái đoàn QGVN chỉ nhận được tin tức đã chậm mà còn không đầy đủ, do phái đoàn Mỹ chuyển lại. Tuy vậy, Trưởng phái đoàn Trần Văn Đỗ cũng gặp được Chu Ân Lai, do sự giới thiệu của phái đoàn Pháp. Một ngày trước khi Hội Nghị kết thúc, Bác sĩ Trần Văn Đỗ lên tiếng cực lực bác bỏ phát biểu của Liên Xô và của Pháp khi cả hai cường quốc nầy đề cập đến sự chia đôi lãnh thổ Việt Nam [22]. Trong khi đó, trái với lập trường nguyên thủy, VNDCCH chấp nhận giải pháp chia đôi. Họ đã từng đề nghị một nơi nào đó giữa vĩ tuyến 13 và 14, nhưng trước sức ép của Liên Xô và Trung Quốc, họ hi vọng đó là vĩ tuyến thứ 16, trong khi Pháp hãy còn đòi hỏi vĩ tuyến thứ 18. Mendès-France nói rằng Pháp không thể chấp nhận vĩ tuyến 16 vì Pháp không thể để cố đô Huế lọt vào tay cộng sản. Tài liệu Liên Xô cũng cho thấy Moscow chấp nhận vĩ tuyến16 rất sớm, từ đầu tháng 3 năm 1954. Thế nhưng Molotov vẫn bênh vực đề nghị vĩ tuyến 13/14 của VNDCCH như là một chiến thuật thương thuyết để sau nầy có cơ hội trao đổi “nhượng bộ”. Cũng theo chiến thuật thương thuyết nầy, Moscow đã ủng hộ thời hạn tổ chức tổng tuyển cử mà VNDCCH muốn đạt được là trong vòng 6 tháng sau khi ngưng chiến. Do sức ép của Liên Xô và Trung Quốc – đặc biệt là Trung Quốc vì Bắc Kinh không muốn Hội Nghị thất bại và Bắc Kinh đang lo Mỹ can thiệp - VNDCCH phải từ bỏ vĩ tuyến 13/14 và phải chấp nhận tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956 [23]. Trong phiên họp ngày 20.07.1954 giữa Chu Ân Lai, Mendès-France và Eden, Mendès-France đề nghị giải pháp dung hòa là vĩ tuyến 17. Phạm Văn Đồng không trả lời [24]. Số phận Việt Nam đã an bài. Tạm Kết Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, nhưng diễn tiến lịch sử tại Hội Nghị Genève 1954 có thể cho ta bài học gi? Trái với luận điệu tuyên truyền “môi hở răng lạnh” mà cả Bắc Kinh và Hà Nội đều đã sử dụng, Trung Quốc giúp đỡ phe cộng sản tại Việt Nam trước và sau năm 1954 là vì quyền lợi của Trung Quốc. Trung Quốc coi Hội Nghị Genève là bàn đạp để Trung Quốc xác định vai trò đại cường trên diễn đàn quốc tế. Trung Quốc không muốn Hội Nghị thất bại, vì e ngại sự thất bại ấy có thể dẫn đến sự can thiệp quân sự của Mỹ mà Trung Quốc coi là mối đe dọa cho chính Trung Quốc. Đây là một tầm nhìn chiến lược mà Bắc Kinh không thay đổi trong 60 năm qua. Trong chiến lược nầy, quyền lợi của Việt Nam là thứ yếu. Nhân cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979, Hà Nội lần đầu tiên và chỉ một lần thôi, dám lên tiếng cáo buộc Trung Quốc đã phản bội VNDCCH tại Hội Nghị Genève [25].   Trên 60 năm qua, Việt Nam Thống Nhất hoặc Việt Nam chia đôi đều đã là nạn nhân của ván bài chính trị đại cường. Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sẽ tiếp tục vướng mắc trong chính trị nước lớn, nếu Hà Nội tiếp tục gắn bó trong mối quan hệ đặc biệt và bất bình đẳng với Bắc Kinh như được diễn đạt dưới chiêu bài 16 chữ vàng và 4 tốt. Trong thế giới đa cực ngày nay, quyền lợi lâu dài của tổ quốc Việt Nam là bang giao độc lập và bình đẳng với tất cả các cường quốc. L.T.Q. Tài liệu tham khảo: [1960] Anthony Eden, The Memoirs of the Rt. Hon. Sir Anthony Eden, Cassell, London. [1968] Dennis J. Duncanson, Government and Revolution in Vietnam, Oxford University Press, London. [1977] Joseph Buttinger, Vietnam the Unforgettable Tragedy, Andre Deutsch, London. [1990] Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam – Hồi Ký Chánh Trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, Xuân Thu Publishing phát hành, Los Alamitos, CA, USA. Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project No.16, The Geneva Conference of 1954 – New Evidence from the Archives of the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China [80 documents]. Bằng chứng mới nầy gồm 80 công điện mật hoặc tối mật mà phần lớn do Chu Ân Lai tường trình về Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản. Đây chỉ là một số tài liệu của Bộ Ngoại Giao tại Bắc Kinh và một số còn bị cắt xén. Toàn bộ tài liệu của Bộ Ngoại Giao chưa được công bố. Tài liệu của Bô Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tức là cơ quan đầu não quyết định chính sách, thì hoàn toàn chưa được công bố. (Trong phần Ghi Chú sẽ là Tài liệu PRC [Doc no…] ngày…). Woodrow Wilson Center, Cold War International History Project No.16, The Geneva Conference of 1954 – Russian Documents on the 1954 Geneva Conference [8 documents]. Từ phía Liên Xô, có 8 tài liệu mà phần lớn là Nhật Ký mật (secret Journal) của V. M. Molotov và do các phụ tá của Molotov ghi lại dưới hình thức tóm lược. (Trong phần Ghi Chú sẽ là Tài liệu USSR [Doc no…] ngày…). [1971] The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954" (Boston: Beacon Press, 1971) Section 1, pp 108-146. [1971] The Pentagon Papers, Gravel Edition Volume 1, Chapter 3, "The Geneva Conference, May-July, 1954" (Boston: Beacon Press, 1971) Section 2, pp 146-178. Ghi Chú: [1] Tài liệu PRC [Doc 1] - Mật Điện do Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô gởi Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc qua Đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh ngày 26.02.1954. (“Previously we already informed you that “other related countries” in Indochina, according to our understanding, should be the Democratic Republic of Vietnam and the…Chief (Quoc Truong)] Bao Dai’s [State of] Vietnam, Laos and Cambodia. We know that the Vietnamese friends are concerned about the convening of the Geneva Conference, and whether they will attend the conference. We believe that the CCP Central Committee will agree to our opinion.”). [2] Bảo Đại, trang 499. [3] Wikipedia Tiếng Việt: Trần Canh (Chen Geng; 1903 -1961), là một Đại tướng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và là một trong những tướng lãnh được Mao Trạch Đông tin cậy nhất. Ông đã từng giữ chức Thứ trưởng Quốc phòng. Ông là Trưởng Phái bộ Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc của Việt Minh từ ngày 07.07.1950. [4] Bảo Đại, trang 510. [5] Bảo Đại, trang 500, 518, 527, 538-539. [6] Eden, trang 24. [7] Buttinger, trang 53-69 (trao đổi thư riêng giữa tác giả và Tổng thống Ngô Đình Diệm). [8] Duncanson, trang 223-224. [9] Tài liệu PRC: - [Doc 3] Mật điện của Đại sứ Trung Quốc tại Moscow phúc trình về Bộ Ngoại Giao tại Bắc Kinh, ngày 06.03.1954 (“Molotov emphasized that the United Nations should not be allowed to get involved”). - [Doc 25] Mật điện Chu Ân Lai gởi Mao Trạch Đông ngày 04.06.1964 (“Bao Dai’s delegate said at yesterday’s eleventh restricted session on the Indochina issue that only the United Nations could take charge of the task of supervising. Bidault spoke to support Bao Dai’s delegate…I made statements not only resolutely opposing the United Nations supervision…”). – [Doc 46] Biên bản thảo luận giữa Chu Ân Lai và Thủ tướng Pháp P. Mendès-France tại Đại Sứ quán Pháp ở Bern ngày 23.06.1054 (Chu Ân Lai nói với Mendès-France: “The Bao Dai government should approach the Democratic Republic of Vietnam through discussions and negotiations, instead of opposing it. Unfortunately, his [Bao Dai’s] political proposal aims exactly at opposition, hegemony, and at inviting the United Nations to intervene. This is unacceptable…”). [10] Wikipedia Tiếng Việt: Quốc Gia Việt Nam / État du Vietnam & Zhang Sulin (Ministry of Foreign Affairs Archives, Beijing) – The Declassification of Chinese Foreign Ministry Archival Documents – A Brief Introduction (page 11) Tuy nhiên, bài nầy không thảo luận chi tiết về tư cách quốc gia của Bắc Việt và Nam Việt Nam theo Công Pháp Quốc Tế. [11] Xem The Pentagon Papers có phần tóm lược đầy đủ về lập trường và mục tiêu của các nước tham dự Hội Nghị Genève 1954. [12] Tài liệu PRC [Doc 2] Trích dẫn nhận định và chính sách do Chu Ân Lai soạn thảo và được Ban Bí Thư Ủy Ban Trung Ương chấp thuận ngày 02.03.1954. [13] Tài liệu PRC [Doc 6] Mật điện Chu Ân Lai gởi Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Ủy Ban Trung Ương, ngày 23.04.1954. [14] Tài liệu PRC [Doc 64] - Mật điện Chu Ân Lai gởi Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Uỷ Ban Trung Ương tường trình phiên họp tại Liễu Châu / Liuzhou với Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp ngày 04.07.1954. Phiên họp nầy quan trọng vì bao gồm chính sách và thủ tục thương thuyết tại hội nghị cũng như chính sách và chiến thuật của Đảng Lao Động Việt Nam (“The question of negotiation—including policies, procedures, timing and supervision; the policies and tactics of the Vietnamese Workers Party in the future and the tendencies that are in need of attention”). Tuy nhiên, nội dung không được ghi trong mật điện. Tài liệu USSR [Doc 2] Trong cuộc hội kiến với Xử Lý Thường Vụ Liên Xô tại Bắc Kinh ngày 05.07.1954, Mao Trạch Đông cũng nói về cuộc thảo luận giữa Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh tại Liễu Châu / Liuzhou nhưng báo cáo của Xử Lý Thường Vụ Liên Xô cũng không ghi nhận nội dung Liễu Châu. [15] Tài liệu PRC [Doc 13] – Biên bản thảo luận Chu Ân Lai /Anthony Eden, ngày 14.05.1954 - Zhou Enlai:...“I meant that France had not answered Mr. Pham Van Dong’s political proposal, while only recognizing Bao Dai as representing all of Vietnam and unifying Vietnam under him. This is a completely unreasonable thought.”… Zhou Enlai: “China deserves the status of a great power. This is an existing fact. We are willing to work with others for world peace, particularly for peace in Asia….”… Zhou Enlai: “I think that the person who is asking too much is not Ho Chi Minh but Bao Dai. In their proposal, the delegates from the State of Vietnam not only asked that Bao Dai be recognized as the only leader of Vietnam, but also that the United Nations guarantee Bao Dai’s status as Vietnam’s only leader after the elections. Ho Chi Minh has made no such demands.”... [16] Tài liệu PRC [Doc 9] ngày 09.05.1954. [17] Tài liệu PRC [Doc 27] 05.06.1954 Biên bản (Tối Mật) thảo luận giữa phái đoàn Trung Quốc và phái đoàn Pháp Wang/Chauvel [Editor’s Note: French Prime Minister Joseph Laniel had demanded five conditions for a ceasefire: withdrawal of all communists from Cambodia and Laos, creation of a demilitarized zone aroundthe Red River Delta, relocation of communists in Vietnam into predetermined standing zones, removal of all Viet Minh troops in south Vietnam, and guarantees against reinforcements from abroad]. [18] Bảo Đại, trang 516. [19] Tài liệu PRC [Doc46] Thảo luận Chu Ân Lai / Mendès-France tại Đại Sứ quán Pháp, Bern, Thụy Sĩ ngày 23.06.1954 – Mendès-France: “...Generally speaking, [our] goals are not much different in principle….There is one more final point. I am glad the Premier made such a suggestion: it is the best to go through two steps. The first is a cease-fire, and the second is a political settlement…This is a practical solution, it should be reached quickly…There is another important point. The Premier raised a concern about establishing American military bases. I fully agree on this point. I want to make it clear that we don’t intend to establish any American bases in that region. We don’t have such a plan…”. Zhou Enlai: “…You had a very good answer to my last point. France has no intention to establish any American bases. This is very good not only for the three countries, but also good for China, France, and Southeast Asia. All of us hope for a peaceful co-existence and for building a common foundation for the future…”. [20] Tài liệu PRC - [Doc 68] Thảo luận Chu Ân Lai / Anthony Eden ngày 13.07.1954. - [Doc 71] Thảo luận Chu Ân Lai / Mendès-France ngày 17.07.1954. Và Tài liệu USSR [Doc 5] Thảo luận giữa Molotov, Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng ngày 16.07.1954 – “Zhou Enlai says that according to information available to him Britain is taking vigorous action to create an alliance of countries in Southeast Asia which would be tied to one another by a system of treaties of the Locarno type. The US is trying to counter the British plan with their own plan. They are relying on the basis of an alliance of the five powers taking part in a meeting in Singapore and creating a military bloc under their aegis including Thailand, Pakistan, Bao Dai’s Vietnam, Laos, and Cambodia, in addition to these five countries. Zhou Enlai said that we ought to oppose the creation of military blocs in Asia, taking advantage the existing differences between the US and Britain in doing this. Molotov and Pham Van Dong express their agreement with the opinion of Zhou Enlai.” [21] Tài liệu PRC [Doc 44] ngày 22.06.1954 – Chauval nói với Chu Ân Lai rằng Pháp và Trung Quốc làm viêc chung với nhau và cả hai phái đoàn cần duy trì sự họp tác bí mật nầy (secret co-operation). [22] Tài liệu PRC [Doc 73] ngày 19.07.1954. [23] Tài liệu USSR - [Doc 1] Journal of Molotov (secret) – Thảo luận với Đại Sứ Trung Quốc tại Moscow ngày 06.03.1954. - [Doc 3] Journal of Molotov (secret) Thảo luận tay đôi với P. Mendès-France. [24] Tài liệu PRC [Doc 78] Mật điện ngày 20.07.1954 tường trình phiên họp ngày 19.07.1954 giữa Chu Ân Lai, Mendès-France và Anthony Eden. [25] Socialist Republic of Vietnam, The Truth about Vietnam-China Relations over the last 30 Years, Hanoi, Ministry of Foreign Affairs, 1979. CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội, 1979, trang 17-21: Phần Thứ Hai - Chương III- Hiệp Định Giơnevơ Năm 1954 Về Đông Dương Và Sự Phản Bội Của Những Người Lãnh Đạo Trung Quốc. -/- Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

60 năm Geneva, nghĩ về cuộc hội ngộ vẫn còn dang dở

Hôm nay là ngày 20/7. "Hai mươi tháng bảy, toàn dân Nam nhớ thương" .... Mỗi lần đến ngày này, tôi lại nhớ đến câu hát ấy, được lấy trong một bài hát về "ngày quốc hận" dưới thời VNCH mà giờ đây hình như không còn ai biết đến nữa. Vâng, 20/7 được xem là ngày quốc hận vì cách đây đúng 60 năm, một cuộc chia lìa vĩ đại trong lịch sử VN đã được định đoạt, kéo theo 21 năm chiến tranh triền miên với bao nhiêu máu xương đổ xuống hai miền để đất nước thống nhất vào năm 75. Pháp và Việt Minh ký Hiệp Định Genève   Còn nhỏ khi học sử dưới thời VNCH thì tôi nghe người ta lên án miền Bắc cộng sản vì đã ký vào Hiệp định chia đôi đất nước, đưa chủ nghĩa cộng sản vào VN gây cảnh chia lìa và chiến tranh tang tóc, để cả nước phải chịu cảnh "đêm sông Hương nhung nhớ, ngày Cửu Long mơ ... mơ một ngày Hồng Hà góp hội trùng dương" như trong lời một bài hát của TCS. Đối với người miền Nam lúc ấy, nước Mỹ là một đồng minh giúp VNCH xây dựng một chế độ tự do dân chủ tại một nửa đất nước, nền dân chủ ấy tất nhiên là còn rất non trẻ và vô cùng khó khăn (vì sự quấy phá liên tục không ngừng nghỉ bằng vũ lực của Việt Cộng với sự hỗ trợ của miền Bắc, với sự ra đời của Mặt trận giải phóng miền Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng Lao Động VN ngay từ năm 1960 khi Mỹ chưa hề trực tiếp đặt chân vào miền Nam). Chỉ mới 21 năm, nhưng  VNCH cũng đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận và có một số thành tựu về kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục y tế .... Nhưng sau ngày "giải phóng" thì HĐ Geneva đã xuất hiện với những ý nghĩa khác hẳn: Ta chiến thắng vẻ vang, Mỹ thay chân Pháp tiếp tục xâm lược, ta bắt đầu cuộc chiến tranh thần thánh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đánh đổ hoàn toàn chế độ ngụy quyền SG .... (trong đó tất nhiên có cha tôi và rất nhiều người dân ở miền Nam, vì làm sao có thể khác?) Quay lại giai đoạn 1954-1955. Cha mẹ tôi, lúc ấy mới vừa lấy nhau được ít lâu, một người 18 tuổi còn người kia 22 tuổi, sau lưng bỏ lại quê hương, gia đình và chòm xóm để cùng dòng người di cư từ miền Bắc để vào Nam trong chuyến hành trình được đặt tên là "Passage to freedom" - Đường đến tự do. Cái tên mà mãi sau này đọc tài liệu nước ngoài về cuộc chiến VN tôi mới được biết. Cuộc ra đi được so sánh với những người Mỹ đầu tiên rời bỏ nước Anh để đi tìm tự do ở vùng đất xa lạ mà sau này trở thành nước Mỹ. Với tôi, nó giống cuộc Exodus để tìm về miền đất hứa của dân Do Thái hơn. Vì cuộc hành trình đó cũng rất dài và gian lao để xứng đáng gọi là cuộc Exodus của người Việt mà có lẽ đến tận bây giờ vẫn chưa hoàn tất. Lý do cha mẹ tôi vào Nam mà ông bà nội tôi không đi là vì ông bà còn một người con trai - anh ruột của cha tôi - đi theo Việt Minh và mất tích trong thời kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, ông nội tôi muốn ở lại để may ra có thể tìm được bác tôi nếu bác còn sống và lưu lạc ở đâu đó, hoặc nếu đã qua đời thì cũng tìm lại nắm xương đem về chôn cất, để người chết được mồ yên mả đẹp và người sống cũng yên lòng khi thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ.   Quyết định như vậy, nhưng ông tôi lại khuyến khích cha mẹ tôi đi vào Nam sinh sống. Lúc ấy, cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu diễn ra ở nhiều nơi, trong đó có Nam Định là nơi ông bà nội tôi sinh sống. Ngay từ trước năm 75 thỉnh thoảng khi nói chuyện về miền Bắc tôi vẫn nhớ bố tôi nhắc đến ông Trường Chinh, kể rằng ông TC đã về nói chuyện ở làng trong thời gian cải cách ruộng đất, nhớ bố tôi kể chuyện (hình như) chính cha mẹ của ông TC cũng bị mang ra đấu tố, nhớ cả câu chuyện về thói quen của những cán bộ VM là dùng đũa hai đầu, một đầu để ăn còn đầu  kia dùng để gắp cho người khác cho hợp vệ sinh. Những mẩu chuyện tôi nghe thấy lạ lùng nhưng không quan tâm vì không nghĩ nó có bao giờ ảnh hưởng đến cuộc đời mình. Nhưng có ai đoán được tương lai! Cuộc cải cách ruộng đất ấy không làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của ông bà nội tôi vì ông tôi nghèo không có nhiều ruộng, lại có con trai (là bác tôi) theo Việt Minh nên được xem là có công với cách mạng. Dù vậy, ông tôi vẫn cảm thấy chế độ mới có lẽ không phù hợp cho đứa con trai duy nhất còn lại của ông là cha tôi, một anh học trò chân trắng (ông bà tôi tuy làm ruộng nhưng lại muốn cho bố tôi thoát cảnh làm nông dân nên đã cố gắng cho cha tôi lên Hà Nội ăn học). Mẹ tôi là người Hà Nội cũng chỉ biết buôn bán, và chắc chắn là khó sống với chế độ mới, vì quan điểm tư bản là kẻ thù, là phản động, chỉ có lao động chân tay mới là vinh quang, là chân chính, và bần cố nông mới là giai cấp của cách mạng. Những kẻ thuộc thành phần tiểu tư sản như cha mẹ tôi (dù khi lấy mẹ tôi thì cha tôi chẳng có một xu dính túi, chỉ có một chút học hành và sức lao động mong có thể bán cho kẻ nào muốn mua!) thì là thành phần ăn bám, cần phải được cải tạo để sống trong chế độ cách mạng, mà biết có thể cải tạo được chăng! Đi vào Nam, thì may ra còn có cơ hội tìm được nghề sinh sống. Đó là suy nghĩ của ông nội tôi và cha mẹ tôi trong những tính toán rời bỏ quê hương để vào Nam, mà tôi đã nghe được khi cha mẹ tôi nói chuyện với chú (chồng của cô út) sau năm 75 khi miền Bắc đã chiến thắng trong cuộc chiến.   Một lý do khác nữa mà ông tôi khuyến khích cha mẹ tôi vào Nam là vì gia đình tôi là người Công giáo. Lúc ấy, chủ trương vô thần của chính quyền cộng sản thời ấy cộng với sự ác cảm không giấu diếm của cộng sản đối với người Công giáo khiến cho rất nhiều người không muốn ở lại quê hương với chính quyền  cộng sản, dù với họ cuộc ra đi là một cuộc phiêu lưu vô định vào một nơi xa lạ chẳng biết tương lai sẽ đưa họ về đâu. Một quyết định xé lòng, nhưng dường như đối với những người như cha mẹ tôi (và nhiều người công giáo khác) thì không còn lựa chọn nào khác. Sau này, một trong những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của chế độ mới mà tôi đọc được là cuốn Bão biển của Chu Văn, cũng nói về cuộc sống của người Công giáo ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giờ tôi không còn nhớ rõ nội dung nhưng nhớ chắc chắn hình ảnh người Công giáo dưới mắt của tác giả (và tất nhiên nó phản ánh quan điểm chính thống của chính quyền "cách mạng") là vô cùng xấu xí và dĩ nhiên là rất phản động.   Quay trở lại cuộc di cư. Sự chia cắt đau thương của ngày ấy ấy tôi biết được qua những lời mẹ tôi kể về những ngày giằng co để cuối cùng đi đến quyết định di cư, trong đó bố tôi thì nửa muốn đi - vì thanh niên trai tráng, lại cũng có chút chữ nghĩa, cũng muốn tìm cho mình một cơ hội nhiều hơn là ở lại nhà quê với cái nhìn không thiện cảm của chế độ mới và phải tự cải tạo bằng lao động để trở thành một con người chân chính! - nửa lại bịn rịn vì thương ông bà nội tôi, chỉ có hai người con trai thì một bác đã mất mà bố tôi lại bỏ đi vào Nam. Chính vì sự dùng dằng này mà bố mẹ tôi chờ mãi đến gần hết giai đoạn 300 ngày cho phép di chuyển giữa hai miền - Bắc vào Nam, Nam ra Bắc - mới quyết định vào (bố mẹ tôi vào Nam năm 1955), và chuyến đi từ quê Nam Định ra Hải Phòng để lên tàu vào Nam gặp biết bao nhiêu trở ngại vì chính quyền Việt Minh lúc ấy không muốn bị mất dân nên cản trở bằng nhiều cách. Những điều ấy mẹ tôi hay kể cho bọn tôi nghe; bọn tôi nghe thì thấy lạ lẫm nhưng không xúc động vì mình không trải nghiệm. Nhưng điều mà tôi cảm nhận được rất rõ ràng là trong mắt bố mẹ tôi, mà nhất là bố tôi, thì làng quê miền Bắc là một cái gì đó hết sức thơ mộng, với những đêm trăng sáng mọi người quây quần ở ngoài sân hóng gió và kể chuyện cổ tích hoặc chuyện ma, hay cây đa giếng nước ở đầu làng .... Còn với mẹ tôi thì ký ức về miền Bắc là một Hà Nội vô cùng thanh lịch, thiên nhiên thì vô cùng đẹp đẽ với mưa phùn vào dịp Tết, với hoa đào đỏ thắm, với với rất nhiều hồ, nào là hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu, hồ Tây, đương nhiên là phải có hồ Hoàn Kiếm với những cây liễu rủ lơ thơ mà mãi sau này tôi mới thấy lần đầu tiên vào cuối năm 1990 khi ra Hà Nội để nhận học bổng đi học ở Úc vào đầu năm 91. (Nhân nhắc đến việc này cũng tôi xin lạc đề để viết mấy dòng cám ơn nước Úc, chính phủ Úc và nhân dân Úc đã tài trợ cho một đứa con nhà nghèo, lại thêm lý lịch đen như tôi cũng có cơ hội để đi ra bên ngoài ngắm nhìn thế giới, mà lần đầu tiên chỉ đi đến Thái Lan thôi là tôi đã thấy thật shock và vô cùng tủi nhục - nhưng đó là một câu chuyện khác.) Sự thương nhớ của cha tôi còn thể hiện qua việc lưu giữ cẩn thận mấy tấm bưu thiếp in sẵn với một ít chỗ trống để điền vào (giống như bài tập làm văn của lớp một) mà cô ruột tôi gửi vào cho gia đình tôi trong thời gian 2 bên vẫn còn được quyền liên lạc - dù rất hạn chế - trong thời gian chờ "tổng tuyển cử" vào năm 1956. Tất nhiên cuộc tổng tuyển cử ấy không bao giờ xảy ra như mọi người đã biết, và lòng thương nhớ khôn nguôi ấy tôi vẫn chẳng thể nào hiểu được cho đến mãi sau này chính tôi cũng đã trải qua khi lịch sử lặp lại vào năm 1975.   Vâng, ngày 29/4 năm 1975 thì người chị cả và anh kế của tôi cũng cỡ tuổi 18 đôi mươi (chính xác thì chị tôi 20 còn anh tôi chỉ mới 17) lại dắt díu nhau đi "di tản" (à, ai còn trẻ chưa biết thì cần nhớ "di cư" là chuyện của năm 54, còn "di tản" là việc của năm 75). Nhưng không giống năm 54 còn có 300 ngày để bàn bạc, cân nhắc và đi đến quyết định, lần này gia đình tôi và những người khác nữa chẳng có ngày nào mà chỉ là một quyết định tức thời trong "cuộc tháo chạy tán loạn" năm ấy. Anh chị tôi ra đi, để lại cha mẹ tôi và 6 đứa con còn lại mà tôi là đứa lớn nhất, năm ấy chưa đầy 15 tuổi, và một trời thương nhớ lại bắt đầu, bây giờ đã chuyển sang đến thế hệ của tôi. Tôi vẫn nhớ, thực ra ban đầu cha tôi đã đồng ý cả gia đình sẽ cùng đi. Trước đó, theo kế hoạch đã bàn bạc sẵn thì mẹ tôi đã sắp xếp đồ đạc vào túi xách để đem đi di tản. Tôi nhớ mẹ tôi đã chuẩn bị cho anh chị em tôi mỗi người một túi vải với mấy bộ quần áo, một ít lương khô, một ít tiền và 2 cây vàng, phòng hờ  lỡ có đánh nhau to mà lạc mất nhau thì mỗi người cũng còn có thể sống sót ít lâu. Trong nhà tôi có hai chiếc xe gắn máy, một chiếc Vespa Sprint do cha tôi chạy và chiếc xe Honda PC do chị tôi chạy. Kế hoạch của cha tôi là chị tôi chở anh tôi ra cảng SG trước, rồi quay về đón tôi và đứa em kế, còn cha tôi thì đi chiếc xe Vespa chở mấy đứa nhỏ và mẹ tôi chừng vài vòng là hết. Lúc ấy khoảng gần 5 giờ chiều, cha tôi lấy chiếc Vespa Sprint đi một vòng để xem chỗ tàu đậu và nghe ngóng tình hình, bỗng trở về và nói: Ở ngoài đó hỗn loạn lắm, đi ra ngoài đường lúc này vô cùng nguy hiểm, đạn pháo khắp nơi, không biết sống chết thế nào. Thôi, không đi đâu hết, có chết thì cùng ở lại chết với nhau thôi. Đúng ngay lúc ấy thì chị tôi về đón tôi sau khi đã bỏ anh tôi ở cảng SG. Tôi nhớ mình đã ngồi lên yên xe (chiếc xe Honda PC nhỏ nhắn thời ấy đang được xem là rất mốt, phù hợp với các cô thiếu nữ) nhưng rồi cha tôi đã gọi giật lại, bảo tôi xuống xe và bảo chị tôi ra đón anh tôi về nhà. Chị tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy tôi xuống xe, trân trối nhìn tôi, rồi chị quay sang nhìn cha tôi, hơi gật đầu rồi quay xe đi. Tôi vẫn nhớ mãi cái hình ảnh cuối cùng ấy: Mặt chị căng thẳng, như hơi đanh lại, tóc dài bay bay khi phóng xe đi, và ngay lúc ấy một ý nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi nhưng tôi không dám nói với ai, rằng chắc chắn là chị tôi và anh tôi sẽ quyết định đi luôn chứ không quay lại nữa đâu. Và tôi đã đúng. Để sau ngày 30/4, cứ mỗi lần thấy một đồ vật gì của chị tôi bỏ lại - những quần áo, tập vở, số sách, ghi chép, hình như có cả tập thơ chép tay, thơ của chị tôi và thơ của những tác giả mà chị tôi thích, thì tôi lại thấy lòng quặn lại, và nhớ hình ảnh chị tôi chiều hôm ấy. Quyết định thay đổi từ ra đi thành ở lại của cha tôi diễn ra trong tích tắc, chỉ trong thời gian khoảng chừng 1 tiếng đồng hồ, và mẹ tôi cũng rất ngỡ ngàng nhưng không nói gì. Rồi liền sau đó là một cuộc sống mới với tất cả mọi giá trị hoàn toàn đảo lộn đã ập đến. Sau này cuộc sống khó khăn quá, thỉnh thoảng khi nhớ lại thì mẹ tôi lại trách cha tôi về cái quyết định chớp nhoáng vào lúc ấy, và tỏ ra không hiểu vì sao ông làm như thế. Cha tôi không bao giờ nói gì về việc này, nên tôi chẳng rõ lý do gì khiến cha tôi có cái quyết định đó, và ông có bao giờ cảm thấy hối tiếc hay không. Nhưng khi nói chuyện riêng với tôi thì mẹ tôi quả quyết cha tôi đã quyết định ở lại vì nghĩ đến ông nội tôi còn sống ở miền Bắc, hẳn là không muốn vĩnh viễn rời xa cha mình vì như thế là bất hiếu (bà nội tôi đã mất không lâu sau khi gia đình tôi di cư vào Nam, và cái tin bà mất cũng làm cho cha tôi vô cùng đau đớn). Và những trải nghiệm của bản thân tôi với sự ra đi của chị tôi đã giúp tôi hoàn toàn hiểu và thông cảm với quyết định lúc ấy của cha tôi. Cuộc chia ly 21 năm của gia đình (lớn) của tôi sau năm 1975 đã có một kết cục tạm gọi là đẹp. Khoảng đầu năm 1976 chú tôi (chồng của cô út ở miền Bắc) đã đưa ông nội tôi vào Nam trên chuyến xe lửa Bắc Nam để thăm gia đình tôi lúc ấy đang cảm thấy rất lo lắng với cuộc sống mới. Cuộc gặp gỡ sau hơn 20 năm của hai cha con diễn ra đầy mừng tủi, ông nội tôi rất vui khi thấy đứa con trai duy nhất (vì người con trai đầu đã hy sinh) giờ đây đã có một bầy con đông đúc, với 5 người con trai (mà trước đó khi nói về ông tôi ở miền Bắc thì cha tôi lại tự hào nói với những người bà con trong họ: họ Vũ của ông nội tôi "con độc cháu đàn"), 3 cô con gái. Tất nhiên là còn thiếu hai người con đầu của cha mẹ tôi đã đi di tản mà lúc ấy vẫn còn chưa có tin tức.   Ông tôi rất vui khi nhìn thấy đám cháu chưa bao giờ biết mặt, bố tôi thì khỏi phải nói rồi, chỉ có mẹ tôi (và tôi, đứa con gái lớn lúc ấy vì chị cả tôi đã đi) là hơi vất vả vì ông tôi vào nên khách khứa liên miên, lại thêm phải lo cho ông ăn ở sinh hoạt. Rất lạ là thằng em út của tôi dù mới gặp ông lần đầu đã rất quyến luyến ông, lúc nào cũng lẩn quẩn bên ông như ông cháu đã ở với nhau từ lâu lắm. Cha tôi muốn đón ông vào SG sinh sống nhưng ông quyết định trở về Nam Định, bởi vì ông không quen ở thành phố nên cảm thấy rất xa lạ, nhớ ruộng đồng chòm xóm. Và điều quan trọng nhất là vì ông tôi sau này đã tái hôn với bà sau, có thêm cô con gái bằng tuổi đứa em út của tôi, và ông muốn trở về với bà và cô út (sau) vì biết cuộc sống ở SG không hợp với mọi người. Cuộc hội ngộ năm 76 của gia đình tôi dù cảm động vẫn có những điều chưa trọn vẹn. Anh chị tôi vẫn còn "mất tích" chưa có tin tức gì (mãi mấy năm sau chị tôi mới gửi thư về, lại là một chuyện ly kỳ khác mà một lúc nào đấy tôi cũng sẽ phải kể lại), nên mỗi lần nhắc đến thì ai cũng đau lòng, chẳng biết mọi người sống chết ra sao. Cha tôi dường như có nỗi đau không thể chia sẻ với ai được, đặc biệt là với mẹ tôi, rằng ông đã phải buộc phải lựa chọn giữa cha mình (ông nội tôi) và tương lai cả gia đình và vợ con của chính mình, để cuối cùng cha tôi đã chọn ông nội tôi. Còn ông nội tôi thì dường như cũng không hài lòng lắm với việc cha tôi để cho 2 đứa con đầu đi di tản, nhưng ông cũng không bao giờ nói ra. Những cuộc trao đổi vẫn còn né tránh chuyện chính trị, ai cũng cố tránh không gợi ra về cuộc chiến lâu dài đẫm máu mà hai bên chĩa súng bắn vào nhau (nhà tôi thì không có cảnh này vì ông nội tôi chỉ có mỗi một mình cha tôi, nhưng nhiều bà con khác thì có), không nhắc đến sự sụp đổ của chính quyền SG, dù thỉnh thoảng vô tình vẫn để lộ ra quan điểm chính trị mà một bên nghe thì rất khó chịu nhưng phải nén lại. Dù sao thì tình cảm gia đình cũng là nét chính của cuộc hội ngộ, và một tháng trời ông tôi ở SG quả là đáng giá cho cả hai phía, đặc biệt là vì lúc ấy gia đình tôi vẫn còn chút ít của cải đã tích lũy trước năm 75, chưa phải trải qua cảnh nuôi heo, nuôi gà vịt, làm miến dong ngay trong căn nhà 2 tầng ở mặt tiền đường lớn (đường CMT8) ở Quận Tân Bình, vốn được thiết kế theo kiểu nhà đô thị hiện đại chứ không phải để nuôi heo hay nuôi gà vịt (đây cũng là một chuyện dài mà tôi sẽ kể vào dịp khác). Và đáng giá hơn nữa là chuyến đi ấy của ông nội tôi vào thăm cha tôi là cuộc gặp mặt duy nhất giữa hai cha con sau 21 năm ròng, vì sau đó vài năm vào đầu thập niên 80, giữa lúc VN đang thiếu gạo, đói kém nhất (dù đang tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH) thì ông tôi đã mất, và cha con không bao giờ còn gặp mặt nhau nữa. Nhưng ngay cả khi ông mất cha tôi cũng chẳng dám về Nam Định chịu tang (vì hồi ấy vẫn còn sợ địa phương ngoài ấy kỳ thị, trả thù "tội di cư vào Nam", mà điều này là có thật, vì có những người bà con xa tôi của tôi khi về Bắc đã bị lôi thôi với chính quyền địa phương vì cho rằng họ là CIA hoặc phản động về móc nối ...), chỉ có bác ruột tức chị của bố tôi là phụ nữ không bị nghi có liên can đến chính trị là dám về thôi. Khi về, bác tôi có nói rằng ông bà nội có để lại cho bố tôi một chiếc mâm đồng làm của gia bảo, hiện vẫn còn ở nhà cô út (cô ở lại miền Bắc với ông bà) nhưng bác không dám mang về (vì mọi hàng hóa mang theo người đều phải khai báo và có giấy tờ chứng minh lằng nhằng), khi nào bố tôi có dịp ra Bắc thăm họ hàng thì sẽ nhận. Nhưng cái mâm ấy tôi chưa bao giờ được thấy vì đến năm 91, bắt đầu mở cửa và thể chế bắt đầu có những nhận thức lại thì bố tôi mất vì ung thư phổi. Vì thế, vật "gia bảo" ấy không còn người nhận, hẳn là cô tôi đã giữ thay cho bố tôi luôn rồi, chẳng biết nó có còn được giữ hay đã bán đi trong những năm thiếu gạo ở cả hai miền. Có một chi tiết rất cảm động mà tôi không thể không kể. Năm 1976 khi vào Nam, ông nội tôi chỉ có một món quà. Ông gói nó kỹ trong một chiếc khăn nhỏ và đưa cho bố tôi. Đó là chiếc huân chương chiến thắng hạng ba mà bác tôi (người đã hy sinh trong chiến tranh chống Pháp) được truy tặng vào năm 1958, cùng với 2 thứ giấy tờ kèm theo: Một tờ giấy chứng nhận truy tặng huân chương cho bác tôi, và một tờ giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ cấp cho ông tôi là cha của liệt sĩ. Mãi tận sau này, mỗi khi mở tủ đựng giấy tờ của cha tôi thì tôi lại thấy cái hộp giấy nhỏ màu đỏ thẫm đựng tấm huy chương ấy để riêng một chỗ trong tủ. Ông tôi đã cất công đem vào Nam cho cha tôi những thứ ấy để cha tôi có thể khai vào lý lịch, tin rằng nó có thể giúp được cho cha tôi lúc ấy khỏi bị những kỳ thị hoặc trừng phạt nếu có vì đã can tội di cư vào Nam và theo chân đế quốc, làm việc trong hệ thống hành chính của "ngụy quyền", và cũng có thể giúp cho bọn tôi dễ dàng hơn trong khi đi học hoặc xin việc sau này. Có một điều lạ là mặc dù cha tôi vẫn nhắc đến việc này một cách cảm động và trân trọng, nhưng trong lý lịch của cha tôi và sau này là của anh em tôi thì chi tiết này chưa bao giờ được khai vào. Tôi không bao giờ hỏi, cũng chẳng bao giờ quan tâm, thậm chí trong lòng còn thầm ủng hộ là cha tôi đã không tận dụng cái "công trạng" của người khác ấy. Dù lúc ấy chỉ mới 16, 17 tuổi, không nói được thành lời nhưng tôi cũng cảm thấy việc dựa vào lý lịch, vào thành tích của người thân là thiếu tự trọng - mỗi người phải có trách nhiệm với chính những gì mình làm và với những lựa chọn về quan điểm của mình. Mãi đến khi cha tôi mất vào năm 91 và tôi không còn có dịp nào để nghe cha tôi nói về những gì đã diễn ra trong lòng ông lúc ấy, tôi mới thấy hối tiếc là tại sao hồi ấy mình không đủ trưởng thành để dám hỏi ông và nghe ông tâm sự. Và tôi cũng có một chút tò mò, nếu như trong lý lịch của cha tôi và anh em tôi có khai tên ông bác liệt sĩ thì số phận của chúng tôi có thay đổi chút nào không nhỉ, và đổi thay ấy sẽ theo hướng tốt lên hay xấu đi? Đã 60 năm rồi. Rất nhiều nhân chứng đã không còn, vật chứng cũng thất lạc không còn giữ được bao nhiêu. Cuộc sống đã trôi qua, ý nghĩa của hội nghị Geneva đối với VN và tình hình chính trị thế giới đã được phân tích đi, phân tích lại nhiều lần. Năm nay trên báo chí lề phải cũng có một bài phân tích khá dài của ông Vũ Khoan (à, lại họ Vũ của làng Vũ Đại nhà tôi!) về những bài học cần rút ra về hiệp định Geneva. Có một số điểm đã được nhìn nhận lại cho chính xác hơn, ví dụ như theo một bài viết nhân kỷ niệm 40 năm Geneva tức cách đây 20 năm mà tôi mới đọc được thì Geneva là thắng lợi vẻ vang của ta, thì nay Geneva chỉ còn là cuộc chơi của những nước lớn trên bàn cờ chính trị mà VN chỉ là một con tốt. Không sai, nhưng rõ ràng là vẫn còn rất nhiều góc khuất cần được bạch hóa phân tích kỹ hơn ở mọi khía cạnh. Câu hỏi lớn nhất cho người VN hiện nay theo tôi là: Bản chất của cuộc chiến tranh VN, kéo dài từ thời chống Pháp đến tận năm 1975 và tốn không biết bao nhiêu xương máu của cả hai miền, đó là cuộc chiến gì thế, và nó có cần được tiến hành không? Giả sử nếu Đảng CSVN - với sự ủng hộ của quốc tế vô sản, đặc biệt là 2 đồng chí Liên Xô và TQ - không lãnh đạo cuộc chiến tranh "thần thánh" để đuổi Pháp và giành độc quyền lãnh đạo đất nước cho đến tận bây giờ, thì VN không thể có được độc lập và thống nhất ư?  Không phải thế. Vậy VN có độc lập sớm hơn các nước trong khu vực một chút nào chăng, khi mình phải chiến tranh triền miên để dành độc lập trong khi các nước ấy chẳng phải tốn chút xương máu nào để giành độc lập như VN? Cũng không. Rất tình cờ, hôm qua tôi vừa có một cuộc tranh luận nảy lửa đến độ đã tuyên bố cắt đứt tình bạn với một người mà cho đến giờ trong thâm tâm tôi vẫn xem là một người bạn quý - trừ sự khác biệt trong nhìn nhận về cuộc chiến tranh ấy. Lại thêm một sự chia cắt xé lòng về một câu chuyện đã quá cũ, đã tròn một hoa giáp 60 năm mà vẫn còn khả năng gây chia rẽ đối với người Việt.   Câu trả lời là gì, và tại sao, tại sao, tại sao cho đến tận bây giờ lòng người VN vẫn còn những hố sâu dường như không bao giờ vượt qua được? Tôi không có câu trả lời chung cho tất cả mọi người, và cũng không có câu trả lời chắc chắn cho riêng tôi. Tôi chỉ biết, việc quan trọng nhất hiện nay của VN là thống nhất lòng người, là cùng nhau xác định một con đường đi lên cho đất nước và cùng nhau quyết tâm thực hiện, xóa đi những hận thù, hờn oán của cuộc chiến oan nghiệt đó. Nhưng để làm được điều này chắc chắn là không dễ dàng, nếu sự thật vẫn còn bị bưng bít, nếu một trong hai bên hoặc cả hai đều từ chối nhìn vào và phân tích những sai lầm của phía mình và chân thành nhận lỗi - cả bên thắng lẫn bên thua, nhưng nhất là bên thắng - và nếu bên thắng vẫn cứ tiếp tục tự ngợi ca chính nghĩa của mình và mạt sát bên thua với những thông tin bị cắt xén cho đúng quan điểm của bên thắng cuộc, nếu hai bên chỉ chăm chăm moi móc cái xấu của nhau ra để so đọ xem ai thắng ai thua, thì chắc chắn cuộc trùng phùng của năm 1975 không thể nào là cuộc hội ngộ vẹn toàn. Có lẽ đó là bài học lớn nhất mà mọi người VN đều cần phải học. Tự nhiên tôi nhớ đến lời hát da diết ấy của TCS: Việt Nam ơi, còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau? Chẳng lẽ 60 năm rồi sau ngày chia ly vĩ đại năm ấy, đến bây giờ chúng ta vẫn chưa có được câu trả lời hay sao? Và cũng nhớ đến Phạm Duy với bài hát VN, VN mà nhạc sĩ đã từng giải thích: Tôi đặt bài hát là VN, VN vì chúng ta có 2 đến nước VN. Phải chăng bài hát ấy chứa trong nó câu trả lời mà PD đã từng mong muốn suốt bao năm: VN không đòi xương máu, VN kêu gọi thương nhau .... Phải thế không, người VN ơi? T. Phuong Anh Vu Nguồn: blogphuonganh.blogspot.com.au
......

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục

(Sau khi đọc bài viết “Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” của Gs Tương Lai)   Trong bài viết mới đây Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, giáo sư Tương Lai lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ. Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944” và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn”. Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.   Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ có chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949. Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin. Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Mỹ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Mỹ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.   Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Paris đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Mỹ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Mỹ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng Sản. Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản”. Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ. Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối. Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu đô la để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô. Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngã Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì. Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thâm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Từ ngày thành lập cho đến nay, hoạt động dưới nhiều danh xưng (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục đích cuối cùng là CS hóa toàn cõi Việt Nam như đã khẳng định nhiều lần trong các cương lĩnh đại hội của đảng CSVN. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.   Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngỏ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng. Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN. Trung Cộng muốn gì?   Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam: 1. Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị, tư tưởng. 2. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. 3. Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp. Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên . Về mặt kinh tế chính trị. Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa. Về mặt quốc phòng. Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3)không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh. Trong thế chiến thứ hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco. Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng. Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ. Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhãy vọt đầy thảm họa của Mao. Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, dù ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi lay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến. Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bở ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước. Trần Trung Đạo Nguồn: FB Trần Trung Đạo
......

Phạm Đoan Trang: "Xin đừng quên blogger anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh"

Đầu tháng 5/2014, blogger Anh Ba Sàm, tức ông Nguyễn Hữu Vinh, bị cơ quan an ninh Việt Nam bắt giữ và bị cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ Luật Hình sự. Vụ bắt giữ nhân vật truyền thông nổi tiếng bậc nhất trong giới blogger Việt Nam - rơi đúng vào ít ngày sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan trên khu vực thềm lục địa Việt Nam – dường như  có xu hướng chìm vào quên lãng. Blogger Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) / www.rsf.org Trả lời RFI hôm nay, luật sư Hà Huy Sơn – một trong ba người bào chữa cho ông Nguyễn Hữu Vinh - cho biết tình trạng sức khỏe của thân chủ ông tương đối ổn định, "nhưng không được tốt so với thời gian trước". Hôm thứ Năm 17/07 vừa qua, đã diễn ra phiên hỏi cung lần thứ 6 với sự có mặt của luật sư. Hai luật sư cùng bảo vệ ông Nguyễn Hữu Vinh là luật sư Nguyễn Minh Long (đoàn Luật sư Hà Nội) và luật sư Trịnh Minh Tân (đoàn luật sư Sài Gòn). Ông Nguyễn Hữu Vinh, 58 tuổi, bị bắt ngày 05/05/2014, cùng với người cộng sự, bà Nguyễn Thị Minh Thúy, 34 tuổi. Luật sư cho biết, theo luật Việt Nam, cơ quan điều tra có quyền tạm giữ người bị bắt để điều tra theo điều 258 trong vòng ba tháng (thời gian bị tạm giữ có thể được triển hạn). Điều 258 Bộ Luật Hình sự Việt Nam quy định về tội "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước" thường xuyên bị giới bảo vệ nhân quyền trong nước và quốc tế lên án như một công cụ mà chính quyền sử dụng để đàn áp những người có tiếng nói độc lập với chính quyền. Trong khuôn khổ Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR), ngày 20/06/2014, tại Genève, chính phủ Việt Nam thông báo chấp thuận 182 khuyến nghị về cải thiện nhân quyền của các nước, trong đó có đề nghị 156 (của Úc) và 157 (của Canada) về sửa đổi các điều 79, 88 và 258 Luật Hình sự « để bảo đảm tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam, bao gồm nghĩa vụ theo Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị ». Để chuyển đến quý thính giả thông tin về vụ án, về những hoạt động chủ yếu của blogger Anh Ba Sàm và những phản ứng của dư luận trong và ngoài nước, RFI đặt câu hỏi với nhà báo Phạm Đoan Trang, một người từng làm việc nhiều năm trong nước, hiện đang vận động cho nhân quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ. RFI : Trước hết, xin nhà báo Phạm Đoan Trang cho biết nhận định chung của chị về vụ blogger Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh bị bắt. Phạm Đoan Trang : Cũng như các vụ bắt tương tự, vụ bắt nào đối với những người bất đồng chính kiến hay những người có hoạt động ủng hộ dân chủ, các blogger có khuynh hướng hoạt động nhân quyền… luôn luôn gây tranh cãi. Bao giờ cũng có một bộ phận dư luận cho rằng, những người đó là « sai pháp luật », bộ phận khác cho rằng những người đó là « con bài của chính quyền », « con bài trong một cuộc đấu tranh phe phái » nào đấy, « đấu tranh nội bộ nào đấy », đến khi không dùng đến nữa thì họ bị bắt…   Với quan điểm của tôi, bất cứ cuộc bắt người nào mà vi phạm quyền cơ bản của con người, của công dân, đều đáng lên án cả, không cần biết người đó là của phe phái nào, không cần biết là người đó có mục đích gì trong việc thể hiện quyền tự do ngôn luận của họ. Hơn nữa, việc Anh Ba Sàm bị bắt, đối với tôi, còn nghiêm trọng hơn các vụ khác, hơn tất cả các vụ bắt các blogger khác từ trước đến nay, bởi vì, theo quan điểm cá nhân của tôi, Anh Ba Sàm gần như là một biểu tượng của cuộc đấu tranh của các blogger vì quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt. Do đó, việc bắt anh ấy gần như là một đòn đánh trực tiếp thẳng cánh, gọi là không kiêng nể gì cả, của chính quyền vào giới blogger, vào quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do quan điểm của công dân Việt Nam, của người dân Việt Nam. RFI : Vì sao chị lại coi Anh Ba Sàm là biểu tượng của cuộc đấu tranh vì tự do ngôn luận ở Việt Nam ? Phạm Đoan Trang : Khi tôi nói về Anh Ba Sàm, tôi nghĩ rằng ý kiến của tôi không khỏi gây tranh cãi, tuy nhiên tôi cũng sẽ cố gắng khách quan hết sức có thể. Thứ nhất là, khi mạng xã hội vào Việt Nam năm 2005, đó là lần đầu tiên trong lịch sử xuất bản ở Việt Nam, người dân Việt Nam mới biết đến khái niệm gọi là « mạng xã hội », một diễn đàn tương đối tự do để người ta có thể bày tỏ được quan điểm của mình, mà không sợ bị hậu quả gì sau đó. Trước đó, internet đã vào Việt Nam từ năm 1997, nhưng tôi nghĩ rằng, cái văn hóa Diễn đàn/Forum vẫn không kích thích cái quyền tự do biểu đạt mạnh bằng mạng xã hội. Bởi vì mạng xã hội là nơi chúng ta có thể tự xuất bản, không cần phải chờ người khác xuất bản hộ. Yahoo, blog vào Việt Nam năm 2005 thì được hưởng ứng rất nồng nhiệt, thì đến năm 2007, Anh Ba Sàm đã có blog và đã bắt đầu nổi tiếng rồi. Anh ấy thành lập blog Ba Sàm vào ngày 09/09/2007, tức là trước cả thời điểm Câu lạc bộ Nhà báo tự do của anh Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) được thành lập. Tôi không muốn so sánh hoạt động của blog Anh Ba Sàm cũng như các trang blog khác, bởi vì, đối với tôi, tất cả đều là « báo chí công dân », đều là góp phần vào thúc đẩy quyền tự do thông tin, thúc đẩy chuyện minh bạch thông tin trong người dân Việt Nam. Nhưng có thể so sánh về mặt văn hóa chẳng hạn, về văn hóa của độc giả, tôi thấy blog của Anh Ba Sàm phù hợp hơn với dân chúng miền Bắc, hay nói đúng hơn những người sống với chế độ cộng sản lâu hơn, (họ) sợ hãi hơn, quy phục hơn. Ở phía Bắc, người ta sợ hơn, và nếu quy phục cũng quy phục hơn, cái thái độ vô cảm, sợ hãi, thái độ thần phục ở phía Bắc cũng nặng hơn, thái độ thân chính quyền cũng nặng hơn. Ngoài Bắc, người ta hay nói « gần lửa rát mặt », gần trung ương thì khiếp sợ hơn là ở xa. Chính vì thế, blog Anh Ba Sàm ngay từ đầu đã chọn một cách tiếp cận với độc giả một cách bình dân và ở mức họ chấp nhận được, tức là họ không quá sốc trước các thông tin Anh Ba Sàm đưa ra. Anh Ba Sàm ngay từ đầu không chủ trương chửi chính quyền một cách gọi là tát nước vào mặt, không gọi người ta là « cộng sản bán nước », « tay sai Tàu » hay « vẹm nô », « cộng nô »…, tức là ở mức chấp nhận được. Giới chấp nhận được có thể là những người quan tâm đến chính trị, nhưng ban đầu họ còn sợ, hoặc những người chưa có kinh nghiệm gì cả. Tôi thấy độc giả của Anh Ba Sàm có cả sinh viên, có cả thanh niên, có cả cựu chiến binh, tầng lớp cán bộ về hưu, tầng lớp học giả, trí thức, các chuyên gia… Nói chung các tiếp cận của anh ấy nó nhẹ nhàng hơn, thuyết phục hơn, không gây sốc cho họ. Từ đó, anh ấy giúp họ hé màn thông tin, các thông tin mà chính quyền không thích người dân được biết, hoặc biết mà không hiểu gì, không hiểu cần phải nghĩ thế nào… Tôi rất muốn nhấn mạnh điểm này vì, thực sự mà nói, độc giả Việt Nam nói chung khả năng đọc hiểu, khả năng cảm nhận, hay nói rộng hơn là khả năng tư duy, phản biện bị phá hỏng khá nhiều. Họ thậm chí không biết rằng chính quyền có thể sai, Nhà nước có thể sai. Đến khi thấy có những chính sách quá bất hợp lý. Thí dụ như chuyện năm 2007, 2008, thì có chính sách là người nào vòng ngực dưới 0,72m thì không được cấp bằng lái xe máy. Điều này quá là vô lý, nhưng mà không phải người dân nào cũng hiểu được điều đó, họ ngờ ngợ, không biết nên nghĩ thế nào. Những lúc đó là khi những nhà báo công dân như Anh Ba Sàm lên tiếng. Họ, cụ thể như Anh Ba Sàm bình luận rất dí dỏm, tôi chỉ nhớ là các bình luận rất gần gũi, hài hước và giúp độc giả định hình quan điểm một cách gọi là gần với chân lý nhất, gần với thực tiễn đời sống nhất và nói chung là hợp lý nhất. Tất nhiên, cũng có những lúc anh ấy định hướng, làm truyền thông sai, không hợp lý, nhưng trường hợp đó ít hơn những trường hợp đúng. Trường hợp khá là rõ ràng là cách đây 2 năm khi phong trào Con đường Việt Nam mới bắt đầu thành lập, Anh Ba Sàm là một trong những người phản ứng dữ dội nhất. Nhưng sau đó hai năm, phong trào Con đường Việt Nam đã thể hiện họ không phải là « chim mồi », không phải là một phong trào do chính quyền lập ra để bẫy dân. Về điểm đó, Anh Ba Sàm đã định hướng sai. RFI : Giai đoạn Anh Ba Sàm vừa làm trang điểm tin, bình luận… bắt đầu từ năm 2007 kéo dài cho đến thời gian gần đây. Trước khi bị bắt, dường như Anh Ba Sàm có mở thêm một hai trang nữa, đặc biệt là trang Chép Sử Việt. Xin chị cho biết một đôi nét. Phạm Đoan Trang : Trước khi có trang Chép Sử Việt, Anh Ba Sàm có trang Việt sử ký, sau đó trang này bị hacker đánh sập mất, theo tôi hiểu, anh ấy chuyển sang Chép Sử Việt. Tôi thấy rằng trang Chép Sử Việt đã chạm vào một điểm mà chính quyền ghét nhất. Đó là « chuyện bí mật cung đình ». Đó là một điểm nữa tạo nên sự khác biệt. với nhiều blogger khác. Anh Ba Sàm là thành phần chúng ta hay gọi là thành phần « con ông cháu cha », hay « thái tử đảng ». Cha của anh ấy nguyên là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô. Đối với người cộng sản, « bí mật » là sức mạnh của họ, cho nên họ đặc biệt là kỵ và ghét những người nào lộ bí mật của họ ra ngoài. Ngay từ thế hệ cộng sản tiền bối, như ông Phạm Văn Đồng hay ông Võ Nguyên Giáp…, cho dù cuộc đời họ có sóng gió thế nào, họ có trải qua kỷ niệm cay đắng với đồng đội, họ luôn luôn im lặng. Chúng ta không biết thực chất ông Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Võ Nguyên nghĩ gì, phản ứng như thế nào khi bị điều đi làm Trưởng ban Sinh đẻ có kế hoạch. Cụ luôn giữ bí mật. RFI : Nếu đọc lại một số bài viết được cho là của Anh Ba Sàm ngay trước khi bị bắt, đơn cử như « Có thể Bác Hồ và Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam sẽ bị Trung Quốc kiện vì ''chôm'' bài hát Kết đoàn » (loạt bài 3 kỳ từ ngày 02 đến 05/05) hay bài « Đại biểu Quốc hội Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri » hay « Giáo hoàng ban phước cho con chiên » ? (bài ngày 04/04) chẳng hạn. Điều mà gọi là « bí mật » trên thực tế phải chăng là nhìn ra những gì mà người quan sát bình thường không thấy được, và nói với một giọng điệu ít người có, giọng điệu mang tính giễu cợt hay là châm chọc, châm biếm thẳng các lãnh đạo cao cấp nhất… như chị vừa cho biết. Phạm Đoan Trang : Tôi cũng nghĩ như vậy : đã tiết lộ « bí mật », mà lại còn thêm tính hài hước vào đây, thì đảng Cộng sản không thể chịu nổi. Nhìn chung, họ ghét những người moi « bí mật » của họ ra và chưa kể còn biết cách truyền tải những bí mật đến với công chúng nữa. RFI : Ở Việt Nam, những gì được gọi là các thông tin mật và những gì được coi là « mật » được đăng tải trên do trang blog Anh Ba Sàm ? Phạm Đoan Trang : Đó là tất cả những thông tin nào mà không có trên mặt báo (chính thức). Ví dụ như chuyện Ban Tuyên giáo chỉ đạo, sau vụ chìm tàu ở Hạ Long, tháng 2/2010 hay 2011. Sau vụ này, Ban Tuyên giáo chỉ đạo không đưa đậm, không đưa về vụ đó nữa, sợ ảnh hưởng đến Vịnh Hạ Long. Bản thân « tin » đó chẳng báo nào đưa cả. Không báo nào dám đưa, ví dụ « hôm nay Ban Tuyên giáo chỉ đạo chúng tôi » như vậy. Không báo nào đưa, nhưng Anh Ba Sàm đưa như thế. Đó là chuyện hậu trường của báo chí. Rồi quá trình hợp tác ra quyết định, chính sách của các quan, rồi quá trình các cuộc họp…, có phần thông tin công khai, có phần không, thì anh ấy thường (mang đến cho công luận ?) các phần "không công khai", không đưa lên mặt báo (chính thức) được. Ngoài ra « bí mật » còn là thái độ, hành xử của quan chức nào đấy. Những bài đó, chẳng báo nào đưa. Chúng ta thấy, kể cả chuyện ông quan chức này chỉ đạo cái này, ông kia cái kia…, được tin ông ấy nhảy dựng lên, la lối chẳng hạn… Không bao giờ chúng ta biết được đời thường hay đầu óc các quan chức ở ngoài (thực chất - ndr) như thế nào. Anh Ba Sàm cũng công khai hết những cái đó. Thực ra những điều đó chẳng có gì bí mật đối với một nước có nền báo chí bình thường, còn ở ta nó khác. Phải có một lớp hào quang bao xung quanh, quá trình hoạch định chính sách phải bí mật, nhất là phải tạo cảm giác khó lắm, phức tạp lắm, đòi hỏi những bộ óc ghê gớm lắm… Nhìn chung họ ghét những người moi « bí mật » của họ ra, rồi lại biết cách truyền tải « bí mật » ấy đến công chúng nữa. Nếu như không phải là Anh Ba Sàm, mà là một người khác may mắn lấy được những thông tin gọi là « bí mật cung đình » như vậy, chưa chắc họ đã biết cách truyền đạt đến công chúng, chưa chắc họ đã biết cách gọi là diễn giải nó, bình luận nó, đưa đến công chúng để người dân hiểu được, để định hình được quan điểm… Anh Ba Sàm rất thông minh, rất nhiều ý tưởng, đấy chính là điều khiến blogger này trở thành rất nguy hiểm đối với chính quyền. Tôi nói thế này, có thể là so sánh làm không vừa lòng nhiều người, nhưng tôi nghĩ rằng chính quyền sẽ không sợ một blogger « chửi đổng », cứ lên mạng « chửi Đảng, chửi Nhà nước »…, họ không sợ bằng một blogger thông minh, hài hước, biết cách kể chuyện, biết cách truyền tải thông tin đến độc giả, và từ việc đó, lại biết cách kết nối với độc giả nữa, có khả năng kết nối trước cả khi có facebook. Với tất cả những cái đó, Anh Ba Sàm trở nên « nguy hiểm » hơn so với các blogger khác trong mắt chính quyền.   Họ ý thức được điều « bí mật » là đoàn kết và sức mạnh của Đảng. Anh Ba Sàm, con của một công thần, lại tiết lộ những chuyện đó. Tiết lộ những chuyện đó là chạm vào « tử huyệt », chạm vào điểm mà đảng Cộng sản ghét nhất, nên họ phải bắt sớm. Chúng ta có thể tự hỏi, tại sao bao nhiêu năm nay anh ấy làm việc bình luận, điểm tin, các bình luận ngày càng sắc hơn, mà không sao cả, tôi nghĩ rằng chính bởi vì anh ấy chưa đụng đến các « tử huyệt » kia. Ngoài ra tôi có một ý, mà nhiều người nói, nhưng chưa kiểm chứng được : Anh Ba Sàm bị bắt chỉ ba ngày sau khi Trung Quốc kéo giàn khoan 981 (ngày 02/05/2014) và vài ngày trước cuộc biểu tình lớn (11/05/2014). Có người cho rằng việc bắt Anh Ba Sàm là để ngăn chặn trước phe chống Trung Quốc trong chính quyền và tâm lý chống Trung Quốc trong người dân, bởi vì, theo tôi biết, Anh Ba Sàm là người có tinh thần dân tộc chủ nghĩa rất mạnh, một người chủ trương dùng lòng yêu nước chống Trung Cộng. Suy đoán như vậy tôi nghĩ cũng có thể có lý. RFI : Blogger Anh Ba Sàm dù được coi là « lề trái », tức truyền thông nằm ngoài Nhà nước, nhưng dường như quan hệ của blogger này với giới báo chí của truyền thông Nhà nước không gặp trở ngại ?   Phạm Đoan Trang : Đó cũng là một đặc điểm thú vị của Anh Ba Sàm, đó là anh ấy không chủ trương chống lại « lề phải ». Tôi cũng muốn nhấn mạnh điều này. Bởi vì các vị biết, người cộng sản ý thức rất rõ sức mạnh của thông tin và sức mạnh của sự bí mật. Nói cách khác, bí mật tạo nên quyền lực của họ. Vì vậy cho nên họ quản lý rất chặt. Họ quản lý thông tin theo cách là chỉ có những đối tượng nhất định mới có được một số thông tin nào đó, chỉ có tầng lớp cao nhất mới nắm được thông tin đầy đủ nhất. Thông tin sẽ được rót xuống dưới theo hướng ít dần đi. Trong xã hội có một lực lượng có được tương đối thông tin so với các thành phần khác, đó là nhà báo. Ngay trong giới báo chí cũng vậy, họ cũng quản lý theo lối là nhà báo nào càng thân chính quyền, và có khả năng làm công cụ tốt cho họ thì có được đặc quyền đặc lợi, và có thông tin. Còn những thành phần đã mang tính « chống đối », mang tính « lề trái », như kiểu tôi chẳng hạn, thì rất khó có thông tin. Luôn luôn ở cấp dưới, không bao giờ được dự những hội nghị quan trọng, được tiếp cận với những cuộc gặp quan trọng, để có được những thông tin « mật ». Anh Ba Sàm chắc cũng nhìn được điểm đó và thấy rằng, nền báo chí công dân của chúng ta, của các blogger không thể nào chuyên nghiệp được, hấp dẫn được, hay được, nếu không dựa trên nền tảng sự thật và thông tin. Nghĩa là nếu không có thông tin từ chính quyền, chính thống, thì nó sẽ mãi mãi là một thứ báo chí chỉ có « chửi đổng » và gọi là « tự sướng » với nhau, chứ không tiếp cận được người dân nhiều bằng báo chí chính thống. Hiểu được điều đó cho nên anh ấy rất chú trọng quan hệ với giới báo chí chính thống, báo chí « lề phải ». Anh ấy không chống lại họ ngay từ đầu. Ví dụ, mọi người có thể để ý là anh ấy không bao giờ chửi « lề phải » là lũ « lưỡi gỗ », gộp hết vào một bọn, « lũ vẹt », hay « báo lá cải », những từ xúc phạm họ. Mà anh luôn lọc tìm trong nền báo chí « lề phải » ấy, có những gương mặt nào, cá nhân nào, hoặc tờ báo nào có xu hướng tiến bộ, ủng hộ dân chủ, thì anh ấy tìm cách quan hệ tốt với họ để có thông tin. Tôi phải nói thành thật là, giới báo chí lề phải của chúng tôi rất nhiều người quý Anh Ba Sàm. Và trong chúng tôi, có những người bí mật hợp tác với anh ấy, và một điều hay nữa là anh ấy bảo mật điều đó, bảo mật thông tin cho chúng tôi, đúng theo nguyên tắc bảo vệ nguồn tin. Nên Anh Ba Sàm được nhiều nhà báo rất tin cậy. Tôi nghĩ rằng bây giờ, khi Anh Ba Sàm bị bắt rồi, thì chúng ta không còn một blog nào ở cái mức độ như vậy được nữa, ở mức độ có thể làm cầu nối được nữa. Mà cũng không còn blogger nào có nhiều thông tin « cơ mật » như Anh Ba Sàm được nữa. Có thể họ có, nhưng họ không biết cách làm truyền thông, không lan truyền được các thông tin đó đến cộng đồng như Anh Ba Sàm nữa. Anh Ba Sàm bị bắt là một tổn thất, một mất mát lớn cho cộng đồng blog Việt Nam, nền dân báo của Việt Nam. RFI : Xin chị cho biết mọi người, những blogger, những người quan tâm đến truyền thông, cụ thể ở hải ngoại, phản ứng như thế nào về vụ Anh Ba Sàm bị bắt. Phạm Đoan Trang : Đây cũng là một điểm mà tôi thấy có sự khác biệt lớn giữa người trong nước và người Việt hải ngoại. Ở ngoài này, người ta không biết Anh Ba Sàm nhiều. Có thể vì cách tiếp cận của Anh Ba Sàm là bình dân, nhẹ nhàng và không quá gay gắt, được người trong nước hưởng ứng, đặc biệt là phía Bắc, thì phía Nam và phía hải ngoại không chấp nhận được kiểu đó chăng ? Họ cho rằng đó là kiểu "hai mang", "mập mờ", "không quyết liệt", "không dứt khoát", "không thẳng thắn". Có thể vậy ?! Ngoài này, tôi thấy người ta không biết anh ấy nhiều, không ủng hộ nhiều, đặc biệt là quan điểm (nghi ngờ) chắc lại là thành phần « thái tử », con ông cháu cha ! Quan điểm này rất nặng. Người ta không tin rằng những thành phần như vậy có thể tốt được, có thể tiến bộ được. Tôi nói như vậy không phải là về tất cả cộng đồng người Việt hải ngoại, nhưng một số gặp gỡ tạo cho tôi một ấn tượng chung như vậy. Và tôi cũng chưa biết làm thế nào để (anh ấy) không bị rơi vào quên lãng. Nếu tất cả mọi người không làm gì cả, để nó rơi vào quên lãng, thì tôi nghĩ rằng bản án sẽ là khá nặng với Anh Ba Sàm. Với Anh Ba Sàm, nếu chuyện đó xảy ra, thì tôi nghĩ khá là bất công cho anh ấy, tội nghiệp cho Anh Ba Sàm, vì đó là một người đóng góp quá nhiều cho việc công khai hóa, tự do hóa thông tin ở Việt Nam, nâng cao dân trí. Như anh ấy nói « khai dân trí, phá vòng nô lệ ». Anh ấy đóng góp rất nhiều cho quá trình đó, mà nếu mà lúc anh ấy lâm nạn mà không được cứu giúp, thì tôi nghĩ là một điều bất công và có phần bất nhẫn với anh ấy. Nếu được, mong quý vị thính giả, cũng như Đài, nỗ lực giúp đỡ trong trường hợp Anh Ba Sàm. Xin hãy làm những việc mà trong nước không thể làm được. Rất là mong muốn quý vị hãy tìm hiểu nhiều hơn về trường hợp blogger Anh Ba Sàm, hãy cố gắng nỗ lực, giúp đỡ, gây tiếng nói để Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh sớm được trả tự do. RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Đoan Trang. Nguồn: viet.rfi.fr
......

Bài học từ Hiệp định Geneva - 20-7-1954

Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết nhằm giúp chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và cả Đông Dương. Thế nhưng mục tiêu đó đã không đạt được; trái lại chiến tranh lại diễn ra suốt trong mấy mươi năm sau đó, ngăn chặn sự phát triển của Việt Nam về mọi mặt. Ông Tạ Quang Bửu, trưởng đoàn VNDCCH tại buổi ký Hiệp định Genève 1954. Photo courtesy of wikipedia   TQ nhượng bộ Pháp và miền Nam? Gia Minh hỏi chuyện sử gia Phạm Cao Dương hiện ngụ tại California, Hoa Kỳ về những điểm đáng chú ý của Hiệp định Geneva 1954 và bài học cần rút ra. Trước hết ông cho biết: Phạm Cao Dương: Trước hết Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó. Thứ hai, sách trong nước thường ca ngợi đó là chiến thắng của phía Việt Minh. Điều đó không hoàn toàn đúng, vì nếu chúng ta theo dõi những gì xảy ra trước đó khi ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sang họp với Chu Ân Lai ở Liễu Châu, người ta thấy phía Việt Minh tức tối lắm. Sau này ông Võ Nguyên Giáp có nói rằng khi ông thuyết trình thì bản đồ đưa ra ‘đỏ’ hết tất cả; nhưng đến khi Chu Ân Lai thuyết trình thì theo lời ông Võ Nguyên Giáp ‘Bác và tôi rất ngỡ ngàng’ vì sự nhượng bộ mà Chu Ân Lai dành cho phía Pháp và miền Nam. Lý do hai ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không vừa ý vì hai ông tin tưởng được nhiều lợi thế hơn những gì mà phía Chu Ân Lai và Molotov (ngoại trưởng Nga lúc đó) buộc phía Việt Minh phải chấp nhận. Trước hết là sự hiện diện của bộ đội Việt Minh ở Miên và Lào. Chủ trương của Việt Minh hồi đó là muốn nâng đỡ hai tổ chức cộng sản bên Miên và Lào (Pathet Lào và Khmer Issarak). Phía đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa luôn phủ nhận không có sự hiện diện của bộ đội bên hai nước đó, nhưng cuối cùng Chu Ân Lai và Molotov ép buộc Việt Minh phải phần nào chấp nhận điều đó, và sau đó chấp nhận luôn. Có nghĩa chấp nhận đã rút rồi nhưng vẫn còn một phần ở lại bên Miên và Lào. Do vậy Pháp và phía Miên, Lào không chấp nhận nên cuối cùng chấp nhận ‘nếu còn sẽ rút đi’. Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp - Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17. Đến chuyện ngày bầu cử thống nhất, đầu tiên Phạm Văn Đồng muốn 6 tháng, nhưng sau đó lên 1 năm và 2 năm. Quyết định cuối cùng là năm 1956, tức 2 năm sau. Cần phải để ý là Trung Quốc trong thời điểm đó mới làm chủ được lục địa Trung Hoa và chưa có vai trò quốc tế nào nên họ muốn vai trò nào đó, và Hội nghị Geneva là cơ hội để họ đóng vai trò đó. Gia Minh: Việc tuyển cử như ông nói được thống nhất vào năm 1956, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có đề nghị với phía miền Nam, nhưng miền Nam từ chối. Lý do vì sao thưa ông? Phạm Cao Dương: Thực ra phía miền Nam mà buổi đầu là Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và sau này là Việt Nam Cộng Hòa của ông Ngô Đình Diệm, không chấp nhận bản Tuyên bố Cuối cùng. Chúng ta nên nhớ sự thỏa thuận ở Geneva gồm hai phần: phần thứ nhất là đình chiến và phần thứ hai là chính trị. Phần đình chiến được ký kết hẳn hoi, có nhiều bản thỏa ước; còn phần chính trị không có bản thỏa ước được ký kết mà chỉ là Bản Tuyên bố Cuối cùng được các bên chấp nhận bằng miệng mà thôi. Phía Quốc gia Việt Nam lúc đó và sau này là Việt Nam Cộng Hòa thì không chấp nhận Bản Tuyên bố Cuối cùng đó. Phía Mỹ cũng không chấp nhận. Nên nếu không chấp nhận thi hành cuộc bầu cử đó chẳng qua vì họ không bị ràng buộc về phương diện pháp lý. Thứ hai nữa, nếu có bầu cử phải cần những điều kiện tối thiểu để có sự công bằng. Đằng này chưa chắc có sự công bằng đó, thành ra miền Nam không chấp nhận cũng có lý của họ. Bài học kinh nghiệm Gia Minh: Sau 60 năm rồi, ông thấy có những bài học gì? Phạm Cao Dương: Trong những hoạt động bang giao quốc tế, các quốc gia luôn đặt quyền lợi của mình lên trên, kể cả đồng minh cũng đứng hàng thứ không quan trọng. Nếu bên Trung Quốc vì quyền lợi riêng mà hy sinh đồng minh là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa thì đó cũng là điều tự nhiên mà thôi. Nhưng Hà Nội không thấy điều đó! Thứ hai nếu nhìn vào thế giới trong thời gian đó và những năm tiếp theo, không phải chỉ có Việt Nam bị chia đôi. Còn nhiều nước khác bị chia đôi nữa nhưng không có nước nào dùng võ lực để tiến chiếm nước kia. Còn Việt Nam thì chuyện đó đã xảy ra. Nhưng hậu quả là Hà Nội không có đủ thực lực để tự mình đánh xuống miền Nam nên phải dựa vào thế của Trung Quốc; Hà Nội và cả miền Nam đều không nhận ra điều, không biết đánh lá bài của Trung Quốc. Vì hồi đó Trung Quốc không muốn người Mỹ vào miền Nam và hiện diện tại miền Nam, họ muốn dùng người Pháp để giữ không cho Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Gia Minh: Cám ơn sử gia Phạm Cao Dương. nguồn: rfa.org/vietnamese/
......

Thông Báo: Chiến dịch vận động quốc tế phản đối dư luận viên.

Trong thời gian trở lại đây, các dư luận viên (DLV) đã sử dụng một thủ thuật mới để tấn công các Facebooker, trong chính sách bóp nghẹt tự do ngôn luận theo chỉ thị của Đảng và nhà nước. Các dư luận viên với con số lên đến hàng ngàn đã ồ ạt báo cáo lên Facebook những tài khoản họ muốn triệt tiêu, và vì vậy tài khoản Facebook của nhiều blogger, nhà hoạt động dân chủ đã bị Facebook tự động khóa lại sau khi nhận được các báo cáo. Trước tình trạng càng ngày càng nhiều trang Facebook bị DLV tấn công và chính trang FB Việt Tân cũng là một đích nhắm của DLV, Việt Tân sẽ cùng góp sức với cộng đồng Facebook để giải quyết vấn đề này qua ba việc chính: - Dịch vụ Help Desk của trang Nofirewall.net đang làm việc trực tiếp với nhân sự trách nhiệm của công ty Facebook để giúp đỡ một số nhà hoạt động mạng nhanh chóng phục hoạt tài khoản. - Khởi động chiến dịch cùng với các tổ chức NGOs Quốc Tế lên tiếng phản đối hành động vi phạm tự do ngôn luận của DLV và nhà nước Việt Nam. - Hợp tác chặt chẽ với công ty Facebook để giải quyết vấn đề trên đường dài. Việc Nhà Nước CSVN áp dụng giàn DLV để gây khó khăn cho cư dân Facebook là vi phạm trầm trọng quyền Tự Do Internet. Chúng tôi mong rằng sẽ hợp tác chặt chẽ với cộng đồng Facebook Việt Nam để đưa vấn đề này ra trước dư luận Quốc Tế.   Về trang No Firewall Nhận thấy vai trò và khả năng của mạng internet phá vỡ bưng bít thông tin và thúc đẩy hoạt động xã hội dân sự, nên từ năm 2008, Việt Tân đã khởi động chương trình vận động cho Tự Do Internet qua nhiều nỗ lực như thành lập trang www.nofirewall.net để huấn luyện và cung cấp kiến thức vượt tường lửa và an ninh mạng cho cư dân mạng Việt Nam. Mới đây nhất dịch vụ miễn phí Help Desk của No Firewall được lập ra để giúp đỡ vấn đề kỹ thuật. Các nỗ lực vận động khác bao gồm vận động cho Nghị Quyết 672 được thông qua trước Hạ Viện Hoa Kỳ để hỗ trợ Tự Do Internet; Chiến dịch Bring Facebook Back nhằm giúp giới dùng Facebook truy cập khi Facebook bị chặn vào năm 2009. nguồn: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10153052106085620&set=a.10151333...
......

Israel – Một đất nước thần kỳ

Một ngày thôi, chúng ta hãy tạm quên đi khung trời tự do thiên đường của Mỹ và hãy thôi thèm thuồng sự hào nhoáng ngọt ngào từ các bộ phim Hàn. Một ngày thôi, chúng ta hãy thôi ca tụng nếp sống văn hóa của Nhật và quên luôn gã khổng lồ đáng ghét Trung Quốc đang lặn ngụp ngoài biển đông. Một ngày thôi, hãy quên những đất nước đang sôi sục say men chiến thắng mùa world cup và thậm chí hãy tạm lơ luôn cả đất nước Việt Nam máu thịt mà ta đang ngự trị. Chỉ một ngày thôi, hãy nhìn sang một đất nước khác, một đất nước nghe tên đã thấy nhàm chán và xa xôi, một đất nước chỉ có chiến tranh và sa mạc nóng bỏng trải dài tít tắp. Một đất nước nhỏ bé và chẳng có mấy tin tức hay ho về nó trên báo đài nhưng phần lớn sự kiện quan trọng trên thế giới đều có liên quan đến những con người xuất thân từ đó. Đó là đất nước Israel, nơi con người đã chiến thắng thiên nhiên và theo tôi, chiến thắng cả thế giới về tính cần cù, bền bỉ, vượt khó, khả năng sáng tạo và không bao giờ dừng lại. Những thông tin sau đều là tin tổng hợp nên chắc nhiều bạn biết rồi nhưng tôi tin cũng rất nhiều người chưa hề được biết, và chắc chắn, sẽ có điều khiến bạn phải ngạc nhiên về đất nước này.   Một nền nông nghiệp thần kỳ Israel có diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, tức là chỉ lớn hơn tỉnh Nghệ An của Việt Nam chút ít. Tuy nhiên Israel lại được mệnh danh là “thung lũng silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu chừng 3 tỷ USD nông sản, là một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ít ai biết rằng, những sản phẩm rau quả từ Arava – một trong những nơi khô cằn nhất thế giới – lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng xuất khẩu rau của Israel và 10% tổng sản lượng hoa xuất khẩu. Thung lũng Arava. Địa danh khá lạ tai đối với khách du lịch, nhưng lại là cái tên rất tự hào của mọi người dân Israel vì tại đây, phép màu đã làm nở hoa giữa sa mạc – những phép màu thực sự của khoa học công nghệ. Là phần khô hạn nhất của hoang mạc Negev với lượng mưa bình quân chỉ từ 20-50mm mỗi năm (Việt Nam là 1500mm/năm). Độ ẩm cực thấp và sự chênh lệch nhiệt độ khiến đá cũng phải vỡ vụn mà khắp hoang mạc phủ một lớp đá vụn và cát đặc thù sa mạc. Arava là một trong những vùng đất khô cằn nhất thế giới. Cảm giác đầu tiên khi đặt chân đến vùng đất này, là miền Trung Việt Nam với những dải đất bạc màu và đồi cát, hóa ra vẫn còn là miền đất trù phú! Ấy thế mà nơi đây mọc nên những nông trại trồng đủ loại cây từ rau củ, cây ăn trái đến hoa hòe. Tất cả đều xanh tốt và cho sản lượng không nơi nào sánh được. Không từ nào có thể diễn tả đúng hơn về một “vườn địa đàng” đã được tạo ra giữa thung lũng Arava, đúng như Tổng thống Israel Shimon Peres đã thốt lên khi đến thăm nơi này năm 2009: “Hãy đến và thấy chính con người cũng có thể tạo nên vườn địa đàng! (Garden of Eden)” Ông Ezra Ravins, người đứng đầu cộng đồng hơn 3.000 người tại khu vực này cho biết, từ một nhóm thanh niên Israel “bồng bột”, mang theo bánh mì và nước quyết định định cư tại thung lũng Arava năm 1959, cả một cộng đồng đã được xây dựng với nhiều thế hệ, tạo thành một trong những trung tâm nông nghiệp lớn nhất cả nước. “Khi những người đầu tiên đến đây, quyết định đó được xem là “điên rồ” nhất và chính những nhà khoa học cũng khẳng định con người không thể sống được ở vùng đất này.” Ấy vậy mà họ đã làm được, không chỉ làm được, mà còn tuyệt đối thành công, trồng trọt mà không cần đất và không cần nhiều nước, thoạt nghe cứ như chuyện của thế giới nào đó không phải trái đất này. Nhưng không, đó là sự thật, đó là Israel! Thần kỳ cách họ trữ nước và sử dụng nước Thiên đường nông nghiệp tại Arava gắn liền với một công trình xứng đáng ghi nhận như một kỳ công mà con người đã tạo ra giữa xa mạc: Bể chứa nước khổng lồ mang tên Shizaf. Với khả năng dự trữ 150.000 m3 nước sạch, bể chứa này có nhiệm vụ cấp nước sạch cho sinh hoạt và tưới tiêu. Bể được thiết kế để tích trữ nước từ giếng khoan vào thời điểm nhu cầu giảm. Bể có đáy chìm 3,5 m dưới mặt sa mạc và chia thành nhiều lớp khác nhau, tạo nên bề mặt nổi 10m. Một khối lượng công việc khổng lồ được thực hiện để đào bỏ 320.000 m3 đá và đất sa mạc. Độ sâu của giếng khoan lên tới 1,5 km mới tới túi nước ngầm. Kỹ thuật thiết kế đặc biệt của bể chống lại chế độ bốc hơi tự nhiên cũng như thu gom nước một cách hoàn hảo. Điều kiện tự nhiên của Israel đặc biệt khô hạn với lượng mưa rất thấp và thay đổi theo từng mùa: Phía Bắc quốc gia này lượng mưa khoảng 800 mm/năm và ở phía Nam chỉ khoảng 50 mm/năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 11 đến khoảng tháng 3 năm sau và lượng bốc hơi tự nhiên lên tới 1.900-2.600 mm/năm. Không có gì ngạc nhiên khi nước ngọt ở Israel được coi như vàng trắng và được quản lý một cách chặt chẽ hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Chính phủ xây dựng hẳn một bộ luật để đo lường mức tiêu thụ nước, kiểm soát việc khai thác nước ngầm, ngăn chặn ô nhiễm nước. Công nghệ xử lý nước của Israel thuộc hàng hiện đại nhất thế giới với tỉ lệ tái chế tới 75%. Dọc ngang Israel, ở những thành phố lớn hay những vùng nông thôn, hoang mạc, hệ thống tưới nước hoàn hảo đến mức gần như không bỏ phí một giọt nước nào. Đại diện công ty công nghệ tưới NaanDanJain cho biết 75% hệ thống nước nông nghiệp của Israel áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, 25% còn lại tưới nước bằng ống dẫn và vòi tưới các loại phun mưa nhỏ, không hề có chế độ tưới ngập nước. Israel cũng là quốc gia phát minh ra hệ thống tưới nước nhỏ giọt điều khiển bằng máy tính, kết hợp với các thiết bị kiểm soát độ ẩm trong đất, có thể tính toán chính xác nhu cầu nước và tiết kiệm tối đa. Tại công ty Netafim, người viết được chứng kiến những thành quả đáng ngạc nhiên về hiệu quả của việc sử dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel trên khắp các dự án ở những vùng khô hạn trên thế giới. Hệ thống ống dẫn nước như những mao mạch dẫn tới từng gốc cây, được vận hành chính xác bằng công nghệ cao cũng như sử dụng tối ưu năng lượng mặt trời. “Đạt năng suất cao hơn với chi phí thấp hơn” (grow more with less) là khẩu hiện của Netafim và có lẽ cũng là hướng đi của phần còn lại của thế giới, khi nguồn tài nguyên nước đang ngày càng suy giảm. Israel giải quyết được sự thiếu nước, biến nước thành tài sản, đang dẫn đầu thế giới về tái chế nước thải, hơn 70% lượng nước được tái chế, gấp 3 lần quốc gia đứng thứ hai Tây Ban Nha.   “Cây đũa thần” khoa học   Một con số dễ hình dung về năng lực của “cây đũa thần” khoa học. Năm 1950, một nông dân Israel cung cấp thực phẩm đủ cho 17 người, hiện đã là 90 người. Một hecta đất hiện cho 3 triệu bông hồng, hay 500 tấn cà chua/vụ. Một con bò cho tới 11 tấn sữa/năm – mức năng suất mà không một nước nào trên thế giới có được. Những thực tế tại công ty NaanDanJain đã đem lại một bài học khác về sự phối hợp: nhà khoa học, nhà doanh nghiệp có sự tách biệt khó phân định với nhà nông. Đa phần các nước nhập khẩu công nghệ của NaanDanJain chỉ biết rằng đây là một trong những công ty hàng đầu Israel chuyên về giải pháp tưới, hệ thống công nghệ kiểm soát khí hậu nhà kính, mà không biết rằng chính công ty cũng đang sở hữu những đồn điền rộng lớn, nơi chính những tiến bộ khoa học của công ty được triển khai đầu tiên, nhằm đảm bảo sự thích ứng hoàn hảo nhất đối với nhu cầu của người trồng trọt. Một trong những lợi thế của sự phối hợp giữa khoa học và nhà nông tại Israel là tính cộng đồng rất cao. Nhà khoa học rất gần gũi với đồng ruộng và nhiều trong số họ cũng chính là nông dân hoặc giữ vai trò tư vấn trực tiếp cho nông dân. Các trung tâm nông nghiệp lớn, thậm chí cả các “làng nông nghiệp” (từ địa phương là kibbutz) đều có sự xuất hiện của các phòng nghiên cứu hoặc đại diện của các viện khoa học. Những giống cây mới hay các nghiên cứu mới về hệ thống nhà kính trước hết được thí nghiệm, kế đó sẽ áp dụng thử nghiệm với một số nhỏ hộ nông dân bằng nguồn vốn hỗ trợ của hệ thống tài chính vi mô hoặc từ chính quỹ của viện thí nghiệm, trước khi triển khai thương mại đại trà. Tại Israel phần lớn các nhà khoa học nông nghiệp làm cho chính phủ. Có tới hơn 60% các công trình nghiên cứu nông nghiệp là của Cơ quan Nghiên cứu Nông nghiệp hay trung tâm Volcani thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Israel cũng là nước có mức đầu tư cho nghiên cứu thuộc loại lớn nhất thế giới với gần 100 triệu USD mỗi năm, chiếm khoảng 3% tổng sản lượng nông nghiệp quốc gia. Nguồn lực này đến từ ngân sách và cộng động (50 triệu USD/năm), các hợp tác quốc gia song phương (12 triệu USD/năm), các tổ chức nông nghiệp cấp địa phương và quốc gia (6 triệu USD/năm) thông qua nguồn lợi từ thu hoạch cây trồng. Khu vực tư nhân cũng đóng góp khoảng 25 triệu USD hàng năm. Nguồn lực này được cung cấp trực tiếp cho việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm ứng dụng và các nhà đầu tư giữ bản quyền sáng chế. Phần lớn các nghiên cứu đều do những công ty sản xuất sản phẩm đầu tư, như hệ thống tưới tiêu, phân bón, nhà kính… triển khai. Sự phối hợp giữa kinh doanh và nghiên cứu đảm bảo cho các nhà khoa học một mức ưu đãi đủ để phát huy tối đa năng lực hoạt động chuyên môn. Thậm chí các chuyện các chuyên gia nông nghiệp đi tư vấn trực tiếp cho các nông trại là điều không hiếm. Việc chăn nuôi tại Israel: Nuôi cá trên sa mạc Khi đào giếng sâu gần nửa dặm, người Israel phát hiện nguồn nước ấm mặn. Một giáo sư đại học chỉ ra đây là nguồn nước hoàn hảo để nuôi cá nước ấm. Các nông trang bơm nước nóng 37 độ vào trong bể, nuôi cá thương mại. Nước chứa chất thải của cá được tưới cho rau, cây ăn quả. Nhờ vậy, nước được sử dụng tới 2 lần thay vì dùng 1 lần rồi bỏ. Những con bò có giáo dục AfiMilk chính là công ty đã mang lại cho Israel thương hiệu độc tôn trong ngành chăn nuôi bò sữa, đặc biệt là ở khu vực châu Á, nơi mà thói quen uống sữa đang được hình thành. Những công nghệ của AfiMilk đã và đang giúp người nông dân chăn nuôi bò sữa kiểm soát được loại sữa đang được sản xuất từ trang trại của mình; cũng như kiểm soát được liệu mỗi con bò đã có đủ dinh dưỡng không, sữa bò có đủ lượng protein tiêu chuẩn không, tình trạng sức khỏe của bò ra sao, mỗi con bò đang cần được chăm sóc thế nào… Hệ thống giám sát thời gian thực do AfiMilk sản xuất đã giúp người nông dân đảm bảo duy trì chất lượng và sản lượng, đồng thời đáp ứng những nhu cầu cơ bản của đàn bò sữa. Ở trang trại nuôi bò sữa của Kibbutz Mashabbe Sade thuộc vùng Nagev, bò được huấn luyện rất kỹ, cứ đến giờ là tự tìm đường về trạm cho sữa, thậm chí không cần người dẫn dắt. Họ gọi những con bò này là “bò có giáo dục”. Tiện nghi cho chó Israel đã phát triển một loạt các sáng tạo với những sản phẩm out of the box (những sản phẩm sáng tạo không gò bó theo khuôn phép) cho những người nuôi chó trên toàn thế giới, từ DogTV (kênh truyền hình dành cho chó) đến pooper-scooper (một thiết bị mang tính cách mạng giúp bạn tự động dọn sạch phân chó – đã có trên thị trường). Khi bạn đi ra ngoài và để chú chó của mình ở nhà một mình, chúng sẽ không còn cảm thấy chán nhờ vào kênh DogTV – kênh truyền hình dành cho những chú chó đã đạt những thành công phi thường của Israel. Và khi bạn lái xe, một việc không ai muốn làm đó là dọn phân cho những chú chó, sẽ trở nên dễ dàng với thiết bị của Paulee CleanTec: biến chất thải thành chất không màu, không mùi, bột vô hại chỉ với một nút nhấn. Dẫn đầu thế giới về công nghệ sạch Họ được xếp hạng cao nhất với chỉ số 4,34, tiếp theo là Phần Lan 4,04, Mỹ 3,67, Thụy Điển 3,55 và Đan Mạch 3,45. Trong vòng 3 năm qua, Israel có 19 công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ sạch được lọt vào danh sách rút gọn của GCII. “Israel đứng đầu chỉ số năm 2014. Ngoài bản năng sinh tồn, đất nước này còn tạo ra nền văn hóa, giáo dục và những nền tảng cần thiết khác để nuôi dưỡng sự sáng tạo”, báo cáo cho biết. Những điều hay ho về con người, tính cách, bản sắc văn hóa và nền kinh tế: Kinh doanh từ niềm đam mê sáng tạo nên cái mới, chứ không hẳn vì tiền   TS. Ze’ev Ganor, một giảng viên cao cấp tại Viện Công nghệ Technion-Israel và đồng sáng lập của Urginea Ventures, người đã phân tích dữ liệu về các doanh nhân nối tiếp ở Israel từ năm 2005 nói rằng: Hiện tượng một doanh nhân thành lập nhiều công ty rất phổ biến ở Israel. Khoảng 10% doanh nhân Israel có ít nhất hai công ty trở lên, gấp đôi con số 5% ở Mỹ. Tương tự như vậy, có khoảng 7,5% các doanh nhân Israel khởi nghiệp từ ba công ty hoặc nhiều hơn, trong khi chỉ có 3,75% các doanh nhân Mỹ làm như vậy. Trên sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ, số doanh nghiệp Israel nhiều hơn cả 4 nước Nhật Hàn Trung quốc và Sing cộng lại. Không ít những ông chủ khổng lồ nhất thế giới có mặt trên đất nước này đến từ Mỹ, Ấn độ, Đức… Xuất khẩu hướng vào thị trường cao cấp và sản phẩm mà Israel thu lợi nhuận cao nhất là bán các ý tưởng, được kết hợp chặt chẽ từ hai yếu tố sáng tạo và táo bạo. Và hình như, đây chính là tinh thần Do thái. Israelcó tỷ lệ doanh nhân bình quân đầu người cao hơn bất kì một quốc gia nào khác. Vậy đâu là những yếu tố thúc đẩy sự thành công của họ? “Tôi cho rằng giá trị chung cơ bản mà những người liên tục tạo ra các công ty khởi nghiệp nằm ở sự đam mê tạo ra giá trị mới chứ không phải đam mê kiếm tiền. Kiếm tiền chỉ là một yếu tố phụ, không phải là mục tiêu phấn đấu của những doanh nhân tiếp nối ở Israel.” GS. Amnon Shashua của Đại học Hebrew, người sáng lập ra các công ty Cognitens, OrCam và Mobileye nói. Hay như theo cách mà ông Wurtman giải thích thêm về triết lý kinh doanh của họ: “Điều khiến bạn thích thú không phải ở việc tạo ra của cải, mà là tạo ra những cái mới.” “Đặc điểm của những doanh nhân tiếp nối là họ không bao giờ ngừng liên kết những ý tưởng mới vào doanh nghiệp mới và họ coi trọng cuộc hành trình của mình hơn là cái đích. Theo tôi, đây là một đặc điểm mang tính dân tộc, vì bản thân tôi đã luôn xem những gì tôi làm như là một phần của cuộc hành trình để phục vụ nhà nước Do Thái. Thành công, theo tôi, được đo bởi số lượng việc làm có chất lượng được tạo ra.” Wurtman khẳng định. Chuyện nói và chuyện làm Khi người Israel có ý tưởng, anh ta sẽ triển khai nó ngay trong tuần. Tổng thống S. Peres, người đã sang Việt Nam, nói thế này: diễn văn rất hay, nhưng anh định làm gì tiếp theo?. Tỉ phú hàng đầu Israel, ông Stef Wertheimer, lời khuyên đầu tiên với người Việt cũng là, nói ít thôi làm nhiều lên. Ông là nhà sản xuất vũ khí và chủ một khu công nghệ còn đẹp hơn bất cứ công viên giải trí nào ở Việt Nam. Điều này hơi ngược với triết lý của ta khi bắt đầu kinh doanh cần phải có kinh nghiệm. Người Israel không cần kinh nghiệm, họ cần ý tưởng nhiều hơn, và sẵn sàng thất bại để học hỏi từ thất bại đó. Người Israel mê sáng tạo, và không sợ trí tưởng tượng. Họ biết kinh nghiệm là quý báu, nhưng kinh nghiệm dễ thành lối mòn. Họ không ngại thay đổi, luôn hướng về phía trước, không nằm im gặm nhấm thành công quá khứ. Họ biết “nỗi sợ hãi mất mát luôn lớn hơn niềm hy vọng nhận được” để bỏ đi cái cũ không còn phù hợp, kiến tạo cái mới cho hiện tại và tương lai. Trong những buổi gặp mặt cựu binh hay bạn học, họ ít hồi tưởng về quá khứ huy hoàng, mà hướng về tương lai phía trước. Những đơn vị thành công thì thuyết trình về công ty để người khác được chia sẻ kinh nghiệm. Họ xây dựng mạng luới làm ăn, kiến tạo những cơ hội kinh doanh. Tiếp nhận sự khác biệt và đa dạng trong cộng đồng Một trong những giá trị của Israel đó là lịch sử dân tộc. Chỉ với khoảng 8 triệu dân nhưng lại có nguồn gốc từ 70 nước trên toàn thế giới. Họ là quốc gia duy nhất thực thi luật di trú mà bất cứ người Do thái nào đặt chân lên Israel, ngay lập tức trở thành người Israel. Họ biết chiêu dụ những người Israel sống ở nước ngoài về phục vụ tổ quốc, trọng dụng họ và không bao giờ bỏ rơi họ. Israel thực sự là một đất nước đa dạng về văn hóa, sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc. Vì là nạn nhân của chủ nghĩa bài Do thái, họ thấu hiểu việc tôn trọng sự đa dạng quan trọng như thế nào. Chính vì vậy, sự khác biệt không cản trở họ, mà ngược lại là nguồn gốc của sự sáng tạo. Đây chính là cốt lõi khởi tạo mọi thành công của người Israel. Chuyện người lãnh đạo Quá trình tuyển chọn lãnh đạo của Israel dựa trên tài năng chứ không phải dựa trên mối quen biết hay sức mạnh tài chính. Quá trình tuyển chọn rất minh bạch và dân chủ. Cộng với văn hóa tranh luận và đặt câu hỏi “tại sao ông là sếp của tôi; tại sao tôi không phải là sếp của ông?” đầy thách thức, làm cho người sếp không đủ tài năng sẽ phải nhường chỗ cho người khác. Quá trình này giúp tìm ra được người lãnh đạo tốt nhất cho công ty, tập đoàn hay chính phủ. Khi có lãnh đạo giỏi, việc trao quyền cho cấp dưới được thực hiện dễ dàng hơn, các thông tin, ý tưởng, giải pháp được đến từ nhiều người hơn là chỉ một số người có trách nhiệm. “Mục tiêu của nhà lãnh đạo là tối đa hóa sự chịu đựng – trong khi khuyến khích sự bất đồng chính kiến.” Là một phương châm lãnh đạo rất sâu sắc. Tinh thần này có nghĩa, lãnh đạo phải chịu được những điều “chướng tai gai mắt”, những khác biệt thậm chí bất đồng, thì nhân viên mới thỏa sức sáng tạo. Còn nhân viên, phải phát huy tính tự chủ độc lập của mình, không sợ khác biệt về nhận định hay giải pháp, vì đó chính là khởi nguồn của sáng tạo. Văn hóa này đã nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu và hướng tới cái mới hơn, tốt hơn và hiệu quả hơn. Ở Israel, các sinh viên đại học nói chuyện với giảng viên, nhân viên thách thức ông chủ, binh lính chất vấn sĩ quan chỉ huy, thư ký sửa lưng các bộ trưởng, đây không phải là sự cả gan, mà là điều hết sức bình thường. Ai mới tới Israel thường có cảm giác người bản xứ rất thô lỗ, thẳng thắn quá trớn. Nhưng nếu hiểu được bản chất và văn hóa của người Israel thì ta sẽ cảm thấy thoải mái, xem đây là biểu hiện của sự chân thành. Hiện tượng cấp dưới có quyền đưa ra quyết định vượt cấp trong quân đội Israel là kết quả của nhu cầu thực tế cũng như bản chất của lực lượng này. Việc quân đội Israel có ít chỉ huy, đồng nghĩa với việc có nhiều sáng kiến hơn đến từ binh lính cấp dưới. Mức độ trao quyền hạn vượt cấp trong quân đội Israel đã làm lãnh đạo các quốc gia ngạc nhiên. Giá trị của binh lính Israel không phụ thuộc quân hàm, mà được quyết định bởi năng lực của họ. Ở đây, bí quyết lãnh đạo là niềm tin của binh lính đối với chỉ huy của mình. Nếu không có niềm tin, binh lính sẽ không bao giờ tuân phục. Trong doanh trại quân đội Israel, các viên tướng, sĩ quan và binh lính thường ngồi quây quần bên nhau, ít kiểu cách nhưng thân thiện và bao dung hơn. Đó là tinh thần Chutpah trong quân đội. Điều này lý giải tại sao Shvat Shaket, một người đã sống nhiều năm trong quân đội, có thể giảng cho chủ tịch PayPal về sự khác nhau giữa “người tốt và kẻ xấu” trên internet. Hay nhóm kỹ sư Israel của Intel thực hiện cuộc cách mạng lật đổ kiến trúc cơ bản của sản phẩm của chính công ty mình. Tinh thần chiến đấu của người Israel không chỉ được thể hiện trên chiến trường, bàn ngoại giao, mà còn thẫm đẫm vào công việc kinh doanh của họ. Khi bị ban lãnh đạo Intel từ chối giải pháp làm nguội con chíp, nhóm làm việc Israel không chịu lùi bước. Họ kiên trì thuyết phục, cải tiến và chứng minh viễn kiến và giải pháp của họ là đúng, tạo bước ngoặt cho Intel và thế giới khi đưa ra các sản phẩm chip mới. Trong những công ty khởi nghiệp, khi thất bại họ “thất bại có tính xây dựng” hay “thất bại thông minh”, cộng với tính khoan dung của người Israel, nên những người thất bại được trao cơ hội làm lại. Theo thống kê, những người đã thất bại lần đầu mà khởi nghiệp lại, tỉ lệ thành công của họ sẽ tăng lên 20%. Đây chính là lý do góp phần để Israel thành một quốc gia khởi nghiệp. Và những điều lạ lùng khác nữa… Mô hình kinh tế Kibbutz   Về kinh tế, mô hình kinh tế Kibbutz được hình thành từ những năm 1960 và tới nay vẫn còn duy trì hiệu quả. Đây là mô hình tổ chức nông-công nghiệp nông thôn độc nhất vô nhị trên thế giới chỉ có tại Israel. Hiện nay trên toàn Israel có khoảng 270 Kibbutz, trung bình mỗi Kibbutz này có trên dưới 300 xã viên hoạt động tương tự như nhau, sở hữu những cánh đồng trồng cây nông nghiệp, trại chăn nuôi gia súc, các nhà máy chế biến sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ như sản xuất bột giạt, đồng hồ đo nước xuất khẩu, van và khớp nối ống nước… Mọi thành viên của gia đình các xã viên được cung cấp miễn phí hai bữa ăn sáng và trưa tại một bếp ăn tập thể giữa làng. Riêng bữa tối các gia đình tổ chức ăn ở nhà để cho gắn bó tình cảm giữa các thành viên trong gia đình mình. Buổi sáng, các xã viên và trẻ em trong làng lũ lượt kéo đến các nhà ăn tập thể dùng bữa sáng. Nhà ăn được tổ chức hiện đại và sang trọng với đầy đủ các món ăn cao cấp không khác mấy so với các phòng ăn ở khách sạn 5 sao. Sau khi ăn xong, mỗi người tự mang bát đĩa, khay, thìa đến những chỗ quy định để “tổ bếp núc” rửa. Sau đó, trẻ em thì đến trường, người lớn đến nơi làm việc. Khoảng 12h30 trưa, trẻ em đi thẳng từ trường học tới nhà ăn, cùng người lớn dùng bữa trưa. Các gia đình không nhất thiết ngồi ăn cùng bàn, họ thoải mái tự chọn món mình thích và tùy chọn chỗ ngồi trong bữa ăn, không hạn chế số lượng và hoàn toàn theo nhu cầu. Ngoài ra còn những điều cực kỳ lý thú, việc giặt giũ của mỗi gia đình được phụ trách bởi một tổ có tên “tổ giặt giũ” đảm nhiệm. Họ phân loại quần áo, dùng máy móc giặt sấy và trả về cho mỗi gia đình theo số thứ tự được đánh dấu của mỗi nhà. Các xã viên cũng không cần mua ô tô khi các Kibbutz luôn có sẵn khoảng 60 ô tô con các loại để tại bãi đậu xe có người trông coi. Ai cần đi xe chỉ việc chọn xe, đăng kí trên website và tới bãi để lấy xe chạy thoải mái. Ngoài ra, các khoản như xăng, sửa chữa và các chi phí khác hoàn toàn do Kibbutz chịu trách nhiệm. Nếu thích một loại xe nào đó khác, chỉ việc yêu cầu, Kibbutz sẽ chịu trách nhiệm đi thuê xe cho bạn, và đương nhiên, hoàn toàn miễn phí, Kibbutz sẽ thanh toán cho bạn. Kibbutz còn xây dựng và cấp nhà miễn phí cho các gia đình xã viên. Khi cần mở rộng hoặc muốn cải tạo theo ý mình, chủ nhà trao đổi với ban quản trị, sau đó sẽ có một đội xây dựng đến thực hiện theo yêu cầu của chủ nhà, Kibbutz thanh toán chi phí toàn bộ, bao gồm cả tiền điện, nước, gas sinh hoạt trong các gia đình. Mỗi căn nhà này ở Mashabbe Sade là một biệt thự cao cấp, đầy đủ tiện nghi. Ngày Shabbat bình yên Chiều thứ sáu, đường phố ở Haifa vắng tanh, mọi người đều về nhà để chuẩn bị một bữa tối linh đình cho gia đình. Các cửa hàng, siêu thị, công sở đều đóng cửa, thậm chí các phương tiện giao thông công cộng cũng ngưng hoạt động. Người lần đầu đến Israel đúng những ngày này sẽ cảm thấy bất ngờ và hụt hẫng. Muốn mua sắm hay đi chơi đều phải chuẩn bị từ đầu hoặc giữa tuần. Nếu chẳng may phải đi đâu, phương tiện công cộng duy nhất là taxi với giá 5 shekel (tiền Israel, bằng khoảng 5.000 đồng VN). Một người dân tên Roi Ariel cho biết, theo phong tục, người Israel thường ở nhà nghỉ ngơi, thư giãn, đọc sách, đi thăm người thân hoặc bạn bè, đi du lịch nhân ngày Shabbat. Cánh thanh niên tận dụng những ngày Shabbat để đi ra biển hoặc khám phá những thành phố mới. Roi Ariel đang trong thời gian quân ngũ và phục vụ trong hải quân. Tham gia quân đội cũng là cách các chàng trai, cô gái xứ sở này có được một khoản thu kha khá. Sau 3 năm tại ngũ, họ sẽ dùng số tiền tiết kiệm được để đi du lịch hoặc đăng ký học tại một trường đại học nào đó. Và trường đại học tại Israel thì có chất lượng không thua kém bất cứ đại học danh tiếng nào trên thế giới.   Theo lời Erik – một người dân Israel thì, đàn ông Israel không có thói quen tụ tập tại các quán bar sau giờ làm việc, trừ những ngày cuối tuần. Hầu hết đều trở về nhà, giúp đỡ vợ những công việc gia đình, xem tivi, đọc sách và ngủ. Làm việc quên giờ giấc cũng là một đặc tính nữa của người Israel. Chắt chiu trong cuộc sống thường ngày, nhưng bù lại họ có niềm đam mê trong việc du lịch và khám phá những vùng đất khác. Chả thế mà người Israel được xem là dân tộc đi du lịch nhiều nhất thế giới. Tạm kết Quả thật là lý thú và kỳ diệu, đất nước này, những con người nơi đây. Họ có xứng đáng cho chúng ta học hỏi, từ công việc nông nghiệp, cách dụng người tài, khả năng sáng tạo tuyệt đỉnh cho đến thói quen sinh hoạt thường ngày? Thật đáng khâm phục đúng không? Con người Israel với khả năng kinh doanh tuyệt vời và những vĩ nhân ảnh hưởng lớn đến thế giới thì chắc hẳn bạn nào yêu thích kinh doanh và từng đọc các cuốn sách “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu, Tủ sách của người Do Thái…” đều được biết. Tuy nhiên, thật không thể ngờ đi sâu vào đất nước ấy lại có nhiều điều thú vị đến vậy. Thiết nghĩ, Việt Nam ta cũng là một quốc gia nông nghiệp thì ta nên học hỏi đất nước này. Ta có một nền tảng tốt hơn, tại sao ta lại không thể làm tốt hơn? Phải chăng cũng vì cái nền tảng tốt đẹp sẵn có mà ta không còn cần phấn đấu và sáng tạo nữa? Thật đáng tiếc, theo một bản tin mới đây, thì mặc cho bầu Đức đã và đang triển khai rất nhiều công nghệ nông nghiệp hiện đại từ từ đất nước này, thì Bộ Công Thương của chúng ta sau một hồi nghiên cứu đã quyết định chọn các tư vấn viên đến từ… Trung Quốc để tư vấn cho nền nông nghiệp nước nhà. (!) Thật sự là không còn gì để nói… Các nguồn tham khảo:https://www.facebook.com/IsraelinVietnam http://nld.com.vn/phong-su-ky-su/shabbat-binh-yen-195204.htmhttp://reds.vn/…/4771-chu-nghia-cong-san-kieu-israelhttp://embassies.gov.il/hanoi/AboutTheEmbassy/ Các thông tin tổng hợp từ cuốn sách “Quốc gia khởi nghiệp” của Dan Senor và Saul Singer. Nguồn: Triết học đường phố
......

Tại Sao Trung Quốc Rút Giàn Khoan HD981 Trước Thời Hạn?

Sáng ngày 16/7, trang nhà của Bộ ngoại giao Trung Quốc đã chính thức xác nhận giàn khoan Hải Dương 981 đã di dời ra khỏi vùng biển của Việt Nam và đang hướng về đảo Hải Nam. Tin này cũng được báo Tuổi Trẻ Online ngày 16/5 loan tải dẫn lời của ông Ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục kiểm ngư thuộc Bộ Ngư nghiệp và Phát triển nông thôn của CSVN. Sự kiện Bắc Kinh cho rút giàn khoan HD 981 và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam sớm hơn dự tính 1 tháng cho thấy đây không phải là động thái bình thường. Vào ngày 2/5, Cục Hải Sự Trung Quốc đã thông báo giàn khoan HD 981 sẽ tác nghiệp trên biển Đông (cách đảo Tri Tôn 17 hải lý và cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 135 hải lý) kéo dài từ ngày 3/5 đến 15/8. Ba tuần lễ liên tiếp sau đó, Trung Quốc đã bị rất nhiều sự chống đối từ dư luận quần chúng Việt Nam và Thế giới nhất là Hoa Kỳ nên đã nhích giàn khoan ra ngoài một vài hải lý nhưng vẫn nằm trong lô khai thác dầu khí 143 do CSVN ấn định nhưng chưa khai thác. Mặc dù Bắc Kinh không cho biết lý do rút giàn khoan HD 981 sớm hơn thời hạn dự trù, nhưng theo một số phân tích thì cho là Trung Quốc rút giàn khoan HD 981 nhằm tránh cơn bão Rammansun đang từ vùng biển Phi Luật Tân hướng về quần đảo Hoàng Sa với sức gió mạnh khủng khiếp (134-166 cây số/giờ). Việc Bắc Kinh rút giàn khoan để tránh cơn bão Rammansun chỉ là lý cớ bề nổi, vì nếu giàn khoan này đang tìm kiếm dầu khí thật sự như Trung Quốc loan báo thì họ không thể dễ dàng rút giàn khoan khi thời hạn tác nghiệp còn đến một tháng và đã chi phí hàng ngàn triệu Mỹ Kim cho giàn khoan này hoạt động trong gần 2 tháng vừa qua. Cơn bão thực sự khiến Trung Quốc phải rút giàn khoan vẫn chính là “cơn bão dư luận” - cả từ Việt Nam lẫn quốc tế. Tư duy và hành xử cao ngạo, côn đồ của Trung Quốc đã như bị nước lạnh tạt vào mặt với phản ứng phẫn nộ của thế giới, khiến Bắc Kinh chợt tỉnh với 3 mối lo sau đây: Thứ nhất là sợ bị cô lập. Hầu hết dư luận thế giới đều lên án hành động bá quyền của Trung Quốc khi mang giàn khoan HD 981 vào trong vùng lãnh hải của Việt Nam. Sự kiện Nhật Bản, Úc , Phi Luật Tân, Ấn Độ, Hoa Kỳ đều lên tiếng chống đối mạnh mẽ cho thấy các quốc gia có quyền lợi trực tiếp trên tuyến đường hàng hải biển Đông sẽ không để yên cho Trung Quốc thao túng. Đồng thời qua vụ giàn khoan, thế giới đã thấy rõ thực chất của cái gọi là “trổi dậy hòa bình” của tân đế quốc này, và nguy cơ gây bất ổn trong vùng cũng như trên toàn thế giới của Trung Quốc. Thứ hai là sợ một liên minh chống Trung Quốc hình thành. Vụ giàn khoan đã vô hình chung tạo lý cớ thuận lợi cho các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Úc Châu, Nam Hàn, Mã Lai liên kết thành một liên minh chống lại sự bành trướng của Trung Quốc - không chỉ ở biển Đông mà bao gồm cả vòng đai Á Châu Thái Bình Dương. Đây có thể nói là cơ hội bất ngờ giúp cho Nhật Bản mở rộng tiềm năng hoạt động của lực lượng tự vệ cùng với Hoa Kỳ trong vùng mà không gặp sự chống đối nào của công luận. Thứ ba là sợ nội bộ lãnh đạo CSVN phân hóa vì Bắc Kinh. Sự phẫn nộ của người Việt Nam ở trong và ngoài nước về vụ giàn khoan đã dâng cao tột đỉnh, tạo ra những áp lực mạnh mẽ lên hàng ngũ lãnh đạo CSVN vốn đang lệ thuộc vào Trung Quốc. Các áp lực này đã đẩy Bộ chính trị CSVN rơi vào tình thế lúng túng, đưa đến sự hình thành hai khuynh hướng thoát Trung và bám Trung rất nguy hiểm cho quan hệ tay sai mà Bắc Kinh đã nuôi dưỡng từ năm 1990 cho đến nay, và nguy hiểm cho sự tồn vong của chế độ vốn đã bị người dân khinh ghét. Tuy nhiên, vì tham vọng chiếm biển Đông bằng mọi giá để chống lại chính sách xoay trục về Á Châu của Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ không dừng ở việc rút giàn khoan HD 981 mà còn tiếp tục gia tăng các áp lực mới trên biển Đông trong những ngày tới. Một số các sự kiện tiên đoán điều này: -Hai tuần trước khi rút giàn khoan HD 981, Cục Hải Sự Trung Quốc đã thông báo là hai giàn khoan Hải Nam 4 và Hải Nam 9 đã được đưa về hoạt động trên biển Đông, tuy không cho biết rõ vị trí tác nghiệp. Đây là sự rút lui có chuẩn bị với mục tiêu mà Trung Quốc muốn nhắm đến là bình thường sự hiện diện thường trực của các giàn khoan trên biển Đông để lâu dần không còn ai chống đối mạnh mẽ như hiện nay. -Muốn chiếm biển Đông, Trung Quốc thấy rõ Việt Nam là địa bàn quan trọng và CSVN là tay đàn em đắc lực. Do đó Bắc Kinh sẽ tìm mọi cách khống chế Bộ chính trị CSVN trong vòng kim cô “16 vàng và 4 tốt”, sẽ ngăn chặn mọi thế đối đầu pháp lý như Phi Luật Tân đang làm, cũng như không để cho CSVN tiếp cận với Hoa Kỳ hay các quốc gia nằm trong liên minh chống Trung Quốc. -Sau khi tung ra hàng loạt giàn khoan trên biển Đông, Trung Quốc sẽ bắt đầu đưa ra hai quyết định: 1/Thành lập vùng nhận dạng phòng không trên biển Đông; 2/Ra lệnh các tàu bè ngoại quốc lưu thông qua lại trên biển Đông phải xin phép nhà cầm quyền Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam để vừa chính thức hóa chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa, vừa đẩy Hoa Kỳ, Nhật Bản và Phi Luật Tân ở vào thế khó xử. Qua những động thái mà Tập Cận Bình đã làm trên biển Hoa Đông đối với Nhật Bản từ năm 2013 đến nay và nhất là đưa giàn khoan HD 981 vào lãnh hải Việt Nam để thách thức Hoa Kỳ trong 2 tháng vừa qua, chúng ta thấy rõ là Trung Quốc từng bước đưa ra nhiều phép thử khác nhau. Tuy có gặp sự chống đối mạnh mẽ ở lúc đầu, nhưng Trung Quốc nghĩ rằng với từng bước tiệm tiến, họ sẽ đạt được mục tiêu “đặt các nước vào sự đã rồi” qua sự tiếp tay trực tiếp và gián tiếp của đảng CSVN, và sau cùng sẽ buộc các nước phải chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc. Nói tóm lại, chúng ta nên coi việc Trung Quốc rút giàn khoan HD 981 hôm 16/7 vừa qua chỉ là bước lùi chiến thuật tạm thời để làm dịu nguội dư luận. Bắc Kinh sẽ tiếp tục khống chế lãnh đạo Hà Nội để chuẩn bị cho giai đoạn mà họ sẽ mang thêm nhiều giàn khoan ra biển Đông và buộc thế giới phải công nhận chủ quyền, theo kiểu “tầm ăn dâu”. Do đó, chúng ta phải tiếp tục vận động sự cảnh giác của thế giới và áp lực Bộ chính trị CSVN phải xúc tiến việc kiện Trung Quốc vì đây là diễn đàn cần thiết để bảo vệ chủ quyền nước nhà và buộc Trung Quốc phải ngưng những thủ đoạn xâm chiếm biển Đông nói trên. Lý Thái Hùng Ngày 16/7/2014
......

Thông báo số 1 của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam

Sài Gòn ngày 16 tháng 7 năm 2014 Về những hoạt động đầu tiên của Hội Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (IJAVN) xin chung gửi đến quý độc giả và báo giới lời cám ơn chân thành và sâu sắc vì tình cảm và mối quan tâm của quý vị từ ngày 4/7/2014 - thời điểm IJAVN chính thức ra đời – cho tới nay. IJAVN xin thông báo một số vấn đề sau: 1. Hoạt động tuyên bố ngôn luận: Trong các ngày 11 và 14 tháng 7 năm 2014, IJAVN đã ban hành Tuyên bố số 1 và Tuyên bố số 1 (bổ sung) về việc 13 ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc giam cầm, cùng danh sách công dân ký tên ủng hộ Tuyên bố. Tuyên bố này yêu cầu Nhà nước Việt Nam phải có ngay hành động dứt khoát đòi Trung Quốc phải xin lỗi, bồi thường và thả ngay 13 ngư dân Quảng Ngãi và Quảng Bình, đồng thời công bố ngay kế hoạch khởi kiện Trung Quốc ra tòa án luật biển quốc tế cho toàn thể quốc dân đồng bào. Cho tới nay Tuyên bố đã nhận được sự ủng hộ của khoảng 200 người. Trước làn sóng lên án mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, ngày 15/7/2014, phía Trung Quốc đã phải trả tự do cho toàn bộ 13 ngư dân bị bắt giữ: rfa.org   2.Hoạt động Việt Nam Thời Báo: Sau một thời gian thử nghiệm trên facebook, Việt Nam Thời Báo (VNTB) - cơ quan ngôn luận chính thức của IJAVN - được đưa lên trang web từ ngày 17/7/2014 với địa chỉ http://www.ijavn.org/ VNTB giữ quan điểm làm báo ôn hòa, sự thật và khách quan về chính trị và xã hội . Bản thảo gửi đến VNTB cần tránh nội dung khiêu khích chính trị, phê phán hoặc công kích thiếu cơ sở đối với cá nhân, tổ chức. Những bài viết phản biện sâu sắc và có văn hóa về chính trị, xã hội, đề cập những vấn đề mang tính thời sự và nóng bỏng của đất nước được VNTB khuyến khích. Với dự định hướng đến tiêu chí và đẳng cấp quốc tế trong tương lai, VNTB mong muốn nhận được ngày càng nhiều những bài viết thể hiện tính chuyên nghiệp báo chí ngày càng cao. Theo nguyên tắc và thông lệ báo chí, Ban biên tập VNTB giữ quyền biên tập về quan điểm, nội dung đối với bản thảo được gửi đến. Nếu bản thảo cần được biên tập những câu, đoạn quan trọng, Ban biên tập VNTB sẽ trao đổi trực tiếp và thỏa thuận với tác giả. Bản thảo của tác giả gửi cho VNTB theo địa chỉ: vietnamthoibao2014@gmail.com Bản thảo gửi cho VNTB thực hiện theo nguyên tắc chỉ gửi một nơi. Nếu không thể sử dụng, Ban biên tập VNTB sẽ thông báo cho tác giả trong vòng 2 ngày kể từ khi nhận được bản thảo. Tác giả gửi bài nếu dùng bút danh, xin ghi rõ tên thật, địa chỉ email, số điện thoại liên lạc. Tuy gặp nhiều khó khăn về tài chính, VNTB cố gắng duy trì cơ chế trả nhuận bút cho tác giả có bài đăng, bắt đầu từ ngày 20/7/2014. Rất mong các tác giả và cộng tác viên của VNTB cảm thông với mức nhuận bút ban đầu còn khiêm tốn. Mức nhuận bút theo bài đăng sẽ có thể được nâng lên tùy vào tính khả quan về tình hình tài chính của VNTB. Để thực hiện chuyển trả nhuận bút, đề nghị khi gửi bài, tác giả và cộng tác viên cần thông báo cho VNTB một số chi tiết: chủ tài khoản, số tài khoản và ngân hàng có thể chuyển tiền. Việc chuyển nhuận bút sẽ được thực hiện vào tuần đầu hàng tháng. Ban biên tập VNTB đề nghị mọi trích đăng lại từ trang VNTB cần thực hiện 2 điều kiện sau: Không được chỉnh sửa bài/tin đã đăng trên VNTB; ghi rõ nguồn từ VNTB. 3. Hoạt động kết nạp hội viên mới: Sau khi thành lập, IJAVN đã thực hiện công tác hội viên. Có 2 hội viên trong danh sách Đợt 1 đề nghị được rút ra khỏi hội vì lý do riêng. Ban lãnh đạo IJAVN cũng đã duyệt xét thư đề nghị tham gia Hội Đợt 2 của một số người viết báo. Số hội viên mới được IJAVN chấp thuận là 35 người. Như vậy, tổng số hội viên của IJAVN đến thời điểm này là 76 người, trong đó có 11 hội viên ở hải ngoại, chiếm tỷ lệ 15%. Hội viên trong nước cư trú chủ yếu ở Sài Gòn, Hà Nội, Đà Lạt, Đà Nẵng, Quảng Nam; hội viên hải ngoại cư trú chủ yếu ở Hoa Kỳ, Đức, Pháp. IJAVN chân thành cám ơn việc tham gia trên và tiếp tục mời gọi những nhà báo và cộng tác viên báo chí, không phân biệt chính kiến, quốc doanh và phi quốc doanh, trong nước và ngoài nước… tham gia đóng góp cho sự phát triển của IJAVN, với những điều kiện giản dị là Hội viên đáp ứng 5 tác phẩm báo chí và đồng thuận với quan điểm và những nguyên tắc trong Điều lệ của IJAVN. Tham khảo Điều lệ: fvpoc.org Người muốn tham gia vào IJAVN xin ghi rõ họ tên, bút danh (nếu có), địa chỉ cư trú, email và điện thoại liên lạc, kèm đường link một số bài báo đã đăng. Địa chỉ gửi thư tham gia IJAVN: hoinhabaodoclapvietnam@gmail.com 4. Những hoạt động khác: Dự kiến trong tháng 8/2014, IJAVN sẽ tiến hành: - Sinh hoạt định kỳ với hội viên theo quy định, dưới hình thức tọa đàm chuyên đề. Hội viên sinh hoạt theo khu vực và do các phó chủ tịch phụ trách khu vực chủ động và chịu trách nhiệm tổ chức sinh hoạt. - Các khu vực sẽ tổ chức tọa đàm hoặc hội thảo về một vấn đề xã hội hoặc nghề nghiệp mang tính cấp thiết. Thành phần mời rộng rãi. - Do đã có một số hội viên là nhà báo ở hải ngoại, IJAVN dự kiến vào một thời điểm thích hợp sẽ chính thức thành lập chi hội của IJAVN tại hải ngoại. Mọi hỗ trợ tài chính của cá nhân trong và ngoài nước cho IJAVN được gửi về địa chỉ:   - Trao trực tiếp cho Linh mục Anton Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, 38 Kỳ Đồng, quận 3, TP. HCM. - Hoặc gửi cho ông Phạm Chí Dũng, tài khoản: 091 407221 041 (VND) 091 407221 101 (USD) Ngân hàng HSBC Vietnam Xin chân thành cám ơn và cầu chúc độc giả cùng báo giới Việt Nam niềm tin về Tự do báo chí trong những tháng năm không xa. Thay mặt Ban lãnh đạo Hội Nhà báo độc lập Việt Nam Phạm Chí Dũng Danh sách hội viên Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (đợt 1 và đợt 2) Đợt 1 (xếp theo a – b – c…) 1. Vũ Thị Phương Anh (Sài Gòn) 2. Nguyễn Đình Ấm (Hà Nội) 3. Nguyễn Vũ Bình (Hà Nội) 4. Huỳnh Ngọc Chênh (Sài Gòn) 5. Tiêu Dao Bảo Cự (Đà Lạt) 6. Ca Dao (Pháp) 7. Phạm Chí Dũng (Sài Gòn) 8. Ngô Nhật Đăng (Sài Gòn) 9. Nguyễn Hoàng Đức (Hà Nội) 10. Trương Minh Đức (Bình Dương) 11. Nguyễn Thanh Giang (Hà Nội) 12. Chu Vĩnh Hải (Sài Gòn) 13. Phạm Bá Hải (Sài Gòn) 14. Phan Thanh Hải (Sài Gòn) 15. Lê Thanh Hải (Đà Nẵng) 16. Phạm Minh Hoàng (Sài Gòn) 17. Vũ Sỹ Hoàng (Sài Gòn) 18. Vi Đức Hồi (Lạng Sơn) 19. Lê Phú Khải (Sài Gòn) 20. Mai Thái Lĩnh (Đà Lạt) 21. Hạ Đình Nguyên (Sài Gòn) 22. Kha Lương Ngãi (Sài Gòn) 23. Hồ Ngọc Nhuận (Sài Gòn) 24. Vũ Quốc Ngữ (Hà Nội) 25. Hà Sĩ Phu (Đà Lạt) 26. Đỗ Trung Quân (Sài Gòn) 27. Bùi Minh Quốc (Đà Lạt) 28. Phạm Đình Trọng (Sài Gòn) 29. Lê Ngọc Thanh (Sài Gòn) 30. Châu Văn Thi (Sài Gòn) 31. Nguyễn Tường Thụy (Hà Nội) 32. Phạm Thành (Hà Nội) 33. Trần Quang Thành (Séc) 34. Nguyễn Văn Thạnh (Đà Nẵng) 35. Nguyễn Quốc Thái (Sài Gòn) 36. Huỳnh Công Thuận (Sài Gòn) 37. Nguyễn Trung Tôn (Thanh Hóa) 38. Nguyễn Khắc Toàn (Hà Nội) 39. Nguyễn Thị Huyền Trang (Sài Gòn) 40. Dương Thị Xuân (Hà Nội) 41. JB. Nguyễn Hữu Vinh (Hà Nội)Đợt 2 (xếp theo a – b – c…) 1. Thế Dũng (Đức) 2. Tạ Dzu (Hoa Kỳ) 3. Đặng Minh Đường (Cần Thơ) 4. Trần Thiên Đức (Hoa Kỳ) 5. Nguyễn Kiên Giang (Sài Gòn) 6. Nguyễn Lại Giang (Bình Định) 7. Dương Minh Hạnh (Đức) 8. Trần Trung Hiếu (Sài Gòn) 9. Nguyễn Mạnh Hùng (Đà Lạt) 10. Lê Thanh Hoàng (Sài Gòn) 11. Vũ Văn Hưng (Phú Yên) 12. Vũ Sinh Hiên (Sài Gòn) 13. Nguyễn Quốc Khải (Hoa Kỳ) 14. Nguyễn Đình Khôi (Nghệ An) 15. Phan Văn Lợi (Huế) 16. Nguyễn Tấn Lạc (Hoa Kỳ) 17. Đỗ Như Ly (Sài Gòn) 18. Võ Ngọc Lục (Quảng Nam) 19. Nguyễn Thiện Nhân (Bình Dương) 20. Nguyễn Thành Năng (Đà Nẵng) 21. Huỳnh Tấn Pháp (Đà Nẵng) 22. Đăng Đăng Phước (Đắc Lắc) 23. Lê Minh Quân (Quảng Nam) 24. Khúc Thừa Sơn (Đà Nẵng) 25. Đoàn Nam Sinh (Sài Gòn) 26. Nguyễn Hàng Tình (Tây Nguyên) 27. Hồ Ngọc Tùng (Đài Loan) 28. Cao Minh Tâm (Sài Gòn) 29. Trịnh Trọng Thủy (Hà Nội) 30. Phạm Mạnh Tuân (Bắc Ninh) 31. Bùi Tín (Pháp) 32. Lê Tuấn (Quảng Nam) 33. Nguyễn Trung (Ninh Thuận) 34. Ngô Thanh Tú (Khánh Hòa) 35. Trần Phong Vũ (Hoa Kỳ) nguồn: ijavn.org
......

TQ di dời giàn khoan sau khi đảng CSVN chấp nhận đầu hàng

Về cơ bản, giới lãnh đạo chóp bu cộng sản đã chấp nhận đầu hàng Phát biểu trong phiên họp chính phủ ngày 16/7, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã lên tiếng “yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan” trong vùng biển Việt Nam. Cùng ngày, người phát ngôn bộ ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cũng nêu tuyên bố “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan Hải Dương-981 quay trở lại hoặc đưa bất cứ giàn khoan nào khác vào hoạt động ở khu vực lô dầu khí 143 của Việt Nam hoặc bất kỳ khu vực nào khác thuộc vùng biển của Việt Nam”.   Di dời giàn khoan do bão? Các tuyên đố trên được chính phủ nêu ra trong thời điểm phía TQ thông báo giàn khoan 981 đã ''hoàn thành nhiệm vụ”, đồng thời cho di dời giàn khoan cùng đội tàu chiến với lý do mùa mưa bão sắp đến. Hiện siêu bão Rammasun (Thần Sấm) mạnh cấp 13 sắp đổ bộ vào Biển Đông. Dù là giàn khoan khủng như HD 981 cũng khó có thể chống đỡ nổi với siêu bão Rammasun mà không bị thiệt hại. Sự kiện giàn khoan Trung Quốc 'chuồn' khỏi Biển Đông tránh bão đã lập tức trở thành đề tài cho bộ máy tuyên truyền cộng sản thi nhau 'nổ' tưng bừng. Một vị tướng quân đội còn lạc quan phán “Đây là sự thành công về cuộc chiến về pháp lý, về ngoại giao của Nhà nước và Nhân dân Việt Nam”.  Trên thực tế, nhà cầm quyền CSVN vẫn chưa dám kiện TQ ra tòa án quốc tế, thậm chí đến một nghị quyết phản đối cũng không được quốc hội CSVN ban hành. “Về cơ bản, Hà Nội đã đầu hàng” Đó là kết luận của nhà báo nổi tiếng Roger Mitton viết trên The Myanmar Times. Bài báo cho biết, việc TQ đưa giàn khoan 981 vào Biển Đông đã khiến giới lãnh đạo chóp bu CS tỏ ra 'sốc và sợ hãi', đồng thời gây nên sự bất đồng nghiêm trọng trong bộ chính trị. Trong chuyến thăm Việt Nam, ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì  đã lớn tiếng cảnh báo rằng Việt Nam sẽ hứng chịu tổn thất nặng nều nếu hợp tác với các nước khác, cụ thể là Hoa Kỳ, trong việc chống lại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Đồng thời, Dương Khiết Trì cũng ra lệnh cho giới lãnh đạo CSVN không được tham gia cùng Philippines trong nhằm kiện Trung Quốc lên Liên Hiệp Quốc. Ngay sau khi Dương Khiết Trì về, bộ chính trị lập tức triệu tập một cuộc họp với những tranh luận nảy lửa. Sau cùng, nhóm thân Trung Quốc tiếp tục thắng thế. Điều này được thấy rõ khi chuyến đi Mỹ cầu viện của bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh bị hoãn vô thời hạn. Mặc dù trước đó, chuyến thăm được dự kiến sẽ diễn ra trong tháng 7. “Về cơ bản, Hà Nội đã đầu hàng. Sẽ không có thêm các cuộc biểu tình, không có việc kiện lên Liên Hợp Quốc, sẽ không xảy ra các trận diễn tập quân sự với Mỹ và không có chuyện dẫn đầu mặt trận ASEAN thống nhất nhằm chống lại Bắc Kinh”, Roger Mitton viết   Hoàng Trần Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
......

Một chính quyền bình thường đối với Biển Đông

Mặc dù giàn khoan HD981 của Trung Cộng (TC) đã phải rút đi trước thời hạn dự trù một tháng để tránh bão, nhưng sự căng thẳng mang tính đối đầu giữa VN và TC trong suốt 75 ngày qua, cũng như nhiều biến cố tương tự trên Biển Đông sẽ diễn ra trong những năm tháng trước mặt, khiến người ta không khỏi đặt ra những chuẩn mực hành xử mà bất cứ một chính quyền bình thường nào cũng dự kiến để đối phó với những sự việc như vậy; đặc biệt là trước một đối thủ mà manh tâm xâm lấn của họ không còn che đậy gì nữa thì chiến tranh cũng là điều không thế loại trừ. Do đó, dự kiến xẩy ra xung đột quân sự hoặc không cũng đều phải được đặt ra. Xét về tương quan lực lượng giữa VN và TC thì nước ta thất thế về nhiều mặt: 1- Quân sự: Rõ ràng nhất về số lượng khí tài cũng như trình độ kỹ thuật. Hầu hết vũ khí của VN lẫn TC đều mua của Nga, TC mua nhiều hơn, thế hệ vũ khí mới hơn, cho nên nếu xẩy ra một cuộc chiến tranh quy ước và trong ngắn hạn thì VN có nhiều phần thua. Tuy nhiên, càng về hướng nam thì TC sẽ càng bị mất đi những ưu thế vừa kể. Đặc biệt là Biển Đông lại hoàn toàn nằm trong sự khống chế của không quân VN xuất phát từ những căn cứ ven biển miền Trung. điều mà không quân Trung Cộng không thể với tới khi họ chưa có nổi một hàng không mẫu hạm khả dụng. Tuy có thể thắng trong một cuộc chiến giới hạn và chớp nhoáng nhưng không có nghĩa là TC có thể đè bẹp quân đội VN một cách chớp nhoáng với ít tổn thất. Quân đội VN có nhiều kinh nghiệm đánh du kích chiến, kinh nghiệm này sẽ càng được phát huy khi chiến trường là đất nhà hay biển nhà. Như vậy chiến thắng đầu tiên của TC sẽ dần dần trở thành khúc xương khó nuốt, làm chúng tiêu hao xương máu và tài lực vô tận và nhiên hậu về lâu về dài thì chưa chắc “mèo nào cắn mỉu nào”.   Khi đặt ra tình huống chiến tranh thì cũng phải xét đến việc liệu TC có dám gây chiến hay không khi mà mầm nội loạn ở nước Tàu, không chỉ ở những vùng lãnh thổ “biên trấn” như Tân Cương, Tây Tạng mà ngay cả ở trong nội địa, luôn luôn là điều bận lòng giới lãnh đạo nước này. Trong bài nói chuyện với cán bộ tháng 3 năm ngoái ông Tập Cận Bình đã không che dấu điều này, mà cách thức để tránh của ông là thỉnh thoảng “quậy nồi canh để khỏi bị sôi trào” tránh nguy cơ dẫn đến nước Trung Hoa bị vỡ vụn ra nhiều mảnh. Ngược lại thì phía VN có dám đối đầu với một cuộc chiến hay không, vì có “dám” thì mới nghĩ đến cách thức đánh để thắng. Xét về mặt thực tế thì cả hai phía đều “sợ” chiến tranh. Họ sợ chẳng phải vì cả hai đều “yêu” hoà bình, mà vì nếu xẩy ra chiến tranh thì cả hai chế độ cộng sản sẽ đều dễ dàng bị xụp đổ hơn vì những xung lực đã tích tụ từ lâu, khi có cơ hội sẽ bùng nổ để giật sập những chế độ không được lòng dân trên hai nước này. 2- Kinh tế: Nước ta hiện nay lệ thuộc TC nhiều về kinh tế. TC có thể xiết, gây áp lực phong toả kinh tế ta; tuy TC có thể bị thiệt hại nhiều hơn ta nếu giao tranh về kinh tế vì trong giao thương Việt-Hoa, TC đang được lợi hơn ta rất nhiều, nhưng giữa anh giàu và anh nghèo, anh giàu vẫn thoải mái dù mất 1 ngàn, anh nghèo thì dù mất chỉ có 1 trăm vẫn có thể xập tiệm.Tuy thế, cái khó khan về kinh tế của ta sẽ không đến nỗi tuyệt vọng vì hiện nay Tàu không thể hoàn toàn phong toả kinh tế ta, vì nước ta đang có nhiều cơ hội mở ra hội nhập vào kinh tế toàn cầu.. 3- Ngoại giao: Mạnh nhờ gạo, bạo nhờ tiền. Ở tư thế siêu cường số 2 trên thế giới, và có tư thế phủ quyết trong LHQ, TC có lợi thế ngoại giao hơn, có thể ảnh hưởng đến các nước khác, khiến tiếng nói của Bắc Kinh có trọng lượng hơn tiếng nói Hà Nội trên chính trường quốc tế. Tuy thế, từ trước đến nay TC luôn luôn ở vào thế cô độc, không có đồng minh. Thái độ hung hăng của TC đồng thời cũng là mối đe doạ cho Tây Phương và các nước lân cận với Tàu, nhất là qua thái độ hành xử du côn của TC trên Biển Đông, một thuỷ lộ vô cùng quan trọng của thế giới, càng khiến TC cô độc hơn. Nếu biết vận dụng sự lo ngại vừa kể của thế giới đối với TC trên đấu trường ngoại giao, VN có thể san bằng khoảng cách bất lợi ngoại giao nói trên. Tuy nhiên, trên thực tế thì CSVN cũng cô đơn không kém gì TC. Cái ý thức hệ VN đang ôm giữ tự nó đã khiến các nước dân chủ không bao giờ đứng chung với VN trên một chiến tuyến.   Với tương quan lực lượng kể trên, khi TC xâm phạm chủ quyền lãnh hải VN một cách trắng trợn, và làm tổn hại nền ngư nghiệp của ta (bắt giết ngư dân ta, cấm đoán ngư dân ta đánh cá, thu hẹp ngư trường của ta), thì một chính phủ bình thường thực sự lo cho nước cho dân phải làm gì? ** Ráng kềm chế để tránh xung đột quân sự là điều nên làm. Nhưng điều này không có nghĩa là phải tỏ vẻ yếu hèn nhược để đối phương coi khinh được đằng chân tiến lên đằng đầu. Và càng không có nghĩa là xua ngư dân ra bám biển, cảnh sát biển ra vờn lách tàu chiến địch,  phong cho ngư dân làm cột mốc sống trên biển (1), để rồi nếu hy sinh thì được phong làm liệt sĩ (2), trong khi đó thì lực lượng chính để bảo vệ lãnh hải là hải quân thì lại chỉ bám bờ. Trong vụ tranh chấp vùng đảo Scarborough, tuy hải quân  Phillipines thua xa hải quân TC, tàu chiến Phillipines vẫn hiên ngang kéo ra dàn trận đối đầu với hải quân Tà , hai bên gờm nhau cả tháng trời với sự tự chế không nổ súng, rồi cùng lấy lý do mùa bão để rút quân. Mặc dù ngay sau đó TC đem tàu chiến trở lại và phong toả vùng đảo này, Philipines không làm gì được và không mang quân trở lại, mà dùng đòn pháp lý ngoại giao, ta thấy ít nhất nhà nước Phi đã không làm ô nhục quân đội mình và duy trì được tinh thần chiến đấu của quân dân mình. ** Một nhà nước bình thường luôn lấy dân làm gốc. Lúc phải đối diện với hiểm hoạ ngoại xâm thì nhà nước dựa vào dân để cùng dân đối phó. Không có chính quyền nào lại nói với dân là hãy để một mình nhà nước lo và giấu kín không chia sẻ với dân nhà nước lo như thế nào. Ngay cả dưới thời phong kiến khi mà dân vẫn còn coi vua quan như là bậc cha mẹ tuyệt đối, các vua nhà Trần vẫn phải tìm lấy sự đồng thuận của dân qua Hội Nghị Diên Hồng với câu hỏi “nên hoà hay nên chiến”. ** Khi thực sự muốn bảo vệ chủ quyền trước sự lấn áp của tên hàng xóm côn đồ, nếu mình yếu về cơ bắp quân sự, thì mình tìm đủ mọi cách khác để đối phó, trong đó cách la làng cho mọi người khác xúm vào quan sát và bênh vực mình là cách mà người yếu hay làm và thường làm chùn tay tên du đãng. Không có nhà nước bình thường nào chỉ la làng nửa vời rồi khi có vài nước khác bắt đầu lên tiếng bênh vực, thì lại gián tiếp chặn họ lại với lời trấn an không sao chỉ là hục hặc trong gia đình, chứ nói chung quan hệ giữa chúng tôi vẫn tốt đẹp. Chả trách mà tên du đãng càng ngày càng coi khinh công khai, đưa VN từ vị trí đàn em xuống hàng “con cái hoang đàng”. Thế giới có thể thương cảm một quốc gia yếu, nhưng khinh bỉ và không thể giúp đỡ một chính quyền hèn. CSVN dùng lý cớ là mình phải đóng vai kẻ hiếu hoà, luôn mong muốn duy trì hoà bình nhưng sẵn sàng cho tình huống xấu nhất. Đây là câu nói chung chung của mọi nhà nước bình thường, nhưng hành động của nhà nước CSVN lại không phù hợp với lời nói. CƯ AN TƯ NGUY là một phương sách muôn đời của bất cứ một quốc gia nào.  Một quốc gia sống trong hòa bình thì phải lo chuẫn bị sẵn sàng cho tình huống xảy ra chiến tranh. Tiền nhân VN đã bao lần xử dụng phương sách này mới bảo vệ được  sự vẹn toàn của đất nước. Trong tình thế khẩn trương, giặc đã vào nhà và bức hại ngư dân ta thì không thể ngồi yên được nữa. Chuẩn bị chiến tranh không có nghĩa là chờ mua thêm vài tàu ngầm ki lô,  hoặc nói suông là vẫn âm thầm “chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.” Ta không đem quân đi đột kích ai để mà phải bí mật chuẩn bị chiến tranh. Chuẩn bị chiến tranh để tự vệ và duy trì hoà bình là phải khua chiêng gióng trống sao cho đối phương phải chần chừ suy nghĩ lại, cân nhắc giá phải trả nếu muốn động binh. Sự kiện TC đã tự chế không khai hoả trong vụ gờm súng với Phillipnes ở đảo Scarborough cũng như việc TC đã thông báo trước giàn khoan HD981 sẽ chỉ ở biển Đông vài tháng cho thấy trong thâm tâm TC chưa dám trắng trợn động binh và nhiều phần chỉ muốn thăm dò "mềm nắn, rắn buông". Năm 2007, khi TC dự trù tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, các cuộc biểu tình phản đối dữ dội cuối năm đó của thanh niên, sinh viên VN đã khiến TC phải ngưng lại và chối bỏ rằng họ không có kế hoạch này. Một chính phủ bình thường phải cho tên bá quyền xâm lược thấy toàn dân toàn quân mình đang chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với những ngày tháng khó khăn trước mặt về kinh tế và quân sự, sẵn sàng tinh thần cho một cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược. Một nhà nước bình thường trong hoàn cảnh này phải cho dân thấy bằng hành động cụ thể rằng mình đang làm hết những gì có thể làm được để bảo vệ chủ quyền đất nước để dân có thể tâm phục và tin tưởng.   CSVN đã không làm như vậy. Họ bắt dân nhắm mắt tin tưởng vào họ, tuyên truyền đề cao lòng yêu nước trong giới trẻ, nhưng lại chứng tỏ một thái độ khúm núm khiếp nhược trước Bắc Kinh cùng những hành động làm soi mòn tinh thần tự chủ bất khuất của quân dân Việt, như ngăn chặn cấm đoán những búc xúc tự phát chống TC của người dân, cấm quốc hội ra nghị quyết về Biển Đông, bắt hải quân bám bờ trong tủi nhục khoanh tay nhìn ngư dân mình và cảnh sát biển bị hải quân Tàu đàn áp ngay trong vùng biển của mình. Thỉnh thoảng nói cứng nhưng ngay sau đó lại run, lại vuốt ve khấu tấu TC, im lặng cam tâm làm phận con cái đối với TC, chấp nhận tư thế ngoại giao cả nước ngang bằng cấp dưới của tỉnh Quảng Đông (3). Phải đợi đến gần hết 3 tháng khi giàn khoan sắp sửa rút theo lịch trình của TC, bộ ngoại giao CSVN mới làm ra vẻ tương đối mạnh dạn chính thức công bố lập trường bác bỏ yêu sách chủ quyền của TC đối với Hoàng Sa với những lập luận không có gì mới để biện minh cho sự chậm trễ chờ đợi để cho TC chủ động ra tay trước tranh thủ về mặt ngoại giao vấn đề Biển Đông với Liên Hiệp Quốc. Lối hành xử này cho thấy chế độ Hà Nội không thực tâm bảo vệ đất nước và những lời nói cứng của họ chỉ là nói suông với mục đích chính là xoa dịu sự bực tức của người dân mà thôi và rồi khi giàn khoan rút đi, họ sẽ tự nhận công thắng lợi, khoe rằng cách xử trí của họ là đúng đắn, dù trên thực chất TC đã đạt được hoàn toàn mục đích đóng dấu chủ quyền của họ trên Biển Đông, khẳng định uy quyền của mình trên đứa con hoang đàng khiến nó phải chịu nhục, và khoá chặt hải phận VN trong vùng lưỡi bò của TC.   Thực ra, TC không thể tìm ra một tay sai chư hầu nào tốt hơn CSVN mà chả cần chiến tranh nên có nhiều phần sau khi nhắc nhở xác quyết lại quan hệ cha con với Hà Nội, TC sẽ để cho CSVN lại một chút thể diện để khỏi bị dân phẫn uất vùng lên lật đổ. Cụ thể như việc TC tạm rút giàn khoan để Bắc Kinh và Hà Nội đều có thể tuyên bố “hai bên cùng thắng”. Nguồn dẫn: (1) phát biểu của Trương Tấn Sang: http://www.baomoi.com/Source/Bao-Phu-Nu-Online/91.epi (2) Đề nghị của chủ tịch Hội Nghề Cá: http://dantri.com.vn/blog/khong-quy-goi-run-so-truoc-bat-ky-suc-manh-bao... (3) Học thêm kẻ thù và rước thêm kẻ thù!: Xã L
......

Một chính quyền bình thường đối với Biển Đông

Mặc dù giàn khoan HD981 của Trung Cộng (TC) đã phải rút đi trước thời hạn dự trù một tháng để tránh bão, nhưng sự căng thẳng mang tính đối đầu giữa VN và TC trong suốt 75 ngày qua, cũng như nhiều biến cố tương tự trên Biển Đông sẽ diễn ra trong những năm tháng trước mặt, khiến người ta không khỏi đặt ra những chuẩn mực hành xử mà bất cứ một chính quyền bình thường nào cũng dự kiến để đối phó với những sự việc như vậy; đặc biệt là trước một đối thủ mà manh tâm xâm lấn của họ không còn che đậy gì nữa thì chiến tranh cũng là điều không thế loại trừ. Do đó, dự kiến xẩy ra xung đột quân sự hoặc không cũng đều phải được đặt ra. Xét về tương quan lực lượng giữa VN và TC thì nước ta thất thế về nhiều mặt: 1- Quân sự: Rõ ràng nhất về số lượng khí tài cũng như trình độ kỹ thuật. Hầu hết vũ khí của VN lẫn TC đều mua của Nga, TC mua nhiều hơn, thế hệ vũ khí mới hơn, cho nên nếu xẩy ra một cuộc chiến tranh quy ước và trong ngắn hạn thì VN có nhiều phần thua. Tuy nhiên, càng về hướng nam thì TC sẽ càng bị mất đi những ưu thế vừa kể. Đặc biệt là Biển Đông lại hoàn toàn nằm trong sự khống chế của không quân VN xuất phát từ những căn cứ ven biển miền Trung. điều mà không quân Trung Cộng không thể với tới khi họ chưa có nổi một hàng không mẫu hạm khả dụng. Tuy có thể thắng trong một cuộc chiến giới hạn và chớp nhoáng nhưng không có nghĩa là TC có thể đè bẹp quân đội VN một cách chớp nhoáng với ít tổn thất. Quân đội VN có nhiều kinh nghiệm đánh du kích chiến, kinh nghiệm này sẽ càng được phát huy khi chiến trường là đất nhà hay biển nhà. Như vậy chiến thắng đầu tiên của TC sẽ dần dần trở thành khúc xương khó nuốt, làm chúng tiêu hao xương máu và tài lực vô tận và nhiên hậu về lâu về dài thì chưa chắc “mèo nào cắn mỉu nào”.   Khi đặt ra tình huống chiến tranh thì cũng phải xét đến việc liệu TC có dám gây chiến hay không khi mà mầm nội loạn ở nước Tàu, không chỉ ở những vùng lãnh thổ “biên trấn” như Tân Cương, Tây Tạng mà ngay cả ở trong nội địa, luôn luôn là điều bận lòng giới lãnh đạo nước này. Trong bài nói chuyện với cán bộ tháng 3 năm ngoái ông Tập Cận Bình đã không che dấu điều này, mà cách thức để tránh của ông là thỉnh thoảng “quậy nồi canh để khỏi bị sôi trào” tránh nguy cơ dẫn đến nước Trung Hoa bị vỡ vụn ra nhiều mảnh. Ngược lại thì phía VN có dám đối đầu với một cuộc chiến hay không, vì có “dám” thì mới nghĩ đến cách thức đánh để thắng. Xét về mặt thực tế thì cả hai phía đều “sợ” chiến tranh. Họ sợ chẳng phải vì cả hai đều “yêu” hoà bình, mà vì nếu xẩy ra chiến tranh thì cả hai chế độ cộng sản sẽ đều dễ dàng bị xụp đổ hơn vì những xung lực đã tích tụ từ lâu, khi có cơ hội sẽ bùng nổ để giật sập những chế độ không được lòng dân trên hai nước này. 2- Kinh tế: Nước ta hiện nay lệ thuộc TC nhiều về kinh tế. TC có thể xiết, gây áp lực phong toả kinh tế ta; tuy TC có thể bị thiệt hại nhiều hơn ta nếu giao tranh về kinh tế vì trong giao thương Việt-Hoa, TC đang được lợi hơn ta rất nhiều, nhưng giữa anh giàu và anh nghèo, anh giàu vẫn thoải mái dù mất 1 ngàn, anh nghèo thì dù mất chỉ có 1 trăm vẫn có thể xập tiệm.Tuy thế, cái khó khan về kinh tế của ta sẽ không đến nỗi tuyệt vọng vì hiện nay Tàu không thể hoàn toàn phong toả kinh tế ta, vì nước ta đang có nhiều cơ hội mở ra hội nhập vào kinh tế toàn cầu..   3- Ngoại giao: Mạnh nhờ gạo, bạo nhờ tiền. Ở tư thế siêu cường số 2 trên thế giới, và có tư thế phủ quyết trong LHQ, TC có lợi thế ngoại giao hơn, có thể ảnh hưởng đến các nước khác, khiến tiếng nói của Bắc Kinh có trọng lượng hơn tiếng nói Hà Nội trên chính trường quốc tế. Tuy thế, từ trước đến nay TC luôn luôn ở vào thế cô độc, không có đồng minh. Thái độ hung hăng của TC đồng thời cũng là mối đe doạ cho Tây Phương và các nước lân cận với Tàu, nhất là qua thái độ hành xử du côn của TC trên Biển Đông, một thuỷ lộ vô cùng quan trọng của thế giới, càng khiến TC cô độc hơn. Nếu biết vận dụng sự lo ngại vừa kể của thế giới đối với TC trên đấu trường ngoại giao, VN có thể san bằng khoảng cách bất lợi ngoại giao nói trên. Tuy nhiên, trên thực tế thì CSVN cũng cô đơn không kém gì TC. Cái ý thức hệ VN đang ôm giữ tự nó đã khiến các nước dân chủ không bao giờ đứng chung với VN trên một chiến tuyến.   Với tương quan lực lượng kể trên, khi TC xâm phạm chủ quyền lãnh hải VN một cách trắng trợn, và làm tổn hại nền ngư nghiệp của ta (bắt giết ngư dân ta, cấm đoán ngư dân ta đánh cá, thu hẹp ngư trường của ta), thì một chính phủ bình thường thực sự lo cho nước cho dân phải làm gì? Ráng kềm chế để tránh xung đột quân sự là điều nên làm. Nhưng điều này không có nghĩa là phải tỏ vẻ yếu hèn nhược để đối phương coi khinh được đằng chân tiến lên đằng đầu. Và càng không có nghĩa là xua ngư dân ra bám biển, cảnh sát biển ra vờn lách tàu chiến địch,  phong cho ngư dân làm cột mốc sống trên biển (1), để rồi nếu hy sinh thì được phong làm liệt sĩ (2), trong khi đó thì lực lượng chính để bảo vệ lãnh hải là hải quân thì lại chỉ bám bờ. Trong vụ tranh chấp vùng đảo Scarborough, tuy hải quân  Phillipines thua xa hải quân TC, tàu chiến Phillipines vẫn hiên ngang kéo ra dàn trận đối đầu với hải quân Tà , hai bên gờm nhau cả tháng trời với sự tự chế không nổ súng, rồi cùng lấy lý do mùa bão để rút quân. Mặc dù ngay sau đó TC đem tàu chiến trở lại và phong toả vùng đảo này, Philipines không làm gì được và không mang quân trở lại, mà dùng đòn pháp lý ngoại giao, ta thấy ít nhất nhà nước Phi đã không làm ô nhục quân đội mình và duy trì được tinh thần chiến đấu của quân dân mình. Một nhà nước bình thường luôn lấy dân làm gốc. Lúc phải đối diện với hiểm hoạ ngoại xâm thì nhà nước dựa vào dân để cùng dân đối phó. Không có chính quyền nào lại nói với dân là hãy để một mình nhà nước lo và giấu kín không chia sẻ với dân nhà nước lo như thế nào. Ngay cả dưới thời phong kiến khi mà dân vẫn còn coi vua quan như là bậc cha mẹ tuyệt đối, các vua nhà Trần vẫn phải tìm lấy sự đồng thuận của dân qua Hội Nghị Diên Hồng với câu hỏi “nên hoà hay nên chiến”. Khi thực sự muốn bảo vệ chủ quyền trước sự lấn áp của tên hàng xóm côn đồ, nếu mình yếu về cơ bắp quân sự, thì mình tìm đủ mọi cách khác để đối phó, trong đó cách la làng cho mọi người khác xúm vào quan sát và bênh vực mình là cách mà người yếu hay làm và thường làm chùn tay tên du đãng. Không có nhà nước bình thường nào chỉ la làng nửa vời rồi khi có vài nước khác bắt đầu lên tiếng bênh vực, thì lại gián tiếp chặn họ lại với lời trấn an không sao chỉ là hục hặc trong gia đình, chứ nói chung quan hệ giữa chúng tôi vẫn tốt đẹp. Chả trách mà tên du đãng càng ngày càng coi khinh công khai, đưa VN từ vị trí đàn em xuống hàng “con cái hoang đàng”. Thế giới có thể thương cảm một quốc gia yếu, nhưng khinh bỉ và không thể giúp đỡ một chính quyền hèn. CSVN dùng lý cớ là mình phải đóng vai kẻ hiếu hoà, luôn mong muốn duy trì hoà bình nhưng sẵn sàng cho tình huống xấu nhất. Đây là câu nói chung chung của mọi nhà nước bình thường, nhưng hành động của nhà nước CSVN lại không phù hợp với lời nói. CƯ AN TƯ NGUY là một phương sách muôn đời của bất cứ một quốc gia nào.  Một quốc gia sống trong hòa bình thì phải lo chuẫn bị sẵn sàng cho tình huống xảy ra chiến tranh. Tiền nhân VN đã bao lần xử dụng phương sách này mới bảo vệ được  sự vẹn toàn của đất nước. Trong tình thế khẩn trương, giặc đã vào nhà và bức hại ngư dân ta thì không thể ngồi yên được nữa. Chuẩn bị chiến tranh không có nghĩa là chờ mua thêm vài tàu ngầm ki lô,  hoặc nói suông là vẫn âm thầm “chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.” Ta không đem quân đi đột kích ai để mà phải bí mật chuẩn bị chiến tranh. Chuẩn bị chiến tranh để tự vệ và duy trì hoà bình là phải khua chiêng gióng trống sao cho đối phương phải chần chừ suy nghĩ lại, cân nhắc giá phải trả nếu muốn động binh. Sự kiện TC đã tự chế không khai hoả trong vụ gờm súng với Phillipnes ở đảo Scarborough cũng như việc TC đã thông báo trước giàn khoan HD981 sẽ chỉ ở biển Đông vài tháng cho thấy trong thâm tâm TC chưa dám trắng trợn động binh và nhiều phần chỉ muốn thăm dò "mềm nắn, rắn buông". Năm 2007, khi TC dự trù tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, các cuộc biểu tình phản đối dữ dội cuối năm đó của thanh niên, sinh viên VN đã khiến TC phải ngưng lại và chối bỏ rằng họ không có kế hoạch này. Một chính phủ bình thường phải cho tên bá quyền xâm lược thấy toàn dân toàn quân mình đang chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với những ngày tháng khó khăn trước mặt về kinh tế và quân sự, sẵn sàng tinh thần cho một cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược. Một nhà nước bình thường trong hoàn cảnh này phải cho dân thấy bằng hành động cụ thể rằng mình đang làm hết những gì có thể làm được để bảo vệ chủ quyền đất nước để dân có thể tâm phục và tin tưởng. CSVN đã không làm như vậy. Họ bắt dân nhắm mắt tin tưởng vào họ, tuyên truyền đề cao lòng yêu nước trong giới trẻ, nhưng lại chứng tỏ một thái độ khúm núm khiếp nhược trước Bắc Kinh cùng những hành động làm soi mòn tinh thần tự chủ bất khuất của quân dân Việt, như ngăn chặn cấm đoán những búc xúc tự phát chống TC của người dân, cấm quốc hội ra nghị quyết về Biển Đông, bắt hải quân bám bờ trong tủi nhục khoanh tay nhìn ngư dân mình và cảnh sát biển bị hải quân Tàu đàn áp ngay trong vùng biển của mình. Thỉnh thoảng nói cứng nhưng ngay sau đó lại run, lại vuốt ve khấu tấu TC, im lặng cam tâm làm phận con cái đối với TC, chấp nhận tư thế ngoại giao cả nước ngang bằng cấp dưới của tỉnh Quảng Đông (3). Phải đợi đến gần hết 3 tháng khi giàn khoan sắp sửa rút theo lịch trình của TC, bộ ngoại giao CSVN mới làm ra vẻ tương đối mạnh dạn chính thức công bố lập trường bác bỏ yêu sách chủ quyền của TC đối với Hoàng Sa với những lập luận không có gì mới để biện minh cho sự chậm trễ chờ đợi để cho TC chủ động ra tay trước tranh thủ về mặt ngoại giao vấn đề Biển Đông với Liên Hiệp Quốc. Lối hành xử này cho thấy chế độ Hà Nội không thực tâm bảo vệ đất nước và những lời nói cứng của họ chỉ là nói suông với mục đích chính là xoa dịu sự bực tức của người dân mà thôi và rồi khi giàn khoan rút đi, họ sẽ tự nhận công thắng lợi, khoe rằng cách xử trí của họ là đúng đắn, dù trên thực chất TC đã đạt được hoàn toàn mục đích đóng dấu chủ quyền của họ trên Biển Đông, khẳng định uy quyền của mình trên đứa con hoang đàng khiến nó phải chịu nhục, và khoá chặt hải phận VN trong vùng lưỡi bò của TC. Thực ra, TC không thể tìm ra một tay sai chư hầu nào tốt hơn CSVN mà chả cần chiến tranh nên có nhiều phần sau khi nhắc nhở xác quyết lại quan hệ cha con với Hà Nội, TC sẽ để cho CSVN lại một chút thể diện để khỏi bị dân phẫn uất vùng lên lật đổ. Cụ thể như việc TC tạm rút giàn khoan để Bắc Kinh và Hà Nội đều có thể tuyên bố “hai bên cùng thắng”. Nguồn dẫn: (1) phát biểu của Trương Tấn Sang: http://www.baomoi.com/Source/Bao-Phu-Nu-Online/91.epi (2) Đề nghị của chủ tịch Hội Nghề Cá: http://dantri.com.vn/blog/khong-quy-goi-run-so-truoc-bat-ky-suc-manh-bao... (3) Học thêm kẻ thù và rước thêm kẻ thù!: Xã Luận Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận số 199 (15-7-2014)
......

Nấm Trung Quốc tràn lan Sài Gòn

Với người trồng nấm ở Sài Gòn, việc xuất hiện hàng loạt nấm Trung Quốc ở các chợ Sài Gòn giống như một sự sỉ nhục và là nỗi đau của những ai còn có lòng tự trọng, lòng yêu nước và còn biết nghĩ đến tương lai của dân tộc, quốc gia. Thời gian gần đây, hàng loạt các loại nấm từ linh chi cao cấp cho đến nấm lim xanh, nấm tai bèo, nấm rơm, nấm sò, nấm đùi gà… xuất hiện ở các chợ Sài Gòn đã tạo ra một sự hoảng loạn đối với người trồng nấm cũng như người nội trợ. Nấm Trung Quốc căng mẩy, để được cả tuần... RFA Giới nội trợ tức giận Một bà nội trợ tên Hà, ở Gò Vấp, Sài Gòn, nói về an toàn thực phẩm:“Nấm Trung Quốc thì nó quá độc hại, nó dùng hóa chất 5 – 7 ngày cũng chưa hư, như vậy thì sao mà mình chơi với nó được, ăn vào trước sau gì cũng hư ruột, hỏng hết hệ nội tạng của mình, trước sau gì mình cũng chết với nó. Như tỏi Trung Quốc nghe là bạn hàng cũng cạch không mua, nghe nấm Trung Quốc người ta cũng cạch không mua, nhưng bây giờ nó đổ bộ qua thế thì làm sao phân biệt nấm Việt Nam hay nấm Trung Quốc, vậy chỉ còn niềm tin với nhau nhưng ở chợ thì làm sao kiếm niềm tin đó được, người ta bán lời lãi này khác nên khó lắm! Nói chung là phải do quản lý, quản lý không tốt thì thua, quản lý không tốt thì có giữ đằng trời…!” Theo bà Hà, sự xuất hiện của các loại nấm Trung Quốc đã tạo ra một làn sóng bất an trong giới nội trợ và giới buôn bán rau củ quả. Vì ban đầu, không ai biết đó là nấm Trung Quốc, cứ nghĩ rằng nấm do các làng nấm ở Thủ Đức, Hóc Môn, Gò Vấp sản xuất và số lượng vượt trội nên bán ra thị trường có giá rẻ hơn. Nhưng xài vài ngày thì có những dấu hiệu lạ như chướng bụng, sình bụng ở trẻ em, hơi nhợn và có cảm giác muốn nôn ói ở người lớn. Đặc biệt, nếu bỏ tủ lạnh, loại nấm bình thường do nông dân Việt Nam sản xuất chỉ duy trì được cao lắm là một tuần, sau đó sẽ tự phân hủy. Nhưng nấm Trung Quốc có thể bỏ cả tháng trời trong tủ lạnh mà vẫn không hề hấn gì, trời nắng nóng có lúc lên đến 40 độ C, lấy từ tủ lạnh để ra bếp cả hai ngày mà nấm vẫn tươi rói. Ban đầu, bà Hà nghĩ rằng do kỹ thuật trồng nấm của nông dân Việt nam đã phát triển tốt hơn nên nấm giữ được độ tươi lâu dài. Nhưng khi nghe các đài, báo trong nước nói về nấm Trung Quốc thì bà tá hỏa. Và theo bà Hà cho biết thì hiện tại, có thể nói rằng nấm Trung Quốc đã chui được vào bụng ít nhất là 30% cư dân Sài Gòn, nếu như loại nấm này có độc tố hoặc có cấy trứng ấu trùng giống như người Trung Quốc từng cấy tế bào của đỉa vào áo quần rồi bán cho dân Việt Nam thì không bao lâu nữa, mọi tai họa sẽ bùng phát ở sài Gòn, lúc đó các bệnh viện Sài Gòn sẽ nổ tung vì quá tải do ngộ độc nấm. Nhưng nói thì nói vậy, bà Hà vẫn tin là không đến nỗi kinh khủng như bà nghĩ, vì dù sao chăng nữa, điều tốt vẫn thắng cái xấu. Bà tin là vậy. Và cũng trong tình trạng giống như bà hà, nhưng bà Thúy, một cư dân Sài Gòn gốc Quảng lại nói rằng không có thứ gì của Trung Quốc là không độc hại, và một khi đã đưa bất kì thứ thức ăn nào của Trung Quốc vào bụng, thì việc duy nhất còn lại có thể làm là hãy đợi đấy, xem bao giờ chất độc phát tác và tìm cách chống chọi với nó. Không riêng gì bà Hà và bà Thúy, hầu hết giới nội trợ Sài Gòn đều khước từ những sản phẩm của Trung Quốc cho dù nó có rẻ đến cỡ nào. Vì theo bà Thúy cho biết, trong mắt giới nội trợ Sài Gòn, Trung Quốc là kẻ ác ôn, đến thịt người chúng cũng có thể ăn được. Một kẻ dám moi móc nội tạng đồng loại, đồng tộc và ăn cả thịt đồng loại thì không có việc gì mà hắn không thể làm nếu như việc ấy có lợi cho hắn. Chính vì thế, đã từ lâu, người Trung Quốc trong mắt giới nội trợ Sài Gòn là kẻ ác ôn hoặc là kẻ man rợ, không thể thân thiện mà cũng không thể chơi chung được. Một số ít nấm Việt Nam hiếm hoi được bày bán ở chợ. RFA PHOTO. Có lẽ chính vì thế mà phần lớn các lời bình luận và những buổi thảo luận về biển Đông, về giàn khoan HD 981 lại diễn ra ở các buổi chợ chứ không phải ở bàn nghị sự của giới lãnh đạo thành phố. Và giới nội trợ cũng chua chát nhận ra rằng nguyên nhân dân đến hàng độc hại của Trung Quốc tràn lan ở Việt Nam là do chính sách bất minh của nhà nước. Chính sách nhà nước lủng củng Một người nội trợ tên Hằng, ở quận 6 Sài Gòn, chia sẻ: "Nó tuôn qua Việt Nam đóng hàng, Việt Nam nó đóng bao bì Việt Nam rồi nó nói hàng Việt Nam nó bán, thế thôi! Nó có thể để lạnh, nó dùng chất bảo quản nó để cho lâu mà đương nhiên là có chất bảo quản nào tốt đâu, nó cũng ảnh hưởng đường ruột thôi. Nó qua nhiều lắm, giá thành nó hạ chứ! Nấm kim chi, linh chi, đùi gà… nhiều, nó qua nhiều mà đóng bao bì Việt Nam nên cứ nhầm là nấm của mình nhưng thực chất là của Trung Quốc không à!” Theo bà Hằng, vấn đề nấm Trung Quốc tràn lan ở các chợ Sài Gòn là do chính sách thả lỏng thị trường, thả lỏng cửa khẩu và tiếp tay cho nhà buôn Trung Quốc mà nhà nước đã thực hiện nhiều năm nay. Tuy không khẳng định những người trong bộ máy cầm quyền được lợi trong vấn đề hàng hóa Trung Quốc nhưng bà hằng đưa ra khẳng định là người lãnh đạo Việt Nam có tố chất rất giống người lãnh đạo Trung Quốc, mà tính cách lãnh đạo của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là miễn bàn, họ không cần biết nhân dân của họ sống chết ra sao, họ chỉ cần biết họ được lợi gì từ những cú áp phe, chỉ cần vậy là đủ. Giống như bà Hằng nhận xét, một giáo sư đại học nông lâm Thủ Đức, Sài Gòn cho rằng sở dĩ cho đến thời điểm hiện nay, khi mà mối quan hệ Việt – Trung đã chuyển sang giai đoạn lạnh nhạt, cơm không lành canh không ngọt nữa nhưng hàng hóa Trung Quốc vẫn có cơ hội tuồn sang Việt nam, trong khi đó hàng hóa Việt Nam không còn xuất khẩu sang Trung Quốc nữa là vì chính sách quản lý yếu kém của nhà nước. Ngay cả những gói kích thích nông nghiệp với ưu thế mũi nhọn và số tiền lên đến hàng ngàn tỉ đồng, hầu như nhà nước chưa bao giờ có chiến lược quản lý hợp lý, khoa học. Những gói kích thích nông nghiệp chỉ được rót về theo kiểu nhỏ giọt, bánh ít trao đi bánh qui trao lại, muốn được rót kinh phí thì phải biết ăn chia tỉ lệ phần trăm và chạy đua nhận kinh phí bằng tỉ lệ. Đến khi có kinh phí rồi thì lập những dự án khống để tùng xẻo, tư túi. Và kết quả của lối quản lý một mặt thì đi đêm với Trung Quốc, mặt khác lại lủng củng, bệ rạc và thiểu năng trong quản lý nguồn vốn kích thích nông nghiệp bấy lâu nay đã mang đến hậu quả như hiện tại, chất độc của người Trung Quốc đã ngấm vào tận chân tơ kẽ tóc của người Việt và cả dân tộc này thụ động nhận những thứ độc hại từ Trung Quốc! Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Trung Cộng rút giàn khoan HD981

China Oilfield Services Ltd, một đơn vị của Công ty China National Offshore Oil Corp (Tập Đoàn Dầu Khí Ngoài Khơi Quốc Gia Trung Quốc) của nhà nước Trung Cộng cho hay là giàn khoan dầu biển sâu của họ là HYSY 981 đã hoàn tất việc thăm dò và đào dầu ở ngoài khơi Đảo Triton (tên tiếng Hoa là Zhongjian Island) thuộc quần đảo Hoàng Sa.   Được biết là giàn khoan HD 981 đã được dời về gần Đảo Hải Nam và tất cả các tàu bảo vệ giàn khoan của Trung Cộng cũng đã rời khỏi khu vực. Bắc Kinh đã rút giàn khoan sớm hơn dự trù vì trận bão rất lớn Rammasun thay vì đến mùa biển động bắt đầu khoảng đầu tháng 8. Tuy nhiên, giới quan sát quốc tế tiên đoán Bắc Kinh liền sau đó sẽ tuyên bố là vùng biển quanh giàn khoan này là vùng quân sự cấm tàu bè qua lại và sẽ đưa tàu hải quân đến chiếm đóng và, khi thế giới đã quen dần với việc kéo giàn khoan đến và đi, sau mùa biển động năm nay, Bắc Kinh sẽ giăng tràn ngập nhiều giàn khoan khác. Cho đến nay, các tiên đoán của giới quan sát đã diễn ra đúng với thực tế.   Liệu nhà cầm quyền Việt Nam có tuyên bố đây là "chiến thắng" của họ (dù không làm gì cả) và lại ngủ yên trên chiến thắng đó hay không? Và quan trọng không kém, liệu việc rút giàn khoan đi có làm ngưng việc bắn, giết, giam giữ các ngư dân Việt Nam đang bị nhà cầm quyền đẩy ra "bám biển" hay không?
......

Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh bình luận nhanh việc Trung Quốc rút giàn khoan

......

Tôi đứng về phe nước mắt*

Ngày này năm năm trước công an tràn vào nhà và đưa mình vào nhà tù B34. Năm năm trôi qua và bây giờ mình lại ở trong căn phòng quen thuộc, gặp và nói chuyện lại những người anh em dân chủ trước đây và mới tham gia vào phong trào dân chủ sau này. Mình thấy rõ ràng rằng sau năm năm với bao nhiêu vụ bắt bớ, phong trào dân chủ không hề suy yếu đi mà ngày càng lớn mạnh hơn với sự tham gia của đủ mọi tầng lớp, âm thầm có, công khai có. Trong trại B34, mình đã gặp các anh chị là nông dân ở Đà Lạt, do bị thu hồi đất mà không được bồi thường (nghĩa là bị ăn cướp giữa ban ngày) nên đã phải đứng lên chống lại cái thể chế chiếm đoạt. Mình còn nhớ chị Tám ở đèo Prenn. Chị kể do chị không chấp nhận bị cướp đất, công an đã đốn hạ 2000 cây cà phê của chị, đánh thuốc độc giết hết đàn heo nhà chị, con gái của chị ở bên ngoài bơ vơ lại còn phải đi thăm nuôi mẹ ngồi tù. Chị vừa kể vừa khóc… Đâu rồi những lời tuyên bố đứng về phía người nghèo, người cùng khổ, người bị áp bức của những người cộng sản? Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” là như thế đấy ư? Khi được tự do, mình lại thấy tin nông dân Văn Giang, Dương Nội… tiếp tục bị cướp đất; những người thẳng thắn bày tỏ chính kiến tiếp tục bị bắt bớ, đàn áp như anh Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh), blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào,…; những tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tù nhân tôn giáo tiếp tục bị ngược đãi; các anh chị em cùng vụ án với mình như anh Trần Huỳnh Duy Thức, anh Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), chị Tạ Phong Tần, anh Trần Anh Kim và nhiều anh chị em dân chủ khác vẫn đang ở trong tù. Thế thì mình lại chỉ có một sự lựa chọn là “đứng về phe nước mắt”. Ngục tù không thể dập tắt được khao khát được sống trong một chính thể dân chủ, bảo vệ tự do, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của người dân Việt Nam. Chợt nhớ lại những câu thơ bất hủ mà mình đã được đọc trong cuốn “Trò chuyện triết học” của triết gia Bùi Văn Nam Sơn: Không! Bạo quyền chuyên chế có một giới hạn Khi kẻ bị đàn áp không biết tìm công lý ở đâu Khi gánh nặng trở nên không chịu đựng nổi Kẻ bị áp bức dũng cảm lên tận trời cao lấy xuống những quyền hạn vĩnh cửu của mình những quyền hạn bất khả xuất nhượng được treo lên trời cao và bất hoại như những vì sao… - Friedrich Schiller (1759 – 1805) * Câu nói của dịch giả Dương Tường Nguồn: FB Nguyễn Tiến Trung
......

Hà Nội tuyên truyền nhằm giảm tội bán nước của công hàm Phạm Văn Đồng

Hà Nội dùng cựu phi công đào binh Nguyễn Thành Trung để tuyên truyền, nhằm giảm nhẹ tội lỗi bán nước của công hàm Phạm Văn Đồng Trong chiến dịch tuyên truyền, nhằm giảm nhẹ tội lỗi cho Phạm Văn Đồng, cũng như của Đảng CSVN qua công văn bán biển năm 1958 cho Trung Cộng, ngày 6 tháng 7, Ban tuyên giáo CSVN đã cho tung ra một luận điệu mới, từ cựu phi công đào binh Nguyễn Thành Trung, cho rằng lỗi để mất đảo Hoàng Sa là do tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã không dứt khoát tập trung binh lực đánh chiếm trở lại. Trước năm 1975, Nguyễn Thành Trung là phi công chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, tuy nhiên, gần đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi thấy miền Nam có thể rơi vào tay chế độ Cộng sản Bắc Việt, Trung đã phản bội và dùng chiếc máy bay F5e để ném bom vào Dinh Độc Lập, sau đó bay ra vùng kiểm soát của Cộng sản Bắc Việt, hướng dẫn các phi công Cộng Sản tấn công Sài Gòn.   Sau năm 1975, dù có công trạng rất lớn, Nguyễn Thành Trung vẫn không được Hà Nội tin dùng, và cuối cùng, bị chuyển sang lĩnh vực hàng không dân sự. Hiện tại Trung là phi công được một nhà kinh doanh lớn trong nước thuê lái máy bay riêng. Nhiều năm nay, Trung đành chấp nhận việc không thể leo cao hơn nữa trong hệ thống cầm quyền CSVN. Mới đây, để sử dụng lại gương mặt hàng binh này vào việc rửa nhục giúp cho công văn Phạm Văn Đồng, ban tuyên giáo Trung ương CSVN đã tổ chức cho Nguyễn Thành Trung trả lời một bài phỏng vấn, trong đó nội dung được chỉ định là Trung phải lên tiếng đổ lỗi việc mất đảo Hoàng Sa là do sự thiếu quyết tâm tái chiếm của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tuyên bố với báo chí, Nguyễn Thành Trung nói rằng “Tôi cho rằng tổng thống Thiệu bị phía Mỹ ép phải hủy kế hoạch không kích. Lúc đó Mỹ đã có quan hệ với Trung Quốc. Và tổng thống Thiệu vì sợ mất ghế nên không dám làm trái ý Mỹ” – ông Trung nhận định, và làm ra vẻ ngậm ngùi: “Nếu tổng thống Thiệu cứng hơn chút nữa, Hoàng Sa có lẽ đã không mất. Một quyết định sai lầm hôm nay sẽ trở thành gánh nặng cho con cháu mai sau”. Nhưng sự thật lịch sử lúc đó, ai cũng biết rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang phải chỉ huy cuộc chiến khốc liệt từ phía Bắc Việt đánh vào, nay Trung Cộng mở thêm mặt trận trên biển, quân lực Việt Nam Cộng Hoà không thể cáng đáng nổi 2 mặt trận cùng một lúc, trong khi phải ra sức chiến đấu để bảo vệ cho dân chúng chạy CS trên đất liền.   Hôm nay, toàn dân Việt Nam đều biết chuyện công hàm Phạm Văn Đồng đã chính thức bán nước như thế nào cho Đảng CS Trung Quốc đàn anh, thêm vào một tiếng nói chạy tội của Nguyễn Thành Trung, chỉ càng làm cho dân chúng hiểu thêm sự sợ hãi của chế độ CSVN trước tội lỗi ghê tởm này. (N. Khanh) nguồn: http://www.sbtn.tv
......

Bạn trẻ ơi! Hãy sống thật sung mãn.

Mùa Xuân năm 1995, lúc còn ở trong trại tù Z30D ở Hàm Tân Phan Thiết, tôi có làm được một bài thơ song ngữ Việt - Anh nhan đề : “ Nói với Bạn Trẻ “ (A Message to Youth). Bài thơ gồm 4 đoạn. Xin được trích một đoạn như sau : Bạn trẻ của tôi ơi! Hãy nâng tâm trí lên cao Để tạo cho cuộc sống thêm ý nghiã Hãy chịu trả đắt giá Để có được sự cao cả nơi tâm hồn. (Toàn văn bài thơ xin được ghi nơi phần Phụ Lục kèm theo bài viết này.) Tôi chú ý đến chuyện “Nâng cao tâm trí” này ngay từ hồi mới có 9-10 tuổi còn ở bậc tiểu học trước năm 1945, khi được say mê đọc cuốn sách “Tâm hồn cao thượng” cuả nhà giáo Hà Mai Anh dịch từ bản tiếng Pháp “Grands Coeurs” cuả tác giả người Ý Edmond De Amicis. Sau này lên bậc trung học ở Hà nội, tôi lại được coi bản tiếng Pháp “Grands Coeurs” này nữa. Cuốn sách gồm những chuyện rất cảm động và hấp dẫn xung quanh một thiếu niên cũng cùng một lứa tuổi như chúng tôi, biểu lộ một lối sống cao thượng thanh nhã, một quan niệm lành mạnh về cuộc đời của một học sinh con nhà có nền nếp gia giáo, mà lại được thày giáo ở nhà trường chỉ bảo hướng dẫn rất tận tình về đức dục, về công dân giáo dục. Lời giáo huấn hàm chứa trong cuốn sách này cũng phù hợp với lời cha mẹ tôi thường nhắc nhủ trong gia đình, nhất là vì ông nội tôi lại là một ông đồ nho, nên anh chị em chúng tôi luôn được khuyên bảo là phải noi gương các bậc thánh hiền trượng phu quân tử, phải ra sức mà “rèn tâm luyện chí”, chứ không được buông thả bừa bãi như kẻ tiểu nhân hạ cấp.   Và nhất là khi đọc kinh dâng thánh lễ ở nhà thờ, thì chúng tôi luôn đọc câu : “Hãy nâng tâm hồn lên”, mà thời đó người giáo dân còn hay đọc bằng tiếng La tinh : “Sursum corda”. Mấy bà cụ già như mẹ tôi thường không biết đọc, không biết viết chữ quốc ngữ, nhưng các bà vẫn luôn đọc lớn tiếng câu kinh bằng tiếng Việt như sau : “Xin hãy nâng lòng chúng ta lên những sự cao cả ở trên trời”. Lớn lên, biết suy xét nhiều hơn, tôi thấy cái lối dịch câu kinh như vậy là tuyệt diệu, vì nó làm cho người bình dân vẫn có thể hiểu và cảm thông được ý nghiã sâu xa của lời kinh trong đạo như thế. Sau năm 1975, tôi có kể cho nhà báo Nguyễn Ngọc Lương, bút hiệu Nguyễn Nguyên về câu kinh này, mà ngày trước các bà già lớp tuổi bà mẹ tôi vẫn thường đọc hồi ở nhà quê, thì anh Lương tuy là một cán bộ cộng sản, anh cũng cho là lối dịch như thế của các cố đạo xưa là quá hay, rất gần gũi với nhu cầu cảm thụ tôn giáo của số đông quần chúng bình dân. Sau này, tôi được đọc những bài viết của triết gia người Anh là Bertrand Russell, và tôi rất tâm đắc với lời khuyên nhủ của ông trong câu văn thật súc tích như sau : “ You should have the Right Thinking and the Nice Feeling”. Và tôi cũng đã mượn ý tưởng này của tác giả để đưa vào đoạn đầu của bài thơ “Nói với Bạn Trẻ”, như đã ghi ở trên đây.   Vào hồi năm 1965-66 lúc đã tới tuổi trưởng thành chững chạc và dấn thân hoạt động hăng say trong công tác xã hội tại chương trình phát triển quận 8 Sàigòn, tôi lại rất tâm đắc với lời kêu gọi của Tổng thống De Gaulle nói với thanh niên sinh viên nước Pháp là : “Các bạn phải có một tầm nhìn vũ trụ“ (vision cosmique). Tức là phải có một nhãn quan mở rộng, một cái nhìn toàn cuộc, bao quát toàn thể thế giới. Lời kêu gọi này rõ rệt là biểu lộ trung thực cái niềm xác tín của ông về sự cao cả của nước Pháp (grandeur de la France) mà suốt cuộc đời ông luôn ôm ấp và rắp tâm góp phần vun đắp xây dựng. Cái ý niệm về sứ mệnh cao cả này, Tướng de Gaulle đã ghi thật rõ nét ngay trong chương đầu của cuốn Hồi ký nổi danh của ông về cuộc chiến tranh giải phóng nước Pháp do ông lãnh đạo hồi thế chiến thứ hai 1939-45. Rồi vào năm 1970, khi tôi được mời tham dự một hôi nghị quốc tế tại Paris nhằm thành lập “Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc” (INODEP = Institut Oecuménique au service du Développement Des Peuples), thì cũng được nghe một thuyết trình viên nhấn mạnh đến tính chất toàn diện và bao quát của công cuộc giải phóng mà bất cứ sự phát triển đích thực nào cũng phải nhắm tới (libération totalisante et globalisante). Lời phát biểu này làm cho tôi nhớ lại chủ trương của nhóm “Kinh tế và Nhân bản” (Économie et Humanisme) mà tôi đã say mê tìm hiểu hồi còn là một sinh viên trường Luật Saigon hồi giữa thập niên 1950. Đó là chủ trương “Phát triển toàn diện và điều hoà” (Développement total et harmonisé). Chính cái đường hướng phát triển này đã thúc đảy tôi tự nguyện cùng với các bạn trẻ khác dấn thân tham gia vào công cuộc phát triển cộng đồng tại các quận 6,7 và 8 Sàigòn từ năm 1965 đến 1971. Nhờ chính bản thân mình đã có hoạt động cụ thể tại điạ phương như vậy, nên tôi dễ tiếp thu được kinh nghiệm của các thức giả quốc tế như đã được phát biểu trong cuộc họp mặt trao đổi kéo dài cả hai tuần lễ như đã nói trên ở Paris.   Vào năm 1972 -74, khi nhận cộng tác với Hội Đồng Tôn giáo Thế giới ( WCC =World Council of Churches) có trụ sở chính ở Geneva Thuỵ sĩ, tôi lại được dịp học hỏi và biết được nhiều việc có tầm ảnh hưởng toàn cầu do những hoạt động của trên 350 tổ chức tôn giáo tại nhiều quốc gia trên thế giới mà là thành viên trong hệ thống của Hội Đồng này. WCC được thành lập từ năm 1948 nhằm kết hợp các nhà thờ thuộc nhiều giáo phái Tin lành và Chính thống tại nhiều quốc gia, kể cả trong khối cộng sản, nhằm tiến tới một số hành động chung có tầm vóc toàn cầu mà vẫn trung thành với đường hướng của Tin Mừng đã được khai sáng bởi Chúa Giêsu Cứu thế. Hệ thống này hoàn toàn nằm ngoài Giáo hội công giáo La mã do Toà thánh Vatican lãnh đạo, nhưng giữa hai phiá không hề có sự phân chia hay đối kháng mâu thuẫn gì với nhau. Ngược lại hai bên vẫn có sự giao hảo, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với nhau trong một số lãnh vực cụ thể. Sinh hoạt của WCC rất phong phú đa dạng và có tầm vóc toàn cầu. Đó là sự tiếp nối công trình của nhiều thế hệ các nhà hoạt động tôn giáo, các vị thừa sai của Thiên chúa giáo. Người viết xin trình bày chi tiết hơn về hoạt động của WCC trong một dịp khác. Trong bài này, tôi chỉ có ý trình bày về khiá cạnh suy nghĩ và hành động có phạm vi toàn cầu của các tổ chức, mà bản thân mình có duyên được quen biết và tham gia cộng tác với họ mà thôi. Viết đến đây, tôi lại nhớ đến lời phát biểu của nhà bác học chuyên về khảo cổ, đó là linh mục thuộc Dòng Tên rất nổi danh Teilhard de Chardin. Ông nói : “Tất cả cái gì hướng thượng, thì đều gặp gỡ đồng quy với nhau” (nguyên văn tiếng Pháp : Tout ce qui monte, converge). Cũng giống như người Pháp thường hay nói : “Những đầu óc lớn thì hay gặp gỡ nhau” ( Les grands esprits se rencontrent). Điều này chẳng khác gì với thái độ của cha ông chúng ta trong truyền thống nho giáo ở Á Đông, thì luôn đề cao và cổ võ cái tinh thần hoà ái và bao dung của người trượng phu quân tử, mà điển hình là những lời khuyên đã biến thành những câu tục ngữ rất phổ biến trong dân gian như : “Quân tử hoà nhi bất đồng”, “Dĩ hòa vi quý”, “Lượng cả bao dung” v.v... Như đã ghi từ mấy dòng đầu của bài viết này, tác giả là người đã ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” rồi, nên muốn giãi bày tâm sự với lớp người trẻ thuộc thế hệ con cháu của mình, qua những kinh nghiệm bản thân đã tích lũy được trong suốt mấy chục năm sinh sống, học tập và hoạt động của bản thân trên mảnh đất quê hương, cũng như tại nước ngoài. Do vậy mà lời phát biểu có tính cách thân mật tự nhiên, chứ không có dụng ý phải trau chuốt, giũa gọt như một bài văn bình thường. Trong bầu không khí thân thương nồng ấm của gia đình như thế, người viết xin gửi đến các bạn trẻ cái tâm tình chân chất ngay thẳng của mình với niềm mong ước là các bạn sẽ văn minh hơn, nhân ái hơn, hòa nhã hơn so với thế hệ cha bác của mình. Vì lẽ nếu các bạn mà có được sự tiến bộ khởi sắc như thế, thì quê hương dân tộc chúng ta mới thật sự tươi đẹp và hạnh phúc, đúng như cha ông chúng ta vẫn thường nhắc nhủ : “Con hơn cha, nhà có phúc” vậy./ Đoàn Thanh Liêm nguồn: diendantheky.net ---------- Phụ  lục   Bài thơ : Nói với Bạn trẻ 1 - Bạn trẻ của tôi ơi Hãy suy nghĩ chính xác Để khám phá được Những điều kỳ diệu Trong Thiên nhiên Và Xã hội loài người Hãy có lòng nhân hậu Để yêu thương tất cả mọi người Kể cả thù địch. 2 – Bạn trẻ của tôi ơi Hãy nâng tâm trí lên cao Để tạo cho cuộc sống thêm ý nghiã Hãy chịu trả đắt giá Để có được sự cao cả nơi tâm hồn 3 – Bạn trẻ của tôi ơi Hãy chia sẻ những phúc lộc Cùng với tất anh chị em mình Hãy đích thực là mình Với phong cách tốt đẹp xưa nay Giữa lòng cái thế giới hỗn độn này. 4 – Bạn trẻ của tôi ơi Hãy có hành động thích đáng Trong giờ phút đày thử thách Của Lịch sử vinh quang chúng ta Hãy sống thật sung mãn Bằng Yêu thương trọn vẹn Và thụ hưởng sự An bình ngây ngất Trong sâu thẳm nội tâm chúng ta./                                      ( Làm tại Hàm Tân, Muà Xuân 1995)
......

Angela Merkel, ước gì bà là người Việt

Là phụ nữ giống như đa số bạn bè nữ giới khác tôi không mê đá banh, nhưng mỗi khi có dịp quan trọng như World Cup Brazil 2014 tôi bị cuốn theo bởi sự hưng phấn của ... chồng và bạn bè anh ấy. Thủ tướng Angela Merkel luôn sát cánh cùng đội tuyển Đức Nói vậy nhưng hỏi tôi đội bóng nào hay nhất, đội nào sẽ vào chung kết, tứ kết xem thì như tôi là người ngoại đạo. Nhưng năm nay khác. Từ khi đội tuyển Đức xuất hiện tôi lập tức có cảm tình. Mà thật ra tôi có biết ông nào trong cái đội tuyển ấy là thủ quân hay "tiền đạo". Tôi chỉ thích màu áo cực kỳ thu hút và nhất là ông huấn luyện viên rất sport, rất lạnh tanh trong bất cứ pha bóng nào. Ông chỉ cười khi đội tuyển kết thúc trận đấu. Kết thúc với kết quả đáng mỉm cười.   Nói dông dài nhằm chứng minh một điều khác, Tôi không là fan của đội bóng này nhưng tôi yêu nó, ủng hộ nó, ca hát râm ran cho nó và nhất là "vui muốn khóc" khi nó dành ngôi vô địch. Tình yêu bất thường ấy của một người không biết bóng đá dành cho Đức thật ra phát xuất từ tình yêu người lãnh đạo đất nước của họ: Thủ tướng Angela Merkel. Bà Thủ tướng này là người sót lại từ thời Cộng sản. Từ Đông Đức, bà vật lộn với một giai đoạn lịch sử đau buồn của nước Đức để dần dần tiến tới vị trí mà không một ai trong chế độ cộng sản cũ có thể leo lên. Là một người đàn bà nhưng bà có bản tính của một chiến binh thời La mã: đánh là thắng. Bà không dùng tiểu xảo. Bà dùng trí thông minh của một nhà ngoại giao, lòng cương trực của một lãnh đạo quốc gia, sự khôn khéo của một chính trị gia lọc lõi của thế giới tư bản và hơn hết bà có một trái tim vì nhân dân Đức. Con đường chinh phục đất nước của bà không phải bằng những lời hoa mỹ, văn chương và hứa hẹn suông như hầu hết các chính trị gia Tây phương. Bà dẫn dắt nước Đức bằng sự tỉnh táo của một nhà khoa học, vì bà vốn là một tiến sĩ Vật Lý. Bà có ưu điểm của một nhà kỹ trị cùng sự dịu dàng của một phụ nữ đơn giản và gần gũi với công chúng. Bà đi chợ xếp hàng trả tiền cho từng bó rau, hộp sữa tại các siêu thị. Người dân đứng gần và nói chuyện với bà như nói với hàng xóm. Họ cười đùa pha trò với nhau trên những đề tài bếp núc, gia đình. Không có khuôn mặt của một lãnh tụ nhưng bà lại có hầu hết những quyết sách mạnh mẽ từ hệ thống ngân hàng cho tới vấn đề tài chánh của Liên minh EU. Bà là người luôn có quyết định gần như sau cùng và quyết định nào cũng thành công và được thế giới ngưỡng mộ. Người dân Đức may mắn có một Thủ tướng như thế và họ hãnh diện vì bà chưa bao giờ tỏ ra mềm yếu, hay có những thái độ ngoại giao nước đôi như hầu hết các nhà ngoại giao EU và đôi khi cả Mỹ khi đối diện với Trung Quốc ngay trên sân nhà của họ. Một mình một đội tuyển quốc gia, bà Angela Merkel mang lá cờ Đức phất phới ngay tại Bắc Kinh nơi bà tới thăm trước khi sang Brazil cùng với đội bóng nhận trái banh vàng World Cup 2014. Một mình trước cử tọa sinh viên đông đảo của Đại học Thanh Hoa, nơi phát sinh những tinh anh của phong trào Thiên An Môn, bà Thủ tướng nói với sinh viên, cũng với đảng cộng sản Trung Quốc và toàn dân Trung Quốc rằng bà mang kinh nghiệm bản thân vốn là một người sống trong đất nước cộng sản, với những thay đổi căn bản về quyền con người, về nhu cầu đối thoại để tiến tới một xã hội tiến bộ. Theo Thủ tướng Đức, bên cạnh những yếu tố công nghệ và kinh tế, một quốc gia muốn được "phát triển bền vững" như nước Đức hiện nay cần phải có một "hệ thống tư pháp công minh chính trực". Người dân phải tự tuân thủ pháp luật bằng sự công minh của người thi hành chứ không phải bằng sự đàn áp được gọi là pháp luật. Đứng giữa Bắc Kinh bà Merkel kể lại kinh nghiệm của mình trong chế độ Xô viết khi chứng kiến chế độ độc tài đàn áp, sách nhiễu người dân chỉ vì một vài tư tưởng khác với chính quyền. Lời chia sẻ của bà được sinh viên đại học Thanh Hoa truyền nhau trên mạng xã hội và báo chí phương Tây hết lời ca ngợi. Ngọn cờ tự do dân chủ của Đức phất phới trong khuôn viên đại học Thanh Hoa đã làm nhiều người run rẩy cảm phục, trong đó có tôi, một fan thật sự của bà Thủ tướng. Người dân Đức xem bà là một thần tượng thì cũng bình thường. Chỉ có tôi vốn chưa từng nâng ai lên tới tới hàng thần tượng đã bị bà thu hút và chinh phục, nhất là trong thời gian xảy ra biến cố giàn khoan của Trung Quốc cắm trên đất nước tôi. Lãnh đạo chúng tôi như con giun con dế trong khi bà như một nữ tướng trước bọn giặc cỏ. Tâm lý bù đắp ấy đã làm tôi có những giây phút mừng vui chừng như bà là Thủ tướng nước tôi, một đất nước không may khi quá nhiều lãnh tụ có tham vọng chính trị nhưng lại thiếu trầm trọng một chút tài năng. Tham vọng ấy trở thành tai họa cho đất nước đến nỗi giờ đây tôi phải "quàng người làm họ". Nhìn bà hân hoan cùng với đội bóng trở về quê hương tôi bỗng nảy sinh câu hỏi: phải chăng đội tuyển Đức thắng giải vì có mặt bà trên khán đài trong trận chung kết? Hào quang của Merkel đã dẫn dắt những chàng trai sung mãn ấy tấn công đối phương không một lần mệt mỏi. Hãy tha thứ cho tôi, Việt Nam, nếu có một lần tôi nhận người nước ngoài làm thần tượng. Mà nhận bà làm thần tượng chắc không đúng với tâm trạng của tôi hiện nay. Tôi như đứa trẻ còi cọc vì mẹ mất sữa, lâu lâu chạy sang nhà hàng xóm bú nhờ. Nếu hôm nào sữa kiệt thì quay lại với bà ngoại mân mê hai chiếc vú da cho đỡ nhớ. Dòng sữa nuôi lòng yêu nước, tự trọng và xả thân của nhiều người giống tôi hình như đã bị vắt kiệt tự bao giờ. Thôi thì đành tự dối mình, mân mê chiếc vú da của người lạ cho đỡ ức. Nguồn: rfavietnam.com/blog
......

Người Việt không mến yêu

Trong một bài thơ đọc ở buổi tốt nghiệp tại đại học UC Davis, Mỹ, sinh viên Fong Trần đã làm nhiều người xôn xao khi anh mô tả trong đó một chặng đường dài những suy nghĩ về tính cách của cộng đồng Việt Nam. Bài thơ có tên Tôi ghét làm người Việt Nam. Fong Trần là một nhà thơ trẻ được nhiều người biết đến, và cũng từng được báo Sacramento Bee, California giới thiệu. Fong Trần viết trong bài thơ của mình anh phải mất nhiều thời gian lắm để vượt qua nỗi cay đắng tại sao mình là người Việt, và rất vất vả mới lấy lại được niềm tin về nguồn cội. Không phải chỉ riêng Fong Trần, sự chán nản với tính cách của người Việt Nam ngay trong nước cũng bộc lộ ngày càng nhiều, qua việc nhìn thấy các câu chuyện trên internet, qua những điều được vẽ nên trên báo chí truyền hình… Một người bạn hay sử dụng internet nói với tôi rằng, chưa bao giờ ông thấy việc nhắc lại, đăng lại, gửi cho nhau… những hình ảnh của Việt Nam xưa nhiều như lúc này. Những bức ảnh ghi lại từng con phố, dáng người, địa danh… kèm theo những câu tấm tắc chứa đầy những điều đáng suy nghĩ “người Việt xưa của mình sao hay quá vậy”. Ẩn trong những câu nói đó, có lẽ là một sự nuối tiếc đăng đẳng. Fong Trần nói trong bài thơ rằng anh chán ghét người Việt khi còn bé, vì người Việt hay nhậu nhẹt, người Việt hay bỏ bê con cái… và anh mất một thời gian dài để tự cứu mình không mất đi ý thức chủng tộc khi tìm ra rằng quá khứ của người Việt rất đẹp, và người Việt vẫn có những điều sâu xa níu giữ anh, trước khi anh quá ngao ngán những biểu hiện hằng ngày trong cộng đồng. Fong Trần nói vì ở quá xa quê hương nên cú sốc đó đã xảy ra trước khi anh tìm về lại được cội nguồn trong tâm thức. Sách xưa Quốc văn giáo khoa thư có dạy rằng đi ngang đám tang nhớ nhường đường và cúi chào người đã khuất. Lúc còn bé, tôi vẫn nhớ những khi mẹ tôi giằng tay tôi lại khi đi đường và nhắc nhường đường cho một đám tang. Tôi mang sự tử tế được khắc ghi từ thế hệ trước vào lòng mình và sửng sốt ở ngày nhìn thấy đám thanh niên đi trên xe hơi, bóp kèn đi qua một đám tang, thậm chí có người còn thò đầu ra văng tục. Tôi và những thanh niên đó chắc ít khi nào viết sai chính tả, thậm chí tiện nghi và hưởng thụ hơn thế hệ trước biết bao lần. Chính bản thân tôi cũng đã phải ngẫm nghĩ nhiều về chuyện thân phận người Việt của mình. Mẹ tôi, một người phụ nữ Sài Gòn viết đầy những lỗi chính tả và ít hiểu biết về loài người, nhưng phải chăng bà đã có một đời sống đáng tự hào hơn trong một thế hệ Việt Nam bị phai nhạt, so với tôi bây giờ? Cũng trên các trang báo, tôi nhìn thấy câu chuyện ở Phú Yên, với bốn công an viên đánh đập đến chết một người vô tội, mà các trang báo ghi lại rằng họ bất chấp lời van xin của nạn nhân. Lòng tôi quặn thắt khi nhìn thấy đứa con gái nhỏ hôn lên di ảnh của ba mình. Trái tim Việt Nam hồn nhiên đã rạn nứt ngay từ khi thơ dại. Cũng trên các trang báo, tôi nhìn thấy ở Gia Lai hình ảnh một người phụ nữ uất ức quỳ lạy xin hai chữ công tâm trước cửa toà án, cho một vụ án oan. Dáng người phụ nữ đó không khác gì một người mẹ của tôi, hay của bạn vậy. Những chuyện như vậy dường như qua nhanh trong tâm trí người Việt, không gây được quan tâm bằng chuyện một nữ diễn viên bước ra đường quên mặc áo lót. Tôi đọc đâu đó, người ta lý giải rằng người Việt hôm nay giận dữ vì sự phân hoá giàu nghèo đã quá lớn, hoặc đã điên cuồng vì duy vật chất. Đời sống xa hoa của một lớp người bày ra trước mắt đám đông nghẹn ngào từng bữa khó khăn đang là bóng đen tiềm ẩn, xô con người vào những hỗn loạn không thể kiềm chế. Nhưng có phải vậy không? Lịch sử người Việt đã trải qua bao khốn khó, kể cả chiến tranh, hận thù… nhưng có là lạ lùng như hôm nay? Câu hỏi tự tôi không thể đủ sức trả lời. Tôi chỉ muốn sẻ chia một suy nghĩ, về nước Việt và người Việt tôi mến yêu trong kiếp sống không có quyền chọn lựa này. Tuấn Khanh Một người bạn hay sử dụng internet nói với tôi rằng, chưa bao giờ ông thấy việc nhắc lại, đăng lại, gửi cho nhau... những hình ảnh của Việt Nam xưa nhiều như lúc này. Ảnh: TL   Nguồn: diendantheky.net
......

Hãy để Đảng và Nhà Nước ... khác lo!

Trong những cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược từ 2011 đến gần đây, sau khi bị xô, đạp, đẩy, và chở về các đồn công an, những người biểu tình hầu như luôn luôn nhận được một thông điệp từ các "chiến sĩ công an" cấp cao hơn với tông điệu bảo ban của những người con trưởng, rằng: "Anh/chị bày tỏ lòng yêu nước 1 lần như thế là tốt rồi. Bây giờ về nhà, đừng biểu tình nữa. Đây là chuyện lớn, phải để cho Đảng và Nhà nước lo." Lúc đầu, khi nghe câu nói này, người nghe, dù nhiều hay ít, cũng có ấn tượng chắc lãnh đạo phải có chủ mưu hay kế sách gì đó thì công an mới dám mạnh miệng như thế chứ. Thậm chí, khi mới có tin giàn khoan HD981 vào thềm lục địa Việt Nam, có nhà dân chủ đã khuyên bà con hãy để cho lãnh đạo có thời giờ đối phó đi đã, rồi nếu không thấy gì thì người dân hẵng tự phát phản đối. Nghĩa là một chính phủ thì dù giỏi hay dở đều phải có kế sách về những chuyện như thế, vì vấn nạn Biển Đông kéo dài đã bao năm rồi. Và nhiều người đã chờ ...   Nhưng càng chờ, thì kế sách đâu chẳng thấy, mà người dân càng thấy cách hành xử của Đảng và Nhà Nước ta giống y như cách hành xử của Liên Xô thời chiến tranh lạnh. Thời ấy, những người sống tại các tiểu quốc thuộc Liên Xô, đặc biệt là các khoa học gia gốc Do Thái, xin đi sống ở nước khác hay ngay cả chỉ đi thăm nước khác, đều bị cấm ngặt hoặc bị tống giam ngay. Lý do chính thức Nhà nước Liên Xô đưa ra là vì sợ những người này tiết lộ bí mật quốc gia. Cả thế giới bên ngoài Liên Xô đều, dù nhiều hay ít, tin đó là lý do thật. Mãi đến khi có vài người trốn thoát đi được và đặc biệt sau khi Liên Xô sụp đổ, cả thế giới mới vỡ lẽ: bí mật lớn nhất của Liên Xô là tình trạng trống rỗng đằng sau lớp vỏ nhiều màu sắc trong mọi lãnh vực, từ kinh tế đến quân sự đến cả khoa học không gian. Cũng vậy, cả người Việt và giới quan sát quốc tế đang từ từ nhận ra điều bí mật lớn nhất trong đối sách của đảng và nhà nước hiện nay là KHÔNG BIẾT LÀM GÌ CẢ. Hay nói cho đúng hơn, lãnh đạo đảng thấy con đường nào cũng có thể làm lung lay chiếc ghế cai trị của mình nên hay nhất là LÃNH ĐẠO CẤP THƯỢNG TẦNG KHÔNG LÀM GÌ CẢ, mà đẩy cho cấp tỉnh (như Đà Nẵng), cấp ban ngành (như Hội nghề cá), và ngay cả chờ nước khác (như Nhật, Philippin, Australia, Mỹ) làm giùm.   Rõ ràng trong suốt nhiều năm qua, lãnh đạo đảng chỉ làm duy nhất có một việc là nài nỉ Bắc Kinh qua các cuộc họp song phương, với kết quả từng mảng chủ quyền cứ lần lượt biến mất: Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hàng trăm ngàn cây số vuông vùng biên giới phiá Bắc bao gồm nhiều cao điểm quân sự, rừng biên giới, rừng đầu nguồn, Nóc nhà Đông Dương dưới danh nghĩa khai thác bauxite ... và trên biển từ đảo đến quyền đánh cá đến tài nguyên dưới lòng biển đến hải phận, .... Trong lúc đó đất nước ngày càng lệ thuộc Trung Cộng ở nhiều mặt khác, từ thực phẩm độc hại lan tràn khắp đất nước đe dọa nghiêm trọng sức khoẻ của dân chúng, đến các trò thu mua để phá hoại nền nông nghiệp Việt Nam, đến tình trạng khuynh loát thị trường đấu thầu với tay trong hối lộ tham nhũng, ... Điều đã khá rõ hôm nay là Bắc Kinh tận dụng các cuộc đàm phán song phương (không cho các nước khác ảnh hưởng) để dễ dàng đẩy tới liên tục kế hoạch xâm lược tiệm tiến. Còn Hà Nội vì không biết làm gì khác và quá tin vào 16 chữ vàng nên cứ mỗi lần thấy bước xâm lược mới thì lại la toáng lên yêu cầu ngồi xuống ... đàm phán song phương. Lãnh đạo Tàu lại chậm rãi, mỉm cười ngồi xuống đàm phán. Thế là lãnh đạo ta lại an tâm. Tại điểm này, có lẽ cũng cần nói thêm về mấy cái tàu ngầm Kilo mà cách đây không lâu báo chí đưa tin là để phòng thủ chống Trung Cộng. Nhìn cái giá 2 tỉ mỹ kim và bức hình chụp cảnh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến thăm tàu, nhiều người đã ái ngại lo âu: "Bên trong còn loang lổ, rỉ sét như thế thì vỏ tàu còn rệu rạo đến thế nào nữa? Không lẽ đây chỉ là lập lại vụ mua tàu chiến phế thải của Ukraine?" Nỗi lo âu này nay đang hiện rõ là thực tế. Đã có chỉ dấu các tàu ngầm này chẳng khá gì hơn cái ụ nổi của Vinalines - cái ụ đã góp phần tạo bản án tử hình của ông Dương Chí Dũng. Có người còn gọi đấy là 2 cái tàu "chìm" Kilo - vì đã "ngầm" quá lâu và không trồi lên nữa. Cũng có dòng phân tích sâu hơn cho rằng lãnh đạo Việt Nam không có ý định mua tàu ngầm để hù Bắc Kinh vì chính Bắc Kinh cho mượn ngoại tệ để mua. Lãnh đạo VN cũng biết là Bắc Kinh, với tay chân len lỏi trong guồng máy quân đội, dư biết về tình trạng của 2 cái ụ "không nổi" này. Do đó, 2 vũ khí tuyên truyền rỉ sét giá 2 tỉ mỹ kim này chỉ dành riêng cho người dân Việt Nam. Nhưng điều mà nhiều người cho là ác độc khi lãnh đạo đảng cứ hô hào, thúc đẩy ngư dân tay không ra khơi "bám biển" như thể đảng rất thiết tha với chủ quyền hải phận tổ quốc. Khi những người Việt can đảm này bị đủ loại tàu thuyền của Trung Cộng đâm, bắn, đánh thì không thấy bóng dáng hải quân Việt Nam đâu cả. Khi họ bị Trung Cộng bắt giữ như 6 ngư dân vào khoảng đầu tháng 7/2014, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao lại phán một câu rồi toàn ban lãnh đạo đảng chỉ biết đứng nhìn. Nhưng khi có người nào thoát chết về đến bờ, lãnh đạo lại đến phát bằng khen rồi khuyến khích bà con nên noi gương họ ra khơi "bám biển". Trong khi đó, Hải quân Việt Nam không những kiên quyết "bám bờ" hiện giờ mà Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh còn hứa trong tương lai cũng sẽ tiếp tục "bám bờ" như vậy, qua lời tuyên bố tại Sangri-La rằng chính phủ của ông xem chuyện tại Biển Đông, bao gồm từ việc đặt giàn khoan đến giết, bắt ngư dân Việt Nam, chỉ là chuyện lục đục nhỏ trong gia đình. Nghĩa là không đáng cho hải quân Việt Nam can dự vào. Với khả năng quân sự quá yếu kém sau giấc ngủ dài với lời ru "16 chữ vàng và 4 tốt" đó, thế giới cũng rất ngạc nhiên khi thấy lãnh đạo Việt Nam từ chối mọi cách chống xâm lược khác. Cho đến nay, nếu tổng hợp các điểm chính trong đối sách mà lãnh đạo đảng đã tuyên bố, người ta chỉ thấy: (1) Quyết không kiện TQ ra tòa án quốc tế; (2) Quyết không liên minh với ai để phòng thủ chung Biển Đông; (3) Quyết chỉ đàm phán song phương với TQ như đã làm bao năm qua. Cả 3 cái "quyết" trên cột lại trở thành QUYẾT KHÔNG LÀM GÌ HẾT. Và kinh người hơn nữa, 3 quyết đó rất đúng với chỉ thị "4 không được" do Bắc Kinh tung ra ngay trước khi sứ giả Dương Kiết Trì đến bảo ban các lãnh đạo Việt Nam, những người mà họ thẳng thừng gọi là mấy đứa con hoang đàng. Thế là các lãnh đạo cao nhất, tứ trụ, sau một thời gian dài im lặng, nay chỉ nói chứ không dám ra văn bản; chỉ nói nho nhỏ với vài tổ cử tri chứ không dám dùng các diễn đàn quốc gia; và cũng chỉ nói những câu bâng quơ để ai muốn diễn dịch sao cũng được. Ông Nguyễn Tấn Dũng, sau câu nói mạnh tại Philippines đã vội ôm thắm thiết Dương Khiết Trì để tạ tội và từ đó đến nay không dám nói thêm gì nữa. Trong khi đó, báo đài hết lời khen ngợi đó là chính sách kiềm chế, khôn ngoan, dũng cảm, linh hoạt, yêu hòa bình, v.v. Chỉ có một việc có vẻ lãnh đạo đảng nhanh chóng làm ngay là các khóa học tập cho tập thể đảng viên. Để trấn an nội bộ và để biện minh cho kế sách QUYẾT KHÔNG LÀM GÌ HẾT kể trên, lãnh đạo nay muốn thuyết phục cả đảng hãy cùng sợ Bắc Kinh để sống còn. Các giảng viên nói rất thẳng thừng: (1) Đụng trận với Trung Quốc là thua; (2) Phải sợ Trung Quốc thì mới giữ được chế độ; (3) Mỹ mới là kẻ thù lâu dài; còn Trung Quốc tuy có khó khăn trước mắt nhưng vẫn là đồng minh dài lâu. Một vài cán bộ cao cấp còn thố lộ riêng với gia đình rằng thế hệ lãnh đạo đảng hiện nay than thở họ bị trói tay vì những ký kết của các thế hệ lãnh đạo trước suốt từ Hội Nghị Thành Đô 1990 đến những năm gần đây. Và nay họ không thể làm gì khác ngoài việc thực thi những ký kết đó. Hậu quả đau đớn là nay ngay cả việc Quốc Hội Việt Nam ra một nghị quyết chính thức về tình trạng xâm lấn của Bắc Kinh tại Biển Đông, lãnh đạo đảng cũng không dám làm vì sợ Bắc Kinh nổi giận. Chỉ khi  Quốc Hội Nhật, Thủ tướng Úc, và Quốc Hội Mỹ ra nghị quyết, tuyên bố phản đối hành vi ngược ngạo của Bắc Kinh, thì báo đài Việt Nam mới dám in và vỗ tay. Có lẽ đã đến lúc Ban Tuyên Giáo nên yêu cầu công an điều chỉnh thông điệp cho chính xác khi dạy dỗ những người biểu tình yêu nước: "Anh/chị bày tỏ lòng yêu nước 1 lần như thế là tốt rồi. Bây giờ về nhà, đừng biểu tình nữa. Đây là chuyện lớn, phải để cho Đảng và Nhà nước ... khác lo!" ./. Nguồn: DiễnĐànCTM
......

Hãy thôi lừa dối nhau và lừa dối chính mình

Hãy trở về với giá trị thực, thôi gắn bằng cấp với chức danh quản lý nhà nước, đề ra những điều kiện tuyển dụng chức danh quản lý mà bằng cấp chỉ có ý nghĩa tham khảo và thay vào đó là tiêu chuẩn cho phép đánh giá khả năng thực sự của ứng viên.   Câu chuyện lạm phát tiến sĩ, tiến sĩ giấy ở Việt Nam là một câu chuyện dài chưa có hồi kết kể từ cái ngày cách đây cũng đã lâu, khi mà người ta quyết định các chức danh công chức phải có bằng cấp nhất định nào đấy, và rồi nhờ một quyết định mang tính chất hành chính mà hàng trăm phó tiến sĩ bỗng chốc ngủ một đêm thức dậy thấy mình thành tiến sĩ. Hân hoan. Khoan khoái. Hoạn lộ mở ra, thông thoáng. Kể từ ngày đó, và kể từ ngày mà một vị mới lên làm bộ trưởng giáo dục đã đặt ra cái chỉ tiêu đầy tự hào là trong bao nhiêu năm Việt Nam phải có 20.000 tiến sĩ, rồi Hà Nội cũng đưa ra mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu có 100% cán bộ diện Thành ủy quản lý có trình độ tiến sĩ, 100% cán bộ diện UBND thành phố quản lý có trình độ trên đại học, trong đó một nửa cần đạt trình độ tiến sĩ thì căn bệnh lạm phát tiến sĩ chỉ có ngày càng nặng thêm, với biết bao hệ luỵ: học giả bằng giả, bằng thật học giả, bằng dỏm của các đại học dỏm nước ngoài, thuê thi hộ, thuê viết luận án hộ hoặc “chôm” luận án của người khác… Với 24.000 tiến sĩ hiện nay, nhiều nhất trong các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam lại chẳng có bao nhiêu công trình khoa học được đăng tải trên các tạp chí khoa học quốc tế, không có trường đại học nào trong 500 trường đại học tốp đầu thế giới, chất lượng giáo dục và đào tạo bậc cao chỉ xếp thứ 7/10 nước ASEAN (chỉ đứng trên Lào, Campuchia, Myanmar) và thứ 95/148 quốc gia được xếp hạng theo diễn đàn Kinh tế thế giới. Nhiều vấn đề học thuật, khoa học công nghệ, kinh tế, xã hội mà thực tiễn đặt ra không thấy hoặc rất ít thấy có sự góp sức về giải pháp của các nhà khoa bảng. Ngoài 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường đại học (theo số liệu của bộ Giáo dục và đào tạo năm 2013), không biết 15.000 tiến sĩ còn lại không giảng dạy, không nghiên cứu, vậy thì họ ở đâu, làm gì nếu không phải là lãnh đạo, công chức, cán bộ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước? Mà nếu vậy họ cần cái học vị tiến sĩ để làm gì nếu không phải để giữ chức, thăng chức hoặc để loè thiên hạ? Trong khi đó thì nhiều tiến sĩ không rành nổi một ngoại ngữ, đến nỗi khi bộ Nội vụ dự tính yêu cầu cấp thứ trưởng, mà trong số đó hẳn có không ít tiến sĩ, phải có một trình độ ngoại ngữ kha khá thì nhiều người thấy ngay là chuyện không tưởng, là làm khó nhau. (Thật ra, bình thường, khi tốt nghiệp đại học và trước khi bước vào quan trường, các ứng viên đã phải làm chủ tương đối một ngoại ngữ chứ không phải sau khi làm quan chức rồi mới cho đi học bổ sung ngoại ngữ bằng tiền ngân sách). Trước những hệ luỵ mà trào lưu “tiến sĩ hoá” đã gây ra cho chính nền giáo dục, cho chất lượng nhân sự và bộ máy quản lý nhà nước, cho đạo đức xã hội (nạn chạy chọt bằng cấp, nạn đạo văn, nạn gian dối bằng cấp…), trước tình hình chất lượng giáo dục cao đẳng và đại học sa sút, yếu kém như hiện nay, đã đến lúc bộ máy giáo dục, bộ máy nhà nước và xã hội chấm dứt căn bệnh tự lừa dối nhau và lừa dối chính mình. Hãy trở về với giá trị thực, thôi gắn bằng cấp với chức danh quản lý nhà nước, đề ra những điều kiện tuyển dụng chức danh quản lý mà bằng cấp chỉ có ý nghĩa tham khảo và thay vào đó là tiêu chuẩn cho phép đánh giá khả năng thực sự của ứng viên. Trong khi đó thì ngành giáo dục cần siết chặt điều kiện đào tạo tiến sĩ, siết chặt việc quản lý chất lượng tấm bằng tiến sĩ để những người được cấp bằng không phải là những tiến sĩ giấy, với những luận án nghiên cứu vô bổ, không có phát kiến gì mới, không đóng góp được gì về học thuật hoặc giải pháp cho thực tiễn. Điều đó lại chỉ có thể thực hiện trong một nỗ lực chung cải cách tận gốc nền giáo dục, vốn đòi hỏi không chỉ trí tuệ mà cả ý chí chính trị lớn, khi mà những yếu kém của nền giáo dục đã tồn tại quá lâu. Và xã hội chúng ta nói chung hãy thôi sùng bái bằng cấp, thay vào đó là nhìn vào trí tuệ thực sự, nhìn vào khả năng xử lý công việc, xử lý những vấn đề của cuộc sống của mỗi con người. Đoàn Khắc Xuyên   Nguồn: Người Đô Thị
......

Vận mệnh nước Việt và lợi ích nhóm!

Những con đường quốc lộ hỏng, lún, xuống cấp, và con đường lớn của nước Việt đứng trước vô vàn thử thách khắc nghiệt, đang cần gì? I- Những ngày này, không chỉ vụ việc ngoài Biển Đông mới soán ngôi tâm trí nước Việt. Mà sự tồn vong, sự phát triển đi lên của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế thôi thúc các nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế đi tìm một câu trả lời. Đó cũng là chủ đề hội thảo “Tự chủ kinh tế trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau” do Phòng Thương mại và Công nghiệp VN vừa tổ chức ngày 03/7. Ngày nay, sự giao thương, liên kết làm ăn, thậm chí là phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là một điều bình thường, kể cả các quốc gia mạnh nhất. Nhưng sự phụ thuộc giữa một quốc gia yếu hơn, yêu chuộng hòa bình như VN vào một quốc gia mạnh hơn, luôn có dã tâm xâm chiếm, bành trướng như TQ, đặt trong bối cảnh chiếm đóng bất hợp pháp của giàn khoan 981 trên lãnh hải và lãnh thổ VN, là sự thách thức khắc nghiệt nước Việt, phải tìm ra sức mạnh nội lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc, là câu hỏi lớn của thời cuộc hiện nay. Ở hội thảo này, ý kiến phân tích thẳng thắn từ thực tiễn của các chuyên gia kinh tế rất đáng suy ngẫm, dù khá chua xót: Phải chăng, tình trạng kinh tế VN phụ thuộc TQ quá nhiều, do lợi ích nhóm chi phối?   Lợi ích nhóm, khái niệm từ lâu không xa lạ với xã hội. Chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng, ở góc độ nhân sinh, văn hóa, nước Việt có sự đổi mới cách tư duy và hành động, cung cách quản lý. Từ chỗ coi nhẹ lợi ích con người, xóa nhòa bản ngã cá nhân, sang coi trọng hơn lợi ích này, hài hòa bên cạnh lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể. Nhưng sự thiếu vắng nền tảng lý luận vững chắc cho mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, thiếu vắng hẳn sự quản lý chặt chẽ, khoa học, lại thừa cung cách quản lý lỏng lẻo, trôi nổi, cùng sự bám giữ nặng nề cung cách quản lý xin- cho, khiến cho kinh tế thị trường hiện nay phát triển lộn xộn, phảng phất “kinh tế tư bản hoang dã”. Rất nhanh chóng, lợi ích nhóm- bản chất là lợi ích cá nhân của một nhóm người liên kết với nhau- hình thành, làm những điều phi pháp, thiếu minh bạch, lợi dụng cách quản lý tùy tiện để trục lợi, vơ vét của chung, xâm hại lợi ích Nhà nước. Họ cấu kết với nhau, hình thành những cái “vòi bạch tuộc”, bám chắc vào những khe hở quản lý, khe hở luật pháp để làm giàu bất chính. Như một quy luật, càng nhiều lợi ích nhóm bao nhiêu, kinh tế xã hội càng bất an, kém hiệu quả bấy nhiêu. Lợi ích nhóm càng giàu lên bao nhiêu, kinh tế xã hội càng nghèo đi bấy nhiêu, bất ổn bấy nhiêu. Lợi ích nhóm, thực sự như một thứ “nội xâm” đang thách thức vận mệnh sinh tồn và phát triển của nước Việt. Một bên là lợi ích của quốc gia và một bên là lợi ích một nhóm (người) Một bên là cần sự làm giàu cho quốc gia, một bên chỉ… đục khoét quốc gia, làm giàu cho bản thân mình và nhóm mình. Một bên là sự chính danh giữa thanh thiên bạch nhật, một bên là liên danh… ma quỷ trong bóng đêm. Cũng không phải bây giờ, hiện nay mới có lợi ích nhóm. Theo Tạp chí Cộng sản (ngày 02/7), lợi ích nhóm từ lâu có trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt, trong công tác tổ chức, cán bộ với những biểu hiện đa dạng và phức tạp. Nhưng tựu trung lại, nó có 04 “môn phái võ” rất lắt léo trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ; cụ thể hóa chủ trương, chính sách thành các quy định, quy chế, quy trình cụ thể để trục lợi theo kiểu“trên có chính sách, dưới có đối sách”; trong việc chỉ đạo và thực hiện công tác này. Lợi ích nhóm trong công tác tổ chức cán bộ đã dẫn đến có những ekip cán bộ năng lực yếu nhưng trục lợi cá nhân, trục lợi ekíp… mạnh. Hệ lụy nhãn tiền là ra đời những chính sách không có tác dụng thúc đẩy sự phát triển các ngành, các lĩnh vực, làm tổn hại uy tín Nhà nước. Hơn 300 văn bản sai sót, vi phạm luật trong số 1500 văn bản được ban hành, mà Chủ tịch QH từng cho rằng, đó là những văn bản pháp luật sai sót khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến lợi ích nhân dân và doanh nghiệp (theo VnExpress, ngày 12/6/), liệu có liên quan gì đến những ekip sinh nở từ những lợi ích nhóm trong công tác tổ chức, cán bộ không? Và xét cho cùng, lợi ích nhóm trong kinh tế mà các chuyên gia tham dự tại hội thảo cảnh báo, nó cũng vẫn phản chiếu, là “sản phẩm” của những lợi ích nhóm từ công tác tổ chức, cán bộ mà ra. Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, VN đã trao quá nhiều công trình cho nhà thầu Trung Quốc theo hình thức EPC (loại hợp xây dựng nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật đến thi công xây dựng công trình, hạng mục công trình và chạy thử bàn giao cho chủ đầu tư). Con số này là 23/24 nhà máy xi măng; 15/20 dự án nhiệt điện đốt than, giao thông, khai khoáng, cho thuê rừng và đất rừng ở vùng biên giới. Ông phải đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta giao quá nhiều dự án cho nhà thầu TQ như vậy. Có bao nhiêu lợi ích quốc gia, bao nhiêu lợi ích cho ai?”. Trong khi, TQ là bậc thầy về mua chuộc, đút lót. Còn theo ông Nguyễn Văn Thụ, CT Hiệp hội DN cơ khí VN, tất cả các dự án mà nhà thầu TQ làm tổng thầu EPC đều bị chậm tiến độ có khi đến 03 năm, chất lượng thiết bị kém. Trả lời VTC ngày 07/7, ông Lê Đăng Doanh nhận xét: Tình trạng nhận đút lót của doanh nghiệp TQ rất phổ biến và nghiêm trọng. Tỷ như việc TQ xuất lậu vào VN trên 5,2 tỷ USD, tương đương 130.000 tỷ hàng hóa qua biên giới, và VN xuất lậu 5,3 tỷ USD sang TQ theo số liệu của hải quan TQ công bố, là gì, nếu không phải là sự “phối hợp ăn ý”, kẻ tung người hứng giữa các nhóm lợi ích ở hai bên biên giới? Nếu không, khối lượng hàng hóa lớn như vậy, làm sao qua mắt được các cơ quan chức năng? Chả thế, VTC đã giật cái title rất sốc: TQ là bậc thầy đút lót, ắt có bậc thầy nhận hối lộ? Rõ ràng, lợi ích nhóm, bằng cách này hay cách khác, bằng cửa này hay cửa khác, đang múa gậy vườn hoang trước con mắt quản lý Nhà nước. Nhưng công bằng mà nói, không phải chỉ có lợi ích nhóm khiến cho kinh tế VN phụ thuộc nặng vào TQ, mà ngay cả cung cách làm ăn, kinh doanh, và tính cách kinh doanh của người Việt cũng khiến cho sự phụ thuộc này nó …nhẹ nhàng không chịu nổi. Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lo ngại rằng quan hệ kinh tế TQ- VN hiện nay quá sâu nhưng lại “rất không bình thường”. (Đất Việt, ngày 03/7) Dựa trên phân tích 04 điểm thể hiện tình trạng lệ thuộc vào kinh tế TQ ở các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, cơ cấu xuất khẩu… bà Phạm Chi Lan cho rằng, nguyên nhân là do lỗi của chúng ta, không chịu thay đổi cứ hài lòng với việc đi làm gia công, đi làm thuê. Tính cách làm thuê của người Việt này, đặt trong bối cảnh các DN vừa và nhỏ luôn bị chèn lấn ngay trong nước, các DN lớn và doanh nghiệp FDI (có vốn đầu tư nước ngoài) mất dần động lực. Thậm chí có DN còn đi mua hàng TQ cho nhanh và rẻ. Mà với cách kinh doanh của VN hiện nay chỉ làm được với TQ, vì làm với TQ dễ hơn nhiều so với những nước khác. Rõ ràng, không chỉ lợi ích nhóm, mà tính cách thụ động, dễ thỏa mãn, và cam chịu của các DN, với nhiều bối cảnh chi phối, đã khiến kinh tế nước Việt chịu cảnh… đi bộ, trong thời đại có đủ các “phương tiện” giao thông để kinh tế cất cánh. ************* II- Có lợi ích nhóm to lớn, thì cũng có những lợi ích nhóm “be bé” hơn. Có lợi ích nhóm xuyên quốc gia, cũng có nhiều những lợi ích nhóm tọa lạc tại quốc gia. Nói vậy, bởi rất lạ trong tuần này, ngẫu nhiên báo chí liên tục thông tin về những con đường, đoạn đường hỏng. Đủ mặt “anh tài”. Từ ở Tây Nguyên cho đến đồng bằng, từ miền núi cho tới thành phố, từ t/p HCM ra tận Thủ đô Hà Nội. Hệt một cuộc liên hoan gặp gỡ của những con đường… hư hỏng. Do đặc thù, giao thông đường xá vốn là một lĩnh vực ngốn rất nhiều nguồn tài lực, vật lực, nhân lực. Nhưng tốn kém đến gấp 03 lần, so với giá thành làm đường xá các nước, theo chính lời Bộ trưởng KH và ĐT Bùi Quang Vinh tại một hội nghị bàn về Luật Đầu tư công (VTC, ngày 13/3) mà lại thường hỏng trước thời hạn, hỏng trước thời gian bảo hành, thì chuyện đó chỉ có thể xảy ra ở VN? Con đường hỏng, hay thực chất là… lương tâm con người hỏng, dù biện bạch bằng bất cứ lý do nào? Cái sự hỏng của các con đường và hỏng lương tâm cùng trách nhiệm của con người VN cũng rất đa dạng, rất có “bản sắc” khác nhau. Tỷ như đoạn đường Quốc lộ 14 (dự án nâng cấp, mở rộng đường HCM, đoạn qua Tây Nguyên), trong đó có gói thầu đầu tư theo hình thức BOT (hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao, được ký giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước). Không chỉ chậm tiến độ (được khởi công từ tháng 9/2013, dự kiến hoàn thành vào tháng 10/2014, nhưng đến nay, mới thi công được 8,4% so với hợp đồng, chỉ đạt 30,5% so với tiến độ được giao), chủ đầu tư QL 14 đoạn qua Đắk Lắk còn vòi vĩnh 30% tiền “lại quả” với đối tác xây lắp dự án (VietNamNet, ngày 06/7). Trước đó cuối tháng 05, hàng loạt con đường hỏng và đội tiền tổng mức đầu tư tăng gấp 02 lần so với dự toán ban đầu của các con đường, đã được báo chí chỉ mặt, chỉ tên. Nào dự án QL19 B, đoạn qua t/p Cần Thơ, đầu tư 455,6 tỷ đồng, vừa hoàn thành, đã phải chi sửa chữa 8,5 tỷ đồng. Dự án tuyến metro Bến Thành – Suối Tiên dài gần 20km, tổng số vốn của công trình này ước tính khoảng 1,1 tỉ USD, đã tăng lên 2,4 tỉ USD. Dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông ( Hà Nội) bị đội vốn gần 100%. Tổng mức đầu tư của dự án là 552,86 triệu USD, được điều chỉnh lên 891 triệu USD, tăng thêm 339 triệu USD so với tổng mức đầu tư được phê duyệt trước đó. Dự án tuyến đường sắt đô thị Nhổn – Ga Hà Nội cũng tương tự. Dự án này ước tính tăng gấp 1,5 lần so với dự toán ban đầu năm 2006, (vốn đầu tư dự kiến ban đầu là 783 triệu euro, nay đã điều chỉnh tăng thêm 492 triệu euro). Theo Bộ GTVT, chỉ trong vòng 3 – 6 năm qua, tổng mức đầu tư của các dự án qua quá trình thực hiện đã tăng trung bình 180% so với tổng mức được duyệt (100%)…. Rồi câu chuyện 80,9 tỉ đồng và 10,6km đường, vừa xong đã hỏng của gói thầu số 11, dự án bảo trì QL 05 (đoạn từ km 94 đến km 104+600) qua địa phận từ ngã ba Sở Dầu (quận Hồng Bàng) đến khu vực cảng Đình Vũ (quận Hải An, Hải Phòng) hằn lún tạo nên những rãnh như ruộng bậc thang. Điều kỳ tài, nhiều chuyên gia chỉ thẳng có chuyện “đi đêm” trong các dự án đội vốn, đấu thầu…, nhưng lãnh đạo ngành GT vẫn tin tưởng: Kết quả kiểm tra cơ bản cho thấy việc đấu thầu các dự án là tương đối minh bạch (Đất Việt, ngày 25/5). Nhưng minh bạch gì mà Bộ trưởng GTVT cứ giống như “Triệu Tử… Thăng” tả xung hữu đột, chỗ này “trảm” một tướng, chỗ kia yêu cầu dừng ngay việc thu phí vì đường quá xấu, giữa một… ma trận các nhóm lợi ích lớn, bé. Kỳ tài nhất, có lẽ phải thuộc về cái vỉa hè “quý tộc” thuộc đoạn đường mệnh danh đắt nhất hành tinh, đoạn Ô chợ Dừa- Hoàng Cầu của Thủ đô Hà Nội. Tính ra 500 m đường ngốn hết 500 tỷ đồng, mỗi mét đường ở đây ngốn 01 tỷ đồng. Trong con mắt chuyên gia, lát vỉa hè là chuyện của mấy ông thợ, đâu phải đòi hỏi kỹ thuật cao siêu gì, tham quan nước ngoài nước trong gì, vậy mà mỗi cm vỉa hè ở đây, ngốn 10 triệu đồng. Chuyện vô lý mà có lẽ chỉ cái vỉa hè lẫn các cơ quan chức năng, các ngành các cấp quản lý con đường này mới biết rõ nhất, tiền đi đâu về đâu. Và còn những con đường nào đã hỏng, đang hỏng và sắp hỏng, đã có tên và chưa có trong danh sách, còn đứng sau… cánh gà, chưa đến lúc thể hiện mình? Cái sự hỏng, lún của các con đường có thể khác nhau, nhưng ông chủ đích thực của tất cả con đường đắt giá tiền, rẻ chất lượng ấy là ai, nếu không phải là Đồng tiền? Ông chủ ấy, đủ sức sai khiến lương tâm, trách nhiệm các “nô tỳ”: Chủ đầu tư, chủ dự án, đấu thầu, thiết kế, thi công, giám sát, nghiệm thu, tất tần tật, theo kiểu bắt cởi trần phải cởi trần/ cho đô la mới được phần…đô la! Những con đường quốc lộ hỏng, lún, xuống cấp, và con đường lớn của nước Việt đang đứng trước vô vàn thử thách khắc nghiệt, đang cần gì? Chắc chắn những con đường đó không mong muốn sự tồn tại của các nhóm lợi ích ma giáo, ma quái, đủ kiểu, đủ hình thái. Nhưng phép thần “quản lý công khai, minh bạch, và pháp luật thượng tôn” đến bao giờ mới xuất hiện, thực sự có hiệu nghiệm? Để cuối cùng, cái Ác thua cái Thiện, để người nghèo được hưởng hạnh phúc và xã hội thanh bình, như trong các câu truyện cổ tích tuổi thơ? Nguồn: Blog Quê Choa
......

Gs Tạ Văn Tài : Phải kiện gấp rút kẻo trễ !

  Gs Tạ Văn Tài : Phải kiện gấp rút kẻo trễ ! http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/07/20140712-ctm-... Một vấn đề đang được tranh cãi, cũng như đã tạo nên sự chống đối của đồng bào trong và ngoài nước, đó là việc Trung Công ngang nhiên đem giàn khoan HD 981 vào khai thác dầu khi trong cùng lãnh hải của Việt Nam, đồng thời TC lớn lối cho rằng, đây là vùng hải phận của mình. Trong khi đó, nhà cầm quyền CSVN chỉ lên tiếng, tuy được xem là mạnh nhất từ trước đến nay, nhưng trên thực tế, vẫn ra tay đàn áp và bắt bớ những người dân yêu nước qua việc họ bầy tỏ sự chống đối Trung cộng xâm lược. Để tìm hiểu sự kiện này, GS Tạ Văn Tài là một chuyên gia về luật quốc tế có những nhận định như sau, mời quý vị theo dõi.   http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2014/07/20140712-ctm-... ***   Gs Tạ Văn Tài, nguyên Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Saigon và Trường Quốc Gia Hành Chánh, Saigon, Viet Nam, trước 1975 . • Tốt nghiệp Cao Học Luật Khoa tại Ðại Học Harvard, 1985. Tiến Sĩ về Chính trị học–Công Quyền và Ngoại Giao tại Ðại Học Virginia,1965. • Luật Sư tại Việt Nam trước năm 1975 và tåi các toà án Tiểu Bang và Liên Bang ở Massachusetts từ năm 1986. • Hội Viên Nghiên Cứu từ năm 1975 và Giảng Viên Luật Việt Nam và Trung quốc tại Trường Luật Khoa, Ðại Học Harvard. • Học Giả Nghiên Cứu tại Trường Luật Khoa, Ðại Học New York, 1990-1994. Ngoài ra Gs Tạ Văn Tài còn viết rất nhiều bài nghiên cứu về kinh tế, chính trị như “Hiệp Ước Thương Mại Mỹ – Việt”, Truyền Thống Nhân Quyền Việt Nam, Ðại Học Berkeley, Viện Nghiên Cứu Ðông Á,   Luật Ðầu Tư và Hành Nghề tại Việt Nam, Chánh Sách Bầu Cử tại Nam Việt Nam, Massachusetts: Gs Tạ Văn Tài cũng Nhận các Giải Thưởng Fulbright, USAID, của Tổ chức Asia và Ford Foundations, cûa Aspen Institute .Tiểu sử và thành tích được đăng trong các sách :Who’s Who In The World. Nguồn: http://radiochantroimoi.com/
......

Kinh Tế Việt Nam: Làm Sao Để Giảm Lệ Thuộc Vào Trung Quốc?

Là một nước nhỏ về cả dân số lẫn diện tích và ở sát cạnh Trung quốc, Việt Nam không thoát khỏi phụ thuộc vào nước láng giềng khổng lồ tham lam và xảo quyệt. Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc quá nhiều về chính trị và cả về kinh tế. Bài phân tách này trước hết sẽ trình bầy về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc về phương diện kinh tế. Tiếp theo sẽ là phần nhận xét lợi hại của quan hệ này. Sau cùng là một vài đề nghị để kinh tế Việt Nam giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào cuối năm 1991. Kể từ đó buôn bán giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng. Trị giá tổng số hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đối với Trung Quốc tăng từ 692 triệu Mỹ kim vào năm 1995 đến 50.2 tỉ Mỹ kim vào năm 2013. Theo một dự đoán, trị giá hàng hóa trao đổi giữa hai nước có thể lên tới 60 tỉ Mỹ kim vào 2015. 1/ Trong vài năm đầu, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc nhiều hơn nhập cảng từ quốc gia này ở mức độ khiêm nhường với trung bình hàng năm vào khoảng 41 triệu Mỹ kim. Nhưng kề từ 2001 đến nay, cán cân thương mại (trade balance) ngày càng bất lợi cho Việt Nam. Nhập siêu (trade deficit) tăng từ 189 triệu Mỹ kim lên đến 23.7 tỉ Mỹ kim. Đấy là chưa kể số hàng nhập lậu đáng kể qua biên giới ở những nơi như Mống Cái và Lạng Sơn.   Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều nguyên phụ liệu, thành phẩm hóa chất, và máy móc dùng cho việc sản xuất. Riêng về ngành dệt may, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 50-60% nguyên phụ liệu từ Trung Quốc như da làm giầy dép, vải và lụa để làm quần áo. Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc bao gồm khoáng sản thô như than, quặng sắt. dầu thô, nông lâm sản, thủy sản và đồ thủ công. Khoảng 80% cao su, 40% gạo, 70% thanh long xuất khẩu của Việt Nam bán cho Trung Quốc. Kinh tế Việt Nam lệ thuộc đáng kể vào Trung Quốc Bức tranh mô tả cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trên đây cho thấy sự phụ thuộc của Việt Nam vào nước láng giềng phương bắc quả thật là rất đáng e ngại. Nhưng phân tách sự kiện này một cách quy mô hơn, chúng ta thấy tình trạng này chưa đến nỗi vô vọng. Thật vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam so với trị giá tổng số thương vụ vào năm 2013 của Việt Nam với thế giới 264.3 tỉ Mỹ kim, phần của Trung Quốc tuy dẫn đầu nhưng chỉ chiếm khoảng 19%, so với con số của Hoa Kỳ là 11%, Hàn Quốc 10.3%, Nhật 9.6%, Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) 15.1%, Liên Hiệp Âu Châu (EU) 12.7%, và các nước còn lại 32.6%. Một cách khách quan, những con số trên đây cho thấy phần đóng góp của Trung Quốc trong lãnh vực ngoại thương tương đối đáng kể nhưng không có tính cách ngự trị. Sở dĩ Việt Nam buôn bán nhiều với Trung Quốc một phần vì hai nước sát vách nhau và hàng của Trung Quốc mặc dù chất lượng thấp nhưng rẻ và hợp với túi tiền của đa số người Việt Nam. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tích lũy tính đến 31-12-2012 là 210.5 tỉ Mỹ kim. Phần của Nhật đứng đầu với 28.7 tỉ Mỹ kim (13.6%), tiếp theo là Đài Loan (12.9%), Singapore (11.8%), và Hàn Quốc (11.8%). Trong khi đó đầu tư của Hoa Kỳ và Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khiêm nhường lần lượt là 5% và 2.2%. Số dự án đầu tư của Trung Quốc tính đến cuối năm 2012 là 893, chiếm 6.1% tổng số dự án đầu tư nước ngoài. Trung bình mỗi dự án trị giá 5.3 triệu Mỹ kim. Trong khi đó, Hàn Quốc có 3,197 dự án ở Việt Nam, chiếm 22% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án trị giá 7.8 triệu Mỹ kim và Đài Loan với 2,234 dự án, chiếm 15.4% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án trị giá 12.1 triệu Mỹ kim. Tiếp theo là Nhật với 1,849 dự án và Singapore với 1,119 dự án. Như vậy trong lãnh vực đầu tư, vai trò của Trung Quốc khá khiêm nhường. Tiếp theo, chúng ta phân tách tình trạng Việt Nam nợ nước ngoài trong đó có Trung Quốc. Trước hết là số nợ trong Chương Trình Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance gọi tắt là ODA). Đây là một chương trình tài trợ quan trọng vì ODA có những ưu điểm là cho vay với lãi suất thấp (dưới 2%), dài hạn (25-40 năm), và một phần trong nguồn vốn là tiền viện trợ không phải hoàn trả.   Theo thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Co-operation and Development viết tắt là OECD), gồm 34 quốc gia hội viên có nền kinh tế tiên tiến nhất, trong thời gian 2000-2012 ODA đã giải ngân cho Việt Nam 31.2 tỉ Mỹ kim từ nhiều nước phát triển trong đó có Nhật (đứng đầu với 10 tỉ Mỹ kim), Hàn Quốc, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada và Hoa Kỳ. Các tổ chức tài trợ đa phương như Ngân Hàng Thế Giới qua chương trình Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế (International Development Association – IDA) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asian Development Bank viết tắt là ADB) qua Quỹ Đặc Biệt (Special Funds) đã cho Việt Nam vay 11.3 tỉ Mỹ kim dưới hình thức ODA cùng trong thời gian kể trên. Trong khi đó, OECD không báo cáo món nợ ODA nào từ Trung Quốc.   Về những khoản nợ nước ngoài khác, theo báo cáo gần đây của Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài Chánh với Quốc Hội Việt Nam, “Việt Nam vay tiền của Trung Quốc để thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó, đầu tư vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0.33% quy mô giá trị của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu tư vào hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là những nhà đầu tư dài hạn.” 2/ Rất tiếc rằng Ông Dũng từ chối không cho biết những con số cụ thể về các khoản nợ Trung Quốc vì tính chất nhậy cảm của vấn đề này.   Tham gia vào những hiệp ước thương mại quốc tế Một trong những cách hiệu quả nhất để giảm phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc là tham gia vào những hiệp định thương mại quốc tế. Việt Nam đã ký kết hai hiệp định thương mại quan trọng trong quá khứ là Hiệp Định Song Phương với Hoa Kỳ vào năm 2001 và sau đó là gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization viết tắt là WTO) vào năm 2007. Việt Nam đang thương thuyết sáu hiệp ước thương mại tự do (free trade agreement – FTA) khác là Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) với 11 quốc gia khác không có Trung Quốc, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, FTA với Hàn Quốc, FTA với Na Uy – Thụy Sỹ – Iceland – Liechtenstein, FTA với Liên minh Hải quan Nga – Belarus – Kazakhstan, và Hiệp định Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện giữa các nước ASEAN. TPP, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, và FTA với Hàn Quốc trong những hiệp định vừa kể trên là ba hiệp ước sẽ có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ nhất đến kinh tế Việt Nam và sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những hàng rào cản hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800 triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa (GDP) là khoảng 28 ngàn tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Ngoài ra, những nước TPP sẽ là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam và là thị trường tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam mà không bị Trung Quốc cạnh tranh. Việc gia nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Peter A. Petri, Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm 2012.”3/   Theo Ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Phòng Thương Mại Châu Âu tại Việt Nam, tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam có thể tăng trên 15%, tiền lương thực tế của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng 12%, tiền lương thực tế của lao động phổ thông có thể tăng khoảng 13% và giá trị xuất khẩu có thể tăng lên gần 35% sau khi Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam ký kết FTA. Hàn Quốc đầu tư rất nhiều vào lãnh vực sản xuất điện tử tại Việt Nam với những dự án quy mô lớn như của Samsung hay LG, nhưng các công ty này vẫn phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc. Thí dụ như Samsung Vietnam xuất khẩu điện thoại di động thông minh Galaxy trị giá 23.3 tỉ Mỹ kim, nhưng đã phải nhập khẩu vi mạch và linh kiện từ Samsung China trị giá 21.3 tỉ Mỹ kim. Khi FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc được ký kết, Việt Nam sẽ không phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc nữa vì các công ty Hàn Quốc sẽ đến xây dựng nhà máy tại Việt Nam để được hưởng quy chế thuế thấp do hiệp định thương mại này quy định. Điều đó sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. 4/ Tương tự như trong lãnh vực điện tử, một khi Việt Nam gia nhập TPP, các nhà máy làm vải, lụa, khuy áo và chế tạo da sẽ được xây cất tại Việt Nam để được hưởng thuế ưu đãi đối với hàng dệt may và giầy dép. Như vậy số lượng nguyên liệu nhập cảng từ Trung Quốc sẽ tự động giảm xuống. Nói tóm lại, tham gia vào những thương ước đa phương vừa kể trên là một cách giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu, vốn, kỹ thuật và ngay cả nhân lực. Do đó, kinh tế Việt Nam sẽ bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.   Chấm dứt những mãnh lới buôn bán bất chính của thương gia Trung Quốc Ngoài việc tiến dần đến độc quyền nguy hiểm về xuất nhập khẩu trong một số lãnh vực, thương gia Trung Quốc còn có những thủ đoạn buôn bán bất chính gây thiệt hại cho những nhà sản xuất Việt Nam. Một số bài tường thuật trên báo mạng cho thấy rằng thương gia Trung Quốc đi đến từng ruộng vườn để thu mua các cây con, rễ tiêu, lá điều và ngọn cây làm hư hại mùa màng hay thu mua đỉa mang tính cách phá hoại nông nghiệp. Thương gia Trung Quốc còn nâng giá giả tạo một số nông sản như khoai lang và dưa hấu làm cho nông dân Việt Nam ham lợi tăng gia sản xuất. Vài mùa sau, khi thương gia Trung Quốc không trở lại thu mua nữa, các loại nông sản trở thành ế ẩm khiến cho nông dân Việt Nam buộc phải hạ giá. 5/ Trước 1975 cũng đã xẩy ra những vụ tương tự tại miền Nam Việt Nam như vụ thu mua chim cút, khiến nhiều công chức quân nhân đã nghèo lại còn nghèo thêm. Trung Quốc còn gây khó khăn cho các nông sản xuất khẩu của Việt Nam bằng cách thường xuyên trì hoãn các xe chuyên chở ở biên giới. Chủ nhân của hàng ngàn xe dưa hấu, vải, và rau tươi của Việt Nam mắc kẹt tại đây, nhiều khi buộc phải hạ giá để giảm bớt một phần nào lỗ lã. 6/ Việt Nam cần phải chấm dứt những mánh lời buôn bán bất chính này của Trung Quốc để bảo vệ nông dân và nông phẩm của Việt Nam, chống lại sự lũng đoạn thị trường Việt Nam của Trung Quốc. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là việc giáo dục và phổ biến tin tức về giá cả và thị trường đến nông dân. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có trách nhiệm về vấn đề này. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm giải tỏa những khó khăn ở biên giới. Nếu không được thì phải nhờ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) can thiệp.   Trung Quốc trúng thầu nhiều dự án tại Việt Nam   Vào cuối năm 2009, các công ty kỹ thuật Trung Quốc đảm nhận nhiều dự án với trị giá tổng cộng lên đến 15.4 tỉ Mỹ kim. Các nhà thầu Trung Quốc thực hiện 90% dự án xây cất những nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam, từ đầu tới cuối, không sử dụng bất cứ thứ gì của Việt Nam. Tương tự như vậy, trong tổng số 24 nhà máy xi măng ở Việt Nam, 23 nhà máy do Trung Quốc xây cất. Đây là một ấn đề gây nhiều bất mãn trong quần chúng và các chuyên gia tại Việt Nam hiện nay. Theo Cô Lê Hồng Hiệp, Giảng Sư tại Đại Học Quốc Gia Việt Nam tại Hà Nội, có hai lý do khiến cho các công ty Trung Quốc thành công trong ngành đấu thầu. Thứ nhất là khi cho vay vốn ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt một số điều kiện. Thứ hai là các nhà thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật kinh doanh uyển chuyển. Tuy nhiên cần phải kể đến yếu tố thứ ba là giá đấu thầu của những công ty Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty khác. Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là Việt Nam phải dùng nhà thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của Trung Quốc. Đối với những dự án không dùng vốn Trung Quốc, nhà thầu Trung Quốc vẫn có thể thắng được nhờ cho giá tương đối khá thấp theo luật đấu thầu của Việt Nam, bất kể tiêu chuẩn kỹ thuật. Vấn đề là sau khi trúng thầu, những công ty Trung Quốc thường thuyết phục những cơ quan sở hữu dự án thay đổi các điều khoản của hồ sơ thầu để giảm chi phí hoặc có khi phe lờ những điều kiện này. Ngoài ra, những công ty Trung Quốc ưa thích dùng công nhân Trung Quốc hơn với lý do ngôn ngữ và kỹ năng. Một số phúc trình cho thấy rằng nhiều nhà thầu Trung Quốc hoàn tất dự án không đúng tiêu chuẩn đã ấn định như chậm trễ, chất lượng kém. 7/ Các nhà thầu Trung Quốc còn mang những máy móc thiết bị công nghệ cũ để dùng cho những dự án họ trúng thầu. 8/   Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu Quốc Hội, đã chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các công trình không bảo đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn dự kiến, không sử dụng nhân công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát triển nguồn điện và 80% dự án phát triển hạ tầng giao thông vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?” Nhiều thắc mắc tương tư như trên đã từng được báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường xuyên mang ra bàn cãi, nhưng chưa được nhà nước Việt Nam trả lời.   Có một vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu bừa bãi này theo những ý kiến thâu thập từ các bài báo phổ biến trên Internet. Thứ nhất là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án đã không hoàn tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các nhà thầu Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.   Hiện nay Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đang duyệt xét lại luật đấu thầu để cho phép những chủ dự án có thể loại bỏ những nhà thầu thiếu khả năng cho dù họ có cho giá thầu thấp. Những công ty trúng thầu sẽ buộc phải ưu tiên sử dụng nhân công Việt Nam cũng như vật liệu, trang bị và dịch vụ có sẵn ở địa phương. Đây cũng chính là những mục tiêu căn bản của kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả dùng những dự án thầu đề huấn luyện nhân công trong nước.   Việt Nam là một quốc gia hội viên của Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế. Do đó Việt Nam phải tuân theo luật WTO. Tuy nhiên Việt Nam vẫn có thể đặt ra những tiêu chuẩn kỹ thuật và hành chánh để bảo đảm dự án phải được thực hiện theo ý muốn, miễn là những tiêu chuẩn này áp dụng đồng đều cho tất cả những nhà thầu, không phân biệt quốc tịch. Kết luận Trong nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam không thể độc lập hoàn toàn với Trung Quốc và ngược lại, nhưng kinh tế Việt Nam cũng không thể phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Để giảm lệ thuộc vào Trung Quốc, trước hết, Việt Nam cần phải cố gắng tự sản xuất những hàng hóa tiêu thụ hàng ngày mà mình có thể làm lấy được và phải làm tốt hơn hàng của Trung Quốc và đặc biệt chú trọng đến sự an toàn. Người tiêu thụ cần phải bỏ thói quen mua hàng rẻ nhưng chất lượng thấp của Trung Quốc. Mặt khác phải hỗ trợ hàng Việt Nam nhất là trong hoàn cảnh Trung Quốc đang xâm lăng Việt Nam.Mua hàng Việt Nam là góp phần vào việc bảo vệ đất nước.   Việt Nam cần phải cải tổ chế độ đầu thầu và ra luật nghiêm trị những kẻ ăn hối lộ và bao che các nhà thầu. Chú trọng đến chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, thay vì giá thầu. Khuyến khích nhiều nhà thầu khác nhau thực hiện các dự án thay vì để cho Trung Quốc gần như độc quyền trong một vài lãnh vực trọng yếu (năng lượng và xây cất hạ tầng) như hiện nay. Việt Nam cần hủy bỏ những xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, đặc biệt công nghệ cao, để tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, giúp sản xuất những sản phẩm tiêu thụ cho người Việt và những nguyên liệu cần thiết cho những công nghiệp chính của Việt Nam như may mặc và giầy ép. Kế hoạch phát triển trồng 1,000 ha bông tại tỉnh Ninh Thuận là một việc cần sớm thực hiện. Việt Nam từng xuất khẩu ồ ạt những số lượng than rất lớn sang Trung Quốc, kể cả một lượng 1 triệu tấn than xuất khẩu lậu, với giá rẻ so với giá trị trường quốc tế, mặc dù biết rằng Việt Nam cũng rất cần nguồn năng lượng có sẵn này để phát triển. Người ta nghi ngờ có sự chia chác trong vụ mua bán than này làm cho Việt Nam thất thu khoảng 1 tỷ Mỹ kim. 9/ Tuy nhiên Việt Nam lại nhập cảng điện từ Trung Quốc với giá cao gấp ba lần giá điện ở Việt Nam. Như đã tiên liệu, mới đây Việt Nam thiếu than đã phải nhập cảng than từ Nam Dương, cùng một loại than mà Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc. Việt Nam cũng xuất cảng cao su qua Trung Quốc, nhưng lại nhập cảng lốp xe từ Trung Quốc. Không có một chánh sách kinh tế nào phi lý hơn thế. Vì vậy Việt Nam cần phải cải tổ chính sách xuất nhập khẩu, nhất là với Trung Quốc. Sau hết và quan trọng hơn cả là tham gia vào những thương ước đa phương đặc biệt là Hiệp Định Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương. Chúng ta không biết CSVN có cam kết gì với Trung Quốc ở hậu trường hay không. Nhưng chúng ta thấy rõ ràng người đồng chí hàng xóm khổng lồ không hề dí súng vào đầu người anh em Việt Nam để bắt buộc Việt Nam phải buôn bán với họ. Phần lớn những giải pháp khả thi giúp kinh tế Việt Nam giảm lệ thuộc vào Trung Quốc hoàn toàn nằm trong tay chánh quyền Hà Nội và người dân Việt Nam.   Nguyễn Quốc Khải Washington-DC 04-07-2014 Chú thích: 1/ Carlyle Thayer, “Oil Rig Crisis Threatens Booming China-Vietnam Ties,” World Politics Review, June 3, 2014. 2/ Thành Chung, “Việt Nam Không Vay Nợ Nhiều Của Trung Quốc,” Báo Điện Tử Chính Phủ, 11-6-2014. 3/ Hoài Hương & Nguyễn Quốc Khải, “Việt Nam và Hiệp định TPP – Thách thức và Cơ hội,” VOA, 20-8-2013. 4/ Thùy Trang, “FTA Giúp Giảm Lệ Thuộc Vào Trung Quốc,” Nhịp Cầu Đầu Tư, 23-6-2014. 5/ Thành Luận, “Phụ Thuộc Trung Quốc: Việt Nam Rơi Vào Điều Tối Kỵ” Đất Việt, 23-6-2014. 6/ Phạm Chi Lan, “Giảm Phụ Thuộc Về Kinh Tế Để Đề Phòng Trung Quốc Chơi Xấu,” Tiền Phong, 10-6-2014. 7/ Lê Hồng Hiệp, “The rise of Chinese Contractors in Vietnam,” East Asia Forum, March 14, 2014. 8/ Phạm Chi Lan & Nguyên Vũ, “FDI: Trung Quốc Lo Lách Luật, Chèn Ép Doanh Nghiệp Việt,” Doanh Nghiệp, 7-4-2014. 9/ Hạnh Phúc, “Nghịch Lý Ngành Than: Xuất Khẩu Giá Rẻ, Nhập Lại Giá Cao,” Kinh Doanh Thị Trường, 19-3-2014. Nguồn: http://khoahocnet.com/2014/07/08/nguyen-quoc-khai-kinh-te-viet-nam-lam-s...
......

Lễ Khai mạc Đại Hội Thanh Niên Úc Châu Lần Thứ Nhất 10-13/7/2014

Đại Hội Thanh Niên Úc Châu 2014 đã chính thức khai mạc vào lúc 7 giờ tối ngày thứ Năm, 10/7/2014 tại Giảng đường L114, trường Đại Học Victoria  nằm trên đường Ballarat, thành phố Footscray tiểu bang Victoria Úc Châu với chủ đề: “Một Ước Mơ: Tuổi Trẻ Việt Nam Tiếp Nối và Hành Động”, Đại Hội Thanh Niên Úc Châu diễn ra từ ngày 10/7/2014 đến ngày 13/7/2014, với thành phần diễn giả đa dạng tại Úc cũng như một số quốc gia trên thế giới. Về phía quan khách có sự tham dự của ông Luke Simpkins, Dân Biểu Tự Do Liên Bang đơn vị Cowan, Tây Úc, Chủ tịch Tiểu ban Nhân Quyền trong Uỷ ban Hỗn hợp về Ngoại giao, Quốc phòng và Thương mại của Quốc hội Úc, ông Chris Hayes, Dân Biểu Lao Động Liên Bang đơn vị Fowler, NSW Úc Châu, ông Luke Donnellan, dân biểu đảng Lao Động tiểu bang Victoria đơn vị Narre Warren North, ông Quách Nam, Phó Thị Trưởng thành phố Maribyrnong, Nghị Viên Trương Văn Lợi, thành phố Greater Dandenong, Giáo sư Robert Pascoe thuộc trường đại học Victoria. Về phía quan khách Việt Nam có sự hiện diện của LS. Võ Trí Dũng Chủ Tịch Cộng Đồng NVTD-Liên Bang Úc Châu,   ông Nguyễn Văn Bon Chủ Tịch CĐNVTD -Tiểu Bang Victoria, ông Lê Đình Anh Chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn và Giám Sát Cộng Đồng NVTD Victoria, ông Nguyễn Quang Duy Khối 8406, ông Nguyễn Việt Long Chủ tịch Footscray RSL…và đông đảo đồng hương tham dự. Quang cảnh kết thúc Lễ Khai mạc Đại Hội Thanh Niên Úc Châu lần thứ Nhất 2014 Chương trình khai mạc Đại Hội được mở đầu bằng hoạt cảnh “Con Rồng Cháu Tiên và Múa Cờ” do các anh chị thanh niên sinh viên  trình diễn một cách công phu và điêu luyện và được kết thúc với biểu tượng “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”. Lễ Khai Mạc Đại Hội được chính thức bắt đầu với nghi thức Chào Quốc Kỳ Úc-Việt và Một Phút Mặc Niệm. Sau phần giới thiệu quan khách tham dự là diễn văn khai mạc của anh Lê  Xuân Đôn và Daniel Võ, đồng Trưởng ban tổ chức Đại Hội. Anh Đôn & Daniel ngỏ lời trân trọng và cám ơn mọi đóng góp của cộng đồng các tiểu bang, quý vị phụ huynh và các mạnh tường quân đã đóng góp công sức, tài chánh và tinh thần trong suốt tiến trình tổ chức đại hội.Các anh tin tưởng 4 ngày đại hội sẽ giúp các bạn trẻ hiểu rõ hơn về bản sắc và trách nhiệm của mình trong việc xây dựng cộng đồng Người Việt tại Úc cũng như góp phần đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam và xây dựng đất nước Việt Nam hậu cộng sản. Trong phần phát biểu của LS. Võ Trí Dũng, Chủ tịch Cộng Đồng NVTD Liên Bang Úc Châu ông đã bày tỏ sự hộ trợ của ông và Cộng Đồng NVTD Úc Châu cho việc tổ chức Đại Hội Thanh Niên Úc Châu lần thứ Nhất. Ông tin tưởng rằng đại hội sẽ giúp các bạn trẻ hiểu rõ hơn về hướng đi của mình cũng như dấn thân vào các sinh hoạt của cộng đồng và đặc biệt hỗ trợ giới trẻ Việt Nam tại quốc nội trong nỗ lực dân chủ hóa Việt Nam. Chương trình Đại Hội được tiếp nối với  phần phát biểu của ông  Luke Simpkins dân biểu Liên Bang đảng Tự Do tại quốc hội Úc. Dân biểu Luke Simpkins đã ca ngợi nỗ lực của giới trẻ Việt Nam tại Úc qua việc tổ chức Đại Hội như là một sự bảo tồn văn hóa Việt và đem khả năng của mình đóng góp cho sự phát triển của xã hội Úc Đại Lợi. Ông cũng đã chia sẽ cùng cử tọa về kinh nghiệm của ông qua việc bưng bít thông tin và vi phạm quyền tự do ngôn luận của nhà nước Việt Nam trong hai lần ông thăm và công tác tại Việt Nam, điển hình là chuyến viếng thăm đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Ông cũng nhấn mạnh đến việc bộ ngoại giao Việt Nam đã khéo léo nhắc nhở về những hình ảnh ông tham gia các cuộc biểu tình của những người Úc gốc Việt mà ông đang đại diện cho họ. Kế đến là phát biểu của ông Chris Hayes dân biểu Liên Bang đảng Lao Động Đối Lập tại đơn vị Fowler, NSW. Ông Chris Hayes đã ca ngợi nỗ lực học tập và thành công của giới trẻ Việt Nam tại Úc. Ông cũng nhắc nhở các bạn trẻ Việt Nam đừng quên đem sự hiểu biết và thành công của mình để đóng góp cho cộng đồng và sự phát triển của nước Úc và đó là cách hay nhất để trả ơn cho cha mẹ và thế hệ đi trước đã hy sinh rất nhiều cho sự thành công của các bạn. Hội trường vang lên những tràng vỗ tay liên tục qua tiết mục trình diễn thời trang độc đáo mang tên “Winter Wonderland Fashion Show” với những tà áo dài trắng thướt tha được thể hiện một các công phu qua nhiều thể loại do cô Bích Huyền thực hiện. Lễ khai mạc Đại Hội được tiếp nối với phần phát biểu của Nghị Viên Quách Nam, Phó Thị Trưởng thành phố Maribyrnong và Giáo sư Robert Pascoe đại diện khoa trưởng trường đại học Victoria. Sau đó là phần độc tấu dương cầm của nghệ sĩ Phạm Hoàng một tài năng trẻ đã đoạt danh hiệu Tài Năng Trẻ của Úc năm 2013. Lễ khai mạc Đại Hội Thanh Niên Úc Châu 2014 được kết thúc với phần phát biểu của Bác Sĩ Nguyễn Đỗ Thanh Phong đến từ Sydney.  Cả hội trường cùng hòa nhập với phần trình diễn của bạn Đỗ Anh Tuấn qua nhạc phẩm Triệu Con Tim của nhạc sĩ Trúc Hồ và cuối cùng được kết thúc  bởi hợp ca của cả hội trường qua nhạc phẩm “Bài Ca Tuổi Trẻ” của nhạc sĩ Phan Văn Hưng: “Từ khắp bốn phương trời , và muôn lối đi trong đời, gặp nhau trong tâm hồn Việt Nam sáng ngời…” Quốc Nguyễn Tường trình từ Melnourne
......

ĐỨA CON NGỖ NGHỊCH VÀ ĐỨA CON HOANG, AI HƠN AI?

Cứ nghĩ Triều Tiên điên rồ cam phận chạy theo chủ nghĩa viễn vông làm tay sai cho Trung Cộng. Triều Tiên hiếu chiến, chỉ lo súng đạn khí giới hạch nhân, hoả tiễn công phá… Các hành động, chủ trương của chính quyền Triều Tiên những năm gần đây chỉ rõ sự xác đáng của những nhận định trên. Bởi vậy, đề xuất mới đây (http://www.kcna.co.jp/top-eng.html) của Triều Tiên thật bất ngờ!   Triều Tiên đã trở thành đứa con ngỗ nghịch!   Tuy nhiên, đối với những ai am tường địa chính trị, việc này đã có chuẩn bị từ một năm nay. Từ khi ông Kim Jong Un trẻ măng lên cầm quyền, ông ta đã tiêu diệt một cách khốc liệt nhóm thân Tàu đại diện không ai khác là cậu mình - ông Jang Song Thaek - một “nguyên lão công thần”, cánh tay phải của cố chủ tịch Kim Jong Il. Chính đám này là nhóm lợi ích, mấy chục năm nay đã bán rẻ tài nguyên thiên nhiên Triều Tiên cho Trung Cộng. GS Nguyễn Đăng Hưng     Ông Kim Jong Un đã chuẩn bị cho một sự xoay trục ngoạn mục!   Cứ tưởng Triều Tiên sẽ là nước cuối cùng ý thức được nguy cơ bá quyền Đại Hán, nhưng không, Triều Tiên đang đi trước một nước khác! Sao thấy có gì tương tự ở đâu đây? Một nước mà ngay cả khi giàn khoan của Tàu ô nghịch tặc ngang nhiên xâm phạm hải phận của mình, đâm vỡ tàu kiểm ngư của mình, bắt bớ hành hạ dân mình mà lãnh đạo gần như chưa tỉnh hẳn…     Một nước mà lãnh đạo còn đặt quyền lợi phe phái mình lên trên quyền lợi quốc gia dân tộc, một nước mà bọn Tàu ô đã khinh bỉ ra mặt tặng cho danh hiệu là đứa con hoang, mà tỉnh Quảng Đông của chúng dám ra lịnh cho lãnh đạo thủ đô, lãnh đạo thành phố kinh kế lớn nhất phải nhanh chóng gởi cán bộ sang học tập nhận lịnh từ chúng… Ôi nỗi nhục này nước biển Đông Nam Á làm sao rửa cho sạch hỡi trời?! Nước đó là nước nào? Mọi chuyện nay sáng như ban ngày…   Sài Gòn ngày 8/7/2014 N.Đ.H.
......

Ai “tẩy não” ai?

“Tẩy não – Brainwashing” nói một cách nôm na là kiểu tuyên truyền dối trá, một chiều. Người không đủ thông tin sẽ bị lừa dối, bị ép phải tin, cuối cùng suy nghĩ của mình bị kẻ khác dẫn dắt. Trong chiến tranh Triều Tiên, phía Trung Quốc và Bắc Triều Tiên bắt được một số tù binh Mỹ. Họ “tẩy não” tù binh tới mức là một số đã nhận sử dụng vũ khí vi trùng cho dù họ không làm điều đó. Báo chí VN lo lắng về việc Trung Quốc đưa các nội dung (sai lệch) về Biển Đông vào chương trình giảng dạy từ nhiều năm trước, từ lưu hành bản đồ khổ dọc, chứng tỏ họ đã có những bước đi hàng mấy thập kỷ nhằm tẩy não dân chúng nước này về chủ quyền. Tờ Petro Time đưa tin, tiến sỹ Christopher Robert thuộc Trường Đại học New South Wales của Australia từng đưa ra nhận định: “Trong vài chục năm gần đây, hệ thống giáo dục Trung Quốc đã “cấy” vào đầu người dân nước này một suy nghĩ là Biển Đông thuộc chủ quyền “không thể tranh cãi” của Trung Quốc”. Ông dẫn lời một giáo sư Trung Quốc cho biết “Nếu bạn đề nghị một người Trung Quốc 50 tuổi vẽ bản đồ nước này, họ sẽ chỉ vẽ tấm bản đồ chỉ có Trung Quốc đại lục. Nhưng nếu bạn đưa ra một đề nghị tương tự với một người Trung Quốc 25 tuổi thì tấm bản đồ do họ vẽ ra sẽ xuất hiện cả biển Đông”. Chính quyền Trung Quốc từng thành công tẩy não một dân tộc cả tỷ người. Bài học cay đắng với hàng chục triệu nhân mạng chết, bị tù đầy trong cách mạng văn hóa, đại nhảy vọt làm mấy chục triệu dân chết đói. Thất bại thảm hại bởi dựa trên những thông tin dối trá, kiểu tuyên truyền tẩy não.   Thảm họa thế nhưng vẫn chưa đủ cho lãnh đạo Trung Quốc học bài sơ đẳng rằng, sự thật mang lại văn minh quốc gia. Phe XHCN, Liên Xô, Đông Âu sụp đổ bởi sự dối trá đi từ thượng tầng lãnh đạo tới truyền thông và hệ thống chính trị. Tẩy não có thể thành công mang tính ngắn hạn. Nhưng về dài hạn, không một quốc gia nào có thể biến thành văn minh nếu chỉ dựa vào nền giáo dục và truyền thông dối trá, tìm cách tẩy não dân chúng.   Sau cuộc chiến Triều Tiên, có 21 lính Mỹ xin ở lại với Bắc Triều Tiên vì họ tin chủ nghĩa đế quốc tàn ác. Tuy nhiên, người ta đã tìm ra 21 người bị tẩy não là quá nhỏ so với 20.000 tù binh Mỹ. Nói người phải nghĩ đến ta. Theo một nghĩa nào đó, Việt Nam cũng tiếp tay cho việc tẩy não của Trung Quốc. Tình hữu nghị Việt-Trung 16 chữ vàng, 4 tốt, quốc tế vô sản, dựa vào Trung Quốc để phát triển mới giữ được đảng và ổn định chính trị.   Họ tẩy não phía ta giỏi tới mức, bao nhiêu dự án quan trọng, mang tầm chiến lược quốc gia đều dành cho phía…bạn. Bạn có đâm tầu đánh cá chìm, thì gọi điện hỏi han, sao anh lại làm thế. 700 tờ báo dưới sự lãnh đạo của một ông Tuyên giáo hàm BCT nhất loạt coi Trung Quốc là bạn bè, đồng chí, không thể có chuyện họ xâm lược Việt Nam một ngày nào đó. Vài tờ báo trong đó có VietnamNet do chống Trung Quốc đã bị thay máu. Tổng biên tập lang thang xứ người. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng VN coi chuyện xung đột biển Đông như anh em trong gia đình cãi nhau, sự “tẩy não” đã thành công hơn cả mong đợi của phía Trung Quốc.   Qui trình đã có sẵn giữa hai đảng và chính phủ. Trung Quốc tẩy não dân Trung Quốc về biển đảo, Việt Nam giúp họ tẩy não dân mình bằng chính sự lừa dối của Trung Quốc. Một giàn khoan khủng hay hàng trăm giàn khoan của Trung Quốc cắm ở biển Đông chẳng có gì ngạc nhiên. Bởi đến giờ VN vẫn cho rằng Trung Quốc mới là kẻ tẩy não dân của họ mà ít người ngồi suy tư về chính mình. HM. 10-7-2014   nguồn: http://hieuminh.org/2014/07/10/
......

Pages