Ông Olaf Scholz – người sẽ kế nhiệm bà Merkel là ai?

Theo giới phân tích, ông Olaf Scholz đã thành công trong chiến dịch tranh cử nhờ việc thuyết phục cử tri rằng ông sẽ giống với nhà lãnh đạo lâu năm và uy tín của nước Đức: bà Angela Merkel - người cầm quyền suốt 16 năm qua. Theo đuổi đường lối giống với bà Angela Merkel Đức vừa công bố thỏa thuận thành lập liên minh giữa đảng Dân chủ Xã hội trung tả (SPD), đảng Dân chủ Tự do (FDP) và đảng Xanh, chấm dứt 2 tháng đàm phán căng thẳng sau cuộc tổng tuyển cử hồi tháng 9 vừa qua. Với việc giải quyết được một số bất đồng liên quan đến chính sách tài chính, khí hậu và các vị trí trong chính phủ, Đức sẽ có một chính phủ liên minh mới trước Giáng sinh. Liên minh này được gọi là “liên minh đèn giao thông” theo màu sắc truyền thống của các bên. Bộ trưởng Tài chính Olaf Scholz, 63 tuổi, ứng viên của SPD sẽ là thủ tướng tiếp theo của Đức. Theo giới phân tích, ông Olaf Scholz đã thành công trong chiến dịch tranh cử nhờ việc thuyết phục cử tri rằng ông sẽ giống với nhà lãnh đạo lâu năm và uy tín của nước Đức: bà Angela Merkel - người cầm quyền suốt 16 năm qua. Sử dụng ngôn ngữ súc tích, ngắn gọn và tránh xa bất cứ cử chỉ nào thể hiện sự đắc thắng, ông Scholz không chỉ xây dựng được hình ảnh có phần giống với thủ tướng sắp mãn nhiệm, mà còn thể hiện được khí chất và sự bình tĩnh trong mọi tình huống. Robin Alexander – một nhà quan sát chính trị lâu năm của Đức cho biết: “Ông ấy giống như một cầu thủ bóng đá đã nghiên cứu video của đối thủ và thay đổi cuộc chơi của chính mình, từ phong cách chính trị đến mọi biểu hiện trên gương mặt”. Khi ông Scholz công bố thành lập chính phủ trung tả mới vào hôm nay (25/11) và chuẩn bị nhậm chức vào tháng 12 tới, một câu hỏi đặt ra cho Đức, cũng như toàn bộ châu Âu và thế giới là: Liệu ông có thể “đi vừa chiếc giày” của bà Merkel hay không? Hiếm có một nhà lãnh đạo Đức nào khi lên nắm quyền lại phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng nhức nhối như vậy. Ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức thủ tướng vào đầu tháng 12/2021, ông Scholz sẽ phải đối phó với tình hình dịch bệnh Covid-19 phức tạp, căng thẳng biên giới Ba Lan-Belarus gia tăng, việc Nga tăng cường triển khai quân đội ở khu vực gần sườn phía Đông Ukraine, một Trung Quốc ngày càng cứng rắn hơn và một đồng minh Mỹ ngày càng xa cách. Nhà quan sát Jana Puglierin, giám đốc Hội đồng Đối ngoại châu Âu tại Berlin nhận xét rằng: “Áp lực hiện giờ rất lớn. Chính phủ sẽ nhậm chức trong bối cảnh sức nóng gia tăng trên nhiều mặt trận. Và khi nói đến chính sách đối ngoại, ông Olaf Scholz vẫn còn là một bí ẩn”. Từng bước gây dựng tầm ảnh hưởng Việc ông Olaf Scholz sẽ xuất hiện như thế nào trên cương vị thủ tướng sau 2 tuần nữa vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Là thành viên lâu năm của đảng SPD, đồng thời phục vụ trong 2 chính phủ do đảng Dân chủ Cơ đốc giáo của bà Merkel lãnh đạo, ông Olaf Scholz đã trở thành gương mặt khá quen thuộc trên chính trường Đức trong hơn 2 thập kỷ qua. Tuy vậy, ông cũng được cho là một chính trị gia thực dụng và khó đoán. Sinh ra tại Osnabrück, miền Bắc nước Đức, nhưng Olaf Scholz lớn lên ở thành phố Hamburg – nơi ông từng giữ chức thị trưởng. Ông nội Olaf Scholz là công nhân đường sắt trong khi bố mẹ ông làm trong ngành dệt. Olaf Scholz và các anh trai là những người đầu tiên trong gia đình được theo học lên đại học. Olaf Scholz gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội khi đang học trung học. Là một thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết, Olaf Scholz đã dành một thập kỷ làm luật sư bào chữa cho những công nhân vị đe dọa mất việc làm do việc đóng cửa các nhà máy. Sau này, khi nắm vai trò là tổng thư ký đảng SPD, ông đã lên tiếng ủng hộ việc cải cách thị trường lao động. Lần đầu được bầu vào Quốc hội Đức, ông Olaf Scholz đứng về phe cánh hữu. Nhưng hiện giờ ông được coi là người ủng hộ cánh tả. Scholz từng thua trong chiến dịch tranh cử vị trí lãnh đạo của SPD vào năm 2019, nhưng sau đó ông đã gây bất ngờ và tạo dựng được ấn tượng tốt với những người phê bình mạnh mẽ nhất trong đảng này khi thúc đẩy gói cứu trợ trị giá hàng trăm tỷ euro để giúp đỡ người lao động và các doanh nghiệp khi dịch bệnh Covid-19 hoành hành. Theo một số nhân vật thân cận, Olaf Scholz đã ôm ấp tham vọng trở thành thủ tướng từ năm 2011. Bản năng chính trị, khả năng đương đầu với thử thách và niềm tin thầm lặng của ông đã khiến nhiều đối thủ chính trị thán phục. Cách đây 3 năm, khi tỷ lệ ủng hộ SPD ở mức thấp kỷ lục, Olaf Scholz từng nói với New York Times rằng đảng này sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tiếp theo. Giống như bà Merkel, ông được cho là một người đáng tin cậy, có thể đảm đương những trọng trách lớn lao. Tác giả Alexander, người đã viết một cuốn sách bán chạy nhất về thời kỳ cuối của kỷ nguyên Merkel cho biết: “Bà Merkel đã vượt ra ngoài những toan tính chính trị mang tính đảng phải, bà là tiếng nói của lý trí. Trở thành nhân vật trung tâm trong nền chính trị nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng, đó là điều bà Merkel đã thực hiện rất thành công và là những gì ông Scholz đang hướng tới”. Những thách thức đối với ông Scholz Giới phân tích cho rằng, sự linh hoạt về chính trị sẽ giúp ông Scholz trở thành một nhà lãnh đạo phù hợp có thể giải quyết những thách thức mà ông sẽ thường xuyên phải đối mặt trên cương vị thủ tướng, cũng như giữ hòa khí trong một liên minh ba bên và kết nối Đảng Xanh với Đảng Dân chủ Tự do vốn có nhiều sự khác biệt về quan điểm. Nhưng Scholz cũng có khả năng sẽ không làm hài lòng bất cứ bên nào. Theo các nhà quan sát, những yêu cầu khác biệt giữa 3 đảng phái có thể ảnh hưởng đến khả năng thông qua chương trình nghị sự đầy tham vọng của chính phủ để chuẩn bị cho một nước Đức trong tương lai với nền kinh tế không carbon và vững bước trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Điều đó cũng tác động đến vai trò và vị thế của Đức trên trường quốc tế. Giới phân tích dự đoán, nếu như ông Scholz bị phân tâm quá nhiều bởi những căng thẳng nội bộ thì châu Âu và thế giới chắc chắn sẽ cảm nhận được sự chấm dứt hoàn toàn của kỷ nguyên Merkel. Nhưng nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, nước Đức dưới thời Scholz có thể trở thành một cường quốc giữ vai trò nòng cốt để gắn kết châu Âu, thống nhất liên minh xuyên Đại Tây Dương trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, cũng như đối đầu với các đối thủ cạnh tranh chiến lược như Trung Quốc và Nga. Chính sách đối ngoại hầu như không được thảo luận trong chiến dịch bầu cử Đức vừa qua nhưng chính sách này cùng với việc ứng phó đại dịch Covid-19 có thể trở thành ưu tiên của chính quyền mới trong những tháng đầu tiên nắm quyền. Đức sẽ đảm nhận chức chủ tịch Nhóm G7 vào tháng 1/2022 và khi đó, ông Scholz sẽ phải hướng sự chú ý vào một loạt vấn đề quốc tế cấp bách. Đảng Dân chủ Xã hội của ông Scholz luôn giữ lập trường ôn hòa với Nga và ủng hộ dự án Dòng chảy phương Bắc 2 xây dựng tuyến đường ống dẫn khí đốt từ Nga đến Đức thông qua biển Baltic. Nhưng trong trường hợp Moscow tăng cường gây sức ép với Ukraine thì đây sẽ là một phép thử vông cùng quan trọng. Với Trung Quốc, chính sách có vẻ phức tạp hơn. SPD đã gửi đi tín hiệu rằng, trước mắt, ông Scholz có thể không theo đuổi chính sách đối đầu Trung Quốc cũng như đứng cùng hàng ngũ với Mỹ trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh trở nên cứng rắn hơn, và các ngành công nghiệp của Đức giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, Berlin có thể thay đổi chủ nghĩa trọng thương có từ thời Merkel. Holger Schmieding, nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Berenberg nhận xét rằng: “Scholz đã gây dựng được vị thế tốt và ông ấy sẽ còn có ảnh hưởng lớn hơn trong chính quyền. Ông ấy có tiềm năng trở thành một lãnh đạo mạnh mẽ trên trường quốc tế một khi giữ được các đảng phái trong liên minh gắn kết với nhau”./.  
......

Vì sao Bộ trưởng Tô Lâm bị đề nghị trừng phạt theo Đạo luật Magnitsky Toàn cầu?

Bộ trưởng Công an Tô Lâm trả lời chất vấn tại Quốc hội ở Hà Nội hôm 10/11/2021. Ông Lâm, cùng chánh án TANDTC Nguyễn Hoà Bình, bị 10 tổ chức quốc tế đề nghị đưa vào danh sách trừng phạt theo luật Magnitsky toàn cầu. VOA Tiếng Việt Chiến dịch do 10 tổ chức vận động nhân quyền quốc tế phát động kêu gọi các chính phủ phương Tây áp dụng Đạo luật Magnitsky Toàn cầu để chế tài hai uỷ viên Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản, trong đó có Bộ trưởng Công an Tô Lâm Các tổ chức, gồm Phóng viên Không Biên giới (RSF), Article 19, Việt Tân và Hội Anh em Dân chủ, thúc giục Liên minh châu Âu, Quốc hội Mỹ, Anh và Canada áp dụng các chế tài chống lại ông Lâm và Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hoà Bình, mà họ cho là đã “vi phạm nhân quyền nghiêm trọng trong nhiều năm qua.” “Trong một thập kỷ qua, các quan chức chính phủ Việt Nam tiếp tục siết chặt tự do ngôn luận và nhắm mục tiêu đến các nhà báo công dân và những nhà hoạt động, làm tăng đáng kể vi phạm nhân quyền,” các tổ chức viết trong một báo cáo được đưa ra cho chiến dịch này. “Các luật, chẳng hạn như đạo luật Magnitsky, cho phép áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các chính phủ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.” Ông Lâm, cùng với ông Bình, bị cáo buộc chịu trách nhiệm cho việc “đàn áp, tấn công bạo lực và bắt giữ hơn 300 tù nhân lương tâm” và “2.000 trường hợp các nhà bất đồng chính kiến bị sách nhiễu” với “ ít nhất 500 vụ đánh đập tù nhân bởi lực lượng công an do họ điều động.” Trong một thỉnh nguyện thư đưa ra cho chiến dịch này, các tổ chức còn cho rằng hai uỷ viên Bộ chính trị cũng chịu trách nhiệm đối với “những vụ tra tấn tù nhân, sách nhiễu người thân, triệt hạ kinh tế và can thiệp đưa đến những phiên toà bất công.” Một hồ sơ chứng cứ hành vi “vi phạm nhân quyền” của Bộ trưởng Lâm và Chánh án Bình cùng một báo cáo về tình trạng Tù nhân Lương tâm Việt Nam 2021, do 10 tổ chức phối hợp thực hiện, đã được trao cho các giới chức Liên minh châu Âu hôm 27/10. Trong phần cáo buộc đối với ông Lâm, người giữ chức Bộ trưởng Công an từ năm 2010, các tổ chức cho rằng với tư cách là người đứng đầu của cái gọi là “cơ quan siêu bộ” ở Việt Nam, vị bộ trưởng này “có thể can thiệp vào mọi tổ chức hành chính của Đảng Cộng sản Việt Nam” cũng như “có thể can thiệp vào các cuộc điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra, các lệnh truy tố của Viện kiểm sát, và thậm chí cả thủ tục của Toà án.” Bộ Công an của ông Lâm cũng là nơi quản lý và thực thi các chính sách tại các nhà tù và trại giam trên toàn Việt Nam. Đã có những trường hợp bị đánh đập hoặc tra tấn trong các trại giam được ghi nhận, gồm các nhà hoạt động như Nguyễn Chí Tuyến, Lã Việt Dũng và Nguyễn Văn Đài, hay các trường hợp chết trong tù như Đinh Đăng Định và Huỳnh Anh Trí. Các trường hợp này được nêu trong báo cáo của 10 tổ chức và cũng đã được các tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng trước đây. Theo một báo cáo của chính phủ Đức được các tổ chức trích dẫn, bộ Công an của ông Lâm còn chịu trách nhiệm trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh hồi năm 2017, dẫn tới cuộc khủng hoảng ngoại giao tồi tệ nhất trong lịch sử giữa Đức và Việt Nam khi Berlin xem đó là một sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế tại Đức. Từ các phân tích về vị trí, vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu Bộ Công an, các tổ chức kết luận rằng ông Lâm “phải chịu trách nhiệm về tất cả những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam trong ít nhất 10 năm (2010-2020)… theo Đạo luật Magnitsky.” Tương tự, các tổ chức này cũng cáo buộc ông Bình, trong 10 năm giữ chức vụ cao nhất của Viện Kiểm sát và Toà án Tối cao, đã “phớt lờ những khiếu nạn của người dân đối với sự sách nhiễu và bất công của cảnh sát trong các phiên toà” và dưới sự chỉ đạo của ông, “các bản cáo trạng cũng như các bản án dành cho các nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền được viết ra theo những hồ sơ điều tra của công an.” Theo thống kê của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam và Dự án 88, có ít nhất 352 người bị kết án trong vòng 10 năm qua chỉ vì thực thi các quyền tự do cơ bản của con người được ghi trong Hiến pháp Việt Nam. Các tổ chức này cho rằng ông Bình đã “biến toà án thành một công cụ quyền lực hơn cho việc duy trì các sắp đặt chính trị và các chính sách nhằm duy trì sự thống trị của Đảng Cộng sản chống lại những người dám lên tiếng phản đối.” Do đó, theo 10 tổ chức này, ông Bình cần phải chịu trách nhiệm và cũng bị đề nghị áp luật Magnitsky. Các cuộc gọi của VOA tới Bộ Công an và Toà án Nhân dân Tối cao để xin bình luận trước những cáo buộc mà 10 tổ chức đưa ra không được hồi đáp. Bộ Ngoại giao ở Hà Nội luôn phản bác các chỉ trích về hồ sơ nhân quyền yếu kém của Việt Nam từ các tổ chức và chính phủ quốc tế. Người phát ngôn của bộ này thường khẳng định rằng các quyền cơ bản của người dân trong nước được đảm bảo và rằng chỉ có những người vi phạm luật pháp mới bị bắt giữ hay bỏ tù ở Việt Nam. “Với tư cách là bộ trưởng Công an và Chánh án, ông Tô Lâm và ông Nguyễn Hoà Bình đã không bị trừng phạt vì các hành vi tấn công vào xã hội dân sự không thể chấp nhận được này quá lâu rồi,” ông Matthew Bugher, người đứng đầu Chương trình châu Á của Article 19, có trụ sở ở London của Anh, nhận định với VOA. Theo ông Bugher, sự đàn áp của các quan chức Việt Nam đối với những tiếng nói độc lập không có dấu hiệu suy giảm tại quốc gia Đông Nam Á. Còn theo ông Daniel Bastard của RSF, có trụ sở ở Paris của Pháp, các quyết định cũng như những hành động trong quá khứ của ông Lâm và ông Bình “trực tiếp dẫn tới việc bắt giữ và kết án hàng chục nhà báo và những blogger vì nói lên sự thật.” “Vì vậy (ông Lâm và ông Bình) nên được coi là những kẻ săn mồi hung dữ của tự do báo chí,” ông Bastard nói với VOA qua email. “Hai quan chức này nên bị trừng phạt thích đáng vì hành vi vi phạm nhân quyền của họ, để hành vi sai trái của họ không lặp lại.” Có thể trừng phạt được Tô Lâm? Đạo luật Magnitsky, ban đầu là nhắm trừng phạt các quan chức của Nga có liên quan tới cái chết của luật sư thuế người Nga Sergei Magnitsky tại một nhà tù ở Moscow vào năm 2009, được quốc hội Mỹ thông qua vào tháng 12/2012. Đạo luật “Chịu trách nhiệm về Nhân quyền Toàn cầu Magnitsky”, hay Magnitsky Act, sau đó được áp dụng trên toàn cầu từ năm 2016, trong đó quy định chế tài với các cá nhân mà Hoa Kỳ cho là vi phạm nhân quyền trên toàn thế giới. Theo đó chính phủ Mỹ được phép trừng phạt những người được xem là vi phạm nhân quyền hay tham nhũng, phong toả tài sản của họ tại Mỹ và cấm họ bước chân vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Theo sau Mỹ, Canada và Anh vào năm 2018 cũng đã thông qua đạo luật này. Liên minh châu Âu – sau nhiều vận động bền bỉ của các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền, công lý và chống tham nhũng – cũng đã bắt đầu áp dụng Đạo luật Magnitsky Toàn cầu vào tháng 12 năm ngoái. Trong khi đó, giới đấu tranh vì nhân quyền trong nhiều năm qua cũng đang vận động để đạo luật Magnitsky được ban hành và áp dụng tại Úc. Ông Trần Sơn, người đại diện Đảng Việt Tân đến trụ sở của Cơ quan Ngoại giao của EU (EEAS) tại Bruxelles ở Bỉ để nộp hồ sơ và báo cáo đề xuất Liên minh châu Âu trừng phạt ông Lâm và ông Bình theo luật Magnitsky Toàn cầu, cho VOA biết rằng trong những tháng tới các tổ chức này sẽ tiến hành các bước tương tự tại Mỹ, Canada và Úc, khi luật Magnitsky được thông qua tại đây. “Chúng tôi biết rằng trừng phạt một người đang giữ chức vụ khá cao trong bộ máy (chính quyền Việt Nam) không phải là dễ nhưng các tổ chức đồng ký tên, 10 tổ chức, đã đồng ý với nhau là mình phải lên tiếng vì trách nhiệm của (ông) Tô Lâm rất là cao trong sự đàn áp,” ông Sơn nói. “Không biết tiến trình sẽ đi tới đâu và không biết là các quốc gia có sẵn sàng trừng phạt một người như vậy hay không nhưng chúng tôi có bổn phận phải lên tiếng. Có được kết quả ngay bây giờ hay là sau đó hay vài năm nữa không thành vấn đề lắm mà cái quan trọng là phải vạch trần trách nhiệm của ông (Lâm) bằng giấy trắng mực đen, ghi vào trong sổ của các nước Tây phương khi họ đối thoại với Việt Nam.” Một đại diện của EEAS cho biết rằng cơ quan này không bình luận về tiến trình nội bộ hay tình trạng của bất kỳ quy trình thể chế nào, khi trả lời yêu cầu bình luận của VOA về việc liệu EU có áp dụng chế tài theo luật Magnitsky đối với ông Lâm và ông Bình hay không. Đại diện này cho biết qua email rằng “Đại diện cấp cao và/hoặc các Quốc gia thành viên (của EU) sẽ đề xuất danh sách theo các biện pháp hạn chế của EU để Hội đồng (Liên minh châu Âu) quyết định theo các điều khoản hiệp ước hiện hành.” “Tôi nghĩ rằng các nhà chức trách của Liên minh châu Âu, Canada, Anh và Mỹ có một cơ hội tuyệt vời để cho thấy rằng họ vẫn được thúc đẩy bởi các nguyên tắc phổ quát như nhân quyền và tự do báo chí,” ông Bastard nói. “Họ nên nắm bắt cơ hội này để áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với hai cá nhân đã chà đạp lên các giá trị phổ quát đó. Nếu không làm như vậy thì sẽ là một dấu hiệu xấu cho cuộc chiến toàn cầu vì dân chủ.” Đây không phải là lần đầu tiên các quan chức của Việt Nam bị đề nghị trừng phạt theo đạo luật Magnitsky. Vào tháng 12 năm ngoái, một nhóm các dân biểu Quốc hội Mỹ đã thúc giục Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính Hoa Kỳ áp dụng luật Magnitsky toàn cầu để chế tài các thành viên của lực lượng công an Hà Tĩnh tham gia “tra tấn” nhà báo công dân và nhà hoạt động môi trường Nguyễn Văn Hoá, hiện đang thụ án 7 năm tù ở Việt Nam với tội danh “tuyên truyền chống phá nhà nước.” Thượng nghị sỹ Hoa Kỳ John Cornyn hồi tháng 8 vừa qua cũng đã kêu gọi Ngoại trưởng Anthony Blinken có các biện pháp mạnh mẽ về nhân quyền trong khi thương thảo hợp tác với Việt Nam. Thượng nghị sỹ này còn kêu gọi áp dụng biện pháp chế tài theo luật Magnitsky toàn cầu đối với các cá nhân vi phạm nhân quyền trầm trọng ở Việt Nam./.   ĐƯỜNG LINK KÝ THỈNH NGUYỆN THƯ chế tài ông Tô Lâm và ông Nguyễn Hoà Bình, đã “vi phạm nhân quyền nghiêm trọng trong nhiều năm qua.”  
......

Nghị sĩ châu Âu lên tiếng về vụ công nhân Việt Nam kêu cứu ở Serbia

Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel, nhà lập pháp người Đức thuộc nhóm Greens/EFA của Nghị viện châu Âu, trả lời phỏng vấn với VOA vào ngày 23/11/2021. Khoảng 500 công nhân Việt Nam làm việc cho một dự án xây dựng của công ty Trung Quốc ở Serbia bị bóc lột, thậm chí bị đối xử gần như nô lệ. Sau nhiều tuần im lặng trước những cáo buộc của nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền Serbia, ngày 19/11/2021, tổng thống Serbia cho biết một thanh tra lao động đã được cử đến tìm hiểu tình hình.   Khánh An-VOA Sau khi truyền thông quốc tế đưa tin về tình cảnh khốn khổ của nhóm công nhân Việt Nam làm việc cho công ty Trung Quốc ở Serbia, một nhóm nghị sĩ châu Âu đã khiến cho nhà chức trách ở Belgrade nổi giận khi lên tiếng kêu gọi Serbia chấm dứt “chế độ nô lệ hiện đại”. “Những công nhân này đang sống trong những điều kiện vô nhân đạo”, nhóm 7 nghị sĩ châu Âu, bao gồm Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel (Greens/EFA, Đức), Gwendolyne Delbos-Corfield (Greens/EFA, Pháp), Tineke Strik (Greens/EFA, Hà Lan), Toniono Picula (S&D, Croatia), Klemen Groselj (Renew, Slovenia), Irena Ioveva (Renew, Slovenia) và Thomas Waitz (Greens/EFA, Áo), nói trong thông cáo ngày 19/11. “Hoàn toàn không thể chấp nhận được một quốc gia mong muốn là thành viên của EU lại dung túng cho việc xây dựng và duy trì một nhà máy được cho là thuê mướn nhân công từ nạn buôn người và bóc lột trên lãnh thổ của mình”, các nghị sĩ châu Âu nói thêm. Theo các nghị sĩ châu Âu, “Việc chính phủ Serbia im lặng về vấn đề lao động cưỡng bức này có nghĩa là họ đang đồng lõa với chế độ nô lệ hiện đại”. Các nghị sĩ kêu gọi chính phủ Serbia, Bộ Lao động và Thanh tra Lao động, Bộ Nội vụ và Văn phòng Điều phối các hoạt động Chống buôn người và Văn phòng Công tố viên phải “hành động ngay lập tức trước những hành vi lạm dụng trắng trợn về nhân quyền và nhân phẩm của người lao động”. Để tìm hiểu thêm về quan điểm của nhóm nghị sĩ về sự việc liên quan đến nhóm công nhân Việt Nam, VOA phỏng vấn Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel, nhà lập pháp người Đức thuộc nhóm Greens/EFA của Nghị viện châu Âu. VOA: Xin chào bà Viola von Cramon-Taubadel. Được biết bà đã kêu gọi Serbia phải hành động lập tức để chấm dứt chế độ nô lệ hiện đại tại đây. Bà có thể cho VOA biết quá trình này như thế nào không? Và bà có nhận được phản hồi nào từ các bên liên quan không? Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel: Các quốc gia trên toàn cầu đã ký kết các hiệp ước ràng buộc khác nhau, các công ước đa phương như Bộ luật Tổ chức Lao động Quốc tế, Công ước về Nghị định thư Palermo, Hiến chương Châu Âu về các quyền cơ bản, và tất nhiên, Công ước của Hội đồng Châu Âu về Chống buôn người. Tất cả các công ước đều có quy định tương tự rằng các quốc gia đã ký kết các công ước đó đều có nghĩa vụ ràng buộc là phải chống lại nạn buôn người, hay tình trạng xói mòn quyền lao động. Trong trường hợp này, những gì chúng ta thấy ở Serbia là một vụ việc nghiêm trọng mà công nhân Việt Nam đã hoàn toàn bị tước đoạt quyền của họ. Hộ chiếu của họ bị lấy mất, tiền công không được trả. Rõ ràng là trong một thời gian dài, các quyền xã hội của họ không được đảm bảo, và điều đó phụ thuộc vào tất cả chúng ta, các tổ chức phi chính phủ ở các quốc gia cụ thể, và cả chúng tôi ở Liên minh Châu Âu, phải đưa vấn đề này ra và chất vấn các nhà chức trách rằng điều gì đang xảy ra ở quốc gia của anh vậy? Và anh dự định làm gì với nó? Với chúng tôi, đây rõ ràng là một trường hợp mà họ cần phải thanh tra lao động để lo cho những người lao động đến từ Việt Nam được thuê mướn bởi các công ty Trung Quốc. Trong trường hợp có buôn người, anh cần phải có công tố viên để theo dõi chặt chẽ xem ai là người chịu trách nhiệm về chuyện này. Và đó là những gì chúng tôi kêu gọi, chúng tôi yêu cầu và đã thu hút được rất nhiều sự chú ý. VOA: Sau vụ 39 người nhập cư Việt Nam được phát hiện chết trong xe tải ở Anh trước đây, chúng ta thỉnh thoảng vẫn nghe tin về những người lao động nhập cư Việt Nam bị rơi vào các đường dây buôn người qua môi giới lao động, bất chấp tình hình đại dịch đang diễn ra. Bà có nghĩ rằng chính phủ Việt Nam đã làm đủ để ngăn chặn tình trạng này? Bà có đề xuất gì không? Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel: Tôi hy vọng rằng thảm kịch mà chúng ta đã chứng kiến ở Anh quốc sẽ không xảy ra nữa. Chúng tôi kêu gọi các cơ quan chức năng và chính phủ Việt Nam hãy bảo vệ công dân của mình khỏi những thảm kịch này, và tất nhiên, phải bảo đảm rằng mọi công nhân được thông báo đầy đủ về những gì họ đang làm và họ được thuê mướn làm việc gì, những quy định, nguyên tắc trong hợp đồng… Tất cả những điều này đương nhiên là thuộc trách nhiệm của các cơ quan chức năng Việt Nam. Tôi không rõ là họ đã làm đủ hay chưa, nhưng rõ ràng những trường hợp trên cho thấy có một nguy cơ lớn là công nhân thậm chí có thể mất mạng khi họ đi làm việc ở nước ngoài. Lời kêu gọi của nhóm nghị sĩ châu Âu được đăng trên trang web của Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel. VOA: Giữa bối cảnh Việt Nam đang ngày càng tham gia nhiều hơn vào thị trường châu Âu thông qua các hiệp định thương mại tự do, theo bà, những sự việc như thế này có ảnh hưởng gì đến mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU hay không? Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel: Như bạn biết đấy, chúng tôi đã ký hiệp định thương mại tự do với Việt Nam, và thông thường đây là cơ hội tuyệt vời để thực thi các quyền xã hội đã được quy định trong các hiệp định thương mại đó. Tôi không chú ý nhiều đến vấn đề này nhưng tôi mong đợi từ phía Ủy ban Châu Âu và từ tất cả các tổ chức châu Âu có liên quan đến việc thực hiện này, rằng họ sẽ gây áp lực nhiều hơn nữa đối với các cơ quan chức năng của Việt Nam để thực hiện xong chuyện này và hoàn thành kịp thời. Từ vụ việc ở Vương quốc Anh cũng như ở Serbia, chắc chắn cho thấy vẫn còn một phạm vi tiềm năng lớn cho việc cải thiện. Và có một nhu cầu rất lớn là các cơ quan của Việt Nam cần phải làm công việc của họ để bảo vệ công dân của mình, bảo vệ người lao động của mình, đảm bảo rằng các công ty môi giới của Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế cũng như các Công ước khác. Những gì chúng ta thấy rõ ràng ở đây là không phù hợp với Hiệp định thương mại tự do được phê chuẩn giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam. VOA: EU vốn không dung thứ cho bất kỳ hành vi lạm dụng nào về quyền của người lao động. Vậy bà và nhóm GREEN/EFA của Nghị viện châu Âu dự định sẽ làm gì tiếp theo nếu như chính phủ Serbia phớt lờ lời kêu gọi của bà? Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel: Đây không phải là vấn đề của các bên, không phải là chuyện The Greens sẽ nói gì, mà là vấn đề thuộc về một câu hỏi cơ bản, về quyền cơ bản. Và vì vậy, hy vọng Liên minh châu Âu sẽ có tiếng nói về vấn đề này. Nhưng theo tôi hiểu, chính phủ Serbia cũng sẽ giải quyết việc này. Tôi hy vọng họ bảo đảm rằng mọi thứ sẽ được công bố như họ gửi bằng chứng về việc thanh tra lao động đã đến nơi đó như thế nào, họ phối hợp với công ty Trung Quốc (công ty thuê mướn nhân công Việt Nam) như thế nào, cử công tố đến đây ra sao... Những vấn đề này không phụ thuộc vào việc The Greens hay thành viên The Greens của Nghị viện châu Âu gây áp lực. Mà tôi hy vọng vì lợi ích của chính mình, nhà chức trách sẽ quan tâm đến những trường hợp bi thảm trên và điều kiện làm việc không thể chấp nhận được tại đất nước của họ. VOA: Bà có nhận định gì về các công ty Trung Quốc đang làm ăn ở châu Âu và các nước khác không? Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel: Tôi cho rằng có một xu hướng lớn là gây suy yếu các điều kiện xã hội, vốn là cơ sở cho thị trường nội địa và còn ảnh hưởng đến các thành viên liên kết mở rộng. Tôi nghĩ chúng ta nên hết sức thận trọng khi hợp tác với các công ty Trung Quốc khi thấy có nguy cơ bóc lột lao động, các quyền xã hội bị suy giảm, không có tổ chức công đoàn, trong hợp đồng công nhân bị tước các quyền cơ bản và có những vi phạm khác... Rõ ràng, đối với các công ty Trung Quốc, càng đơn giản càng tốt. Nhưng đối với chúng tôi và Liên minh châu Âu, đây là điều kiện để hợp tác và đây cũng phải là điều kiện trong việc hợp tác đối với các quốc gia liên kết như Serbia. VOA: Cám ơn Nghị sĩ Viola von Cramon-Taubadel đã dành thời gian cho VOA. Theo các báo cáo và thông tin từ truyền thông quốc tế, các công nhân Việt Nam đã được đưa sang Serbia qua công ty môi giới với giá từ 2.200 đến 4.000 đô la. Sau đó, họ được Tập đoàn Kỹ thuật Năng lượng Trung Quốc Tianjin Electric Power Construction thuê, với hợp đồng không có ngày bắt đầu và thanh toán bằng tiền mặt. Họ phải làm việc theo ca 9 tiếng/ngày, 26 ngày/tháng và tất cả chi phí trang bị bảo hộ cá nhân đều bị trừ vào tiền lương. Nếu làm không đủ ngày, họ sẽ bị mất toàn bộ tiền lương tháng. Nếu đi làm muộn, họ có nguy cơ bị mất tiền lương cả ngày. Điều kiện sống của nhóm khoảng 500 công nhân Việt Nam này cũng vô cùng tồi tệ. Họ sống trong các lán trại đông đúc, không có hệ thống sưởi ấm hoặc thoát nước thải phù hợp, không đủ điện và thực phẩm. Họ đã đình công hai lần để phản đối tình trạng thiếu lương thực và không được trả lương kể từ tháng Năm. Những chỉ trích của nhóm nghị sĩ châu Âu trên ngay lập tức khiến nhà chức trách Serbia nổi giận. Ngoại trưởng Serbia, Nikola Selakovic, đã phản ứng dữ dội, nói rằng những cáo buộc về “chế độ nô lệ hiện đại” và “sử dụng nạn buôn người cho việc bóc lột sức lao động” là “một nỗ lực khác nhằm quỷ dữ hóa Serbia”. Ông Nikola Selakovic nói trên trang Twitter rằng các giới chức nước này đã “phản ứng khẩn cấp” sau khi truyền thông đưa tin về các công nhân Việt Nam và “hóa ra sự thật chẳng liên quan gì mấy đến những hình ảnh được tạo ra trong cuộc tấn công tuyên truyền chính trị có trật tự và phối hợp nhằm vào Serbia”. Ngoại trưởng Serbia sau đó nhắm vào Nghị sĩ von Cramon-Taubadel, người đã đăng thông cáo trên trang web của mình, bằng cách cáo buộc bà đang tiến hành “một chương trình nghị sự hung hăng chống lại Serbia và chống lại Trung Quốc, không liên quan đến vấn đề nhân quyền”. Trong khi đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm 18/11 trả lời báo chí rằng Đại sứ quán Việt Nam tại Romania kiêm nhiệm Serbia đang xác minh thông tin, liên hệ với các công ty tại Serbia và các công ty phái cử lao động cùng cơ quan liên quan sở tại. Bà Hằng nói thêm rằng “Thông tin ban đầu cho hay, không có chuyện hành hung hay đánh đập”. https://www.voatiengviet.com/a/ngh%E1%BB%8B-s%C4%A9-ch%C3%A2u-%C3%A2u-l%C3%AAn-ti%E1%BA%BFng-v%E1%BB%81-v%E1%BB%A5-c%C3%B4ng-nh%C3%A2n-vi%E1%BB%87t-nam-k%C3%AAu-c%E1%BB%A9u-%E1%BB%9F-serbia/6325648.html  
......

Vụ Bành Súy : Trung Quốc vụng về dàn cảnh để giữ hình ảnh trước Olympic mùa đông 2022

Cây vợt nữ Trung Quốc Bành Súy tại lễ khai mạc Giải Chung kết Fila Kids Junior Tennis Challenger, Bắc Kinh, Trung Quốc, ngày 21/11/2021. © QINGQINGPARIS via REUTERS Thu Hằng  - RFI  Sau gần 3 tuần « bặt vô âm tín » đến mức cộng đồng quốc tế phải hỏi « Bành Súy ở đâu? » với hashtag #WhereIsPengShuai, tay vợt nữ nổi tiếng Trung Quốc liên tục « được xuất hiện ». Tuy nhiên, rất dễ nhận ra rằng mọi hình ảnh, sự kiện trong bốn ngày gần đây liên quan đến nhà vô địch đánh đôi Wimbledon 2013 đều được dàn dựng một cách vụng về, có lẽ do Bắc Kinh không dự đoán được phản ứng gay gắt của cộng đồng quốc tế.  Bành Súy « gặp may », theo nhận định của báo Le Monde ngày 22/11. Thực vậy, nếu không có Thế Vận Hội mùa đông Bắc Kinh 2022, diễn ra trong chưa đầy ba tháng nữa, cây vợt nữ 35 tuổi có lẽ đã « biệt tăm » như trường hợp nữ diễn viên nổi tiếng Triệu Vy liên quan đến một vụ khác, hoặc phải « nhận lỗi » vì đã « vu khống » như nhiều phụ nữ tố cáo bị quấy rối tình dục trong phong trào #MeToo xuất hiện ở Trung Quốc từ năm 2018.   « Vu khống » vì Bành Súy đã tiết lộ chi tiết « thâm cung bí sử » về mối quan hệ với cựu phó thủ tướng Trương Cao Lệ (Zhang Gaoli). Trong bức thư ngỏ dài được báo Libération dịch từ ảnh chụp màn hình tài khoản Weibo trước khi bị gỡ xuống và xóa dấu vết, Bành Súy thấy « cần phải nói sự thật » về mối quan hệ của cô với ông Trương Cao Lệ, người đã được vợ tiếp tay, ép cô quan hệ tình dục với ông, biến cô thành người tình, sau đó bỏ rơi cô khi ông được thăng chức, đến thời gian gần đây nối lại quan hệ và rồi lại bỏ rơi cô. Lời lẽ trong thư ngỏ của cô chứa đầy cay đắng và cho thấy phần nào thất vọng và bất lực của cây vợt nữ.   « Nhờ » truyền thông Nhà nước đưa Bành Súy trở lại  Bành Súy là người đầu tiên động đến thượng tầng quyền lực ở Trung Quốc, vì ông Trương Cao Lệ là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ 7 trong những năm 2013-2018. Và lẽ ra cô có thể bặt vô âm tín mãi mãi nếu không được công luận quốc tế và nhiều tổ chức thể thao, bảo vệ nhân quyền gây áp lực. Bắc Kinh buộc phải hành động, nhưng để cơ quan truyền thông Nhà nước dàn xếp sự trở lại của Bành Súy, mà đối tượng nhắm đến là công luận quốc tế.   Chỉ trong ba ngày, Bành Súy như hồi sinh, với hàng loạt hình ảnh, hoạt động dồn dập, nhưng tất cả đều do truyền thông Nhà nước đăng tải. Ngày 19/11, Bành Súy chúc « Cuối tuần vui vẻ » với ba hình ảnh tươi cười chụp với thú cưng, nhưng lại được tài khoản Shen Shiwei, bị gán nhãn « cơ quan truyền thông trực thuộc Nhà nước Trung Quốc » đăng trên Twitter, trong khi mạng xã hội của Mỹ này bị cấm ở Trung Quốc. Cùng ngày, tổng biên tập Global Times (Hoàn Cầu Thời Báo) Hồ Tích Tiến đăng hai đoạn video, trong đó một đoạn dài hơn 4 phút ghi lại cảnh Bành Súy đang « ăn tối với huấn luyện viên và những người bạn » trong một nhà hàng ở Bắc Kinh và cô « say sưa » thảo luận với huấn luyện viên trước ống kính quay chính diện. Tiếp theo, chỉ một ngày sau « tiên đoán » của ông Hồ Tích Tiến rằng Bành Súy « sớm » trở lại, thì cây vợt nữ làm khách mời danh dự của vòng chung kết giải quần vợt nhi đồng FILA Kids Junior Tennis Challenger. Hình ảnh hoạt động của cô tại giải này được đăng ngày 21/11 trên tài khoản Weibo của đơn vị tổ chức China Open.   Mượn CIO giập vụ việc  Có thể nói sự trở lại của Bành Súy được cân nhắc từng chi tiết, bị kiểm soát và kiểm duyệt. Và để có độ tin cậy cao hơn, Trung Quốc tổ chức cho Bành Súy một buổi nói chuyện trực tuyến với ông Thomas Bach, chủ tịch Ủy Ban Olympic Quốc tế (CIO). Cô trấn an là được an toàn và không muốn đời tư bị quấy rầy. Nhưng tại sao lại cho nói chuyện với CIO, mà không phải là với Hiệp Hội Quần Vợt Nữ (WTA) hay rộng hơn là Hiệp Hội Quần Vợt Nhà Nghề  (ATP) ?   Liệu CIO thật sự tôn trọng đời tư của tay vợt nữ và chỉ hài lòng với việc cô được an toàn mà không hỏi liệu Bành Súy có được tự do không ? Liệu CIO cố tình không hỏi đến vụ cáo buộc tấn công tình dục theo yêu cầu của Bắc Kinh ? Truyền thông phương Tây đều cáo buộc CIO đang tiếp tay cho Bắc Kinh giập vụ tai tiếng. Còn theo tổ chức Quan Sát Nhân Quyền (Human Rights Watch), CIO đang tiếp sức cho « tuyên truyền của Nhà nước Trung Quốc ».   Trung Quốc đang chuẩn bị cho Thế Vận Hội mùa đông 2022 trong khi hình ảnh của nước chủ nhà không ngừng xấu đi trong thời gian gần đây, do những cáo buộc vi phạm nhân quyền, dân chủ, trấn áp đối lập. Và vụ Bành Súy xảy ra không đúng thời điểm cho Bắc Kinh, vì trước đó đã có nhiều lời kêu gọi tẩy chay ngoại giao sự kiện thể thao toàn cầu này, từ Mỹ đến Anh và Pháp.  Hiệp Hội Quần Vợt Nữ vẫn tỏ ra tỉnh táo khi tái khẳng định: « Những đoạn video đó không làm thay đổi những yêu cầu của chúng tôi tổ chức một cuộc điều tra đầy đủ, minh bạch và không kiểm duyệt về những cáo buộc xâm hại tình dục, vấn đề làm phát sinh mối quan tâm của chúng tôi ». WTA đã sẵn sàng từ bỏ lợi nhuận ở Trung Quốc khi hủy các giải thi đấu ở quốc gia đông dân nhất thế giới này. Và có lẽ chỉ có lời kêu gọi mạnh mẽ của WTA, cũng như của những tổ chức bảo vệ nhân quyền khác, mới giúp vụ Bành Súy không bị nhấn chìm như phong trào #MeToo ở Trung Quốc.  Xem thêm; - Ủy Ban Olympic Quốc Tế ban “phước lành” cho TQ để nhận chìm vụ Bành Súy? https://www.rfi.fr/vi/%C4%91i%E1%BB%83m-b%C3%A1o/20211123-%E1%BB%A7y-ban-olympic-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF-ban-ph%C6%B0%E1%BB%9Bc-l%C3%A0nh-cho-tq-%C4%91%E1%BB%83-nh%E1%BA%ADn-ch%C3%ACm-v%E1%BB%A5-b%C3%A0nh-s%C3%BAy  
......

Công nhân Việt bị bóc lột và đối xử tàn tệ ngay tại Âu Châu

Ngọc Thu|   Hôm 18 Tháng Mười Một 2021, bài phóng sự của BBC phản ảnh „thảm trạng“ tồi tệ của hàng trăm lao động Việt Nam tại Serbia khiến dư luận phẫn nộ và EU buộc phải lên tiếng.   Viola von Cramon, nghị sĩ Đức trong Nghị viện Châu Âu, đã phản ứng với tình hình ở Zrenjanin – Serbia như sau:   "Nếu đó là lao động cưỡng bức, chế độ nô lệ ở Tây Balkan, thì đó là điều bi thảm và chúng ta phải cố gắng ngăn chặn nó."   Vì sao có tình trạng nô lệ lao động xảy ra trong các nước thuộc cộng đồng Liên Âu?   Khoảng 400 công nhân Việt Nam đã được đưa đến Serbia vào mùa xuân để tham gia dự án xây dựng nhà máy mới sản xuất lốp ô tô của công ty Linglong thuộc Trung Quốc. Tại đây họ bị tịch thu hộ chiếu và điều kiện sống rất tồi tệ. Chỗ ở lạnh lẽo, không khí ngột ngạt, giường không có đệm.   Những công nhân Việt Nam phản ánh với phóng viên rằng: "Mọi thứ đều khác với trong hợp đồng chúng tôi đã ký ở Việt Nam - cuộc sống rất tồi tệ, đồ ăn thức uống, thuốc, mọi thứ đều rất tồi tệ."   Hành vi tịch thu hộ chiếu của người lao động ngay khi đến Serbia và ngăn cản không cho nhà báo và các nhà hoạt động chống nạn buôn người tiếp cận với công nhân đã cho thấy đây có khả năng là một vụ buôn người vì mục đích bóc lột sức lao động.   Hôm thứ Tư, 17 Tháng Mười Một vừa qua một sự cố xảy ra khiến dư luận càng quan tâm hơn nữa đến vụ này. Các nhà hoạt động chống nạn buôn người đã cố gắng đưa một trong số những công nhân tố giác ra khỏi nhà máy, nhưng bị các nhân viên an ninh ở đây ngăn chặn, vì vậy đã xảy ra sự va chạm giữa công nhân và các nhân viên.   Trước phản ứng gay gắt của dư luận công ty Linglong phủ nhận mọi cáo buộc và nói rằng công nhân Việt Nam không phải do họ tuyển dụng mà là của nhà thầu.   Thủ tướng Serbia, Ana Brnabić, tuyên bố rằng công tác thanh tra lao động đang được tiến hành và đã ra lệnh chuyển công nhân ra khỏi chỗ này để họ có điều kiện tốt hơn.   Và cuối cùng là phản ứng của EU với sự lên tiếng của nghị sĩ Viola von Cramon rằng bà hy vọng, Chính phủ (Serbia) sẽ xem xét điều này một cách nghiêm túc.   Phản ứng của dư luận, truyền thông và EU hy vọng có thể ngăn chặn hay làm giảm bớt tình trạng buôn người nhằm mục đích bóc lột sức lao động, trong trường hợp này đối với công nhân người Việt.   Như thường lệ, nhà nước CSVN hoàn toàn im lặng về sự kiện loại này dù họ phải có trách nhiệm khi đồng ý đưa công nhân Việt ra nước ngoài làm việc.   Ngọc Thu  
......

Đức trả giá với làn sóng bài vaccine

Từng là tấm gương chống dịch, Đức giờ đây phải đối diện sóng Covid-19 thứ tư với số ca nhiễm mới cao kỷ lục, khi hàng triệu người bài xích vaccine. Bệnh viện Đại học Giessen, một trong những cơ sở khám và điều trị bệnh phổi hàng đầu Đức, đang phải hoạt động hết công suất, khi số bệnh nhân Covid-19 gần đây tăng gấp ba. Gần một nửa trong số họ cần sử dụng máy thở và gần như tất cả đều chưa tiêm vaccine. "Tôi hỏi họ tại sao không tiêm phòng?", bác sĩ Susanne Herold, lãnh đạo khoa truyền nhiễm, cho biết sau cuộc họp giao ban ngày 11/11. "Đó là những người không tin vaccine, không tin chính quyền và thường khó bị thuyết phục bằng các chiến dịch vận động". Các người bài xích vaccine mà bác sĩ Herold chỉ trích được coi là nguyên nhân chính dẫn đến sóng Covid-19 thứ tư của Đức với hàng nghìn ca nhiễm mới mỗi ngày, mức cao nhất kể từ khi dịch bùng phát đến nay. Đối với Đức, đây là bước lao dốc không ai ngờ tới. Khi Covid-19 mới xuất hiện, Đức là tấm gương cho châu Âu và cả thế giới về khả năng ứng phó đại dịch, khi luôn giữ được số ca tử vong ở mức thấp. Nhưng hiện tại, sự kết hợp của nhiều yếu tố đã thúc đẩy ca nhiễm gia tăng đột biến, như nhiệt độ thấp của mùa đông, chính quyền chậm triển khai vaccine tăng cường hay tình trạng tăng ca nhiễm rõ rệt ở các quốc gia Đông Âu lân cận, điển hình là Cộng hòa Czech. Mặt khác, Đức còn đang ở trong giai đoạn chuyển giao quyền lực giữa chính quyền cũ và chính quyền mới, điều chắc chắn không giúp ích cho nỗ lực chống dịch. Tuy nhiên, các nhà virus học và chuyên gia về dịch bệnh nói rằng chính những người chưa tiêm chủng mới là nguyên nhân lớn nhất tạo nên sóng lây nhiễm thứ tư đang đè nặng lên hệ thống bệnh viện khắp đất nước. "Đó là vì tỷ lệ tiêm chủng thấp. Chúng ta chưa thực sự làm những gì cần thiết", bác sĩ Herold cho hay. Bà là thành viên trong nhóm các nhà khoa học đã lập mô hình tác động của sóng Covid-19 thứ tư và cảnh báo hồi đầu mùa hè rằng với biến chủng Delta siêu lây nhiễm, ít nhất 85% dân số Đức cần được tiêm chủng để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng có thể nghiền nát hệ thống y tế. "Tỷ lệ tiêm chủng của Đức vẫn dưới 70%" (*), bà nói. "Tôi không biết bằng cách nào chúng ta có thể chiến thắng cuộc đua với đợt bùng phát thứ tư này. Tôi sợ rằng chúng ta đã thua rồi". Độ phủ vaccine của Đức vẫn cao hơn đáng kể so với nhiều nước Trung và Đông Âu, nơi số người chết do Covid-19 đang tăng vọt. Ở Rumanien (Romania), chỉ có khoảng 40% được tiêm đủ hai mũi và số ca tử vong do Covid-19 liên tục tăng lên những mức kỷ lục mới. Tuy nhiên, với khoảng 1/3 dân số, tương đương hơn 27 triệu người, chưa được tiêm vaccine đủ phác đồ, tỷ lệ tiêm chủng của Đức thuộc hàng thấp nhất ở Tây Âu. Tại Bỉ, Đan Mạch và Italy, cứ 4 người thì có ba người đã tiêm vaccine đầy đủ. Ở Tây Ban Nha và Iceland, chỉ khoảng 1/5 số dân chưa tiêm mũi thứ hai. Bồ Đào Nha có tỷ lệ tiêm chủng đạt gần 90%. "Những gì chúng ta đang trải qua trên hết là một đại dịch của những người chưa tiêm chủng", Bộ trưởng Y tế Đức Jens Spahn đầu tháng trước nói. Số ca nhiễm đang tăng mạnh ở một số khu vực thuộc Bayern (Bavaria) và Baden-Württemberg, hai bang miền nam giàu có, nơi diễn ra phong trào biểu tình ồn ào phản đối các biện pháp chống dịch, được gọi là "Querdenker" hay "Người chống đối". "Chúng ta đang đối diện hai loại virus, nCoV và thứ độc dược này (Querdenker), thứ chất độc đang lan rộng", Thống đốc Bayern Markus Söder cho biết trong một cuộc tranh luận trên truyền hình gần đây, đề cập đến những thông tin sai lệch về vaccine. Klaus-Peter Hanke là một trong những người đầu tiên nếm trải sự độc hại của làn sóng bài vaccine. Ông là thị trưởng Pirna, một thị trấn chưa đến 40.000 dân thuộc bang Sachsen-Anhalt (Saxony), phía đông nước Đức. Nơi đây từng chứng kiến các cuộc biểu tình phản đối dữ dội từ những người bài vaccine trong những ngày cuối cùng của đợt phong tỏa hồi mùa xuân năm ngoái. Gần 50% cư dân Pirna từ chối tiêm vaccine, khiến Sachsen-Anhalt trở thành bang có tỷ lệ tiêm chủng thấp nhất Đức và có số ca nhiễm mới tính theo đầu người cao nhất. "Mức độ sẵn sàng tiêm chủng ở đây rất thấp", thị trưởng Hanke nói trong một cuộc phỏng vấn. "Chúng tôi cố gắng giải quyết điều này bằng đối thoại nhưng đã va phải bức tường và không thể tiến thêm được nữa. Hệ quả là tình hình ngày càng xấu đi". "Khu điều trị Covid-19 tại bệnh viện sắp hết giường. Khoảng 90% bệnh nhân ở đó đều chưa tiêm chủng", ông cho hay. Trong khi đó, một số nhà hàng trong thị trấn vẫn trưng biển sẵn sàng tiếp đón "tất cả mọi người", kể cả những khách chưa tiêm chủng. Nhà chức trách hiện duy trì 10 đội kiểm soát, mỗi đội gồm một cảnh sát, một quan chức y tế và một nhân viên từ Cơ quan Trật tự Công cộng, đi rà soát các nhà hàng, quán bar và tiệm làm tóc để phạt những ai không tuân thủ quy định phòng dịch. Khi bị phát hiện vi phạm, chủ cơ sở kinh doanh bị phạt 500 euro (khoảng 572 USD), còn khách hàng phải nộp phạt 150 euro (170 USD). "Biện pháp này khá cứng rắn. Nhưng chúng tôi không còn cách nào khác để khiến mọi người thay đổi hành vi", Hanke nhấn mạnh. Ít nhất, nó cũng mang lại hiệu quả. Thời gian chờ tại các điểm tiêm chủng lưu động đã tăng lên hai tiếng trong tuần qua, cho thấy mối lo bị cô lập khỏi cuộc sống thường nhật dường như đang thúc đẩy nhiều người đi tiêm hơn. Một số bang khác của Đức cũng đang thực hiện những quy định tương tự, đưa ra các quy tắc nghiêm ngặt hơn về khẩu trang và bắt buộc người dân phải xuất trình chứng nhận tiêm chủng hoặc từng nhiễm nCoV khi đến nhiều địa điểm, thay vì chỉ cần giấy xét nghiệm âm tính như trước. Song theo Sandra Ciesek, giám đốc Viện Virus Y học tại Bệnh viện Đại học Frankfurt, những việc làm này có thể chưa đủ trong bối cảnh dịch bệnh hiện nay. Ciesek cùng một số nhà khoa học danh tiếng của Đức tuần trước kêu gọi chính quyền áp dụng thêm các biện pháp mạnh tay khác, như phong tỏa một phần với những khu vực chưa tiêm chủng hay thậm chí phong tỏa ngắn hạn trên toàn quốc nếu cần. Sự thiếu vắng "đầu tàu" lãnh đạo ở cấp quốc gia vào thời điểm mà số ca nhiễm mới hàng ngày tăng vọt vượt 50.000 càng khiến tình hình trở nên nghiêm trọng. Kể từ khi đảng bảo thủ của Thủ tướng Đức Angela Merkel thất bại trong cuộc bầu cử quốc gia hồi tháng 9, bà chỉ là lãnh đạo chính phủ tạm thời, trong khi người tiềm năng kế nhiệm bà là Olaf Scholz đang bị cuốn vào các cuộc đàm phán khó khăn với hai đảng khác để lập liên minh cầm quyền. "Angela Merkel ở đâu?", "Scholz ở đâu?", tờ Der Spiegel đặt câu hỏi trong một bài viết mới đây. Đây cũng là câu hỏi mà nhiều nhà virus học trên khắp đất nước đang đặt ra với mối lo ngại rằng tình trạng thiếu lãnh đạo chính trị đang làm lãng phí thời gian quý báu và cái giá phải trả có thể là mạng sống của người dân. "Không có quyền lực tập trung và trách nhiệm thực sự. Đất nước đang thiếu vắng lãnh đạo", Michael Meyer-Hermann, trưởng khoa Miễn dịch học Hệ thống tại Trung tâm Nghiên cứu Nhiễm trùng Helmholtz kiêm thành viên hội đồng chuyên gia tư vấn cho Thủ tướng Merkel về đại dịch, nhận xét. "Chính phủ sắp mãn nhiệm không thực sự hành động nữa và chính phủ sắp tới đang coi nhẹ mọi thứ". Sau khi số ca nhiễm mới hàng ngày chạm mức cao kỷ lục vào ngày 3/11, lên đến 33.949 ca, các nhà virus học Đức đã gióng lên thông điệp cảnh báo. Nhưng các đối tác trong liên minh cầm quyền tương lai của Scholz lại tuyên bố rằng sẽ không có một cuộc phong tỏa nào nữa. "Đối với tôi, hiện tại là thời điểm quan trọng", giáo sư Meyer-Hermann nói. "Họ hành động như thể đại dịch đã kết thúc, trong khi số ca nhiễm đang bùng nổ". Vũ Hoàng (Theo NYTimes)  
......

Đài Loan sẽ an toàn cho đến năm 2027, trừ khi điều này xảy ra

Một chiếc F-16 của Không Quân Đài Loan (phía dưới) áp sát một oanh tạc cơ H-6 của Không Quân Trung Quốc khi chiếc máy bay này đến gần Đài Loan. Ảnh chụp ngày 10/2/2020, do Bộ Quốc Phòng Đài Loan công bố Nguồn: “Taiwan is safe until at least 2027, but with one big caveat,” Derek Grossman, Nikkei Asia, 10/11/2021. Biên dịch: Trần Hùng Sáu năm. Đó là khoảng thời gian còn lại Đài Loan có thể có trước khi hứng chịu một cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc. Ít nhất, đó là ước tính của vị tư lệnh sắp mãn nhiệm tại Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Đô đốc Philip Davidson, hồi tháng 3 khi phát biểu tại một phiên điều trần mở của Quốc hội. Kể từ đó, các nhà quan sát đã dựa vào các bình luận của Davidson – vốn rõ ràng ám chỉ dịp lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) vào năm 2027 có thể là một sự kiện mà Trung Quốc muốn kỷ niệm bằng cách chinh phục Đài Loan – để ủng hộ quan điểm của họ về việc Bắc Kinh có sớm thực hiện một bước đi nguy hiểm hay không. Đối với những người đồng tình với quan điểm của Davidson, số lượng máy bay chiến đấu chưa từng có xâm nhập vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan, lên tới gần 150 chiếc trong vài ngày đầu tháng trước, là bằng chứng mới nhất cho thấy điều gì đó đang xảy ra. Đối với những người bác bỏ quan điểm trên, có thể dễ dàng giải thích rằng các cuộc xâm nhập không phận gần đây chỉ đơn giản là một phần cho thấy sự gia tăng phản ứng quân sự nói chung của Bắc Kinh nhằm ngăn chặn việc Mỹ và Đài Loan tăng cường thắt chặt quan hệ song phương. Có nhiều lý do chính đáng để tin rằng dự đoán của Davidson có phần hơi quá táo bạo. Mặc dù Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình rõ ràng đang tìm cách khiến Đài Loan khuất phục, và bằng vũ lực nếu cần, ông vẫn tiếp tục thúc đẩy “tái thống nhất hòa bình” như là phương thức ưa thích của Bắc Kinh. Đến giờ ông Tập có thể đã dùng những ngôn từ mạnh mẽ hơn nếu ông nghĩ rằng chiến tranh là một khả năng thực sự. Thay vào đó, ông Tập đã đưa ra các biện pháp nhằm dập tắt các suy đoán về một cuộc tấn công tiềm tàng bằng cách kiểm duyệt các tin đồn trên mạng xã hội Trung Quốc rằng Bắc Kinh đã huy động lực lượng quân dự bị và hướng dẫn người dân tích trữ lương thực. Liệu có khả năng ông Tập đang âm mưu tiến hành một cuộc đánh lén hay không? Chắc chắn là có thể, nhưng cho đến nay, không có bằng chứng nào cho thấy ông đang làm vậy, và những gì chúng ta biết lại cho thấy điều ngược lại – một cách tiếp cận từ từ, nghe ngóng, với hy vọng rằng áp lực ngoại giao, kinh tế và quân sự đối với Đài Loan sẽ dẫn đến việc Quốc Dân Đảng, vốn thân thiện với Trung Quốc, sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan tiếp theo vào năm 2024. Ngoài ra, Bắc Kinh vẫn chưa cập nhật Luật Chống ly khai năm 2005, cho thấy trái với hầu hết các phân tích của phương Tây, Đài Loan không phải là ưu tiên hàng đầu. Ông Tập thường bỏ qua việc nhắc đến “Đài Loan” trong các bài phát biểu quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong một bài phát biểu như vậy trước các quan chức hàng đầu hồi tháng Giêng, ông Tập tập trung vào các mục tiêu hiện đại hóa và phát triển kinh tế xã hội hơn là giải quyết vấn đề Đài Loan. Ông Tập cũng phải lo lắng về khả năng thành công của PLA nếu tiến hành một cuộc đổ bộ vào Đài Loan. Các cuộc tấn công đổ bộ bằng đường biển nổi tiếng là khó thành công, hãy xem trường hợp của Anh trong chiến tranh Quần đảo Falklands là một ví dụ – và PLA trong quá khứ đã thể hiện những khiếm khuyết trong các lĩnh vực quan trọng như không vận chiến lược, hậu cần và chiến tranh chống tàu ngầm, bên cạnh những vấn đề khác. Có thể việc Trung Quốc tái cơ cấu quân đội vào năm 2016 theo một khái niệm chung về hợp đồng tác chiến, đồng thời mở rộng và hiện đại hóa mạnh mẽ các lực lượng để phù hợp với lời kêu gọi của ông Tập là đạt được vị thế quân sự “đẳng cấp thế giới” vào năm 2049, đã nâng cao hiệu quả của các lực lượng này. Nhưng nếu chỉ cải thiện năng lực thì không nhất thiết sẽ dẫn tới mức độ hiệu quả cao hơn trên chiến trường, đặc biệt là đối với một quân đội đã không tham chiến lần nào kể từ cuộc chiến tranh với Việt Nam năm 1979. Các bản tự đánh giá của PLA thường nêu bật những thách thức về khả năng sẵn sàng nhân sự, đặc biệt là trong lãnh đạo chiến đấu. PLA nhấn mạnh sự cần thiết phải huấn luyện trong “các điều kiện chiến đấu thực tế.” Do đó, sẽ không có gì ngạc nhiên nếu Trung Quốc cố gắng thực hiện một chiến dịch quân sự ít khó khăn hơn trước khi tấn công Đài Loan. Người đứng đầu cơ quan tình báo Đài Loan hồi đầu tháng này đã đưa ra một lời chứng đáng chú ý rằng Trung Quốc đã tranh luận trong nội bộ về việc chiếm quần đảo Pratas (Đông Sa) của Đài Loan. Cũng cần lưu ý rằng dù hành vi của Trung Quốc đối với Đài Loan trong vài năm qua có nghiêm trọng tới đâu, thì Bắc Kinh cũng đã thực sự kiềm chế so với những gì họ có thể đã làm cho tới nay. Ví dụ, trong cuộc Khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1995-1996, Bắc Kinh đã cho phóng các tên lửa đạn đạo đến gần Đài Loan – một biện pháp mang tính khiêu khích cao mà nước này đến giờ vẫn chưa lặp lại. Trung Quốc cũng đã quyết định giữ nguyên Hiệp định Khung Hợp tác Kinh tế (ECFA), được ký hồi năm 2010 dưới thời người tiền nhiệm của Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn là Mã Anh Cửu thuộc Quốc dân Đảng đối lập, bất chấp việc Đài Loan từ chối tái khẳng định nguyên tắc Một Trung Quốc theo cái gọi là Đồng thuận năm 1992. Việc chấm dứt Hiệp định ECFA sẽ gây áp lực kinh tế đáng kể lên hòn đảo. Nói rộng ra, nhiều người có thể mong đợi Bắc Kinh siết chặt áp lực mọi mặt lên Đài Bắc trước khi tiến hành bất kỳ cuộc tấn công quân sự cuối cùng nào. Tuy nhiên, thực tế cho đến nay chưa xảy ra theo hướng đó. Tất cả những điều này là tin tốt cho an ninh của Đài Loan cho đến năm 2027. Nhưng có một ngoại lệ lớn có thể diễn ra. Nếu đương kim phó tổng thống đang rất được lòng dân của bà Thái là Lại Thanh Đức (Lai Ching-te), có tên tiếng Anh là William Lai, trở thành ứng viên tổng thống năm 2024 của Đảng Dân Tiến, và nếu ông thắng cử, thì khả năng Trung Quốc tiến hành hành động quân sự chống lại Đài Loan sẽ gia tăng. Bắc Kinh đã gọi bà Thái là một người ly khai và bí mật ủng hộ độc lập, điều đã rất nghiêm trọng. Nhưng nếu ông Lại đắc cử tổng thống, thì Bắc Kinh sẽ đối mặt với một nhà lãnh đạo vốn lúc đang nắm chức thủ tướng hồi năm 2018 đã công khai tuyên bố rằng ông là “một người chiến đấu vì sự độc lập của Đài Loan.” Việc một người như vậy đắc cử tổng thống rất có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc tiến tới hành động quân sự. Tuy vậy, nhiều điều vẫn có thể xảy ra trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2024, và chúng ta nên hạn chế đưa ra những kết luận dễ dãi. Trong thời gian đó, Đài Loan cũng sẽ được hưởng lợi từ sự hỗ trợ bổ sung của Hoa Kỳ để tăng cường khả năng răn đe chống lại Trung Quốc. Đài Bắc sẽ được hưởng lợi hơn nữa nếu Mỹ cam đoan với Trung Quốc rằng Washington không có kế hoạch khuyến khích hoặc công nhận một Đài Loan độc lập. Trong năm đầu tiên nắm quyền, chính quyền Biden đã thực hiện một cách hiệu quả cách tiếp cận này. Nguồn: Nghiên Cứu Quốc Tế XEM THÊM: Ông Lý Thái Hùng: Trung Quốc sẽ tấn công Đài Loan bằng cách nào & ảnh hưởng lên Việt Nam Khi nào Trung Quốc đánh chiếm Đài Loan? Vì sao ông Tập Cận Bình không tham dự G20 và COP26  
......

Nhóm Công tác Liên Hiệp Quốc công bố quan điểm về trường hợp tù nhân Nguyễn Năng Tĩnh

RFA Nhóm Công tác Liên Hiệp Quốc Về Giam giữ Tùy tiện (WGAD) vào ngày 4/11 vừa qua công bố quan điểm về trường hợp tù nhân lương tâm, thầy giáo dạy nhạc Nguyễn Năng Tĩnh và kêu gọi trả tự do cho ông. Tài liệu mang số 36/2021 của WGAD nêu rõ cáo buộc mà phía Việt Nam đưa ra đối với ông Nguyễn Năng Tĩnh là quá mơ hồ, không thể là cơ sở pháp lý để giam tù ông. Chiếu theo nguyên tắc pháp lý thì luật cần có đầy đủ tính chính xác để các cá nhân có thể lượng định, thông hiểu rồi điều chỉnh hành vi cho phù hợp. Thế nhưng Điều 117 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015 không tương thích với điều 11 (2) của Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền và điều 15(1) của Công ước Liên Hiệp Quốc về Các quyền Dân sự và Chính trị. Bản thân ông Nguyễn Năng Tĩnh không thể tiên liệu được rằng việc thực thi quyền tự do biểu đạt để chuyển tải những ý kiến một cách ôn hòa trên mạng xã hội lại là hành vi phạm tội hình sự theo Điều 117. Theo Nhóm Công tác LHQ về Giam giữ Tùy tiện, bản thân ông Nguyễn Năng Tĩnh bị giới hạn quyền được trợ giúp pháp lý và được xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập, không thiên kiến theo điều 14 (1) của Công ước LHQ về Các quyền Dân sự và Chính trị… GWAD cho rằng tại Việt Nam xuất hiện một dạng sách nhiễu và giam giữ những nhà bảo vệ nhân quyền chỉ vì hoạt động của họ. Trường hợp của ông Nguyễn Năng Tĩnh là một trong những nhà bảo vệ nhân quyền lên tiếng về thảm họa môi trường do nhà máy Formosa gây nên ở miền Trung Việt Nam hồi năm 2016. Trong những năm gần đây, một số trường hợp đã được nêu ra với Nhóm Công tác Liên hiệp quốc về Giam giữ Tùy tiện với dạng tương tự. Đó là việc bắt giam không theo các chuẩn mực quốc tế, thời gian dài trước khi xét xử người bị giam không được tiếp cận thủ tục pháp lý, bị từ chối hay hạn chế được tư vấn pháp lý, bị biệt giam, cách ly với thế giới bên ngoài, bị kết án theo những cáo buộc hình sự mơ hồ chỉ vì thực thi quyền con người một cách ôn hòa. Ông Nguyễn Năng Tĩnh, 45 tuổi, quê Nghệ An, là một thầy giáo dạy Nhạc tại Trường Cao Đẵng Văn hóa- Nghệ Thuật tỉnh Nghệ An. Ông tham gia một số tổ chức xã hội dân sự người gồm nhóm phản đối đường Lưỡi bò NoU FC tại Vinh, Nhóm Vì Sự Sống, Quỹ Phát triển Con Người, Truyền thông Công giáo. Ông bị bắt vào 29/5/2019 và ra tòa ngày 15/11 trong cùng năm với bản án 10 năm tù và năm năm quản chế. Phiên phúc thẩm ngày 20/4/2020 giữ nguyên án sơ thẩm. Hiện ông đang phải thụ án tại Trại 5, Yên Định, Thanh Hóa. RFA https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/working-group-on-arbitrary-detention-opinion-36-2021-concerning-nguyen-nang-tinh-11092021065543.html  
......

HRW kêu gọi trả tự do cho những nhà bất đồng chính kiến nhân Đối thoại Nhân quyền Việt- Mỹ

Những người bị Chính phủ VN bắt giữ trong năm 2021 vì lên tiếng ôn hoà về nhân quyền RFA Chính phủ Hoa Kỳ cần sử dụng vòng đối thoại nhân quyền sắp đến để thúc ép Việt Nam trả tự do cho những tiếng nói bất đồng đang bị giam giữ và có những cải thiện về nhân quyền. Đó là kêu gọi mà tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch (HWW) đưa ra trong thông cáo báo chí phát đi ngày 8/11, chỉ một ngày trước vòng đối thoại nhân quyền song phương Việt-Mỹ lần thứ 25 sẽ khởi sự ở Washington DC vào ngày 9/11. Theo HRW, hoạt động đối thoại nhân quyền song phương là vô cùng quan trọng, nhưng đó không phải là cơ hội duy nhất về nhân quyền. Tổ chức này thống kê hiện Chính phủ Việt Nam đang giam tù ít nhất 145 người chỉ vị họ thực hành các quyền căn bản một cách ôn hòa. Riêng trong năm nay, cơ quan chức năng Việt Nam đã kết án và giam tù ít nhất 31 người. Hầu hết những người này chỉ bày tỏ ý kiến trên mạng, mà đó là những quan điểm trái với phía chính phủ. Cũng trong năm 2021, Công an Việt Nam bắt giữ ít nhất 26 người khác, trong đó có một nhà vận động nhân quyền là bà Nguyễn Thúy Hạnh. Những người này bị bắt với những cáo buộc ngụy tạo, có động cơ chính trị như tuyên truyền chống Nhà nước hay lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Phó Giám đốc Phân ban Châu Á của HRW, ông Phil Robertson, được dẫn lời rằng: ‘Việt Nam chà đạp nhân quyền khi bắt giữ những nhà hoạt động với những cáo buộc ngụy tạo rồi thẩm vấn khắc nghiệt họ suốt nhiều tháng trời mà không có luật sư bào chữa.’ Hồi năm ngoái, sau vòng đối thoại nhân quyền Việt- Mỹ chỉ ít giờ, lực lượng chức năng Việt Nam tiến hành bắt giữ nhà báo độc lập/nhà hoạt động Phạm Đoan Trang. Bà là một trong những blogger tích cực viết và là một nhà hoạt động nhân quyền có ảnh hưởng tại Việt Nam. HRW cho rằng Hoa Kỳ cần đặt quan ngại về nhân quyền vào trọng tâm trong mọi mối quan hệ với Việt Nam chứ không chỉ hạn chế trong vòng đối thoại song phương thường niên.  
......

Đức Đạt Lai Lạt Ma gửi thông điệp tới COP26

Tôi vui mừng được biết rằng Hội nghị Biến đổi Khí hậu Liên Hiệp Quốc – COP26 – để giải quyết tình trạng khẩn cấp về khí hậu mà chúng ta đang phải đối mặt hôm nay sẽ diễn ra tại Glasgow, Scotland. Nóng lên toàn cầu là một thực tế cấp bách. Không ai trong chúng ta có thể thay đổi quá khứ. Nhưng tất cả chúng ta đều ở vị trí để đóng góp cho một tương lai tốt đẹp hơn. Thật vậy, chúng ta có trách nhiệm với bản thân và với hơn bảy tỷ con người còn sống hôm nay để đảm bảo rằng tất cả chúng ta có thể tiếp tục sống trong hòa bình và an toàn. Với hy vọng và quyết tâm, chúng ta phải chăm sóc cả cuộc sống của chính chúng ta và những người láng giềng của chúng ta. Tổ tiên của chúng ta đã xem trái đất là giàu có và tài lộc, đó là chính nó, nhưng điều gì hơn nữa đó là ngôi nhà duy nhất của chúng ta. Chúng ta phải bảo vệ nó không chỉ cho bản thân chúng ta, mà còn cho các thế hệ tương lai, và cho vô số loài mà chúng ta có chung hành tinh này. Cao nguyên Tây Tạng, hồ chứa tuyết và băng lớn nhất bên ngoài Bắc Bộ và Nam Cực, thường được gọi là “Cột Ba. Tây Tạng là nguồn gốc của một số con sông lớn trên thế giới, trong số đó có Brahmaputra, Ganges, Indus, Mekong, Salween, Sông Vàng và Dương. Những con sông này là nguồn sống vì cung cấp nước uống, thủy lợi cho nông nghiệp và thủy điện, cho gần hai tỷ người trên khắp châu Á. Sự tan chảy của rất nhiều sông băng của Tây Tạng, sự phá hoại và sự đa dạng của các dòng sông, và sự phá rừng lan rộng, thể hiện cách bỏ bê sinh thái trong một khu vực có thể gây hậu quả hầu như khắp nơi. Hôm nay, chúng ta cần đề cập đến tương lai không phải bằng những lời cầu nguyện được thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi, mà bằng cách hành động thực tế được thành lập trên sự hiểu biết khoa học. Cư dân trên hành tinh của chúng ta liên lập hơn bao giờ hết. Tất cả những gì chúng ta làm đều ảnh hưởng đến những người bạn đồng hành của chúng ta, cũng như vô vàn các loài động vật và thực vật. Con người chúng ta là những sinh vật duy nhất có sức mạnh hủy diệt trái đất, nhưng chúng ta cũng là những loài có khả năng lớn nhất để bảo vệ nó. Chúng ta phải đối đầu với các vấn đề về biến đổi khí hậu ở cấp độ hợp tác toàn cầu vì lợi ích của mỗi người. Nhưng chúng ta cũng phải làm những gì chúng ta có thể ở cấp độ cá nhân. Ngay cả những hành động nhỏ hàng ngày, chẳng hạn như cách chúng ta sử dụng nước và cách chúng ta xử lý những gì chúng ta không cần thiết, đều có hậu quả. Chúng ta phải biến việc chăm sóc môi trường tự nhiên trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và học những gì khoa học đã dạy chúng ta Tôi được khuyến khích khi thấy rằng các thế hệ trẻ của chúng ta đang đòi hỏi hành động bê tông đối với biến đổi khí hậu. Điều này mang lại chút hy vọng cho tương lai. Nỗ lực của các nhà hoạt động trẻ như Greta Thunberg nhằm nâng cao nhận thức về nhu cầu lắng nghe khoa học và hành động phù hợp là rất quan trọng. Vì tư thế của họ là thực tế, chúng ta phải khuyến khích họ. Tôi thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì cảm giác về sự đồng hành của nhân loại, ý tưởng rằng mỗi con người là một phần của chúng ta. Mối đe dọa của sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu không bị giới hạn bởi ranh giới quốc gia; nó ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Khi chúng ta cùng nhau đối mặt với khủng hoảng này, bắt buộc chúng ta phải hành động với tinh thần đoàn kết và hợp tác để hạn chế hậu quả của nó. Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng các nhà lãnh đạo của chúng ta sẽ tập hợp sức mạnh để thực hiện hành động tập thể để giải quyết tình trạng khẩn cấp này, và thiết lập thời gian biểu để thay Chúng ta phải hành động để biến đây thành một thế giới an toàn hơn, xanh hơn, hạnh phúc hơn. Với những lời cầu nguyện và những lời chúc tốt đẹp của tôi./. Đạt Lai Lạt Ma
......

Facebook đổi tên Meta giữa tai tiếng bỏ lương tâm chạy theo lợi nhuận

Nhà đồng sáng lập Facebook, Mark Zukerberg giới thiệu Meta và vũ trụ Metaverse ngày 28/10/2021. AP - Eric Risberg   Thu Hằng - RFI  Từ ngày 28/10/2021, Meta trở thành tên chính thức của công ty Facebook Inc., sở hữu các mạng xã hội Facebook và Instagram, hai ứng dụng nhắn tin WhatsApp và Messenger cùng với các thương hiệu kính thực tế ảo Oculus. Giữa tâm bão đánh mất lương tâm chạy theo lợi nhuận và nằm trong tầm ngắm của chính quyền Mỹ, việc Facebook đổi tên chỉ là hình thức « bình mới rượu cũ », vẫn giữ bản chất cũ, theo chỉ trích của những người phản đối mạng xã hội có 3,5 tỉ người sử dụng.  Ý nghĩa của tên Meta  Meta, theo tiếng Hy Lạp cổ, mang ý nghĩa « trên cao », để cho thấy rằng « luôn có nhiều điều hơn để xây dựng ». Theo nhà đồng sáng lập Mark Zuckerberg, tên gọi Facebook Inc. hiện nay chỉ « liên quan đến một sản phẩm mà không thể thể hiện hết những gì chúng tôi đang làm và sẽ làm trong tương lai ». Meta còn hướng đến tham vọng Metaverse (siêu vũ trụ), được thể hiện qua logo của Meta, mầu xanh dương, theo hình số « 8 » nằm ngang tượng trưng cho vô cực trong toán học.   Để quảng bá cho Meta, nhà đồng sáng lập Facebook Mark Zuckerberg dành một tiếng rưỡi để giới thiệu dự án Metaverse, một thế giới ảo song song với thế giới thực, như trong phim viễn tưởng. Trong thế giới được Zuckerberg gọi là « tương lai của internet », nhân vật đại diện (avatar) của người sử dụng có thể tương tác, làm việc với nhau và giải trí nhờ vào công nghệ như kính thực tế ảo.   Tỉ phú Mỹ khẳng định « màn hình không thể truyền tải được cảm xúc sâu sắc như sự hiện diện của một người » nhưng vũ trụ ảo sẽ đạt được mục tiêu đó và trong tương lai, các avatar sẽ trông giống người thật hơn. Tuy nhiên, Mark Zuckerberg trấn an rằng người sử dụng sẽ « không trở thành tù nhân của một thế giới hay một một nền tảng tin học ». Từ giờ đến 10 năm nữa, vũ trụ ảo có thể có « 1 tỉ người sử dụng, vài trăm tỉ đô la thương mại trực tuyến và vài triệu việc làm cho các nhà sáng tạo và lập trình viên ». Tập đoàn thông báo đầu tư nhiều tỉ đô la trong những năm tới và tuyển khoảng 10.000 người ở châu Âu để thực hiện dự án.   Vũ trụ ảo để « trốn » cáo buộc thực tế  Thông báo đổi tên của Facebook diễn ra đúng lúc tập đoàn đang phải đối mặt với những cáo buộc mới vì cố tình phớt lờ những hậu quả cho con người, xã hội và chính trị để thu hút tối đa sự chú ý của người sử dụng.  Vụ việc được Frances Haugen, một cựu nhân viên Facebook, đánh động sau khi từ chức vào tháng 05/2021 và mang theo vài chục nghìn trang thông tư, ghi chép nội bộ. Frances Haugen được tuyển vào Facebook để điều hành một nhóm phụ trách soạn thảo những biện pháp bảo vệ người sử dụng và hạn chế hậu quả của những thông tin sai lệch đăng trên mạng xã hội. Tuy nhiên, những khuyến cáo hay đề xuất của cô toàn bị bỏ ngoài tai. Từ những tài liệu được Frances Haugen cung cấp, báo Wall Street Journal đã dành một số đặc biệt tăng thêm trang để đăng vụ « Facebook files », cáo buộc mạng xã hội chỉ quan tâm thu tối đa lợi nhuận.   Giới lãnh đạo Facebook bị cáo buộc cố tình bỏ ngoài tai cảnh báo của các nhà nghiên cứu trong công ty về những tác động tiêu cực của nền tảng và thuật toán quyết định tương tác giữa những người sử dụng. Tác động độc hại của mạng xã hội Instagram đến thiếu niên (như quá chú ý đến hình thể, phong cách sống gây chứng rối loạn ăn uống và tâm lý cho nhiều người sử dụng trẻ), được nêu trong một cuộc điều tra nội bộ tháng 03/2020, cũng bị các lãnh đạo tập đoàn bỏ qua. Facebook không hành động vì sợ làm giảm hoạt động của các mạng xã hội, trong khi đây là nguồn thu chính từ quảng cáo.  Những tài liệu được đưa ra ngoài cũng cho thấy Facebook « thiên vị » người nổi tiếng (ca sĩ, nghệ sĩ, chính trị gia…) có hàng triệu người theo, nhờ một hệ thống miễn quy tắc kiểm duyệt. Những người nằm trong « danh sách trắng » này có thể chia sẻ những lời vu khống hay thông tin sai lệch. Ví dụ năm 2019, cầu thủ Neymar đã đăng trên tài khoản cá nhân nhiều bức ảnh khỏa thân của một phụ nữ đã cáo buộc bị cầu thủ cưỡng hiếp. Những bức ảnh này được đăng trong nhiều tuần, sau đó mới bị Facebook rút xuống.  Sau Frances Haugen, một người đánh động thứ hai, xin ẩn danh, từng làm trong truy nhóm truy quét những thông tin độc hại được đăng trên Facebook, cũng cáo buộc ban giám đốc tập đoàn ưu tiên lợi nhuận hơn là hòa bình xã hội. Trong báo cáo, có tuyên thệ, gửi đến Văn phòng Thị trường Tài chính Hoa Kỳ (OFM) mà báo Washington Post tham khảo được, cựu nhân viên này cáo buộc là từ năm 2017, Facebook làm tất cả để làm chậm cuộc chiến chống thông tin sai lệch. Trước tiên là không để Donald Trump và các cố vấn của ông tức giận, đặc biệt là ông Steve Bannon. Facebook bị cáo buộc chỉ tìm cách làm tăng số người sử dụng, như vậy mới bảo đảm được sự thịnh vượng kinh tế của mạng xã hội. Thậm chí, người báo động này còn trích một câu của một cán bộ truyền thông Facebook : « Tất cả chuyện này chỉ là gió thoảng qua. Các nghị sĩ sẽ phẫn nộ một chút và sau đó là chìm xuống. Điều quan trọng là trong thời gian đó, chúng ta tiếp tục kiếm đẫy ».   Mạng xã hội Facebook vượt khỏi tầm kiểm soát của công ty mẹ ?    Ngoài ra, dường như Facebook không thực sự làm chủ được các mã tin học cho phép tự động kiểm tra bài đăng của 3,5 tỉ người sử dụng. Lý do là sự phức tạp của các hệ thống được Facebook phát triển mỗi năm có lẽ đã gây ra những hệ quả không kiểm soát được và không thể đoán được về những bài viết của người sử dụng trên khắp thế giới.   Ví dụ, nhiều kĩ sư báo động về việc mạng xã hội không có khả năng giám sát những nội dung không được viết bằng tiếng Anh, đặc biệt là tiếng Ả Rập. Khoảng 10% nội dung mang tính chính trị được người sử dụng Mỹ truy cập trong kỳ bầu cử gần đây đều là thông tin sai. Sau kỳ bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11/2020, Facebook đã không ngăn được sự lan truyền của phong trào « Stop the steal » (Ngừng đánh cắp) kết quả bầu cử, do chính tổng thống Mỹ Donald Trump lúc đó khởi xướng. Tập đoàn đã cấm nhóm Stop the steal, xóa nhiều bài viết đưa tin sai lệch, nhưng người sử dụng và thuật toán vẫn tiếp tục tuyên truyền cho lập trường của phong trào này.  Điều này cũng giải thích cho việc Facebook cũng bị lợi dụng vào mục đích xấu như các băng đảng ở Mêhicô chiêu dụ người mới, đào tạo hay tuyển sát thủ…, các mạng lưới mại dâm chào mời khách hay các nhóm tôn giáo cực đoan và chính trị kêu gọi tàn sát, như trường hợp ở Miến Điện… Ngay cả khi Facebook muốn truyền tải thông tin, như khuyến khích tiêm phòng, thì vẫn không đấu lại được những thông tin chống vac-xin hay những tin đồn gây nghi ngờ về mức độ nghiêm trọng của đại dịch, tràn ngập trên mạng xã hội.  Trong tuần cuối tháng 10/2021, Facebook thừa nhận với các cổ đông là đang bị nhắm đến trong « nhiều cuộc điều tra » của chính phủ Mỹ. Tập đoàn của Mark Zuckerberg liên tục bị cáo buộc không bảo vệ dữ liệu cá nhân người sử dụng, trong đó phải kể đến vụ Cambridge Analytica năm 2018 tự ý thu thập dữ liệu của 87 triệu người sử dụng Facebook nhằm mục đích bầu cử. Sau đó, Facebook đã đạt được một thỏa thuận với Ủy Ban Thương Mại liên bang (FTC) và chịu nộp phạt khoản tiền kỷ lục 5 tỉ đô la.   Chính FTC đang nghiên cứu những tài liệu mới được tiết lộ, theo đó doanh nghiệp tự thừa nhận những tác động tiêu cực trong các sản phẩm của mình. Điều này vi phạm thỏa thuận được ký trước đó giữa hai bên.   Thế giới ảo của Facebook đã đầy rẫy khó khăn và sai lầm, liệu vũ trụ Metaverse có được hoàn hảo và siêu việt như kỳ vọng của Mark Zuckerberg ?  (Tổng hợp từ AFP, RFI, Le Figaro) https://www.rfi.fr/vi/qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/20211101-facebook-inc-doi-ten-meta  
......

AUKUS và QUAD trong chiến lược Indo-Pacific

Nguyễn Quang Dy  QUAD (“Bộ Tứ” gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc) ra đời từ năm 2007 và hồi sinh vào cuối năm 2017 (thời Donald Trump). Còn AUKUS (“Bộ Tam” gồm Úc, Anh, Mỹ) vừa mới đầy tháng. Ngày 15/9/2021, nguyên thủ ba nước đã họp trực tuyến và tuyên bố thành lập liên minh AUKUS. Sự kiện này diễn ra chỉ mấy ngày sau khi Tổng thống Joe Biden điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình (10/9) và không lâu sau chuyến thăm Singapore và Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin (28/7) và Phó tổng thống Kamala Harris (24/8).    Ngay sau khi AUKUS vừa ra đời, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Úc Scott Morrison, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, và Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga đã họp trực tiếp tại Nhà Trắng (24/9/2021) để “nâng cấp Bộ Tứ”, với những sáng kiến đầy tham vọng. Có thể nói AUKUS và QUAD là “cặp bài trùng” trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific. Trong bài phân tích này, tôi sẽ lý giải để làm rõ thêm các vấn đề vừa nói trên. QUAD ("Bộ Tứ") gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc ra đời từ năm 2007 và hồi sinh vào cuối năm 2017 Phản ứng với AUKUS   Quyết định thành lập AUKUS khá đột ngột như một đợt sóng bất ngờ ập đến làm cho dự luận phản ứng khác nhau. Tuy Pháp là một đồng minh phương Tây, nhưng phản ứng rất mạnh như con gà trống Gô-Loa bị tổn thương nặng, đã triệu hồi đại sứ tại Mỹ và Úc. Trong khi đó, Trung Quốc là đối tượng chính tuy có lý do để phản ứng mạnh hơn, nhưng đã phản ứng khá ôn hòa, có thể vì Trung Quốc cần thỏa hiệp với Mỹ về vụ thả Mạnh Vãn Chu. (AUKUS: Why Beijing didn’t go ballistic, Jia Deng, Lowy Interpreter, October 14, 2021). Tuy trước mắt, Pháp phản ứng mạnh là dễ hiểu, không chỉ vì thiệt hại về kinh tế do mất một hợp đồng lớn mấy chục tỷ USD, mà còn vì thể diện chính trị trước tranh cử sắp tới. Nhưng về lâu dài, Pháp không thể quay lưng với các nước đồng minh phương Tây chủ chốt (như Mỹ, Anh, Úc), vì hợp tác ở Nam Thái Bình Dương. Tuy Pháp gọi AUKUS là “nhát dao đâm sau lưng”, nhưng họ cũng cần tự trách mình đã chủ quan làm mất hợp đồng. Trong khi đó, Trung Quốc đã không phản ứng mạnh vì những lý do nhất thời, nhưng về lâu dài, AUKUS là một cục xương khó nuốt, làm Bắc Kinh đau đầu. Có lẽ vì vậy mà Trung Quốc đã thông báo xin gia nhập CPTPP (ngày 16/9) như một nước cờ để làm Mỹ khó xử và “tiến thoái lưỡng nan”. Như phản ứng dây chuyền, Đài Loan cũng đã quyết định xin gia nhập CPTPP (ngày 22/9), làm cho Bắc Kinh tức giận, phải lên tiếng phản đối. AUKUS sẽ là một cơn ác mộng đối với Trung Quốc, vì đây có thể là tiền thân của một “NATO châu Á” mà Bắc Kinh vốn lo ngại lâu nay. Trong khi Mỹ muốn mở rộng nhóm “Ngũ Nhãn” (Five Eyes), gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada, Tân Tây Lan, để kết nạp thêm Nhật và Hàn Quốc, thì NATO tăng cường quan hệ với bốn đối tác trong khu vực Indo-Pacific là Nhật, Hàn Quốc, Úc và Tân Tây Lan. Trong khi AUKUS cụ thể hóa chuyển trục chiến lược của Mỹ tới Indo-Pacific, thì nó giúp Anh khẳng định tầm nhìn “Global Britain”. AUKUS nằm trong chiến lược đối phó với Trung Quốc tại Indo-Pacific, không chỉ gồm ba nước Úc, Anh, Mỹ, mà còn gồm nhiều nước khác. Vì vậy, Trung Quốc chính là đối tượng mà QUAD và AUKUS nhắm tới. QUAD và AUKUS không chỉ đơn thuần là một liên minh về an ninh mà còn gồm các lĩnh vực khác như công nghệ kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và tin học lượng tử. Năm 2015, Bang Bắc Úc đã cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc thuê cảng Darwin 99 năm, nhưng đã đến lúc Canberra cần chấm dứt hợp đồng này.  Phản ứng của ASEAN đối với AUKUS cũng khác nhau. Trong khi một số nước ủng hộ (như Singapore, Philippines) và một số nước phản đối (như Malaysia, Indonesia) vì lo ngại chạy đua vũ trang trong khu vực sẽ tăng lên, thì Việt Nam bên ngoài tỏ ra rất thận trọng, nhưng bên trong ngầm ủng hộ. Đợt sóng ngầm do AUKUS gây ra làm dư luận ồn ào với các cung bậc cảm xúc khác nhau, đang lắng xuống như “phần nổi của tảng băng chìm”.   Theo báo chí Nhật, viêc AUKUS ra đời đã làm thay đổi cuộc chơi, và là một tín hiệu mạnh về răn đe đối với Trung Quốc. Với AUKUS, vị thế chiến lược của Úc sẽ tăng lên, tạo điều kiện cho Canberra đóng một vai trò tích cực hơn để duy trì cân bằng quyền lực có lợi tại Indo- Pacific. (AUKUS shows beginnings of U.S. Indo-Pacific strategy, Susannah Patton, Ashley Townshend and Tom Corben, Nikkei Asia Review, October 1, 2021). Phản ứng của dư luận Úc tuy đa dạng, nhưng ngày càng tích cực hơn. AUKUS là một bước ngoặt lớn để định vị chiến lược lâu dài, nhưng điều đó không có nghĩa là Úc theo đuổi ngoại giao nước lớn mà coi nhẹ ngoại giao với các nước trong khu vực như ASEAN. Ngược lại, vai trò của Úc như một quốc gia bậc trung thực dụng, độc lập và tích cực ở khu vực Indo-Pacific sẽ tiếp tục và tăng cường trong thập kỷ tới. (The future of Australia's middle-power diplomacy after AUKUS, Thomas Parks, Asia Link Insight, October 7, 2021). AUKUS sẽ đi vào lịch sử, biến Úc thành quốc gia thứ 7 trên thế giới tham gia “câu lạc bộ tàu ngầm hạt nhân” (gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ). Nó đe dọa làm thay đổi bàn cờ chiến lược tại khu vực Indo-Pacific, gia tăng nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân, thúc đẩy Nhật Bản và Hàn Quốc theo đuổi trò chơi tốn kém này. Nói cách khác, AUKUS đã biến điều không thể thành có thể, “làm thay đổi cuộc chơi” (game changer).    Lợi ích quốc gia Úc Theo giáo sư Alexander Vuving (APCSS), trước mắt tuy AUKUS gây tranh cãi, nhưng về lâu dài nó đặt Úc “vào đúng vị trí lịch sử” (on the right side of history). Tranh chấp nước lớn Mỹ-Trung về cơ bản là cuộc đấu tranh giữa trật tự quốc tế dựa trên luật pháp (ruled-based) và trật tự quốc tế dựa trên thứ bậc (hierarchy-based). Là thành viên của QUAD & AUKUS, Úc có quyền lựa chọn chỗ đứng cho mình trong cuộc đấu tranh của thế kỷ này. AUKUS trước mắt có thể làm tổn thương quan hệ của Úc với một số đối tác ở Châu Âu (làm Pháp bất bình) và ở Đông Nam Á (làm Indonesia và Malaysia lo ngại), nhưng về lâu dài, có nhiều lý do để tin rằng AUKUS là sự lựa chọn đúng của Úc, vì lợi ích quốc gia của mình, để bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên pháp luật. (AUKUS Is a Short-Term Mess but a Long-Term Win for Australia, Alexander Vuving, Foreign Policy, October 11, 2021). Pháp có lý do bức xúc vì mất một hợp đồng lớn trị giá mấy chục tỷ USD, nhưng lên án AUKUS là “nhát dao đâm sau lưng” không thỏa đáng. AUKUS chủ yếu liên quan đến Trung Quốc chứ không phải Pháp, tuy đáng tiếc là nó đụng đến sự nhạy cảm của Pháp. Úc đã phí mười năm theo đuổi hợp đồng tàu ngầm với Pháp, vì ngay từ đầu có lẽ Úc đã chọn nhầm phương án. Hợp đồng đã bị chậm, mắc nhiều lỗi, phải thiết kế lại nhiều lần tốn kém. (AUKUS Is Good for Australia, Simon Cowan, American Conservative, September 24, 2021). Trị giá hợp đồng tàu ngầm với Pháp là 40 tỷ AUD (năm 2012), sẽ bị đội vốn lên 100 tỷ AUD khi chiếc tàu đầu tiên sẽ được hoàn thành năm 2040 (chậm10 năm). Vì vậy, AUKUS là quyết định đúng của Úc cho chiến lược “phòng thủ từ xa” (forward defense). Tàu ngầm của Úc phải vượt hơn 4,000 dặm để đến Biển Đông, ngoài tầm hoạt động của tàu ngầm chạy bằng diesel, vì sau đó tàu ngầm chạy bằng diesel phải mất hàng tuần để trở về Úc. Vì vậy, Úc cần hạm đội tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với công suất lớn hơn, vì lợi ích quốc gia, phù hợp với lợi ích của đồng minh. Theo AUKUS, Mỹ và Anh sẽ giúp Úc có một hạm đội tàu ngầm (dự kiến 8 chiếc) chạy bằng năng lượng hạt nhân, để thay thế kế hoạch hợp tác với Pháp lập một đội tàu ngầm (gồm 12 chiếc) chạy bằng diesel và điện. Lâu nay, Úc không thấy cần phải chọn phe trong tranh chấp Mỹ-Trung, nhưng gần đây Úc bị Trung Quốc bắt nạt, buộc Canberra phải có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc. Từ năm 2020, Trung Quốc đã trả đũa Úc vì kêu gọi điều tra nguồn gốc virus Corona bằng cách cấm nhập hàng hóa Úc, trị giá 20 tỷ USD. Trung Quốc sử dụng các biện pháp kinh tế, thương mại, và ngoại giao để trừng phạt Úc, nhưng chỉ làm cho Úc cứng rắn hơn và “thoát Trung”. Sau gần một năm tranh chấp, không chỉ Úc bị thiệt hại về kinh tế, mà Trung Quốc cũng bị “gậy ông đập lưng ông”. Nay Trung Quốc đang liên minh với Nga, Iran, và Pakistan để hình thành “Bộ Tứ” của Trung Quốc, nhằm đối phó với “Bộ Tứ” của Mỹ. Trong 18 tháng qua, hợp đồng tàu ngầm với Naval Group của Pháp đã gặp nhiều trở ngại, vì đội vốn và kéo dài tiến độ. Tháng 6/2021, Úc đã dự kiến “Kế hoạch B” nếu “Kế hoạch A” thất bại. Theo các nguồn tin thì Mỹ và Anh phải hành động gấp vì lý do “an ninh quốc gia”. Đây là lần đầu tiên sau 70 năm, Mỹ chuyển giao công nghệ tàu ngầm hạt nhân cho Úc, tạo tiền lệ cho Nhật Bản và Hàn Quốc. AUKUS là một thông điệp mà Mỹ, Anh, Úc muốn gửi đến Trung Quốc rằng liên minh AUKUS đã hình thành, và cuộc chơi mới bắt đầu. AUKUS rất quan trọng đối với Úc, không chỉ về địa chiến lược, mà còn vì đặc thù về văn hóa và lịch sử. Thứ nhất, ý thức hệ của ba nước này giống nhau. Thứ hai, Anh đã từng là “mẫu quốc” bảo hộ Úc cho đến khi Mỹ thay thế, nay sẵn sàng “trở lại tương lai” để cùng với Mỹ bảo đảm an ninh cho Úc. Thứ ba, cả ba nước này đều coi Trung Quốc là mối đe dọa đối với khu vực và thế giới. Sự hợp tác giữa ba nước này về tàu ngầm hạt nhân, chuyển giao công nghệ cao và các nhu cầu an ninh quốc phòng khác, sẽ làm thay đổi cuộc chơi.  Các đồng minh khả tín thường có chung văn hóa chính trị như một ưu thế so với các đối thủ. Sức mạnh của liên minh QUAD và AUKUS sẽ tạo ra thế cờ vây áp đảo đối phương (Trung Quốc, Nga, Iran, Pakistan). Nó có thể làm thay đổi sâu sắc chính sách ngoại giao và quốc phòng của Úc, không chỉ đối với Trung Quốc mà còn với khu vực và thế giới. Tham gia AUKUS, Úc chỉ có con đường tiến, mà không còn đường lùi. (How China Exports Authoritarianism, Charles Edel & David Shullman, Foreign Affairs, September 16, 2021). Đằng sau QUAD và AUKUS Tiếp theo cuộc họp cấp cao (trực tuyến) đầu tiên của QUAD (12/3/2021) ra thông cáo chung về hai chủ đề chính là đối phó với đại dịch và biến đổi khí hậu, là cuộc họp cấp cao (trực tiếp) của QUAD (24/9/2021). Cuộc họp này đề xuất các sáng kiến quan trọng về y tế (tài trợ sản xuất và phân phối vaccine qua “Nhóm Chuyên gia Vaccine” và “Nỗ lực An toàn Y tế”); về hạ tầng (khởi động “Nhóm Phối hợp Hạ tầng” để xây dựng “Hạ tầng Chất lượng cao”); về biến đổi khí hậu (lập “Mạng lưới Tàu biển xanh” và “Đối tác Năng lượng sạch”).    AUKUS mang dấu ấn của Kurt Campbell (kiến trúc sư “Pivot”, và “Indo-Pacific Coordinator” tại NSC); Ely Ratner (nguyên cố vấn cho Biden, là trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, trưởng nhóm đặc nhiệm về chiến lược mới); Rush Doshi (tác giả “The Long Game”, là Giám đốc Trung Quốc tại NSC); Mira Rapp-Hooper, nguyên cố vấn về Trung Quốc tại Vụ Hoạch định Chính sách Bộ Ngoại giao, làm việc tại NSC. (China whisperers: The US advisers shaping the world’s great rivalry, Emily Tamkin, New Statesman, September 17, 2021). Đây là một nhóm cựu quan chức và học giả về Châu Á tham gia “Team Biden”, chủ trương đối phó với Trung Quốc như “thách thức lớn nhất” đối với Mỹ. Họ đều là học giả tại các trường đại học danh tiếng (Ivy League), cùng tham gia think tank (như CNAS), từng phục vụ trong các chính quyền trước (Clinton và Obama). Họ đều nhận thấy Trung Quốc không giống như người ta among đợi là “trỗi dậy hòa bình”, thông qua tham dự có thể hòa nhập vào trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu, mà Trung Quốc ngày càng quyết đoán và độc tài.   Nếu AUKUS chứng tỏ chủ trương “xoay trục” của Mỹ cuối cùng đang diễn ra, thì vẫn còn thiếu “yếu tố kinh tế” (an economic component) như Kurt Campbell đã từng nhấn mạnh. Tuy QUAD và AUKUS có thể đóng góp rất nhiều, nhưng không thay thế được sự can dự thực tế của Mỹ ở khu vực. Tuy Anthony Blinken đã hứa với lãnh đạo ASEAN (cuối tháng 9/2021) là Mỹ sẽ có chiến lược toàn diện cho Đông Nam Á, nhưng vẫn chưa thấy. (Americas doughnut-shaped Indo-Pacific strategy, Henry Storey, Diplomat, October 18, 2021). Có nhiều lý do để Mỹ tham gia CPTPP, và Trung Quốc là nguyên nhân chính. Nay Trung Quốc đã xin vào CPTPP, nên Mỹ tham gia CPTPP không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì vai trò của Mỹ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Joe Biden tuyên bố đối phó với Trung Quốc là một trong các ưu tiên trong chính sách đối ngoại, nên Mỹ cần một chính sách thương mại mạnh với khu vực, nhưng vào CPTPP vẫn còn nhiều lực cản. (America Must Return to the Trans Pacific Partnership, Wendy Cutler, New York Times, September 10, 2021).  Theo các chuyên gia chiến lược, hiện nay QUAD và AUKUS vẫn còn thiếu các “điều kiện thiết yếu” (critical ingredients) so với thời chiến tranh lạnh, nên chưa đủ mạnh để ngăn chặn các tham vọng của Trung Quốc. AUKUS mới chỉ là những tuyên bố về ý định trong khi nội hàm chính của AUKUS là Úc sẽ mua 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, nhưng đàm phán cụ thể về giá cả và tiến độ vẫn chưa rõ. (The Gaps in the New Regional Security Architecture for the Indo-Pacific, Hanns Maull, Diplomat, October 16, 2021). Thành viên của AUKUS còn bất cập, do thiếu các đối tác quan trọng khác như Canada, New Zealand (nhóm “Five Eyes”) hay Viêt Nam và Indonesia (ASEAN). Anh tham gia AUKUS chủ yếu do ý chí chủ quan (wishful thinking) và tượng trưng (symbolism), chứ chưa phải là cố gắng nghiêm túc (serious effort). Khẩu hiệu “Nước Anh toàn cầu” (Global Britain) về cơ bản phản ánh ý định của Thủ tướng Boris Johnson muốn đánh lạc hướng dư luận (escapism) vì động cơ chính trị, chứ chưa chắc là chính sách an ninh khu vực của Anh. AUKUS và QUAD dù có được “nhất thể hóa” (integrated) thì cả hai thực thể này còn thiếu khuôn khổ cần thiết để xây dựng cơ chế an ninh khu vực Indo-Pacific đủ mạnh nhằm ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy. Trong khi Pháp (một cường quốc Indo-Pacific) bị gạt ra ngoài, thì Ấn Độ (không liên kết) vẫn chưa sẵn sàng tham gia một liên minh quân sự với Mỹ. Nói cách khác, cấu trúc an ninh khu vực Indo-Pacific cần được làm sâu sắc hơn. Vì vậy, câu chuyện QUAD và AUKUS chỉ là bước đầu, và là “phần nổi của tảng băng chìm”. Lời cuối Theo giáo sư Andrew Erickson (CMSI, Naval War College), trong 5 năm tới, Trung Quốc phải quyết định có tấn công Đài Loan hay không, vì quyền lực của Trung Quốc và Tập Cận Bình đã lên tới đỉnh cao, trong khi Đài Loan như “quả táo chín dễ hái”, nếu bỏ qua sẽ mất cơ hội vàng. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và phương Tây đang đau đầu nghĩ cách đối phó với “thách thức lớn nhất của thế kỷ 21 về đối ngoại”.  (A Dangerous Decade of Chinese Power Is Here, Andrew Erickson, Foreign Policy, October 18, 2021). Trong cuốn “Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific” (APCSS, September 2020), giáo sư Alexander Vuving cho rằng tuy tình hình Biển Đông rất nguy hiểm, nhưng khó rơi vào “bẫy Thucydides” như giáo sư Graham Allison dự đoán, vì nó theo quy luật “chicken game” (trọi gà) chứ không phải “Prisoner’s dilemma” (nan đề tù nhân). Nhưng tình hình eo biển Đài Loan hiện nay lại là một câu chuyện khác, và là một yếu tố hệ trọng trong bàn cờ Indo-Pacific, mà AUKUS là một nước cờ thế. Tham khảo 1. America Must Return to the Trans Pacific Partnership, Wendy Cutler, New York Times, September 10, 2021 2. China whisperers: The US advisers shaping the world’s great rivalry, Emily Tamkin, New Statesman, September 17, 2021 3. Fact Sheet: Quad Leaders Summit, The White House, September 24, 2021  4. AUKUS Is Good for Australia, Simon Cowan, American Conservative, September 24, 2021 5. SSN vs SSK, Hugh White, Lowy Interpreter, September 29, 2021 6. AUKUS shows beginnings of U.S. Indo-Pacific strategy, Susannah Patton, Ashley Townshend and Tom Corben, Nikkei Asia Review, October 1, 2021 7. The future of Australia's middle-power diplomacy after AUKUS, Thomas Parks, AsiaLink Insight, October 7, 2021 8. AUKUS Is a Short-Term Mess but a Long-Term Win for Australia, Alexander Vuving, Foreign Policy, October 11, 2021 9. AUKUS: Why Beijing didn’t go ballistic, Jia Deng, Lowy Interpreter, October 14, 2021 10. The Gaps in the New Regional Security Architecture for the Indo-Pacific, Hanns Maull, Diplomat, October 16, 2021 11. America’s doughnut-shaped Indo-Pacific strategy, Henry Storey, Diplomat, October 18, 2021 12. A Dangerous Decade of Chinese Power Is Here, Andrew Erickson, Foreign Policy, October 18, 2021   NQD. 19/10/2021 Nguồn: https://www.viet-studies.com/kinhte/NQuangDy_AUKUS_Quad.html  
......

Đài Loan và Biển Đông trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung

Nguyễn Quang Dy| Gần hai năm qua, Mỹ và thế giới phải tập trung đối phó với đại dịch Covid-19, với tổn thất nặng nề, làm hơn 664.000 người Mỹ chết. Trung Quốc đã nhân cơ hội đó gia tăng sức ép tại eo biển Đài Loan và Biển Đông, đặc biệt sau khi Mỹ rút quân khỏi Afghanistan, làm chính quyền Kabul sụp đổ nhanh chóng trước Taliban, như “Cú sốc Việt Nam” năm 1975. Tiếp theo bài AUKUS và QUAD trong chiến lược Indo-Pacific (Viet-studies, 19/10/2021), bài này sẽ phân tích vấn đề Đài Loan và Biển Đông trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung.       Hai thùng thuốc súng   Dù có phải “thuyết âm mưu” (conspiracy theory) hay không, Trung Quốc đã tranh thủ tối đa “cơ hội trời cho” (windfall) để gia tăng sức ép tại Đài Loan và Biển Đông. Ngày 4/10 là đỉnh điểm khi 49 máy bay của Trung Quốc đã xâm phạm vùng nhận diện phòng không (ADIZ) của  Đài Loan. Để đối phó với trò chơi “bên niệng hố chiến tranh” của Trung Quốc, Mỹ đã cùng với đồng minh Anh và Úc lập ra “AUKUS” (15/9) và họp thượng đỉnh “QUAD” tại Washington (24/9), như một nước cờ thế mới trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung.      Đài Loan và Biển Đông là hai lò lửa chiến tranh như hai “thùng thuốc súng” (power keg) trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhưng xét về thứ tự ưu tiên trong “lợi ích cốt lõi” (core interests) của Trung Quốc thì Đài Loan quan trọng hơn Biển Đông. Trong khi Đài Loan thuộc “vòng tròn đồng tâm thứ nhất” (first concentric circle) và “chuỗi đảo thứ nhất” (first iseland chain), trong “chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực” (Anti-Access/ Area Denial) thì Biển Đông thuộc “vòng tròn đồng tâm thứ hai”. Xét về mặt địa lý và dân tộc, thì Trung Quốc coi Đài Loan (cũng như Hongkong) là “một tỉnh của Trung Quốc”, và người Đài Loan là một bộ phận của dân tộc Trung Hoa. Sau khi thất bại trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc, thì Quốc Dân Đảng đã rút chạy ra Đài Loan. Vì vậy, Trung Quốc coi việc “thống nhất” (hay thôn tính) Đài Loan là mục tiêu chính đáng và “chỉ là vấn đề thời gian”. Trong khi đó, “Biển Đông chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc”, và dân tộc Việt Nam “chưa bao giờ bị đồng hóa” bởi người Hán ở Trung Quốc. Trung Quốc coi diễn biến tại Afghanistan là một đòn mạnh giáng vào uy tín của Mỹ, làm tổn hại cho cam kết “nước Mỹ trở lại” của Joe Biden. Trước sự hỗn loạn tại Kabul, Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn nói (18/8) “Đài Loan không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tăng cường sức mạnh quốc phòng”. Theo bà, “Đây không phải là một sự lựa chọn dành cho Đài Loan khi không làm gì và chỉ dựa vào sự bảo vệ của người khác”. Nếu nhìn ngược lại lịch sử từ chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Trung Quốc tuy rất ngang ngược nhưng chưa bao giờ tiến hành chiến tranh mà qua mặt Mỹ. Trong cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô trước đây, Mỹ và Trung Quốc đã bắt tay nhau (“Shanghai Communique” năm 1972).  Trong cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt (2/1979) Đặng Tiểu Bình đã sang Mỹ gặp Tổng thống Carter để vận động Mỹ ủng hộ, hoặc làm ngơ… Nhưng nay thời thế đã thay đổi. Tập Cận Bình đang đứng đầu bộ máy quân sự mạnh nhất lịch sử Trung Quốc. Một số chuyên gia lập luận rằng Tập đã chuẩn bị hậu trường để làm “hoàng đế Trung Hoa” thêm khóa thứ ba (từ 2022), nên có thể muốn chinh phục Đài Loan “để làm vương miện”. (Starting a Fire: US and China Enter Dangerous Territory Over Taiwan, Chris Buckley & Steven Lee Myers, New York Times, October 9, 2021). Phản ứng của Mỹ    Đây không phải lần đầu Trung Quốc dọa chiếm Đài Loan. Trong cuộc “khủng hoảng tên lửa eo biển Đài Loan” (1995-1996), khi Mỹ phản ứng mạnh, đưa hai tàu sân bay đến eo biển Đài Loan thì Trung Quốc đã xuống thang. Theo Bà Thái Anh Văn, “Đài Loan đứng trên tuyến đầu của tranh chấp toàn cầu giữa nền dân chủ tự do và chủ nghĩa chuyên chế…Nếu Đài Loan sụp đổ thì hậu quả rất tai hại với hòa bình khu vực và nền dân chủ. (Taiwan and the Fight for Democracy, Tsai Ing-wen, Foreign Affairs, November/December 2021). Trước nguy cơ Đài Loan bị tấn công, Tổng thống Biden nói “Có, chúng ta có một cam kết phải thực hiện điều đó”. Nhưng theo người phát ngôn Nhà Trắng, “Không có thay đổi nào trong chính sách của chúng ta… Chúng ta sẽ giữ vững cam kết của mình theo đạo luật “Quan hệ Đài Loan”. Có thể nói đến nay, Washington vẫn theo đuổi chính sách “mơ hồ chiến lược” (strategic ambiguity). (Mỹ sẽ đến bảo vệ Đài Loan, VOA, 22/10/2021).   Theo một báo cáo của CNAS (26/10/2021), Quân đội Trung Quốc có thể chiếm đảo Taiping (Pratas) tại Biển Đông do Đài Loan kiểm soát, và biến đảo này thành một tiền đồn. Các chuyên gia cho rằng Mỹ có thể chơi trò “chọi gà” (chicken game) với Trung Quốc ở Pratas, nhưng nếu không có Nhật hỗ trợ thì vị thế của Mỹ và Đài Loan sẽ suy yếu. Theo các chuyên gia, đây là thế “lưỡng nan” (dilemma) của Lầu Năm Góc (In Taiwan war game, few good options for US to deter China, Dan Lamothe, Washington Post, October 26, 2021). Theo Elbridge Colby (nguyên phó trợ lý bộ trưởng Quốc phòng) Trung Quốc đã dành 25 năm để xây dựng quân đội hiện đại, chủ yếu nhằm chiếm Đài Loan…Trung Quốc hoàn toàn có khả năng chiếm Đài Loan vào năm 2025.  Xét khả năng xảy ra xung đột lớn, nơi nguy hiểm nhất thế giới hiện nay chính là Đài Loan. Để tránh xung đột, Mỹ phải hành động nhanh để răn đe Bắc Kinh. Ưu tiên cấp bách là Đài Loan phải nâng cấp hệ thống phòng thủ. Mỹ cần thay thế “sự mơ hồ chiến lược” bằng đảm bảo cứng rắn hơn đối với Đài Loan(The Fight for Taiwan Could Come Soon, Elbridge Colby, Wall Street Journal, October 27, 2021).    Trong cuốn sách The Strategy of Denial: American Defense in an Age of Great Power Conflict”, Elbridge Colby cũng cho rằng trong bất cứ tình huống xung đột nào giữa Mỹ và Trung Quốc, chắc sẽ khởi đầu từ Đài Loan. Theo Elbridge Colby, Mỹ không phải chỉ cần bảo vệ Đài Loan mà còn phải cùng với đồng minh để chiến thắng và có thể ngăn chặn được xung đột leo thang vượt ra khỏi phạm vi Biển Đông. (As the US and China continue to posture, the key will be Taiwan, Clyde Prestowitz, Washington Post, October 29, 2021). Theo sử gia Niall Ferguson (Hoover Institution, Stanford University), cuộc chiến tranh lạnh lần thứ hai có “một giai đoạn nóng”, và nơi có thể xảy ra xung đột chính là Đài Loan. Điều đó có thể xảy ra sớm vì Tập Cận Bình biết rằng đối đầu với Mỹ tuy rất rủi ro, nhưng đây là thời điểm tốt nhất để làm điều đó, vì Mỹ thiếu khả năng răn đe về Đài Loan. Bắc Kinh cho rằng hành động ngay bây giờ tốt hơn là chờ thêm 10 năm nữa. (Will Xi move on Taiwan? History warns he might: Niall Ferguson, Mikio Sugeno, Nikkei, September 10, 2021).   Đài Loan và “bẫy Thucydides”  Trong cuốn Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific (do giáo sư Alexander Vuving chủ biên và APCSS xuất bản (9/2020), tác giả cho rằng Biển Đông tuy nguy hiểm, nhưng khó rơi vào “bẫy Thucydides” như giáo sư Graham Allison dự báo, vì nó theo quy luật “chọi gà” (chicken game) chứ không phải “thế lưỡng nan của tù nhân” (prisoner’s dilemma). Nếu eo biển Đài Loan nguy hiểm nhưng cũng theo quy luật “chọi gà”, thì hy vọng sẽ không rơi vào “bẫy Thcydides”, tức chiến tranh không phải tất yếu. Theo các chuyên gia, ảo tưởng về thắng lợi của nền dân chủ tự do và sự lỗi thời của đối đầu nước lớn, đã thúc đẩy các chính quyền Dân Chủ và Cộng Hòa theo đuổi chủ trương “can dự” (engagement) giúp Trung Quốc giàu mạnh. Mỹ đã tăng cường đầu tư vào Trung Quốc và cho họ vào hệ thống thương mại toàn cầu (WTO), tưởng Trung Quốc sẽ trở thành một nền dân chủ và “một thành viên có trách nhiệm” trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu. Nhưng ảo tưởng đó không thành hiện thực, vì Mỹ đã ngộ nhận về bản chất của Trung Quốc. Tại Châu Á, không có ranh giới rõ ràng nào chứng tỏ “bức màn sắt” (Iron Curtain) của Trung Quốc sẽ duy trì được ổn định. Ngược lại, một số cuộc xung đột tiềm ẩn ở khu vực, tuy có giới hạn và chỉ sử dụng vũ khí thông thường, nhưng đã làm cho chiến tranh “có thể” (thinkable). Đó là những cuộc chiến nhằm kiểm soát Đài Loan, Biển Đông, và quần đảo Điếu ngư (Senkaku Islands). (The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics, John  Mearsheimer, Foreign Affairs, November/December 2021).   Trong mấy thập kỷ qua, Trung Quốc đã lợi dụng sự ngộ nhận của Mỹ để “giấu mình chờ thời” và tranh thủ trỗi dậy trở thành siêu cường. Nay Tập Cận Bình cho rằng Trung Quốc đã đủ mạnh để cạnh tranh với Mỹ, mà không cần “giấu mình chờ thời”. Những kế hoạch đầy tham vọng mang dấu ấn Tập Cận Bình đã làm nước Mỹ giật mình tỉnh ngộ. Đó là sáng kiến “Vành đai Con đường” (BRI) để thao túng thế giới, chiến lược “Made in China 2025” để vươn lên ngang hàng với Mỹ, và chiến lược “Đường Lưỡi Bò” để thâu tóm Biển Đông và gạt Mỹ ra khỏi khu vực bằng “vùng xám” (grey area), với hạm đội “dân quân biển”. Đó chính là sự khác biệt giữa Biển Đông và Đài Loan. Trong khi Trung Quốc dùng “vùng xám”  và “dân quân biển” một cách hiệu quả để kiểm soát Biển Đông và gạt Mỹ ra khỏi khu vực, họ không triển khai “vùng xám” và “dân quân biển” tại eo biển Đài Loan. Trung Quốc không muốn chiến sự nổ ra tại Biển Đông, vì không muốn đối đầu với Mỹ. Theo binh pháp Tôn Tử, họ chỉ muốn dùng “cờ vây” để áp đảo đối phương. Nhưng nếu chiến sự nổ ra tại eo Biển Đài Loan, thì đó sẽ là một cuộc “chiến tranh thông thường” (conventional war). Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ vẫn có căn cứ quân sự và lực lượng mạnh (gồm không quân, hải quân, tên lửa, và lính thủy đánh bộ) đóng tại Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng không có lực lượng thường trực như vậy đóng tại các nước ASEAN. Tại sao cán cân lực lượng (balance of forces) và cơ cấu an ninh (security architechture) ở hai khu vực này khác nhau như vậy? Phải chăng vì Trung Quốc và Mỹ đều coi trọng Đài Loan và Đông Bắc Á hơn? Dù muốn hay không, đó là những thực tế khó phủ nhận trong bàn cờ chiến lược nước lớn. Thay lời kết  Nói cách khác, xét về lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, Đài Loan quan trọng hơn Biển Đông. Xét về cam kết của Mỹ với đồng minh, thì Đài Loan và Đông Bắc Á cũng quan trọng hơn, không chỉ vì bán đảo Triều Tiên, mà còn vì cam kết của Mỹ đối với Nhật Bản và Hàn Quốc là hai đồng minh quan trọng nhất ở Đông Á. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là Biển Đông kém quan trọng hơn Đài Loan, mà phải đặt cả hai trong tầm nhìn chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, với AUKUS và QUAD để kết nối mạng lưới đồng minh.    Nhưng trong mấy năm tới, dù căng thẳng đến đâu, Mỹ và Trung Quốc chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến thực sự, tuy có thể đe dọa “bên miệng hố chiến tranh” (war brinkmanship) để thử gân nhau. Theo Reuters (7/10) trước căng thẳng tại eo biển Đài Loan, Mỹ và Trung Quốc đã thỏa thuận về nguyên tắc để lãnh đạo hai nước gặp nhau (trực tuyến) vào cuối năm. Tiếp theo điện đàm giữa Joe Biden và Tập Cận Bình (9/9), Jake Sullivan (cố vấn an ninh quốc gia) và Dương Khiết Trì (đặc trách đối ngoại) vừa gặp nhau tại Thụy Sĩ (26/10). Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã xô đẩy thế giới vào khủng hoảng y tế và kinh tế toàn cầu, với những hệ quả khó lường, nên đối đầu Mỹ-Trung cũng buộc phải điều chỉnh theo một cách tương ứng và linh hoạt. Nói cách khác, như Ngoại trưởng Anthony Blinken đã tuyên bố, “Quan hệ của chúng ta với Trung Quốc sẽ là cạnh tranh khi cần, hợp tác khi có thể, và đối đầu khi bắt buộc” (A Foreign Policy for the American People, March 3, 2021). Tham khảo 1. A Foreign Policy for the American People, Anthony Blinken, Department of State, Washington, D.C, March 3, 2021 2. Taiwan and the Fight for Democracy, Tsai Ing-wen, Foreign Affairs, November/December 2021 3. The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics, John  Mearsheimer, Foreign Affairs, November/December 2021 4. As the US and China continue to posture, the key will be Taiwan, Clyde Prestowitz, Washington Post, October 29, 2021 5. The Fight for Taiwan Could Come Soon, Elbridge Colby, Wall Street Journal, October 27, 2021   6. In Taiwan war game, few good options for US to deter China, Dan Lamothe, Washington Post, October 26, 2021 7. Mỹ sẽ đến bảo vệ Đài Loan, VOA, October 22, 2021 8. Starting a Fire: US and China Enter Dangerous Territory Over Taiwan, Chris Buckley & Steven Lee Myers, New York Times, October 9, 2021 9. Will Xi move on Taiwan? History warns he might: Niall Ferguson, Mikio Sugeno, Nikkei Asia, September 10, 2021 NQD. 01/11/2021 Nguồn: https://boxitvn.blogspot.com/2021/11/ai-loan-va-bien-ong-trong-ban-co-chien.html   Xem thêm: AUKUS và QUAD trong chiến lược Indo-Pacific https://www.viettin.de/content/aukus-v%C3%A0-quad-trong-chi%E1%BA%BFn-l%C6%B0%E1%BB%A3c-indo-pacific  
......

Đối đầu Anh – Pháp khiến Mỹ và phương Tây lo lắng

Tác giả: GIDEON RACHMAN Đây là tuần mà Boris Johnson phải kêu gọi thế giới đoàn kết chống lại biến đổi khí hậu. Nhưng vị thủ tướng Anh tham dự COP26 trong khi bị phân tâm bởi một cuộc tranh cãi gay gắt với Pháp về vấn đề đánh cá. “Bắn tỉa” và cạnh tranh nhau giữa Anh và Pháp đang trở thành một vấn đề quốc tế nghiêm trọng. Hội nghị thượng đỉnh G7 hồi tháng 6 diễn ra trong bối cảnh một tranh chấp khác giữa Pháp và Anh – lúc đó là về vấn đề Bắc Ireland. Mọi bất đồng nhỏ giữa hai nước dường như đều leo thang thành một cuộc cãi vã đầy những lời đe dọa và lăng mạ. Vấn đề cơ bản không phải là cá, hay Bắc Ireland. Mà là về Brexit. Nói một cách đơn giản, Johnson muốn Brexit thành công trong khi Emmanuel Macron, tổng thống Pháp, lại muốn nó thất bại. Một bức thư bị rò rỉ của thủ tướng Pháp Jean Castex gửi cho Ủy ban châu Âu đề xuất rằng điều quan trọng là phải chứng minh cho dư luận châu Âu thấy chi phí khi rời EU lớn hơn so với việc ở lại. Người Anh coi đây là bằng chứng cho thấy Paris đang tìm cách trừng phạt Anh vì Brexit. Người Pháp cho rằng đây là một cách cố tình hiểu sai đầy ác ý. Việc chính phủ Anh háo hức diễn giải theo cách tồi tệ nhất có thể về bức thư nói lên nhiều điều. Mặc dù Johnson đang thăng hoa sau hội nghị thành công của đảng Bảo thủ, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy công chúng Anh đang đi đến kết luận rằng Brexit là một sai lầm. Trả lời cho câu hỏi, “Bạn nghĩ Anh rời EU là đúng hay sai”, 49% trả lời là sai và 38% trả lời là đúng. Một cuộc thăm dò khác gần đây cho thấy 53% số người trả lời tin rằng Brexit đã dẫn đến giá cả cao hơn. Những thay đổi này trong quan điểm của công chúng có thể gây rắc rối cho Johnson, đặc biệt nếu lạm phát và tình trạng thiếu hụt hàng hóa trở nên tồi tệ hơn trong mùa đông. Điều đó làm cho một cuộc đụng độ với Macron trở nên quá hấp dẫn. Nếu người Pháp thực hiện lời đe dọa làm chậm lưu lượng hàng hóa của Anh qua các cảng bên kia eo biển, bất kỳ sự thiếu hụt nào sau đó có thể được đổ lỗi cho tư tưởng trừng phạt Anh của người Pháp hơn là những khiếm khuyết cố hữu của Brexit. Chính phủ Anh dường như cũng đang chuẩn bị thực hiện các thay đổi đơn phương đối với giao thức Bắc Ireland, một phần của thỏa thuận Brexit. Một cuộc tranh cãi với Pháp có thể cho phép Johnson tuyên bố những thay đổi đó là nhằm phản ứng với sự cứng rắn của Pháp, chứ không phải là một hành động thiếu thiện chí của Anh. Macron, giống như Johnson, cũng đang chịu áp lực chính trị dữ dội. Ông phải đối mặt với một cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Tư năm sau. Eric Zemmour, ngôi sao đang lên của cánh hữu, đã liên tục khẳng định “người Anh đã thắng trong trận chiến Brexit”. Macron cần phải dập tắt ý tưởng đó. Việc ký Aukus – một hiệp ước an ninh được đàm phán bí mật giữa Úc, Anh và Mỹ – đã giáng một đòn nặng nề vào Pháp. Một quan chức Mỹ nói: “Pháp tin rằng Brexit đã khiến Anh trở nên không còn quan trọng, và chúng tôi (người Mỹ) sẽ bỏ qua London. Sau đó, họ phát hiện ra chúng tôi đã thực hiện một thỏa thuận bí mật với người Anh, sau lưng họ ”. Sự tức giận của Pháp càng tăng lên khi mất hợp đồng quốc phòng có giá trị lớn với Australia. Áp lực mà chính phủ Macron đang phải chịu được phản ánh qua giọng điệu hơi cuồng loạn của một số trao đổi gần đây. Clément Beaune, Bộ trưởng Châu Âu của Pháp, khẳng định rằng ngôn ngữ duy nhất mà người Anh hiểu là vũ lực. Rõ ràng cần phải làm gì đó để giải tỏa những căng thẳng này theo cách có thể kéo dài hơn mức một vài tuần. Ben Judah thuộc viện nghiên cứu chính sách Hội đồng Đại Tây Dương, người mang hai quốc tịch Pháp-Anh, đưa ra đề xuất sáng tạo rằng hai nước nên thành lập một ủy ban chung gồm các đại diện để vạch ra một kế hoạch hòa giải song phương. Trong một thế giới lý tưởng, một sáng kiến như vậy có thể mở đường cho một “Entente Cordiale” mới – thỏa thuận hồi năm 1904 vốn giúp xoa dịu một giai đoạn kình địch giữa Anh và Pháp trước đó. Nhưng cả London và Paris dường như đều không sẵn sàng khắc phục mọi thứ. Peter Ricketts, cựu đại sứ Anh tại Paris, dự đoán rằng sẽ có thêm vài năm “bắn tỉa” trước khi quan hệ cuối cùng được cải thiện. Liên minh phương Tây không thể chấp nhận được điều đó. Quan hệ độc hại giữa Anh và Pháp có khả năng lây lan và nhiễm vào NATO, G7 và các cuộc đàm phán quốc tế về mọi thứ, từ biến đổi khí hậu đến thương mại. Xung đột Anh-Pháp cũng sẽ khiến việc hình thành các lập trường chung của phương Tây trong các cuộc tranh chấp với Trung Quốc và Nga trở nên khó khăn hơn. Thomas Wright thuộc Viện Brookings lo ngại rằng Anh và Pháp có nguy cơ biến thành “Nhật Bản và Hàn Quốc của châu Âu” – hai đồng minh thân cận của Mỹ nhưng cũng là đối thủ gay gắt của nhau. Ở châu Á, Mỹ đã cố gắng xây dựng cầu nối giữa Tokyo và Seoul. Bây giờ có thể đã đến lúc Washington thực hiện vai trò tương tự giữa London và Paris. Người Mỹ cần dẹp bỏ ảo tưởng của cả hai bên. Người Anh cần hiểu rằng Mỹ coi EU là một đối tác quan trọng và sẽ không từ bỏ Brussels chỉ vì không gian “Anglosphere”. Người Pháp cần chấp nhận rằng Mỹ cần nước Anh hậu Brexit thành công và sẽ không coi Anh là một quốc gia bất hảo. Khả năng đóng vai “người môi giới trung thực” của Mỹ đã trở nên phức tạp hơn sau thỏa thuận Aukus. Nhưng Biden có vẻ đã thực sự hối hận về việc qua mặt nước Pháp và đã nhanh chóng tiến hành các biện pháp nhằm khắc phục hậu quả. Thực tế, việc cả Macron và Johnson đều coi trọng mối quan hệ thân thiết của họ với Biden tạo cơ hội cho Mỹ. Nói theo ngôn ngữ tư vấn hòa giải, người Mỹ cần phải “dàn xếp một sự can thiệp”. Họ nên cố gắng thuyết phục người Anh và người Pháp từ bỏ những mối đe dọa kỳ quặc nhất của họ và hợp tác với nhau vì lợi ích của bản thân cũng như lợi ích của phương Tây nói chung. ----- * Nguồn tiếng Anh: Gideon Rachman, “UK-French rivalry puts the west at risk”, Financial Times, 01/11/2021. Biên dịch: Phan Nguyên. ** Nguồn tiếng Việt: http://nghiencuuquocte.org/.../doi-dau-anh-phap-khien.../...  
......

Chuyên gia nhân quyền LHQ kêu gọi Việt Nam trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang

Trọng Thành - RFI Các chuyên gia độc lập về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc hôm 29/10/2021 đã kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho bà Phạm Đoan Trang, nhà tranh đấu nhân quyền, đang phải đối mặt với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” với án tù lên đến 12 năm. Theo thông báo của Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, có trụ sở tại Genève, nhóm các báo cáo viên đặc biệt và chuyên gia độc lập về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc cho biết bà Phạm Đoan Trang là “nạn nhân mới nhất của việc chính quyền sử dụng các cáo buộc mơ hồ về tội tuyên truyền chống Nhà nước, để bắt bớ các nhà văn, nhà báo, nhà bảo vệ nhân quyền, hình sự hóa việc thực hiện quyền tự do phát biểu ý kiến ​​và chia sẻ thông tin của họ.” Bà Phạm Đoan Trang đang bị giam tại Trại tạm giam số 1 Hà Nội. Bà bị bắt vào tháng 10/2020. Theo nhóm chuyên gia độc lập, bà Trang bị tạm giam hơn một năm trước khi được phép gặp luật sư, và không được phép tiếp xúc với gia đình. Phiên tòa xét xử bà Phạm Đoan Trang ban đầu dự kiến ​​diễn ra vào ngày 4/11 đã bị hoãn, có khả năng sẽ diễn ra trong những tuần tới. Nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc cho biết các cáo buộc chống lại bà Phạm Đoan Trang xuất phát từ ít nhất ba báo cáo nhân quyền, mà bà là đồng tác giả, cũng như các trả lời phỏng vấn với một số hãng truyền thông nước ngoài. Ba báo cáo bao gồm báo cáo về thảm họa môi trường biển Formosa năm 2016 (liên quan đến công ty Đài Loan Formosa), luật về tôn giáo năm 2016, và về các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam nói chung. Các chuyên gia nhận định, “như chúng tôi đã nhiều lần cho biết trước đây, Điều 88 của Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, mà bà Phạm Đoan Trang bị buộc tội, được định nghĩa một cách mơ hồ và vi phạm các chuẩn mực nhân quyền quốc tế.” Các chuyên gia một lần nữa “kêu gọi chính phủ (Việt Nam) bãi bỏ tất cả các điều khoản xâm phạm quyền tự do ngôn luận'” Các chuyên gia cho biết, việc bắt và giam giữ một cá nhân thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình để báo cáo về các vấn đề nhân quyền là tước đoạt tùy tiện quyền tự do của người dân theo luật pháp quốc tế về nhân quyền.  Liên Hiệp Quốc đã khẳng định việc chính quyền Việt Nam giam giữ bà Phạm Đoan TranNhóm Công tác về Bắt giữ Tùy tiện củag là “tùy tiện” trong thông báo “Opinion ​​40/2021″ ban hành tháng 9/2021. Các chuyên gia “vô cùng lo ngại rằng các báo cáo ghi lại những quan ngại về nhân quyền đang được sử dụng chống lại những người bảo vệ nhân quyền, được sử dụng làm bằng chứng (chống lại họ) trong phiên tòa hình sự,” và “điều này có thể gây ra những hậu quả sâu rộng và củng cố bầu không khí sợ hãi ở Việt Nam, dẫn đến việc tự kiểm duyệt và ngăn cản những người khác hợp tác với Liên Hiệp Quốc.” Hoạt động của các báo cáo viên đặc biệt và các chuyên gia độc lập nằm trong “các Thủ tục Đặc biệt” của Hội đồng Nhân quyền, tên gọi chung để chỉ cơ chế giám sát độc lập của cơ quan Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Các chuyên gia về “các Thủ tục Đặc biệt” không phải là nhân viên Liên Hiệp Quốc, làm việc tự nguyện và không nhận lương. Công việc của các chuyên gia nói trên độc lập với bất kỳ chính phủ hoặc tổ chức nào. Về sức khỏe của bà Phạm Đoan Trang, theo nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc, bà Phạm Đoan Trang mới được điều trị y tế gần đây bất chấp sức khỏe của bà Trang ngày càng giảm sút. Các chuyên gia kêu gọi các cơ quan chức năng trước mắt cho phép bà Phạm Đoan Trang nhận được tất cả các chăm sóc y tế cần thiết. Trọng Thành Nguồn: RFI  
......

10 tổ chức vận động nhân quyền kêu gọi EU trừng phạt Tô Lâm và Nguyễn Hòa Bình

Việt Tân| Đảng Việt Tân, Hội Anh Em Dân Chủ cùng 8 tổ chức vận động nhân quyền kêu gọi Liên Minh Châu Âu, thông qua Đạo Luật Magnitsky Châu Âu, trừng phạt Bộ Trưởng Bộ Công An Tô Lâm và Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Nguyễn Hòa Bình vì hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Trong ngày 27 tháng Mười, 2021, ông Trần Sơn, đại diện Đảng Việt Tân và Luật Sư Nguyễn Văn Đài, đại diện Hội Anh Em Dân Chủ đã được mời đến trụ sở của European External Action Service – EEAS tức Cơ Quan Ngoại Giao của Liên Minh Châu Âu, tại Bruxelles, Vương Quốc Bỉ. Tại đây các ông đã có buổi làm việc với ông Johan Sorensen, giới chức phụ trách về các vấn đề Việt Nam và bà Alva Bruun, giới chức phụ trách về các vấn đề nhân quyền. Đại diện của Đảng Việt Tân và Hội Anh Em Dân Chủ đã trao cho các giới chức Liên Minh Châu Âu hồ sơ chứng cứ hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của hai quan chức CSVN nầy cùng một báo cáo về tình trạng Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam 2021. Hai tập tài liệu này đã được 10 tổ chức vận động cho nhân quyền Việt Nam và quốc tế phối hợp thực hiện. Theo ông Trần Sơn, giới chức của EEAS cho biết vào đầu tháng Chín, Chủ Tịch Ủy Ban Châu Âu (European Commission) bà Ursulla Von der Layen đã nêu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam với Chủ Tịch Quốc Hội CSVN Vương Đình Huệ khi ông này đến Bruxelles. Liên Minh Châu Âu đang dùng tất cả phương tiện có trong tay để tạo áp lực lên CSVN và Luật Magnitsky là một trong những phương tiện đó. Vì vậy hai tập tài liệu về tình hình Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam 2021 và chứng cứ hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của hai quan chức CSVN nầy rất hữu dụng cho EEAS. Các tổ chức cũng thực hiện thỉnh nguyện thư kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ký tên để yêu cầu Hội Đồng Liên Minh Châu Âu trừng phạt hai quan chức cao cấp nầy của CSVN theo Đạo Luật Magnitsky Châu Âu. Link ký thỉnh nguyện thư: Link: https://chng.it/hpw4dYTwYt   XEM THÊM: EU thông qua một chế độ trừng phạt nhân quyền toàn cầu Liên Minh Châu Âu thông qua đạo luật Global Magnitsky  
......

Fanpage của ba đài RFA, VOA và BBC bất ngờ bị đổi tên

Ảnh chụp màn hình giao diện trang Facebook của 3 đài khi bị đổi tên RFA| Sáng ngày 30-10-2021, cả ba trang Facebook Việt ngữ của các đài lớn như Đài Á Châu Tự Do, VOA Tiếng Việt, BBC News Tiếng Việt đều đồng loạt bị đổi tên. Đài Á Châu Tự Do bị đổi thành "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm", BBC News Tiếng Việt bị chuyển thành "Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại" và VOA Tiếng Việt lại trở thành "Đông Lào Muôn Năm". Cả ba đài Việt ngữ này nhiều lần bị báo chí trong nước cho là các "trang báo thiếu thiện chí" đối với chính quyền Việt Nam, riêng RFA hiện có ba cộng tác viên, blogger đang bị cầm tù là các ông Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Tường Thụy và Trương Duy Nhất. Cả ba trang đều ngay lập tức có thông báo về việc tên trang bị đổi. VOA thông báo trên trang Facebook của mình như sau: "Vào khoảng 10 giờ tối ngày 29 tháng 10, giờ miền Đông Hoa Kỳ, trang Facebook của VOA Tiếng Việt bị “hack”, và bị đổi tên thành "Đông Lào Muôn Năm.” VOA Tiếng Việt đang liên lạc Facebook để lấy lại tên cũ, tăng cường bảo mật. Xin cáo lỗi cùng quý độc giả về sự cố này." Khoảng một đến hai giờ sau, các trang này đều lấy lại được tên như cũ và phối hợp với Facebook để khắc phục sự việc. Trong bài viết trên báo Nhân Dân - cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam hồi năm 2020 với tiêu đề "VOA, RFA vẫn tiếp tục chống phá Việt Nam" cho rằng, "bên cạnh việc đề nghị chính quyền cùng cơ quan chức năng của Mỹ cần chấn chỉnh hoạt động của VOA, RFA sao cho phù hợp với các nguyên tắc, quan điểm của nước Mỹ với Việt Nam; thì mặt khác, chúng ta cần tiếp tục đấu tranh vạch trần thái độ, mưu đồ, mọi thủ đoạn của VOA và RFA." Trang Chính trị Việt Nam chuyên đăng các tin ủng hộ Chính phủ chạy dòng tít "Sốc: Trang RFA chuyên chống phá Việt Nam bất ngờ đổi tên thành "Đảng Cộng Sản Việt Nam Muôn Năm". Một độc giả trên Facebook của đài RFA bình luận: “Hacker giỏi thế hack giúp tiền hỗ trợ COVID cho người dân đi, chờ từ năm ngoái đến giờ”. Một buổi hội thảo của Lực lượng 47 ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tỉnh. Ảnh: huyện Hương Khê. Việt Nam có lực lượng dư luận viên hùng hậu lên đến hàng chục ngàn người của cả quân đội và công an được cho là "vừa hồng vừa chuyên, kiên định lập trường, có trình độ, kỹ năng sử dụng công nghệ cao” Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam hồi năm 2016 cho thành lập Lực lượng 47 nhằm chống các "quan điểm sai trái" trên mạng Internet tại Việt Nam. Đến năm 2018, Bộ Quốc phòng tiếp tục cho ra mắt Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng, ngoài việc "tham gia bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia" tổ chức này còn có nhiệm vụ "đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình trên không gian mạng; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc cả trên đất liền, trên không, trên biển và không gian mạng." Hồi năm ngoái, nhóm bảo mật của Facebook cho biết nhóm hacker APT32 (Ocean Lotus - Sen Biển) do chính phủ Việt Nam hậu thuẫn đã lan truyền mã độc nhắm vào các nhà hoạt động Việt Nam, các chính phủ nước ngoài, các cơ quan báo chí, cùng các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp. Tháng 10 này, báo chí quốc tế dẫn nguồn thạo tin cáo buộc Giám đốc điều hành của Facebook là Mark Zuckerberg đã đích thân chấp nhận yêu cầu mạnh mẽ của Hà Nội trong việc giới hạn những bài đăng bị cho ‘chống Nhà nước’. Theo AFP, mạng xã hội khổng lồ Facebook trong những năm qua trở thành một diễn đàn phổ biến cho giới hoạt động tại đất nước cộng sản này khi mà truyền thông độc lập bị cấm tiệt. Thế nhưng những tiếng nói chỉ trích trên mạng này trong thời gian sau này là mục tiêu bị ngăn chặn. https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/fanpages-of-three-media-rfa-voa-bbc-have-all-been-renamed-by-tricker-10302021012604.html
......

Nghị viên Âu Châu thông qua nghị quyết ủng hộ Đài Loan

Hôm 21.10.2021, Nghị viện châu Âu đã thông qua một nghị quyết  nhằm tăng cường quan hệ với Đài Loan với 580 phiếu ủng hộ và 26 phiếu chống và bắt đầu xúc tiến thỏa thuận đầu tư với vùng lãnh thổ tự trị này. Trong nghị quyết được thông qua này, các nhà lập pháp EU nói Liên hiệp châu Âu phải làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ với Đài Loan và bắt đầu làm việc về một thỏa thuận đầu tư với hòn đảo. Động thái này khiến Bắc Kinh tức giận. Trung Quốc và EU đã đạt được thỏa thuận tương tự hồi năm 2020 nhưng bị gác lại từ đó đến nay. Nghị quyết đề nghị nhánh hành pháp của khối là Ủy ban châu Âu "khẩn trương bắt đầu đánh giá tác động, tham vấn công khai và tính toán quy mô về một thỏa thuận đầu tư song phương". Các nhà lập pháp cũng yêu cầu văn phòng thương mại của khối ở Đài Bắc được đổi tên thành văn phòng Liên hiệp châu Âu tại Đài Loan, về thực chất là nâng cấp phái bộ này mặc dù cả EU lẫn các quốc gia thành viên đều không có quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, nơi bị Trung Quốc tuyên bố là lãnh thổ của họ. Nói với các phóng viên tại Bắc Kinh, Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc Wang Wenbin (Uông Văn Bân) đưa ra "lời lên án mạnh mẽ" rằng “Nghị viện EU cần dừng ngay những lời nói và hành động gây hại đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc”. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Đài Loan bày tỏ cảm ơn về sự ủng hộ của EU, nói rằng nghị quyết sẽ "đặt dấu mốc mới" cho mối quan hệ của hòn đảo với khối. Căng thẳng quân sự giữa Trung Quốc và Đài Loan đã gia tăng, kèm theo đó, Đài Bắc cho rằng Bắc Kinh sẽ có khả năng tiến hành một cuộc xâm lược "có quy mô toàn diện" đánh vào hòn đảo vào năm 2025. Vào năm 2015, EU đã đưa Đài Loan vào danh sách các đối tác thương mại đủ điều kiện để đi đến ký kết một thỏa thuận đầu tư, nhưng chưa tổ chức đàm phán với hòn đảo có chính quyền dân chủ về vấn đề này kể từ đó, mặc dù Đài Bắc rất muốn đạt được thỏa thuận. EU và đối tác thương mại lớn là Trung Quốc ký kết một thỏa thuận đầu tư tương tự hồi năm ngoái, nhưng nó đã bị chặn lại trong nhiều tháng nay. Nghị viện châu Âu hoãn việc phê chuẩn sau khi Bắc Kinh áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các nhà lập pháp EU vì hai bên có mâu thuẫn về nhân quyền. Trong khi đó, cường quốc công nghệ Đài Loan ngày càng trở nên hấp dẫn đối với EU trong bối cảnh toàn cầu thiếu linh kiện bán dẫn khiến Brussels vận động hành lang để các nhà sản xuất chip quan trọng của Đài Loan đầu tư vào khối như họ đã làm ở Hoa Kỳ./. Theo Reuters  
......

Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ thông qua dự luật trừng phạt hành vi bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông

Hình minh họa. Thượng Nghị sĩ Ben Carden (Đảng Dân Chủ) của tiểu bang Maryland. RFA Ủy ban Đối Ngoại Thượng viện Hoa Kỳ hôm thứ ba 19/10 thông qua dự luật áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với những cá nhân và đối tượng Trung Quốc tham gia vào các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải tại Biển Đông.  Dự luật lưỡng đảng do Thượng Nghị sĩ Cộng Hòa Marco Rubio, đại diện tiểu bang Florida và Thượng Nghị sĩ Dân Chủ Ben Cardin của tiểu bang Maryland bảo trợ, có tên “Dự luật Trừng phạt ở Biển Đông và Biển Hoa Đông”. Dự luật khi thành luật sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các cá nhân và đối tượng Trung Quốc tham gia vào hoạt động khẳng định yêu sách chủ quyền về hàng hải và lãnh thổ của Bắc Kinh đối với Biển Đông và Hoa Đông. Thượng Nghị sĩ Rubio trong một thông cáo báo chí nói: “Không có mối đe dọa nào lớn hơn đối với một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở hơn Đảng Cộng sản Trung Quốc và lực lượng vũ trang của họ là Quân đội Giải phóng Nhân dân”. Ông kêu gọi toàn thể đồng nghiệp trong Thượng viện thông qua dự luật này. Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông với đường đứt khúc chín đoạn đã bị Toà Trọng tài Quốc tế bác bỏ trong một phán quyết vào năm 2016 nhưng Bắc Kinh không tuân thủ phán quyết này. Mỹ không phải là một bên có tranh chấp về chủ quyền ở khu vực Biển Đông nhưng luôn khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không ở khu vực này, đồng thời lên án Trung Quốc đã bắt nạt các nước láng giềng có đòi hỏi chủ quyền ở đây, quân sự hoá khu vực Biển Đông.   
......

Nước Đức sẽ bỏ đại dịch lại phía sau

Lưu Thủy Hương Kế hoạch chấm dứt các biện pháp chống dịch dự trù vào tháng 11. Cuộc sống ở Đức sẽ trở lại bình thường, sau 19 tháng vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế, vừa nghiên cứu và phân bố vaccine cho toàn thế giới. * https://www.berliner-zeitung.de/.../jens-spahn-corona... Bộ trưởng bộ y tế Liên bang Đức, Jens Spahn tuyên bố: Tình trạng khẩn cấp chống lại Corona sẽ kết thúc vào tháng 11. Vì nguy cơ corona đối với những người được tiêm chủng chỉ còn ở mức "vừa phải". Spahn ủng hộ việc loại bỏ dần cái gọi là "tình hình dịch bệnh trên phạm vi quốc gia", căn cứ vào việc, Viện Robert Koch phân loại "nguy cơ đối với những người được tiêm chủng là vừa phải", vì vậy, tình hình đặc biệt chống lại dịch bệnh sẽ chấm dứt vào ngày 25 tháng 11 năm 2021, sau gần 19 tháng, kể từ ngày 28 tháng Ba năm 2020. Vào cuối tháng 8 vừa rồi, Hạ viện đã gia hạn tình trạng chống dịch thêm ba tháng. Và kế hoạch này sẽ tự động hết hạn nếu nó không được Quốc hội kéo dài thêm. * Trung bình mỗi ngày có 2.574 người tử vong ở nước Đức, vì các loại bệnh, trong đó chủ yếu là bệnh tim mạch và ung thư. Con số thống kê chung có thể dao động từ 2400 đến 3500 người/ngày. https://www1.wdr.de/.../coron.../corona-todesfaelle-100.html Với con số tử vong do covid hiện nay vào khoảng 20-80 người/ngày, rơi vào nhóm không tiêm chủng và nhóm suy yếu hệ thống miễn dịch, thì bệnh covid đã được xếp vào loại bệnh chỉ còn có nguy cơ vừa phải. Đây là phân loại do viện Robert Koch thực hiện, trung tâm chỉ huy chống đại dịch trên toàn quốc từ suốt 19 tháng nay. Chính quyền Đức chỉ tuân thủ hướng dẫn khoa học của các nhà nghiên cứu để đưa ra kế hoạch trên toàn quốc. Đúng là chính quyền Đức chống dịch gắt gao và căng thẳng hơn các nước quanh vùng, nhưng ngược lại, trong suốt 19 tháng đại dịch họ vẫn đảm bảo cho đời sống dân sinh được ổn định. Những công việc, sản xuất, giao dịch, hoạt động kinh tế cần thiết vẫn được duy trì. Chợ búa, nơi cung cấp thực phẩm và đồ gia dụng không được phép đóng cửa ngày nào. Các nhà thương và phòng khám bệnh vẫn mở cửa. Và người dân không hề bị cấm ra đường tập thể dục hay dạo mát, vì đó là nhu cầu rất cần thiết cho sức khỏe để chống dịch. Bây giờ, với tỉ lệ tiêm chủng là 64%, nước Đức đã quyết định: Bỏ đại dịch Corona lại phía sau để đi tới. Đó không phải là một thứ tên gọi bình thường mới, hay bình thường cũ. Đó là một xác định khoa học, đánh giá khoa học và quyết định khoa học. ° Thật ra thì tôi đã bắt đầu sống bình thường từ tháng Bảy – tháng Tám và đã trở lại với các hoạt động giải trí cuối tuần: thể thao, xem phim, tắm xông hơi, tham dự họp báo, hội thảo… Từ lâu tôi cũng không còn quan tâm đến các con số ở Đức. Nếu có nhiễm tôi cũng không bị bệnh nặng, nếu có nhiễm tôi cũng không lây ai. Quan tâm làm gì nữa. Sống với những kế hoạch cho tương lai thôi./.  
......

Mỹ trở lại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc

Thanh Hà -  RFI Liên Hiệp Quốc ngày 14/10/2021 biểu quyết cho phép Hoa Kỳ trở lại với Hội Đồng Nhân Quyền (HRC). Tháng 6/2018, Washington dưới chính quyền Trump đã ra khỏi tổ chức này với lý do HRC “che chở cho các quốc gia vi phạm nhân quyền” và có khuynh hướng bài Do Thái. Trong phiên họp hôm qua tại New York, 168 trên tổng số 193 quốc gia bỏ phiếu thuận để Mỹ hội nhập trở lại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Tổ chức này bao gồm 47 thành viên bắt đầu hoạt động từ năm 2006, trụ sở đặt tại Genève, Thụy Sĩ. Các thành viên được bầu lại 3 năm một lần. Washington sẽ chính thức trở lại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc kể từ ngày 01/01/2022 cùng với 17 nước khác, trong đó Ấn Độ, Malaysia hay Qatar,  Argentina… Giới quan sát dự báo với việc Washington hội nhập lại định chế đa quốc gia này, “nhiều cuộc tranh cãi gay go sẽ diễn ra, giữa Mỹ và Trung Quốc hay Nga.” Dưới chính quyền Trump, Hoa Kỳ đã rút lui khỏi Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Hãng tin Reuters lưu ý, trong thời gian Mỹ vắng mặt, Trung Quốc và nhiều đối tác của Bắc Kinh, như là Venezuela hay Belarus, đã tận dụng thời cơ thông qua những tuyên bố chung ủng hộ Bắc Kinh trên các vấn đề từ Hong Kong đến Tây Tạng hay Tân Cương. Tháng Giêng 2021, khi lên cầm quyền, Tổng Thống Joe Biden tuyên bố Nhà Trắng xem nhân quyền sẽ là “trung tâm” trong chính sách đối ngoại. Đại sứ Mỹ bên cạnh Liên Hiệp Quốc, Linda Thomas-Greenfield, trong thông cáo hôm qua nhấn mạnh trong giai đoạn đầu, Washington có thể sẽ xem xét trên các hồ sơ liên quan đến Afghanistan, Miến Điện, Trung Quốc, Ethiopia, Syria và Yemen. Đại diện của Hoa Kỳ cho biết thêm là sẽ đặc biệt chú ý đến trường hợp của Israel, không để các tuyên bố “quá đáng” bất lợi cho quốc gia này. Một cuộc điều tra do Reuters thực hiện hồi tháng 9/2021 cho thấy ngay cả chính quyền Biden đôi khi cũng đã gạt vấn đề nhân quyền sang một bên vì những ưu tiên như là “an ninh quốc gia hay nhu cầu cần nối lại đối thoại với một số nước lớn.” Tổ chức quan sát nhân quyền UN Watch chỉ trích Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, xem cơ quan này là một “trò hề” khi kết nạp các những quốc gia chà đạp nhân quyền, như Syria, Kazakhstan… Thanh Hà -  RFI  
......

Dân biểu, xã hội dân sự tại Đan Mạch lên tiếng vì quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam

Đoàn người trên đường đến trụ sở Google tại Copenhagen, Đan Mạch để trao kiến nghị hôm 7/10/2021. Giang Nguyễn - RFA| Hội thảo về Quyền Tự do Ngôn luận và Truy cập Mạng xã hội tại Việt Nam tổ chức hôm 7 tháng 10 tại Đan Mạch, diễn ra trong bối cảnh chính quyền Copenhagen đang triển khai một dự án với tên gọi là “Tech for Democracy” (công nghệ vì dân chủ), nhắm vào việc dùng công nghệ để hỗ trợ các phong trào đấu tranh cho dân chủ tại các nước độc tài. Bà Helena Hương Nguyễn, Trưởng Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam, nói dự án Tech for Democracy do Bộ Ngoại giao Đan Mạch khởi xướng: “Project (dự án) này của Đan Mạch khởi xướng nhưng nhắm vào toàn thế giới, nhiều quốc gia và những tech company (công ty công nghệ) quốc tế. Vì họ thấy được ví dụ như Facebook rất quan trọng đối với người dân ở các nước độc tài. Thành ra họ muốn liên kết với Facebook và Silicon Valley để không dập tắt những phong trào dân chủ”. Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam, một tập hợp nhiều hội đoàn và cá nhân Việt Nam tại Đan Mạch, đồng tổ chức hội thảo cùng với tập hợp Globalt Fokus của 80 hội đoàn phi chính phủ tại Đan Mạch. Bà Helena cho rằng chính quyền Đan Mạch đã nhận rõ nhiều người dân Đan Mạch có khuynh hướng quan tâm đến nhân quyền và quyền trên mạng tại Việt Nam. Thời gian qua nhiều Facebooker và nhà báo tự do tại Việt Nam đã bị bắt vì lên tiếng về những điều sai trái trong xã hội nước này.  “Chính quyền Đan Mạch và Bộ Ngoại giao Đan Mạch có khuynh hướng như vậy là một sự khởi đầu, một tin vui, một sự nâng đỡ, hỗ trợ tinh thần cho những phong trào đối kháng. Mọi chuyện, họ cũng nói phải từ từ để họ ra một chương trình hoạt động”. Bà Helena cho biết Bộ Ngoại giao Đan Mạch đang nhắm đến một thỏa thuận với nhiều quốc gia, nhiều công ty công nghệ như Facebook và Google để có một số quy định về hoạt động mạng xã hội ở các nước độc tài như Việt Nam. Vì vậy, những buổi hội thảo như ngày hôm nay là một cơ hội để cộng đồng người Việt liên đới với các nhà lãnh đạo Đan Mạch cũng như Châu Âu và các tổ chức phi lợi nhuận để trao đổi và nâng cấp tầm quan trọng trong việc đẩy mạnh quyền biểu đạt tại Việt Nam. Đây là năm thứ nhì Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam và Globalt Fokus tổ chức Hội thảo về Quyền Tư Do Ngôn Luận và chủ đề xoay quanh quyền truy cập trên mạng trong lúc Facebook, công ty có trụ sở tại Silicon Valley, thung lũng điện tử của Hoa Kỳ, đang bị chỉ trích đặt lợi nhuận riêng trên lợi ích cộng đồng.  Tại Việt Nam, cách điều hành của Facebook đã bị nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và nhà hoạt động lên án rằng đã hạn chế quyền tự do biểu đạt của người dân, thậm chí hỗ trợ chính sách dập tắt tiếng nói bất đồng chính kiến của Hà Nội. Ông Trần Đức Tuấn Sơn, thành viên Đảng Việt Tân và là một trong các diễn giả của buổi hội thảo, chia sẻ: “Facebook bây giờ cũng có một số hành vi ngăn chặn người trong nước xem một số bài vở đăng trên Facebook mà những người ngoài Việt Nam có thể truy cập được. Tôi lấy một vài ví dụ trên trang nhà của Facebook Việt Tân chúng tôi thường xuyên đăng một số bài hàng ngày. Có một số bài thì mọi người được xem. Nhưng có một số bài khác thì chỉ có những người ở ngoài nước Việt Nam truy cập được thôi. Ví dụ như là một bài gần đây nói lên sự lan tràn của COVID-19 trong nước, một bài rất vô thưởng vô phạt, nói về một đề tài rất thời sự cho đất nước Việt Nam. Chúng tôi không hiểu tại sao mà Facebook lại ngăn chặn sự truy cập của bài đó cho tất cả những người ở trong nước Việt Nam qua sự yêu cầu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam chứ không phải là tự Facebook làm.  Mỗi lần Facebook làm vậy là theo yêu cầu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề chúng tôi cần nêu lên trên dư luận quốc tế”. Ông Sơn nói thêm, đây là cách điều hành của Facebook tại nhiều quốc gia độc tài trên thế giới chứ không riêng gì Việt Nam nên người Việt có thể góp tiếng nói cùng với các tổ chức đấu tranh các nước trong nỗ lực này. Vẫn theo lời ông Sơn, riêng Việt Tân có những cuộc đàm phán với Facebook, nhưng kết quả đạt được chỉ chừng mực mà thôi. Ngoài ra tổ chức đấu tranh này cũng vận động các dân biểu quốc hội Hoa Kỳ có những quy định phù hợp đối với quyền hạn của Facebook. Hội thảo về Quyền Tự do Ngôn luận và Truy cập Mạng xã hội tại Việt Nam hôm 7/10/2021 tại Copenhagen, Đan Mạch. Ảnh: Courtesy of Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam Dân biểu Quốc hội Châu Âu của Đan Mạch, bà Marianne Vind trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do sau hội thảo, đã chia sẻ rằng Hiệp định Thương mại Tự do EU và Việt Nam (EVFTA), bắt đầu có hiệu lực từ đầu tháng 8/2020, là một công cụ tốt để các nhà ngoại giao Châu Âu thúc giục Việt Nam phải tôn trọng những cam kết về nhân quyền và dân quyền, đặc biệt quyền của người lao động. Bà nói: “Chúng tôi đã có một số kết quả về quyền của người lao động, vì hiện nay Việt Nam đã tham gia nhiều công ước của ILO (Tổ chức Lao động Quốc tế) hơn. Vì vậy, chúng ta đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, tôi cũng biết rằng các công nhân trên khắp đất nước Việt Nam hiện không cảm thấy như vậy. Nhưng khi chính phủ đã ký một số công ước, thì đây là một công cụ để thúc giục họ tôn trọng các quyền. Trên nguyên tắc người dân Việt Nam bây giờ có nhiều quyền hơn. Tôi biết chỉ có trên văn bản không là chưa đủ, nhưng đây là hướng đi đúng đắn”. Dân biểu Vind nhấn mạnh vấn đề nhân quyền liên tục được đưa lên bàn thảo luận giữa EU và Việt Nam.  “Chúng tôi đang theo dõi những gì đang diễn ra ở Việt Nam, và nếu chúng tôi thấy những điều đi ngược lại với cam kết hoặc không đi đúng hướng, chúng tôi có thể liên hệ với Việt Nam và hỏi xem chuyện gì đang xảy ra. Chúng tôi có thể đưa ra những biện pháp. Và nếu vấn đề tồi tệ đến mức đạt ngưỡng, thì chúng tôi có thể chấm dứt các hiệp định thương mại”. Trước và sau Hội thảo về Quyền Tự do Ngôn luận và Truy cập Mạng xã hội tại Việt Nam, các tham dự viên đã đi bộ đến trụ sở của Facebook và Google tại Copenhagen để trao kiến nghị, yêu cầu hai công ty công nghệ khổng lồ này không tiếp tay cho chính quyền Hà Nội trong việc đàn áp tiếng nói của người dân Việt Nam. Giang Nguyễn -  RFA  
......

Đức hỗ trợ bổ sung vắc-xin cho Việt Nam

Việt Nam Đức tiếp tục hỗ trợ chiến dịch tiêm chủng của Việt Nam với một lô vắc-xin thứ hai được gửi tới quốc gia Đông Nam Á này. Theo đại sứ quán Đức ở Việt Nam, ngày 26/9, lô vắc-xin tiếp theo với tổng cộng 2,6 triệu liều vắc-xin AstraZeneca ngừa COVID-19 đã về đến Thành phố Hồ Chí Minh. Tin cho hay, lô vắc-xin này được viện trợ từ nguồn dự trữ của Đức như đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel đề xuất với Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính. Theo cơ quan ngoại giao Đức ở Hà Nội, phát biểu tại lễ bàn giao vắc-xin ngày 27/9 tại trụ sở Bộ Ngoại giao Việt Nam với sự có mặt của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng và đại diện Bộ Y tế, Đại sứ Đức tại Việt Nam Guido Hildner nói rằng “đây là lô vắc-xin thứ hai từ Đức trong vòng hai tuần qua” và rằng “cùng với lô vắc-xin được vận chuyển qua cơ chế COVAX ngày 16/9, chính phủ Đức đã viện trợ tổng cộng 3,45 triệu liều”. Ông Hildner được trích lời nói tiếp rằng “sự hỗ trợ này thể hiện tinh thần đoàn kết của chúng tôi với người dân tại Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh cam kết của chúng tôi đối với mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam mà hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập trong năm nay”. “Nước Đức luôn sát cánh cùng Việt Nam trong quá trình phòng chống và vượt qua đại dịch COVID-19”, ông Hildner nói, theo Đại sứ quán Đức. Theo cơ quan ngoại giao này, ngoài việc viện trợ các lô vắc-xin này, Đức và Việt Nam còn hợp tác chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh COVID-19. Tin cho hay, đầu năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ủng hộ Đức hơn 100.000 khẩu trang, và vào mùa hè năm 2021, một số bang của Đức đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng một triệu kít xét nghiệm nhanh kháng nguyên cũng như khẩu trang, quần áo bảo hộ và tủ lạnh chuyên dụng. Ngoài ra, theo đại sứ quán Đức, lĩnh vực hợp tác phát triển giữa Đức và Việt Nam cũng góp phần vào việc ứng phó với đại dịch COVID-19. Tin cho hay, một khoản kinh phí lên đến 104 triệu Euro sẽ được sử dụng để triển khai các dự án hiện tại và tương lai trong các lĩnh vực đào tạo nghề, phòng chống dịch bệnh, Một Sức khỏe (One Health), Phục hồi Xanh (Green Recovery), mạng lưới an sinh xã hội và số hóa, trong đó bao gồm kế hoạch xây dựng một trung tâm phòng chống dịch bệnh cùng với Bộ Y tế Việt Nam cũng như thiết lập các dịch vụ tư vấn về phòng chống buôn bán động vật hoang dã. Thêm nữa, tháng 5 vừa qua, Cơ quan Trao đổi hàn lâm Đức (DAAD) đã thành lập một trong bốn trung tâm toàn cầu mới về y tế và phòng chống dịch bệnh tại Việt Nam, và trung tâm này sẽ giúp phòng ngừa và điều trị các căn bệnh truyền nhiễm. Về đợt trao vắc-xin mới nhất hôm 27/9, theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng “bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Chính phủ Đức về khoản hỗ trợ y tế gồm 2,6 triệu liều vắc-xin AstraZeneca qua kênh song phương, hơn 850 ngàn liều vắc-xin qua cơ chế COVAX và nhiều trang thiết bị vật tư y tế”. Ông Dũng được Bộ Ngoại giao trích lời nói tiếp rằng “đây là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tinh thần đoàn kết của Chính phủ Đức đối với Chính phủ và nhân dân Việt Nam, hỗ trợ thiết thực cho Việt Nam trong lúc dịch bệnh diễn biến phức tạp”. “Đồng thời, đây cũng là minh chứng sinh động cho tình hữu nghị gắn bó giữa hai nước, hai dân tộc, trong bối cảnh Việt Nam và Đức đang kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược (11/10/2011 - 11/10/2021)”, ông Dũng được trích lời nói và bày tỏ mong muốn rằng “Đại sứ Đức tiếp tục tham mưu, đề xuất chính phủ Đức hỗ trợ y tế cho Việt Nam, đặc biệt là tạo thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn cung vắc-xin, cung cấp vật tư, thiết bị y tế và hợp tác trong sản xuất vắc-xin và thuốc điều trị COVID-19”. Theo phía Việt Nam, tính đến ngày 28/9, khoản viện trợ vắc-xin và trang thiết bị y tế của chính phủ Đức là “sự hỗ trợ lớn nhất của một nước thành viên EU đối với Việt Nam”.
......

Bầu cử Đức: Tương lai nào sẽ đến?

Nguyễn Phú Lộc Cuộc bầu cử vừa chấm dứt hôm 26.9.2021 với một kết quả mà người ta có thể phỏng đoán từ hai tháng qua. Nền chính trị Đức đứng trước tình huống không dễ dàng để đưa ra một thỏa hiệp chính trị giữa các đảng phái để thành lập chính phủ. Dù chỉ là tạm thời, nhưng kết quả sau đây chắc hẳn không có gì thay đổi đáng kể. Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) lên nắm quyền sau 16 năm độc bá của Liên minh Cơ Đốc (CDU/CSU) thuộc Angela Merkel. Về các đảng lớn truyền thống: Điều rõ ràng nhất từ kết quả này là: Dù Angela Merkel rất nổi danh trên các vấn đề quốc tế, nhưng trong nội bộ nước Đức, dân chúng đã thất vọng và không còn đặt cược số phận của mình cho các đảng lớn, như họ đã từng tin tưởng hơn 50 năm qua. Trong hơn nửa thế kỷ đó, CDU/CSU hoặc SPD, dù chưa bao giờ đạt được đa số tuyệt đối, nhưng họ cũng thay phiên nhau chiếm được số phiếu đủ cao để có thể thành lập chính phủ với một đảng nhỏ nào đó, hoặc là Dân chủ Tự do (FDP) hoặc Đảng Xanh (Grüne). Với CDU/CSU, đi từ thắng lợi rực rỡ của Helmut Kohl với 48,8%, đến Angela Merkel với 32,9% vào nhiệm kỳ cuối cùng, và bây giờ Armin Laschet chỉ đạt 24,1%. Đảng cầm quyền của Angela Merkel bị giảm mất 8,8% chứng tỏ rằng, ngoài khả năng tranh cử quá kém của Armin Laschet, nguyên nhân lớn nhất vẫn nằm ở chính quyền Angela Merkel, trong thời gian qua đã thất bại trong việc đáp ứng yêu cầu của dân chúng. Một vài nguyên nhân nổi bật có thể nhận thấy là: 1) Cơ cấu quản lý nhà nước không đạt hiệu quả cao để đối phó những cuộc khủng hoảng bất chợt xảy đến. Đại dịch COVID và thảm họa thiên nhiên vừa mới đây đã chứng minh cho mọi người thấy rằng, dù chuyên gia có thể phát họa được con đường giải quyết khủng hoảng, nhưng sức ì của hệ thống quan liêu phức tạp đã làm cho các biện pháp xử lý không đạt được tốc độ nhanh chóng cần thiết. Hiệu quả quản lý rõ ràng chưa đạt đến mức độ mong muốn so với nguồn lực đang có. Hai tháng sau thảm họa bão lụt ở vùng biên giới Bỉ mà vẫn còn có gia đình phải sinh sống tạm bợ cho qua ngày. Tiền thì nhà nước không thiếu, nhưng hệ thống quan liêu rườm rà đã làm cho những cố gắng hỗ trợ từ mọi phía trở thành vô dụng. 2) Cơ cấu hạ tầng về kỹ thuật số không đủ độ phủ sóng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của dân chúng và công nghiệp. Trong một nước giàu như Đức, mà vẫn còn một số người dân ở vùng quê chưa tiếp cận được hàng ngày với Internet. Sự phát triển mạng truyền thông cấp cao (thí dụ 5G) vẫn còn ì ạch, trong lúc các nhu cầu của công nghiệp rất lớn. Mặc dù về công nghệ, các định chế tư nhân đã có đủ lời giải tối ưu vốn đã được giải quyết trong phạm vi thử nghiệm, nhưng để biến chúng thành ứng dụng thực tế thì gặp phải trở ngại về cơ cấu hạ tầng. Tất cả các công ty dịch vụ mạng đều ở trong tay tư nhân, nhưng điều đó không thể xem là lý do để biện hộ cho sự yếu kém của hệ thống luật pháp vốn dĩ là vai trò quan trọng hàng đầu của nhà nước Đức. 3) Chiến lược phát triển của nhà nước có vẻ không hoàn chỉnh để đối phó với những thách thức lớn lao của thời đại. Một vài lĩnh vực sau đây vẫn còn là những ẩn số chưa có lời giải: Dân số ngày càng già, tỉ lệ lao động trong dân chúng ngày càng thấp, trong lúc hệ thống an sinh xã hội phục vụ cho người già đã đến ngưỡng quá tải. Nếu chính sách nhập cư của Đức không tiến hành hợp lý, vị trí của Đức trên trường quốc tế sẽ suy giảm trong vài thập kỷ tới; Về biến đổi khí hậu, người ta chỉ nghe nói nhiều về năng lượng tái tạo, nhưng một giải pháp tổng thể vẫn còn mơ hồ. Việc ngưng sử dụng năng lượng hạt nhân và than nâu là những lời giải cục bộ, trong lúc việc truyền tải năng lượng từ các vùng phát điện tái tạo ở miền Bắc xuống vùng dân cư đông đúc và công nghiệp dày đặc ở miền Nam, sau 5 năm bàn cãi vẫn chưa có một lời giải dứt khoát. Đấy là chưa kể, biến đổi khí hậu không còn là vấn đề của các quốc gia riêng lẻ, mà là vấn đề toàn cầu. Tiếng nói của Đức trên quốc tế dường như còn quá yếu để có thể ảnh hưởng được điều gì. Về bất bình đẳng xã hội, nội các chính phủ trong 16 năm qua vẫn không tìm được một giải pháp hiệu quả để ngăn chặn xu hướng ngày càng tồi tệ: hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng rộng, trong lúc nhà nước bất lực trong việc huy động tài sản của những người siêu giàu cho các dự án xã hội cần thiết. 4) Về công nghiệp xe hơi, vốn dĩ là cột xương sống của nền công nghiệp quốc gia, nuôi sống hàng triệu người lao động và hàng chục ngàn công ty cung cấp linh kiện, thì dường như nhà nước khoán trắng cho tư nhân như những đứa con rơi. Các tập đoàn xe hơi lớn như VW, BMW, Mercedes, AUDI vốn không thua kém ai trong suốt cả 100 năm qua, và luôn luôn là những công ty tiên phong trong việc đáp ứng nhu cầu người tiêu thụ về các đòi hỏi công nghệ mới, thì giờ đây họ bỗng nhiên lu mờ trên thị trường quốc tế, thí dụ trong lĩnh vực xe hơi chạy điện. Cả bốn tập đoàn nói trên đã có sẵn lời giải trong hộc tủ, họ chỉ cần một khung pháp lý phù hợp, nếu được hỗ trợ thêm một ít tài chính thì càng tốt, họ sẽ nhanh chóng chiếm lại ưu thế đã mất, hoặc nuốt chửng hoặc đánh bạt luôn cả Tesla cũng không phải là điều không thể. Nhà nước Đức đã bất lực thời gian qua để đưa ra khung luật pháp cần thiết để thúc đẩy xu hướng thời đại trong công nghiệp xe hơi. 5) Sự thay đổi tư tưởng và lối sống của giới trẻ: CDU/CSU và cả SPD, đều có một lượng cử tri rất đông đảo thuộc thành phần trên 60 tuổi, chiếm gần 25%. Trong lúc đó, thế hệ trẻ của Đức hoàn toàn khác với các thế hệ cha ông của họ. Để xây dựng tương lai, họ đã trở nên xa lạ với truyền thống ăn chắc mặc bền, đổ hết tiền vào các qũy tiết kiệm, hoặc khá hơn là đầu tư vào bất động sản, mà ngôn ngữ Đức gọi là Beton Gold (nhà cửa là vàng). Giờ đây, gần một nửa giới trẻ trong lứa tuổi dưới 40 có xu hướng đầu tư vào các sáng kiến mới đầy rủi ro, nhưng cũng đầy cơ hội vàng chờ đón. Công ty vắc-xin BioNTech là một thí dụ, họ lỗ lã suốt 10 năm qua, bây giờ thành công lớn trong vòng vài tháng. Trong lúc đó thì mặc dù nguồn lực không thiếu, khung pháp lý của Đức vẫn chưa thể hiện tư duy mới của chính phủ để hỗ trợ các Start-Up. Chỉ cần nhìn quanh trên thế giới, có biết bao nhiêu lời giải hay: Mỹ có độ uyển chuyển cao, Bắc Âu có chính sách ủng hộ đầu tư kinh doanh kết hợp với chính sách xã hội tiến bộ. Không đáp ứng được đòi hỏi mới của giới trẻ, các đảng lớn truyền thống sẽ dần dần biến mất trên sân khấu chính trị Đức chỉ trong vòng vài nhiệm kỳ tới. Về phía các đảng nhỏ: Có những thay đổi lớn trong hoạt cảnh các đảng nhỏ. Trước hết, đảng cực hữu AfD (Alternative für Deutschland – Chọn lựa khác cho nước Đức) giảm hơn 2% sau thắng lợi huy hoàng cách đây bốn năm. Mặc dù AfD vẫn chiếm tỉ lệ cao ở hai tiểu bang, xu hướng chung trên liên bang không hề thuận lợi cho tư tưởng cực hữu. Rất có thể AfD sẽ rơi vào tình trạng của đảng cực hữu Republikaner vào thập niên 1990, đã vươn lên huy hoàng trong 10 năm, rồi dần dần rơi vào quên lãng không để lại một dấu vết nào. Xu hướng chung hiện nay cho thấy, rất có thể AfD cũng theo lộ trình đó. Hai nhiệm kỳ bầu cử sắp tới sẽ chứng minh rõ hơn. Sau nữa, Đảng Tả (Die Linke) không vượt qua được rào cản 5%, cho nên ngoại trừ vài ba đại biểu trúng cử trực tiếp, trong quốc hội không còn điều gọi là phái đoàn Đảng Tả để có thể ảnh hưởng lên các chính sách quan trọng. Di sản của Đông Đức (DDR – Cộng hòa Dân chủ Đức) dường như chỉ còn le lói ở vài tiểu bang phía Đông, và rất có thể sẽ rơi vào quên lãng trong thập niên tới. Cuối cùng, hai đảng nhỏ còn lại, Dân chủ Tự do (FDP) và Đảng Xanh (Die Grüne), với bề dày kinh nghiệm chính trị hơn nửa thế kỷ, trở nên những đảng quan trọng, không những có thể ảnh hưởng đến quá trình thành lập chính phủ trong vòng vài tuần tới, mà còn sẽ quyết định mạnh mẽ lên chương trình nghị sự của nội các sắp tới. Đa số cử tri ủng hộ hai đảng này thuộc thành phần trung lưu và trẻ dưới 40 tuổi. Nếu các đảng lớn truyền thống không cải cách triệt để, một ngày nào đó sẽ bị thay thế bởi hai đảng FDP và Đảng Xanh. Liên minh nào sẽ thành hình? Theo kết quả ở trên, chính phủ Đức nhiệm kỳ tới có thể là một trong ba liên minh sau đây: – Liên minh SPD + CDU/CSU: liên minh này không được dân chúng ưa chuộng (ít hơn 15%), ngoài ra cả hai vị thủ lãnh đều xem đây là giải pháp xấu nhất, chỉ thực hiện trong điều kiện “chẳng đặng đừng”. – Liên minh SPD + FDP + Đảng Xanh – Liên minh CDU/CSU + FDP + Đảng Xanh Đây là tình huống vô cùng khó khăn cho nền chính trị Đức. Trong quá khứ, hai đảng FDP và Đảng Xanh vốn xem như „không thể ngồi chung“ trên bàn nghị sự. Cách đây bốn năm, một liên minh tay ba như thế không thể thỏa thuận được, cuối cùng đưa đến đám cưới bất đắt dĩ giữa CDU/CSU và SPD. FDP thì nghiêng về kinh tế và chống việc tăng thuế, Đảng Xanh thì chú trọng việc bảo vệ môi trường cho dù phải hy sinh quyền lợi giới công nghiệp. Sẽ vô cùng gay go, chưa chắc một liên minh có thể được thành lập trước cuối năm. Đảng nào, SPD hay CDU/CSU, sẽ được phép cử người làm Thủ tướng? Thật khôi hài, điều đó không tùy thuộc vào chính hai đảng đó, mà hoàn toàn tùy thuộc vào cách hành xử của hai đảng nhỏ còn lại, FDP và Đảng Xanh. Nếu có thỏa hiệp tay ba, thì đây là lần đầu trong lịch sử nước Đức có một nội các ba thành phần. Dù khó khăn, liên minh đó cũng khá hơn là tổ chức lại một đám cưới của hai người đã tuyên bố ly hôn: SPD và CDU/CSU. Đố có ai dám quả quyết liên minh nào sẽ ra đời? Nguyễn Phú Lộc Nguồn: https://diendankhaiphong.org/bau-cu-duc-tuong-lai-nao-se-den/ Để hiểu hệ thống bầu cử của Đức, xin xem bài viết súc tích của TS Nguyễn Tường Bách: https://www.diendan.org/the-gioi/hallo-deutschland-lich-su-sang-trang
......

Bàn cờ Ấn Độ Thái Bình Dương thay đổi

Các lãnh đạo của QUAD: TT Joe Biden (Mỹ), từ trái: Scott Morrison (thủ tướng Úc), Narendra Modi (thủ tướng Ấn Độ), thủ tướng Nhật Bản (Yoshihide Suga), tại Tòa Bạch Ốc. Ngô Nhân Dụng| Ngày Thứ Sáu 24 tháng Chín 2021 Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản và Australia (nhóm QUAD) họp thượng đỉnh, lần đầu tiên, ở Washington D.C. Cuộc họp diễn ra trong bối cảnh AUKUS được khai sinh, giữa A (Australia), UK (Anh quốc) và Mỹ (US), giúp nước Úc chế tạo 8 chiếc tàu ngầm nguyên tử theo mẫu của Anh và Mỹ, trong mười năm tới. Bắc Kinh đã cực lực phản đối thỏa hiệp AUKUS. Vì đây là một chuyển hướng quân sự và ngoại giao quan trọng của nước Úc để đối phó với việc bành trướng của Trung Cộng trong vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đó cũng là mục tiêu khi QUAD ra đời. Nhưng AUKUS là bước tiến cụ thể đầu tiên, mặc dù trước đây đã có liên minh quân sự giữa ba nước Australia, New Zealand và US trong hiệp ước ANZUS. Ba quốc gia đã thảo luận vấn đề này trong bí mật nhiều tháng qua; việc hợp tác bao gồm các khía cạnh kỹ thuật chế tạo và các vấn đề mới như Trí khôn Nhân tạo (AI) và an ninh tin học (cyber-security) Với AUKUS, Úc sẽ mạnh hơn về mặt quân sự, khi dùng tàu ngầm nguyên tử có thể lặn sâu lâu ngày hơn, với hỏa tiễn bắn tầm xa hơn. Dự án Úc ký với Pháp năm 2016 làm 12 tàu ngầm chạy điện và diesel. Những tàu ngầm kiểu cũ từ căn cứ ở Perth đi tuần trong vùng Đường Chín Đoạn mà Trung Quốc vẽ ra, có thể giữ im khi chạy máy điện; nhưng bị giới hạn trong vòng hai tuần lễ. Các tàu ngầm nguyên tử có thể đi lâu hơn, từ 77 đến 81 ngày. Thời gian hoạt động trong vùng Trường Sa và biển Đông nước ta sẽ gia tăng từ 11 ngày lên 77 ngày. Trong thời gian đó, hải quân Úc có thể theo dõi, thu lượm tin tức về hoạt động của hải quân Trung Cộng. Các tàu ngầm nguyên tử còn có thể phóng hỏa tiễn đường xa, từ vùng biển phía Đông Philippines sang tới lục địa Trung Quốc. Nhưng AUKUS còn mang ý nghĩa chiến lược; chứng tỏ một chuyển hướng ngoại giao quan trọng của nước Úc, cùng quyết định “chuyển trục sang Á châu” của Mỹ để đối phó với Trung Cộng. Cho nên ngày 16 tháng Chín, phát ngôn viên ngoại giao của Bắc Kinh Triệu Lập Kiên (Zhao Lijian, 赵立坚) đã lên án thỏa thuận giữa Mỹ, Anh và Úc “gây tai hại cho hòa bình và ổn định trong vùng.” Triệu Lập Kiên còn lo AUKUS sẽ dẫn đến một “cuộc chạy đua vũ khí, kể cả vũ khí nguyên tử.” Vì trong khi tiếp nhận kỹ thuật chế tạo tàu ngầm nguyên tử, nước Úc có cơ hội phát triển kỹ thuật tinh luyện chất uranium, có thể đến trình độ làm bom. Nhưng chính Trung Cộng đã gây ra tình trạng bang giao căng thẳng với nước Úc. Trong hai thập niên vừa qua, Úc vẫn thân thiện với Trung Quốc, xuất cảng quặng mỏ, nông phẩm với số lượng giao thương lớn nhất. Năm ngoái, Trung Cộng bất bình khi chính phủ Úc yêu cầu cho các chuyên gia quốc tế đến điều tra nguồn gốc của Vi khuẩn Vũ Hán gây bệnh dịch Covid-19. Trung Cộng phản ứng giận dữ, bỗng nhiên ngưng nhập cảng nhiều thứ hàng. Một đạo luật của Úc nhằm ngăn chặn người ngoại quốc can dự vào chính trị nội bộ được ban hành sau khi thấy chứng cớ các công ty của Bắc Kinh tìm cách ủng hộ một số nhà chính trị Úc. Úc cũng tố cáo những “nhà báo” Trung Cộng đóng vai gián điệp. Trung Cộng tỏ ra coi thường nước Úc, công bố 14 điểm “kể tội” Úc về các hành động trên. Không riêng chính sách ngoại giao của Úc thay đổi, chính nước Mỹ cũng chuyển hướng. Cán cân lực lượng hải quân trong vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương sẽ dần dần thay đổi. Các cứ điểm quân sự của Mỹ trong vùng này từ lâu vẫn đặt trên các hải đảo; từ Hawaii đến Guam, Okinawa ở Nhật và Diego Garcia thuê nhượng từ Anh quốc ở phía Nam Ấn Độ. Liên minh với Úc, từ nay Mỹ sẽ có thể đặt căn cứ trên một địa bàn rộng như một lục địa. Nhật Bản là đồng minh lớn nhất của Mỹ trong vùng, gần đây đã cải thiện quan hệ về an ninh với Úc; có thể đóng góp các kỹ thuật mới nhất về kiến thiết tàu ngầm. Bốn năm trước, Tổng thống Donald Trump rút khỏi hiệp ước Hợp tác Thái Bình Dương (TPP). Sau đó, 11 nước còn lại vẫn tiếp tục với một thỏa ước mới, mang tên CPTPP, bỏ bớt một số điều khoản do Mỹ “ép buộc,” như bảo vệ nhân quyền và quyền lập công đoàn của giới lao động. Trong thời gian đó, Trung Cộng tỏ ra hung hãn hơn trước; củng cố các căn cứ quân sự và cho ngư dân tới đánh cá trong vòng đai Đường Chín Đoạn thuộc hải phận của Việt Nam hoặc Philippines. Năm ngoái, Trung Cộng gây nên cuộc chạm súng với quân đội Ấn Độ ở biên giới; tiếp tục quấy nhiễu vùng biển quanh hòn đảo Sensaku mà người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài. Bắc Kinh có lúc còn đe dọa ngưng mua bán với Nam Hàn. Ngay sau khi Mỹ với Úc thỏa thuận về tàu ngầm nguyên tử, Bắc Kinh đã tỏ ý muốn gia nhập thỏa ước CPTPP mà trước đây Mỹ đã gạt Trung Cộng ra ngoài. Bắc Kinh còn tỏ ý giận dữ khi Đài Loan cũng muốn tham dự vào CPTPP! Anh quốc cũng từng xin gia nhập thỏa ước này. Nhưng ai cũng biết rằng 11 nước trong đó không thể chấp nhận Trung Cộng mà có thể nhận Anh quốc và Đài Loan vì thỏa ước này không cho phép các nước được trợ cấp các doanh nghiệp nhà nước như chủ trương cố hữu của chế độ cộng sản. Thỏa hiệp AUKUS và CPTPP đang thay đổi bản đồ ngoại giao trong vùng Đông Nam Á. Các nước Philippines và Singapore công khai hoan nghênh. Các nước ở xa hơn như Nhật Bản và Đài Loan cũng hoan nghênh. Việt Nam cũng vậy, dù không dám nói công khai. Hai nước Nam Hàn và Nhật Bản có thể sẽ hợp tác với Mỹ để chế tạo tàu ngầm nguyên tử. Chỉ có các nước Âu châu còn im lặng. Chính phủ Pháp có lý do chính đáng khi than phiền nước Úc đã xóa bỏ thỏa thuận làm tàu ngầm với họ, đáng giá $100 tỷ mỹ kim. Dự án này nằm trong chiến lược của Pháp trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, nơi nước Pháp làm chủ nhiều hòn đảo, với 7,000 quân sĩ và gần 2 triệu công dân sinh sống. Các nước Âu châu khác cũng không hề được chính phủ Mỹ báo trước về AUKUS! Họ không quên rằng chính phủ Mỹ cũng hành động như vậy khi rút quân nhanh chóng khỏi Afghanistan. Trong toàn thể chiến lược của Mỹ ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương còn một “lỗ hổng” lớn, về kinh tế và thương mại. Số lượng hàng xuất cảng và nhập cảng của Trung Quốc với các nước Á Đông và Thái Bình Dương, trong năm 2019 mỗi loại đều lên gần một ngàn tỷ đô la; trong khi nước Mỹ nhập cảng dưới $500 tỷ và xuất cảng dưới $300 tỷ với các nước này. Tuy nhiên, nước Mỹ có thế mạnh trong các công nghiệp kỹ thuật cao cấp. Nước Mỹ có thể hợp tác với Nhật Bản và Ấn Độ cùng tham dự với Úc cùng phát triển các ngành như Trí khôn Nhân tạo (AI), vi tính lượng tử (uantum computing), bao trùm cả các hoạt động về an ninh, vì cả ba đều theo chế độ tự do dân chủ. Cộng thêm Nam Hàn và Đài Loan, các nước này, cùng với các đồng minh ở Âu châu, sẽ đặt nền tảng và xác định các tiêu chuẩn cho các phát minh, sáng kiến kỹ thuật trong tương lai, lôi kéo theo các nước khác. Trung Cộng và Nga sẽ rất yếu trước một khối kỹ thuật cao đẳng như vậy. AUKUS là một bước đầu trong cuộc chuyển hướng của Mỹ trở lại vùng Đông Á và Thái Bình Dương. Một vấn đề là chính sách của nước Mỹ có thể thay đổi khi các đảng thay nhau lên nắm quyền. Liệu các quốc gia trong vùng có thể yên tâm liên kết với Mỹ trong thời gian lâu dài hay không? Điều này do người dân Mỹ đi bỏ phiếu quyết định.  
......

Bầu cử quốc hội liên bang Đức 2021

Kết quả cuộc bầu cử quốc hội liên bang Đức vào ngày 26.9.2021 vừa qua liên minh lưỡng đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU) và Xã hội Thiên chúa giáo (CSU) của thủ tướng Angela Merkel chỉ đạt được 24,1% số phiếu cử tri, tính ra đã bị mất đến 8,8% so với kỳ bầu cử vào năm 2017.   Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD), đảng chính trị lâu đời nhất của Đức, đã giành được 25,7% số phiếu bầu, tăng 5,2% so với cuộc bầu cử liên bang năm 2017.   Olaf Scholz, ứng cử viên thủ tướng của Đảng SPD, hôm thứ Hai, 27.9.2021 tuyên bố sẽ củng cố Liên minh châu Âu và duy trì mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương trong một chính phủ liên minh ba bên mà ông hy vọng sẽ thành lập vào trước Giáng sinh.   Ông Scholz, 63 tuổi, cho biết một chính phủ liên minh với đảng SPD do ông lãnh đạo sẽ đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục duy trì các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương.   Trong cùng ngày, người đối thủ là Armin Laschet (CDU), 60 tuổi, cho rằng ông ta vẫn có thể cố gắng thành lập chính phủ mặc dù đã lãnh đạo khối CDU / CSU đến một kết quả bầu cử quốc gia tồi tệ nhất từ trước đến nay.   Trong cuộc bầu cử quốc hội liên bang kỳ này so với kỳ trước 2017 thì đảng cực hữu AFD (Một giải pháp khác cho nước Đức) chỉ đạt 10,3%, tính ra đã mất 2,3%; đảng Linke (hậu thân đảng CS Đức) chỉ đạt 4,9% (mất 4,3%), các đảng nhỏ khác đạt 8,7% (tăng 3,5%); đảng Xanh (Grün) giành được 14,8% số phiếu bầu (tăng 5,9%), đảng FDP (tự do dân chủ) được 11,5% (tăng 0,8%). Sắp tới đảng các bên sẽ bắt đầu nói chuyện với nhau trong các cuộc thảo luận về việc thành lập liên minh để nắm chính quyền. Có 3 khả năng liên minh như sau: - SPD + Grün + FDP - CDU, CSU + Grün + FDP - CDU,CSU + SPD Quốc hội liên bang Đức có 735 ghế được chia theo tỉ lệ như hình trên.   Đảng Grün và FDP công bố hôm Chủ Nhật rằng họ sẽ thảo luận trước với nhau để tìm kiếm các lĩnh vực thỏa hiệp, trước khi bắt đầu đàm phán với SPD hoặc liên đảng CDU / CSU.   Bà Merkel đã không ra tranh cử thêm nhiệm kỳ thủ tướng lần thứ năm, và sẽ giữ vai trò người giám sát trong các cuộc đàm phán liên minh để đi đến việc thành lập một chính phủ tương lai của nền kinh tế lớn nhất châu Âu.   Đó là câu chuyện ở Đức. Còn ở Việt Nam thì chỉ có một đảng cộng sản duy nhất và lãnh đạo đảng cứ nhất định lì lợm ôm chặt chiếc ghế cầm quyền chờ đến khi người dân nổi giận mạnh dạn đứng lên giành lại./.  
......

Ngoại giao văn hóa 5.0 và "cú đấm" BTS của Hàn Quốc

Nguyen Huy Vu Cựu đại sứ Hoàng Anh Tuấn có một phân tích rất thú vị về cách làm thương hiệu của Hàn Quốc nhân chuyện ban nhạc BTS của Hàn Quốc đến biểu diễn ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Người ta có thể không biết đến Hàn Quốc là ai nhưng thông qua văn hoá, mà cụ thể ở đây là ban nhạc nổi tiếng BTS, người ta biết đến Hàn Quốc. Sau khi biết đến Hàn Quốc rồi thì người ta sẽ tìm hiểu các sản phẩm của Hàn Quốc để mua, từ điện thoại, ti vi, cho đến kim chi. Và ngược lại, sau khi dùng thử các sản phẩm cứng của Hàn Quốc, như xe hơi, đồ điện tử, nếu thấy vừa lòng, thì họ sẽ tìm hiểu đến các sản phẩm “mềm” của Hàn Quốc như âm nhạc, ẩm thực, văn hoá, du lịch. Nói người rồi nghĩ đến mình. Trong bao năm ở nước ngoài, đi bao nhiêu nước, điểm đầu tiên người ta nhắc đến Việt Nam, đối với những người chưa bao giờ trải nghiệm ở Việt Nam, đó là câu hỏi: nước mày vẫn còn ở chế độ cộng sản hả? Lúc đó tôi chỉ biết trả lời rằng, ừ nước tao là một trong những nước cộng sản của thế giới còn sót lại. Còn những người đã từng đến Việt Nam, họ đều khen đẹp, thức ăn ngon. Cái cảm nghĩ của những người đã đến Việt Nam đó là tại sao nước mày có nhiều tài nguyên, con người lanh lợi thông minh vậy mà lại chịu chấp nhận sự lãnh đạo của một đảng Cộng sản độc tài như một cô gái đẹp suốt ngày bị hãm hiếp bởi một kẻ thất phu, để rồi cô gái đó mỗi ngày thêm thân tàn ma dại. Nhận xét đó nó không quá lời đâu. Bạn hãy nhìn những công trình xấu xí một cách đầy đau đớn mọc lên ở khắp Việt Nam, các thành phố ngày mỗi ô nhiễm, chật chội, các cánh rừng chặt trụi, các đỉnh núi bị cạo, và các chính sách chống dịch chỉ làm tan hoang đất nước. Nhiều bạn cũng sẽ hỏi, ủa Trung Quốc cũng có đảng Cộng sản, rồi Triều Tiên, Cuba cũng có đảng Cộng sản thì sao? Câu trả lời là trong cả bốn nước cộng sản thì dân Trung Quốc được người ta coi trọng hơn cả. Coi trọng bởi vì Trung Quốc mạnh, chứ họ không nể. Thế giới đã qua rồi kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh, nhưng ám ảnh của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn. Chừng nào một quốc gia thoát khỏi chủ nghĩa độc tài, gia nhập với thế giới tự do văn minh, thì văn hoá mới được người ở xứ văn minh tôn trọng, ngưỡng mộ, và lan toả. Người ta ăn KFC hay McDonald không chỉ vì nó dễ ăn, ở vị trí thuận tiện, sạch sẽ, mà còn bởi vì thấy thoải mái với hình ảnh của thương hiệu Mỹ, một xứ sở của tự do. Hãy thử thay bằng một thương hiệu của Triều Tiên ở cùng vị trí thử xem coi có bao nhiêu người muốn vào ăn? Cho nên nói đi cũng phải nói lại, cái chế độ chính trị là công cụ rất quan trọng để quảng bá một quốc gia. Trong kỷ nguyên dân chủ, không có chổ đứng cho một vị trí của một chế độ độc tài. Sớm hay muộn, các chế độ độc tài phải bị quét đi, như thông điệp mà Mỹ đang thể hiện ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc: Mỹ đang dẫn đầu liên minh để chống lại các lực lượng phản dân chủ. —————— [Ngoại giao văn hóa 5.0 và "cú đấm" BTS của Hàn Quốc] Tác giả: Cựu đại sứ Hoàng Anh Tuấn 1. Đại hội đồng LHQ họp vào tháng 9 hàng năm, bắt đầu từ ngày Thứ ba của tuần thứ ba. Đây là nơi các nguyên thủ, lãnh đạo các quốc gia trên thế giới tề tựu, bàn chuyện bang giao, tế thế như chống con Covid-19, phân phối vaccine, khôi phục kinh tế sau đại dịch, biến đổi khí hậu, chiến tranh lạnh mới... Tóm lại là toàn các vấn đề to đùng. 2. "Tự dưng" năm nay anh Hàn Quốc chơi "khác người". Đoàn Hàn Quốc do Tổng thống Moon Jae-in dẫn đầu, và không có ý định có bài diễn văn đao to, búa lớn. Tuy nhiên, Tổng thống Moon lại đem theo "Át chủ bài" là ban nhạc nổi tiếng BTS. Muốn biết BTS là ai thì đề nghị tra thêm Google. Đại để: - Đây là ban nhạc toàn nam Boy Band gồm 7 ông tóc vàng, ăn mặc sành điệu: Jin, Suga, J-Hope, RM, Jimin, V, và Jungkook. - Boy Band này ra đời cách đây khoảng 10 năm (2010), nhưng từ năm 2015 đã trở thành ban nhạc số 1 Hàn Quốc và thuộc sở hữu của công ty Big Hit Entertainment. - Trong vài năm gần đây, tiếng tăm của BTS vượt ra ngoài biên giới Hàn Quốc và vươn tới tầm toàn cầu. Nhiều bài hát và tên tuổi của BTS chiếm lĩnh vị trí số 1 trong bảng xếp hạng âm nhạc của các cường quốc nhạc pop như Mỹ, Anh, Australia, Canada... - Boy Band này tạo ra doanh thu có tổng giá trị 4,5 tỷ USD, tức 0,3% GDP của Hàn Quốc. - Tài khoản Twitter của BTS có tới 39,3 triệu người theo dõi. Đối với thanh niên nhiều nước, họ có thể không biết Tổng thống Moon Jae-in là ai, nhưng nhắc đến BTS thì có thể kể ra danh sách các bài hát ruột, cũng như phong cách hát và ăn mặc của họ! 3. Tại sao lại là BTS và tại sao là Liên hợp quốc? Câu trả lời khá đơn giản: người Hàn Quốc ngày nay rất thực dụng. Họ là một cường quốc kinh tế và cường quốc công nghệ. Cách tốt nhất và nhanh nhất để mọi người biết đến thương hiệu Hàn Quốc, để xuất khẩu được nhiều hơn TV màn hình phẳng, Smartphone, đồ gia dụng... đi khắp thế giới là thông qua con đường ngoại giao văn hóa. Và về tính đại diện thì ở thời điểm hiện nay không "sản phẩm" nào có thể qua mặt được BTS. Hơn nữa, các thông điệp của BTS luôn nhắm vào giới trẻ, nói về các trải nghiệm tâm sinh lý, những khó khăn để vượt qua các rào cản của gia đình và xã hội - những vấn đề mà chính các chàng trai BTS đã trải qua và mong muốn chia sẻ. Bài hát "Permission to Dance" (Xin phép để khiêu vũ) cùng thông điệp đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc của BTS với sự có mặt của Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in là thông điệp khá mạnh. BTS không chỉ nói lên tiếng nói của thanh niên Hàn Quốc, mà của cả thanh niên thế giới nói chung, về 2 năm khó khăn vừa qua khi phải sống chung với dịch bệnh Covid-19, và giờ là lúc họ hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn, làm những điều có ích, đặc biệt là thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Và sự chuẩn bị công phu của Hàn Quốc đã được đền đáp xứng đáng. Ngay ngày khai mạc Đại hội đồng Liên hợp quốc, đồng loạt các tờ báo và hãng tin lớn của Mỹ và thế giới đưa tin về BTS, bài hát "Permission to Dance" của họ và màn nhảy múa tưng bừng của hàng trăm nam thanh nữ tú Hàn Quốc ngay giữa New York. Vậy thì đây đúng là "quả" PR ngoại giao văn hóa 5.0 đỉnh của đỉnh rồi còn gì!  
......

Thượng đỉnh QUAD vì một khu vực “Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”

Thanh Hà -: RFI Trong thông cáo chung kết thúc thượng đỉnh QUAD tại Nhà Trắng hôm 24/09/2021, lãnh đạo bốn nước Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc nhấn mạnh “các bên bảo vệ Nhà Nước pháp quyền, quyền tự do trên biển, trên không (…), bảo vệ những giá trị tự do và sự toàn vẹn lãnh thổ.” Sau hai giờ họp, Tổng Thống Joe Biden cùng ba vị Thủ Tướng Narendra Modi, Yoshihide Suga và Scott Morrison tránh nêu đích danh Trung Quốc. Tuy nhiên, những lời lẽ trong thông cáo chung được cho là trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh. Cũng trong văn bản này, lãnh đạo Bộ Tứ lưu ý các bên “cùng nhau, một lần nữa cam kết thúc đẩy một trật tự căn cứ trên nền tảng pháp luật, tự do, rộng mở và không nao núng trước những hành vi cưỡng ép, để củng cố an ninh, sự thịnh vượng trong vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương và xa hơn khu vực này.” Liên quan đến hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên, mối quan tâm của Mỹ và Nhật Bản, nhóm QUAD kêu gọi Bình Nhưỡng thiên về giải pháp ngoại giao. Tuy nhiên, như đã dự báo, phần lớn nội dung thượng đỉnh lần này tập trung vào các về hợp tác trong lĩnh vực công nghệ, y tế, đối phó với đại dịch Covid-19, nhất là trong bối cảnh Ấn Độ vẫn có thêm trên dưới 30 ngàn ca dương tính với virus corona mỗi ngày. Thông tín viên Carrie Nooten tại New York ghi nhận thượng đỉnh nhóm Bộ Tứ lần này đã cố ý đẩy lùi vế an ninh xuống hàng thứ yếu để tập trung vào những hồ sơ y tế, hay chống biến đổi khí hậu: “Vào lúc mà khủng hoảng ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Pháp về vụ tàu ngầm vừa tạm lắng xuống và Trung Quốc dự báo liên minh bộ tứ QUAD sẽ ‘thất bại,’ Washington đã làm tất cả để giảm thiểu khía cạnh an ninh nhân thượng đỉnh hôm qua. Thí dụ như các bên đã xoáy vào những điểm như 1 tỷ liều vắc-xin chống Covid-19 được trao cho Ấn Độ hay thỏa thuận cho phép tăng cường mức độ an toàn về các khâu sản xuất linh kiện bán dẫn trong tương lai.  Dù vậy, cả bốn quốc gia dân chủ đều quan ngại trước đà vươn lên của Trung Quốc và những đợt thâm nhập Biển Đông của Hải Quân Trung Quốc. Các thành viên nhóm QUAD lần lượt kêu gọi duy trì một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Thủ Tướng Úc Scott Morrison tuyên bố: ‘Chúng tôi có mặt tại đây cùng nhau vì Ấn Độ – Thái Bình Dương, một khu vực mà chúng tôi mong muốn không bị những hành vi o ép, nơi mà chủ quyền của tất cả các quốc gia đều phải được tôn trọng, nơi mà mọi tranh chấp đều phải được giải quyết một cách bình tĩnh và trong khuôn khổ của luật pháp quốc tế.’ Sau thông báo thành lập liên minh quân sự AUKUS, nhóm QUAD là liên minh thứ nhì được Hoa Kỳ khởi động lại trong vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương. Đây là một thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Châu Âu và Liên Minh Bắc Đại Tây Dương [NATO] vẫn là những đồng minh của Hoa Kỳ, nhưng cả Liên Âu và NATO không còn là những đồng minh quan trọng duy nhất đối với Mỹ. Ngoại Trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian đã trao đổi với các đồng nhiệm Ấn Độ và Nhật Bản. Chắc chắn đó là để thăm dò tác động của QUAD trong quan hệ giữa Paris với hai đối tác này.”   Thanh Hà -: RFI  
......

AUKUS: Cơn ác mộng của Bắc Kinh về một NATO châu Á đang thành hiện thực?

Tổng thống Mỹ Joe Biden họp trực tuyến từ Nhà Trắng (Washington-Hoa Kỳ) với thủ tướng Úc Scott Morrison (t) và thủ tướng Anh Boris Johnson (p), nhân buổi công bố việc thành lập liên minh AUKUS ngày 15/09/2021. AP - Andrew Harnik Trọng Nghĩa - RFI| Dư luận Pháp đến nay chủ yếu tập trung vào việc Paris mất đi một hợp đồng đóng tàu ngầm kếch xù cho Úc mà hầu như không chú ý đến liên minh chiến lược Anh-Mỹ-Úc vừa được chính thức khai sinh ngày 15/09/2021. Đối với giới chuyên gia địa lý chính trị, việc liên minh AUKUS được hình thành là một ác mộng đối với Trung Quốc, vì đây có thể là tiền thân của một “NATO châu Á” mà Bắc Kinh đang lo sợ. AUKUS là một liên minh quân sự bao gồm ba đồng minh truyền thống: Úc, Anh và Hoa Kỳ, mà tên gọi lấy từ các chữ cái đầu tiên trong tên gọi bằng tiếng Anh của ba quốc gia liên quan, xếp theo thứ tự alphabet (AUstralia – UK United Kingdom – US United States). Trung Quốc: Đối tượng trong tầm nhắm của AUKUS Thông cáo chung về việc thành lập liên minh khẳng định mục tiêu của khối này là “củng cố và hỗ trợ” lợi ích của ba thành viên trong các vấn đề quốc phòng và an ninh, thông qua việc “tăng cường chia sẻ thông tin và công nghệ” và “hội nhập sâu hơn các lãnh vực khoa học, công nghiệp và chuỗi cung ứng.” Sáng kiến ​​đầu tiên được công bố của liên minh AUKUS chính là việc Mỹ và Anh sẽ “hỗ trợ” Úc để có được tàu ngầm hạt nhân trong vòng 18 tháng tới đây, sử dụng năng lực công nghiệp Hoa Kỳ và Anh Quốc. Tuy nhiên, liên minh AUKUS không đơn thuần là quân sự, mà còn bao gồm các lĩnh vực khác nhau chủ yếu liên quan đến kỹ thuật số như mạng tin học, trí tuệ nhân tạo và thậm chí cả tin học lượng tử. Đối với giới quan sát, dù không được nêu đích danh, nhưng Trung Quốc chính là đối tượng mà liên minh AUKUS nhắm tới. Cả ba thành viên liên minh đều đã từng cho thấy quyết tâm ngăn chặn đà bành trướng Bắc Kinh. Mỹ: Nền tảng của liên minh Theo ghi nhận của báo Pháp Les Echos ngày 18/09, Hoa Kỳ, nền tảng của liên minh AUKUS đã cho thấy rõ quyết tâm đối đầu với Trung Quốc, và liên minh mới hình thành này nằm trong chiến lược đa phương, liên minh với các đối tác truyền thống trong một mặt trận thống nhất, trái hẳn với cách làm đơn phương thời Donald Trump. Úc: Thành viên nhiệt tình nhất Úc được cho là nước hăng hái nhất trong liên minh, vào lúc quan hệ Canberra – Bắc Kinh ngày càng căng thẳng. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc không ngừng mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, đặc biệt là kể từ khi họ tung ra sáng kiến “Con Đường Tơ Lụa Mới” vào năm 2013. Les Echos nhắc lại rằng năm 2015, Canberra đã nhượng lại cảng Darwin ở miền Bắc Úc cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc. Cơ sở hạ tầng chiến lược này nằm trên lộ trình của Con Đường Tơ Lụa Mới và tiếp giáp với một căn cứ Mỹ. Peter Dutton, bộ trưởng Quốc Phòng Úc, gần đây cho biết sẵn sàng chấm dứt hợp đồng cho thuê cảng Darwin, và việc xây dựng một cảng thứ hai, cho Hải Quân Úc và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ hoạt động, đang được tiến hành. Liên minh AUKUS do đó cũng nằm trong chiến lược chống Trung Quốc của Úc. Vào tháng 6 năm 2020, thủ tướng Úc Scott Morrison đã công bố ngân sách 270 tỷ đô la trong vòng 10 năm để cải thiện quân đội Úc, trong đó có việc mở rộng khả năng tấn công của Hải Quân. Anh: Phát huy chiến lược Global Britain Luân Đôn rất muốn lấy lại vị thế của mình trên trường quốc tế sau khi rời Liên Hiệp Châu Âu. Về mặt lịch sử, Anh rất gần với Mỹ và Úc, và liên minh AUKUS là một cách để Boris Johnson tái khẳng định chiến lược “Nước Anh Toàn Cầu – Global Britain” của ông, dựa trên việc tăng cường hiện diện ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương để kiềm chế Trung Quốc. Theo nhận định của hầu hết các chuyên gia, hiệp ước giữa Mỹ, Anh và Úc là một sự kiện địa chính trị rất quan trọng, cụ thể hóa quyết tâm của chính quyền Biden đối phó với Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, cơn ác mộng về sự hình thành một liên minh theo kiểu NATO ở châu Á nhằm bao vây Trung Quốc có thể là đã bắt đầu trở thành hiện thực. Trả lời phỏng vấn của báo Les Echos, ông Antoine Bondaz, chuyên gia về Trung Quốc tại Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp FRS, cho rằng AUKUS cụ thể hóa sự chuyển hướng chiến lược của Washington qua vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, khiến Bắc Kinh thêm lo ngại trước nguy cơ bị bao vây. Công nghệ tàu ngầm hạt nhân: Úc trước, các nước khác sau? Theo chuyên gia Bondaz, quyết định của Washington chuyển giao công nghệ động cơ tàu ngầm hạt nhân cho Úc rất quan trọng, vì đây là lần đầu tiên sau 70 năm mà Mỹ làm điều này. Trường hợp Úc có thể làm tiền lệ cho Nhật Bản, Hàn Quốc và trong tương lai xa hơn là Indonesia hoặc Việt Nam. Chính quyền Trung Quốc, theo ông Bondaz, chắc chắn là đang hết sức lo lắng trước nguy cơ bị Mỹ bao vây về mặt chiến lược. Trái với Washington, vốn có rất nhiều đồng minh, Bắc Kinh hầu như bị cô lập về mặt quân sự. Trung Quốc không có đồng minh quân sự nào, ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Nga và Pakistan hiện chỉ là đối tác chứ không hoàn toàn là đồng minh. AUKUS rồi QUAD, rồi Five Eyes… Đối với chuyên gia Bondaz, điều mà Bắc Kinh lo ngại hơn cả là về lâu về dài, một NATO châu Á sẽ hình thành. Với AUKUS, Washington đã thành công trong việc gắn kết hai đồng minh Anh và Úc. Sắp tới đây, Hoa Kỳ sẽ cố gắng thể chế hóa quan hệ đối tác quốc phòng của họ, bằng cách thúc đẩy việc chính thức hóa nhóm QUAD, tức là Bộ Tứ, bao gồm 4 nước Mỹ, Úc Nhật và Ấn nhân hội nghị thượng đỉnh tại Washington. Mỹ cũng đang cố gắng mở rộng liên minh tình báo Ngũ Nhãn Five Eyes (Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada, New Zealand, và Úc), để kết nạp thêm hai đối tác châu Á của Mỹ là Nhật Bản và Hàn Quốc. Mối lo ngại của Trung Quốc trước khả năng hình thành một “NATO Châu Á” lại càng gia tăng trong bối cảnh khối NATO đang tăng cường quan hệ với 4 đối tác chính thức trong vùng châu Á Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand, để bảo vệ “trật tự quốc tế dựa trên luật pháp.” Trọng Nghĩa Nguồn: RFI  
......

Thủ tướng Đức Angela Merkel hé lộ kế hoạch sau khi hết nhiệm kỳ

Theo hãng tin RIA của Nga, bà Merkel mới đây đã bác bỏ tin đồn về kế hoạch chuyển đến Hamburg sau khi bà hết nhiệm kỳ. Cụ thể, Thủ tướng Đức nói rằng, sau khi hết nhiệm kỳ bà sẽ ở lại Berlin và Uckermark, nơi gia đình bà có một căn hộ và một ngôi nhà ở vùng nông thôn. “Sẽ không xa để đi từ đó đến khu vực bầu cử cũ của tôi”, bà Merkel nói. Đồng thời, bà Merkel cho hay, bà cảm thấy “thiếu Biển Baltic”. Trước đó, Thủ tướng Merkel đã thông báo ý định rời khỏi chính trường sau cuộc bầu cử Nghị viện năm 2021. Theo kết quả bầu cử Quốc hội vào ngày 26/9, nội các Chính phủ mới của Đức sẽ được thành lập và tiến cử tân Thủ tướng. Năm 2005, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức Thủ tướng Đức và đã giữ chức vụ này trong 16 năm. Theo hãng tin DPA, Thủ tướng Đức Angela Merkel (67 tuổi) sau khi rời nhiệm sở sẽ nhận lương hưu khoảng 15 nghìn euro mỗi tháng. Số tiền lương hưu được xác định như vậy là do kể từ năm 1990 bà Merkel thường xuyên được bầu làm thành viên Hạ viện Đức. DPA cho biết, bà Merkel được hưởng lương hưu với số tiền bằng 65% lương nghị viện hiện nay. Đồng thời, bà Merkel, với tư cách là cựu thủ tướng Đức, sẽ có quyền có văn phòng riêng với 2 trợ lý, 1 thư ký và 1 tài xế. Theo một cuộc khảo sát của kênh truyền hình ARD, Thủ tướng Merkel - một trong số nhân vật nữ quyền lực nhất châu Âu, đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, từ khủng hoảng đồng euro, vấn đề bảo vệ khí hậu, loại bỏ hạt nhân sau thảm hoạ tại Fukushima (Nhật Bản), vấn đề người tị nạn và giờ đây là đại dịch Covid-19. Có tới 3/4 (75%) số người được hỏi đánh giá tích cực vai trò thủ tướng Đức của bà Merkel trong ứng phó với các vấn đề này. Đặc biệt có tới 78% số người đủ tuổi bầu cử được hỏi nhận xét nữ Thủ tướng là người có năng lực, 77% đánh giá bà có tài lãnh đạo, 71% nhìn nhận bà là người đáng tin cậy và 69% nói nữ chính trị gia 67 tuổi của đảng Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo Đức (CDU) là người có thiện cảm, dễ mến. Hôm 4/6/2020, bất chấp tỷ lệ ủng hộ đang ở mức cao, Thủ tướng Merkel tuyên bố sẽ không tái tranh cử nhiệm kỳ 5 và đang “dọn đường” cho người kế nhiệm. Cuộc đua vào ghế Thủ tướng Đức đang bước vào chặng nước rút với ưu thế nghiêng về Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Olaf Scholz, đại diện cho đảng Dân chủ Xã hội (SPD), hai ứng viên còn lại là Chủ tịch đảng Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo (CDU) đồng thời là Thủ hiến bang Nordrhein-Westfalen, ông Armin Laschet, đại diện cho Liên minh Dân chủ/Xã hội Cơ đốc giáo; và Chủ tịch đảng Xanh là bà Annalena Baerbock./.  
......

'Thời đại' của bà Angela Merkel chấm dứt sau 16 năm làm thủ tướng Đức

Lưỡng Nguyên Sau khi quyết định không ra tranh cử lần thứ năm vào ngày 26 tháng 9 năm 2021, thì thời gian nắm chính quyền của bà thủ tướng Đức Angela Merkle không còn bao lâu nữa. Trong những chuyến công du ngoại quốc cuối cùng, chuyến công du qua Mỹ vào giữa tháng 7 năm 2021 của bà trên cương vị thủ tướng có ý nghĩa và quan trọng nhất. Đây là lần đầu tiên một vị lãnh đạo châu Âu có cuộc gặp gỡ với tổng thống Joe Biden tại tòa Bạch Ốc từ khi vị tổng thống thứ 46 của nước Mỹ lên nắm chính quyền.  „Chuyến đi thăm chia tay“ của bà Merkel với mục đích là cải thiện lại mối quan hệ giữa hai quốc gia Đức và Mỹ mà dưới thời tổng thống Trump đã bị „đóng băng“. Không phải đây là lần đầu bà tới thăm chính thức thủ đô Washington mà là lần thứ 23, trong suốt thời gian tại chức bà đã làm việc với 4 tổng thống của nước Mỹ: George W. Busch, Barack Obama. Donald Trump, Joe Biden. Cũng như trên chính trường thế giới, bà đã từng làm việc với 5 thủ tướng Anh, 4 tổng thống Pháp và 7 thủ tướng Ý. Nếu mọi chuyện ra đi đúng như dự tính, thì bà Merkel là người giữ chức thủ tướng lâu thứ nhì ở Đức, vượt qua Konrad Adenauer (1949-1963), thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Liên bang Đức sau Đệ nhị thế chiến, nhưng lại ít hơn mấy ngày so với thủ tướng Helmut Kohl (1982-1998), người đã có công thống nhất nước Đức và xây dựng Liên minh châu Âu. Khi nhắc đến bà Merkel, người ta thường nghĩ đến một nữ bộ trưởng trẻ tuổi nhất trong nội các của Helmut Kohl sau khi Đức thống nhất năm 1991 (36 tuổi), thủ tướng đầu tiên xuất thân từ Đông Đức, một phụ nữ đầu tiên và trẻ tuổi nhất đứng đầu chính phủ vào năm 2005 lúc mới 51 tuổi. Nhiều tờ báo Đức cũng như Anh đã so sánh bà với cựu thủ tướng Anh Margaret Thatcher và đặt cho bà Merkel danh hiệu "Iron Lady" (bà Đầm Thép). Hai nhà lãnh đạo này có những điểm giống nhau mạnh mẽ, quyết đoán và nổi tiếng. Bà Thatcher thuộc đảng Bảo Thủ Anh, bà Merkel thuộc đảng cánh hữu Đức CDU (Liên minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo). Thân thế Tên thật của bà là Angela Dorothea Kasner sinh ngày 17 tháng 7 năm 1954 tại Hamburg, cha là Horst Kasner một mục sư Tin Lành và mẹ là Herlind Kasner làm nghề cô giáo. Gia đình bà có nguồn gốc từ Ba Lan di cư qua Đức sau Đệ nhất thế chiến. Đúng ra tên họ của gia đình bà là Kazmierczak, ông nội của bà tên là Ludwig Kazmierczak, sau một thời gian tới Đức, năm 1930 ông đã đổi họ thành Kasner. Năm 1957, cả gia đình bà dọn qua Templin, hồi đó thuộc lãnh thổ Đông Đức (Cộng hòa Dân chủ Đức), vì ông Horst Kasner được lãnh nhiệm vụ cai quản một nhà thờ ở vùng đó. Năm 1973, Angela Dorothea Kasner đậu tú tài với số điểm 1,0 (tối ưu). Bà nói thông thạo hai thứ tiếng Anh và Nga. Là con người say mê khoa học, bà ghi tên học về vật lý ở đại học Leipzig và lấy bằng tiến sĩ về vật lý năm 1986.  Vào những năm 70 bà xin làm việc ở Đại học Bách khoa Ilmenau, theo như lời bà kể, mật vụ Stasi của cộng sản đông Đức muốn tuyển mộ bà làm việc cho họ, nhưng bà từ chối. Chính vì thế bà không được nhận làm việc cho trường đại học. Năm 1977 bà làm đám cưới với Ulrich Merkel. một người bạn học cũng là một nhà vật lý học. Bà lấy họ của chồng và đổi tên là Angela Dorothea Merkel. Sau mấy năm chung sống, hai người chia tay nhau năm 1982. Năm 1984 bà quen ông Joachim Sauer, cũng là tiến sĩ về vật lý và sau này trở thành giáo sư đại học ở Berlin. Hai ông bà làm đám cưới năm 1998 và sống với nhau không có con cho đến ngày hôm nay. Năm 1989, sau khi bức tường Berlin chia đôi nước Đức bị sụp đổ, bà gia nhập đảng DA (Thức tỉnh Dân chủ) là một đảng nhỏ ở Đông Đức. Năm 1990, Đông Đức sáp nhập vào Tây Đức, bà ra tranh cử, thắng cử và trở thành dân biểu của quốc hội thống nhất đầu tiên. Khi đảng DA được sáp nhập vào đảng CDU, bà được thủ tướng Kohl mời làm bộ trưởng bộ Phụ nữ và thanh niên. Bà trở thành một bộ trưởng trẻ tuổi nhất trong nội các lúc bấy giờ. Ít lâu sau bà được ông Kohl giao cho một trọng trách lớn hơn là làm bộ trưởng về Môi trường và An toàn Lò Phản ứng Hạt nhân. Ở chức vụ này bà đã chứng tỏ được khả năng của mình và được thủ tướng Kohl hoàn toàn tín nhiệm. Ông thường gọi bà thân mật là „das Mädchen“ (cô gái). Năm 1998 sau 16 năm làm thủ tướng, Helmut Kohl ra tranh cử lần thứ năm và bị thua Gerhard Schröder thuộc đảng SPD (Dân Chủ Xã Hội Đức). Sau đó ông Kohl bị buộc phải nhường chức chủ tịch đảng cho Wolfgang Schäuble, bà Merkel được đề cử làm tổng thư ký đảng CDU. Hơn một năm sau, Helmut Kohl và Wolfgang Schäuble, cả hai bị dính dáng đến vụ quỹ đen của đảng và chính bà là người đứng lên công khai lên án vụ bê bối này. Ông Kohl bắt buộc phải từ chức chủ tịch danh dự và ông Schäuble phải nhường chức chủ tịch đảng CDU cho bà năm 2000. Bà trở thành một phụ nữ đầu tiên nắm chức vụ này trong một đảng có truyền thống bảo thủ. Là người đứng đầu phe đối lập, bà Merkel đã thành công và thắng thủ tướng Gerhard Schröder đảng SPD trong cuộc bầu cử vào năm 2005 để lên làm nữ thủ tướng đầu tiên và trẻ nhất trong lịch sử nước Đức.  Sự nghiệp Từ năm 2005 đến năm 2021, qua 4 lần tranh cử bà Merkel vẫn được người dân tín nhiệm và nhờ đó giữ vững được chiếc ghế thủ tướng, mặc dù có lúc phải liên minh với đảng SPD năm 2005, hay với đảng FDP (Đảng Dân chủ Tự do) năm 2009, hoặc trở lại liên minh với đảng SPD vào năm 2013 và 2017. Nhiều năm liên tiếp tạp chí Mỹ Forbes đã bầu bà là người phụ nữ quyền lực nhất thế giới, tờ Time đã bình chọn bà “Nhân vật của năm 2015” mà trước bà chỉ có cựu thủ tướng Willy Brandt là một người Đức duy nhất được danh hiệu đó cho năm 1970. Bà cũng được báo chí ngợi khen là người đàn bà có ảnh hưởng nhiều nhất ở châu Âu. Nhưng chính cái ánh hào quang sáng chói đó đã làm lu mờ những người chung quanh, làm trở ngại cho đảng CDU khi đi kiếm người kế nhiệm. Sau 18 năm trời làm chủ tịch đảng, vào năm 2018 bà phải từ chức và nhường chức vụ này cho bà Annegret Kramp-Karrenbauer, tổng thư ký đảng, vì đảng CDU bị liên tục mất phiếu trong các cuộc bầu cử ở cấp tiểu bang. Bà Kramp-Karrenbauer  là người được bà Merkel tín nhiệm và đề nghị. Tuy nhiên chỉ hơn 1 năm, bà Kramp-Karrenbauer đã xin rút lui để ông Armin Laschet lên thay thế vì bị quá nhiều áp lực trong đảng.   Trong mọi hoàn cảnh bà luôn luôn chứng tỏ là nhà Quản trị khủng hoảng (Crisis Manager) tài năng đi xây dựng sự đồng thuận. Đây cũng là sức mạnh của bà, đi tìm sự đồng thuận với tất cả phe nhóm. Bình tĩnh, thực tế và lý luận thay vì khích động, bà dễ tạo nên sự cảm thông và đạt được mục đích của mình. Mềm dẻo nhưng không đi ra khỏi nguyên tắc, người ta ví von bà “vững chắc như bánh mì đen và Mercedes” (solide wie Schwarzbrot und Mercedes). Bánh mì đen và xe hơi Mercedes là hai sản phẩm có chất lượng cao cấp của Đức. Trong 4 nhiệm kỳ làm thủ tướng, bà đã mang lại cho nước Đức một nền kinh tế phồn thịnh và cuộc sống ổn định. Người Đức mến mộ bà vì đức tính giản dị, khiêm tốn. Họ thân mật gọi bà thủ tướng của họ là “Mutti” có nghĩa là “Mẹ”. Họ không quên được hình ảnh của bà Merkel đẩy xe đi chợ ở một siêu thị vào tháng 3 năm 2020 ở thời điểm đại dịch Corona đang lên cao. Trong xe có vài chai rượu, một ít đồ ăn và vài cuộn giấy đi cầu.  Với đầu óc phân tích thấu đáo đến tận cùng của một khoa học gia, với đức tính thận trọng của một con người từng sống dưới chế độ cộng sản, với bản tính khéo léo, khôn ngoan cộng thêm lòng chân thành và sự tận tụy bà đã dẫn dắt nước Đức đi qua nhiều cơn khủng hoảng lớn. Như năm 2010, nhờ sự quyết tâm và bình tĩnh bà tìm được giải pháp chung để vượt qua được cơn khủng hoảng về tài chính trong khu vực đồng Euro (Eurozone) và cứu được nước Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ái Nhĩ Lan thoát khỏi phá sản. Năm 2015 khi những làn sóng tị nạn từ Trung Đông tràn qua, bà ra lệnh mở cửa biên giới để nhận hơn 1 triệu người tị nạn, mặc dù không được sự đồng thuận của một số quốc gia trong Liên minh châu Âu. Để biện minh cho hành động nhân đạo của mình, bà nói “Đức là nước mạnh, nếu đã cứu được các ngân hàng thì cũng cứu được con người”. Hơn 1 triệu người tị nạn đã tạo nên ít nhiều xáo trộn trong cuộc sống của người Đức và làm nặng gánh tài chánh quốc gia (78 tỷ Euro) đưa đến sự bất mãn của một số  dân chúng. Hậu quả là đảng cực hữu AfD (Con đường khác cho nước Đức) từ một đảng nhỏ không có tiếng tăm, năm 2017 vào được quốc hội Đức và đứng hàng thứ ba chỉ sau đảng CDU, SPD với 12,6% số phiếu. Năm 2021, khủng hoảng về khí hậu thay đổi gây lên lũ lụt, thêm khủng hoảng về đại dịch Corona, bà vẫn là người đứng đầu để giải quyết những vấn đề cấp bách. Nhưng không phải lúc nào bà cũng thành công, tính thận trọng, suy nghĩ thấu đáo cần thời gian và để có sự đồng thuận với các nhà lãnh đạo 16 tiểu bang trong việc chống lại Covid-19 cũng cần nhiều nỗ lực để thuyết phục. Sự phản ứng chậm chạp đã làm mức độ lây nhiễm của vi khuẩn Corona phát triển gia tăng nhanh chóng vào những tháng đầu năm 2021. Rồi sự thiếu thuốc chủng và khẩu trang trong thời gian đầu cũng làm người dân mất dần sự tin tưởng vào chính phủ. 16 năm trời không phải là dài, nhưng lại là một thời gian quá dài trong một thế giới đang quay cuồng với một vận tốc quá nhanh, hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác. Người dân Đức cần một sự thay đổi, cần một khuôn mặt mới, cần những ý tưởng mới, cần thấy một viễn ảnh mới khác với một nền chính trị “cứ tiếp tục như thế” (“weiter so”) của bà Merkel. Bởi vì “cứ tiếp tục như thế” sẽ không biết như thế đi về đâu? Khi sự phồn thịnh mà bà Merkel mang tới một phần lớn là cũng là do từ chương trình cải cách “Agenda 2010” của cựu thủ tướng Schröder và từ Thị trường chung châu Âu do cựu thủ tướng Kohl đã dày công xây dựng. Đất nước Đức thiếu những cải cách cần thiết để chuẩn bị cho thời gian sau Merkel, thiếu cái nhìn xa để đương đầu hữu hiện hơn cho những vấn đề trong tương lai. Nước Đức là một trong những nước tiên tiến về kỹ thuật và sống nhờ vào xuất cảng. Nước Đức sẽ đi về đâu khi không còn dẫn đầu về kỹ thuật, không còn xuất cảng được máy móc, xe hơi? Đó là những băng khoăng của người dân Đức khi nhìn về tương lai. Công nghệ kỹ thuật số (digital technology) bị đình trệ, công nghệ về xe hơi Đức vẫn bám vào những động cơ nổ chạy bằng xăng dầu, trong khi các nước khác trên thế giới đã bỏ hết công sức vào công nghệ xe hơi điện. Năm 2010, Trung Quốc đã sản xuất được xe Bus điện. Hãng xe hơi điện Tesla của Mỹ ra đời năm 2003, đến năm 2021 giá trị doanh nghiệp của Tesla gấp hai lần cả 3 hãng xe hơi của Đức cộng lại (Volkswagen, BMW, Daimler). Những năm cuối cùng trên ghế thủ tướng, bà Merkel chỉ làm công việc của người quản trị khủng hoảng (Crisis Manager), thiếu sáng kiến và thiếu cái nhìn xa. Những cá tính của bà như đắn đo suy nghĩ, cẩn thận, cân nhắc, im lặng chờ đợi đã trở thành thụ động trong thời đại mới và là rào cản cho sự thành công. Những cuộc bầu cử liên bang cho thấy đảng CDU đang tuột dốc. Năm 2013, ở cuộc bầu cử quốc hội liên bang đảng CDU với đảng liên kết CSU (Liên minh Xã Hội Thiên Chúa Giáo) đạt được 41,5 % , đến năm 2017 chỉ còn 32,9% và theo lần thăm dò ý kiến của  ZDF thì cuộc bầu cử vào ngày 26 tháng 9 năm 2021 CDU/CSU  chỉ còn có 26% (13.8.2021). Một kết quả thấp nhất mà hai đảng này có được từ lúc thành lập Cộng hòa Liên bang Đức đến giờ. Giã từ Khi được hỏi sẽ làm gì khi về hưu, bà Merkel trả lời “Sẽ ngủ nhiều hơn một chút” và nói thêm không muốn bị chê là “lười biếng” trong thời gian làm thủ tướng. Sự quyết định không ra tranh cử vào tháng 9 năm 2021, được đánh giá là sự khôn ngoan của bà Merkel. Kinh nghiệm về sự thất bại của cựu thủ tướng Helmut Kohl trong lần tranh cử lần thứ năm, cho thấy người Đức không thích có một thủ tướng ở chức vụ này quá lâu dù có công trạng đến đâu đi nữa. Nước Đức có 3 cựu thủ tướng đã làm nên lịch sử là cựu thủ tướng Konrad Adenauer đã đặt nền móng đầu tiên xây dựng Cộng hòa Liên bang Đức, cựu thủ tướng Willy Brandt (1969-1974) với chính sách Phương Đông đã đưa đến sự sụp đổ toàn bộ các nước cộng sản đông Âu, cựu thủ tướng Helmut Kohl là người đã có công thống nhất nước Đức và xây dựng Liên minh châu Âu. Thật ra khó mà có thể so sánh công bằng sự nghiệp của bà Merkel với ba vị thủ tướng trên. Nhưng có điều, người ta không thể phủ nhận được trong 16 năm qua bà Merkel đã mang lại sự phồn thịnh cho dân Đức và sự ổn định của nền chính trị ở Đức nói riêng và châu Âu nói chung. Nước Đức đã trở thành một cường quốc về kinh tế lẫn chính trị. Bà Merkel là một người đàn bà giản dị và khiêm tốn, nhưng nhiều đối thủ chính trị lại rất nể trọng bà, họ đã truyền cho nhau một kinh nghiệm quý báu là “Không bao giờ được đánh giá thấp bà Merkel”. Một con người đi từ “das Mädchen” (cô gái) mà cựu thủ tướng Kohl thường thân mật gọi lúc ban đầu khi bà mới bước chân vào chính trường, cho đến khi lên làm thủ tướng mang danh hiệu "Iron Lady" (bà Đầm Thép) của báo chí trao tặng, rồi cuối nhiệm kỳ trở thành “Mutti” (Mẹ) mà người dân bình thường hay gọi khi nhắc đến bà, hẳn nhiên phải có một nội lực rất thâm hậu của một con người đã có một thời mang danh là “Người đàn bà quyền lực nhất thế giới”. Thời đại của bà Angela Merkel sắp kết thúc, nhưng chắc chắn một điều sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong lịch sử nước Đức./. Nguồn: Việt Báo
......

Tác động từ việc Mỹ và Anh hỗ trợ Úc phát triển tàu ngầm hạt nhân

The Economist - Nghiên Cứu Quốc Tế| Nguồn: “Australia is getting nuclear subs, with American and British help” – The Economist, 15/09/2021. Biên dịch: Phan Nguyên Chỉ có 6 quốc gia trên thế giới — Mỹ, Anh, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ và Nga — hiện đang vận hành tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Úc có thể trở thành nước thứ bảy một cách bất ngờ. Trong một tuyên bố đưa ra trong lần xuất hiện chung trên truyền hình vào ngày 15 tháng 9, Joe Biden, Boris Johnson và Scott Morrison, các nhà lãnh đạo của Mỹ, Anh và Úc, đã công bố điều mà họ mô tả là “quan hệ đối tác an ninh ba bên nâng cao,” có tên là AUKUS. Sáng kiến ​​đầu tiên, và là viên ngọc trên vương miện của họ, sẽ là việc hợp tác phát triển tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân trong tương lai cho Hải quân Hoàng gia Úc. Hiệp ước này, sẽ được ký chính thức tại Washington vào tuần tới, phản ánh mối quan ngại chung của họ về sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, và mong muốn của Mỹ trong việc tăng cường khả năng quân sự của các đối tác châu Á. AUKUS dựa trên một ý tưởng của Úc. Nó sẽ bao gồm hợp tác ngoại giao, an ninh và quốc phòng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Nó cũng bao gồm hợp tác về phát triển năng lực không gian mạng, trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử và “các khả năng bổ sung dưới đáy biển,” chẳng hạn như cảm biến dưới nước và máy bay không người lái. Tuy nhiên, yếu tố gây chú ý nhất là thỏa thuận về tàu ngầm, được cho là hoạt động hợp tác quốc tế quan trọng nhất thế giới về phát triển năng lực quốc phòng trong nhiều thập kỷ qua. Australia trước đây đã ký một hợp đồng trị giá 90 tỷ đô la với Naval Group, một công ty của Pháp, để đóng 12 tàu ngầm diesel-điện tiên tiến, nhưng không hài lòng khi công ty này không đầu tư đầy đủ cho các nhà cung cấp địa phương. Bây giờ Australia đang hủy bỏ thỏa thuận đó. Thay vào đó, họ sẽ mua tàu ngầm hạt nhân, và các đối tác của họ sẽ là Mỹ và Anh, cả hai đều đã vận hành các tàu ngầm như vậy trong nhiều thập niên. “Chúng tôi sẽ tận dụng chuyên môn từ Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, tận dụng các chương trình tàu ngầm của hai quốc gia này, để đưa tàu ngầm của Úc vào hoạt động sớm nhất có thể,” tuyên bố chung hứa hẹn. Một số tờ báo của Úc đã đưa tin rằng, Mỹ có thể sẽ vận hành các tàu ngầm tấn công ngoài khơi từ cảng HMAS Sterling, một căn cứ hải quân của Úc ở Perth, trong thời gian chờ đợi. Việc mua các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân sẽ hỗ trợ đáng kể cho hải quân Australia. Chúng lớn hơn và đắt hơn, nhưng cũng nhanh hơn và có thể ở dưới nước lâu hơn nhiều so với các loại tàu ngầm diesel-điện, như các tàu ngầm lớp Collins hiện nay của Úc, vốn cần phải nổi lên mặt nước định kỳ. Chúng cũng có thể đi biển lâu hơn mà không cần tiếp tế, một yếu tố quan trọng trong một Thái Bình Dương rộng lớn. Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách (CSBA), viện nghiên cứu chính sách của Mỹ, tính toán rằng trong khi một tàu ngầm diesel-điện đi từ Perth có thể hoạt động trong 11 ngày ở Biển Đông, thì một tàu ngầm hạt nhân có thể hoạt động trong hơn hai tháng. Theo Malcolm Davis thuộc Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI), các tàu mới được đề xuất sẽ cung cấp “sức mạnh tấn công… thực sự,” “đó là những gì chúng ta cần để răn đe và đối phó với thách thức ngày càng tăng từ Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.” Mối quan hệ của Australia với Trung Quốc ngày càng trở nên băng giá. Năm ngoái, Trung Quốc đã áp đặt lệnh cấm đối với nhiều hàng hóa khác nhau của Australia để đáp trả việc nước này kêu gọi điều tra nguồn gốc của đại dịch coronavirus. Mối quan hệ hợp tác mới cũng diễn ra vào thời điểm thích hợp đối với ông Biden. Việc ông rút quân khỏi Afghanistan và sự sụp đổ sau đó của chính phủ nước này đã khiến nhiều đồng minh lo ngại về độ tin cậy của Mỹ. Trên lý thuyết, việc rút quân đó là một phần trong quá trình tái định hướng nói chung các nguồn lực ngoại giao và quân sự của Mỹ sang châu Á. Nhưng trên thực tế, nhiều đồng minh đã tỏ ra nghi ngờ. “Cách tiếp cận của chính quyền Biden đối với Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cho đến nay thiếu sự tập trung và tính cấp bách,” một báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ (USSC) tại Đại học Sydney hồi tháng trước phàn nàn. Ashley Townshend, đồng tác giả của báo cáo đó, nói rằng việc ông Biden sẵn sàng chia sẻ công nghệ quốc phòng tiên tiến – “điều mà Mỹ hiếm khi sẵn lòng làm” – là một điều ngạc nhiên đáng hoan nghênh. “Nó gợi ý một cách tiếp cận mang tính chiến lược hơn đối với phòng thủ tập thể.” Vào ngày 24 tháng 9, ông Biden cũng sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo của Bộ Tứ, một khối ngoại giao đang phát triển bao gồm Mỹ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ. Tuy nhiên, hợp tác hạt nhân giữa Mỹ, Úc và Anh không phải là không có vấn đề. Phil Weir, một chuyên gia hải quân cho biết: “Hải quân Mỹ đang thường xuyên thiếu tàu ngầm và tình hình có thể xấu đi trước khi tốt hơn.” Ông nói rằng năng lực xây dựng lò phản ứng hạt nhân của Mỹ và Anh cũng bị giảm sút. Việc xây dựng năng lực bổ sung để hỗ trợ chương trình của Úc sẽ mất nhiều năm. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo vào ngày 15 tháng 9 nói rằng “giai đoạn xác định phạm vi ban đầu” sẽ kéo dài 18 tháng. Vào năm 2017, Marise Payne, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Australia và hiện là Bộ trưởng Ngoại giao của nước này, thừa nhận rằng một hạm đội tàu ngầm hạt nhân “thuộc chủ quyền Australia” sẽ mất “nhiều hơn một thập niên,” và sẽ “có chi phí rất đáng kể so với hạm đội thông thường của chúng tôi.” Năng lượng hạt nhân cũng có ý nghĩa chiến lược rộng hơn. Mặc dù hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân cấm các thành viên là nước chưa có vũ khí hạt nhân chế tạo bom, nhưng hiệp định có một lỗ hổng là nó cho phép các nước đưa vật liệu hạt nhân ra khỏi sự giám sát quốc tế chính thức nếu vật liệu này được sử dụng cho tàu ngầm. Tuy nhiên, uranium được làm giàu trong tàu ngầm cũng giống như uranium được sử dụng trong bom hạt nhân. Đáng nói là, nhiên liệu được sử dụng trong cả tàu ngầm của Anh và Mỹ đều được làm giàu đến mức đặc biệt cao. Mặc dù Úc ít có khả năng muốn có bom hạt nhân cho riêng mình – nước này đã từ bỏ việc theo đuổi vũ khí hạt nhân vào năm 1973 – nhưng các quốc gia muốn khám phá về hạt nhân khác có thể coi tàu ngầm là một con đường thuận tiện để có nhiên liệu chế tạo bom. Brazil đang tìm cách phát triển tàu ngầm hạt nhân của riêng mình, và hy vọng sẽ đưa vào sử dụng vào những năm 2030, trong khi Iran đã từng thử nghiệm ý tưởng này trong quá khứ. Hàn Quốc trong tuần này đã thử nghiệm một tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm thông thường, và cũng sẽ được quốc tế theo dõi chặt chẽ. Trong khi đó, các thủy thủ tàu ngầm Úc sẽ mở nút chai ăn mừng và lấy sách giáo khoa vật lý ra nghiên cứu. Nguồn: Nghiên Cứu Quốc Tế  
......

Quân Đội Hoa Kỳ thêm một nữ Tướng gốc Việt

Phó đề đốc Vũ Thế Thùy Anh   Tin từ Quân Đội Hoa Kỳ vừa thêm viên nữ tướng gốc Việt thứ hai trong quân đội Mỹ là Vũ Thế Thùy Anh. Bà cũng được gắn sao trên ve áo cùng thời gian với bà Danielle Ngô, tháng 6 năm 2019, nhưng vì phục vụ trong Hải quân nên hàm chính danh của bà là Rear Admiral, Phó Đề Đốc, tương đương với Chuẩn Tướng trong các binh chủng khác. Chào đời vào năm Mậu Thân 1968, di tản qua Mỹ vào năm 1975, Thùy Anh sau đó theo học ngành Dược tại Đại học Maryland. Ra trường năm 1994, bà làm việc tại Đại học John Hopkins. Là con gái đầu của Hải Quân Đại Úy Vũ Thế Hiệp, bà quyết định theo nghiệp hải hồ của cha. Bà gia nhập U.S. Public Health Service, viết tắt là PHS, và trở thành sĩ quan quân dược của Hải quân. Nhiều người sẽ thắc mắc về tổ chức PHS này. Ra đời vào năm 1798, PHS được quân đội hóa vào năm 1889 với một chuỗi các bệnh viện Hải quân đặt ở các hải cảng quan trọng như Boston, Charleston, New Orleans…để kiểm soát dịch bệnh khỏi thâm nhập vào Mỹ. Thành viên của PHS là các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá. Họ mang cấp bậc quân đội và hoạt động cho cộng đồng khi có thiên tai, bão lụt, bệnh tật hay dịch bệnh. PHS có nhiệm vụ cách ly và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm trước khi nó bùng nổ và phát tán ra khắp nơi trong cả nước. Chính PHS đã đóng một vai trò quan trọng trong trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 và cộng tác với cơ quan phòng chống dịch Centers for Disease Control mà chúng ta biết tới với tên viết tắt là CDC trong trận chiến chống Covid-19 hiện nay. Năm 2015, sau 12 năm phục vụ trong PHS, bà Vũ Thế Thùy Anh đã mang lon Đại Tá và, như chúng ta biết, bà đã được vinh thăng Phó Đề Đốc (Rear Admiral). Như vậy là hiện tại chúng ta có 5 nam tướng và 2 nữ tướng gốc Việt trong quân đội Mỹ. Nhưng hình như chúng ta chỉ nghe nói nhiều tới các nam tướng. Kể cũng lạ! Ngày nay chốn “ba quân” đâu có phải chỉ toàn là các đấng nam nhi. Được đeo sao trên ve áo trong quân ngũ Mỹ không phải chuyện dễ, nam tướng hay nữ tướng cũng đều phải theo một trình tự khe khắt như nhau. Ở đây, chúng ta chỉ nói tới Chuẩn Tướng, cấp bậc của Danielle Ngô và Vũ Thế Thùy Anh. Thử nhìn vào con số trước. Số chuẩn tướng trong quân đội Mỹ hiện có như sau: Hải Quân: 110 Phó Đề Đốc; Coast Guard (Tuần Duyên): 19 Phó Đề Đốc; Thủy Quân Lục Chiến: 40 Chuẩn Tướng; Lục Quân: 150 Chuẩn Tướng; Không Quân: 139 Chuẩn Tướng. Tổng cộng là 439 Phó Đề Đốc và Chuẩn Tướng. Các điều kiện để được đề nghị phong cấp Chuẩn Tướng khá khó khăn. Trước hết phải mang cấp Đại Tá được 3 năm. Sau đó phải là Chỉ Huy Trưởng xuất sắc. Tiến trình sau đó tuần tự như sau: được Hội Đồng Thăng Cấp chọn lọc, Tư Lệnh quân chủng đề nghị lên Bộ Trưởng Quốc Phòng, Thượng Viện duyệt xét, Tổng Thống quyết định bổ nhiệm. Thường chỉ có 3% các Đại Tá được đề nghị trở thành Chuẩn Tướng! Thêm niềm hãnh diện cho cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam thành tâm chúc mừng bà Vũ Thế Thùy Anh vừa được vinh thăng Phó Đề Đốc, tương đương Chuẩn Tướng./-  
......

Các khoa học gia hàng đầu của FDA và WHO: Không cần tiêm mũi vaccine tăng cường

Vaccine COVID-19 của Pfizer. Reuters - VOA| Các liều vaccine COVID tiêm tăng cường không cần thiết cho phần đông dân số, theo các nhà khoa học hàng đầu bao gồm hai quan chức cao cấp của Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) và một số giới chức của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong một bài báo đăng trên một tạp chí y khoa ngày 13/9. Các khoa học gia này cho rằng cần có thêm bằng chứng để biện minh cho việc cần phải tiêm thêm các liều vaccine tăng cường. Quan điểm này bất đồng với những kế hoạch của chính phủ Mỹ định bắt đầu tiêm liều vaccine tăng cường cho những người đã tiêm chủng hoàn toàn sớm nhất là vào tuần tới. Kế hoạch này đang chờ sự chấp thuận của giới thẩm quyền y tế Mỹ. Trong lúc số ca COVID-19 do biến thể Delta gây ra đang gia tăng, chính quyền Tổng thống Joe Biden lo ngại rằng các ca nhiễm nơi những người đã được chích ngừa là dấu hiệu cho thấy bảo vệ của vaccine đang mai một, vì vậy chính quyền đã đẩy mạnh việc tiêm tăng cường như một cách tái gầy dựng miễn dịch. WHO cho rằng nên nhường cho các nước chưa có vaccine được tiêm mũi đầu tiên trước khi tiêm tăng cường mũi thứ ba tại các nước giàu. “Bất cứ quyết định nào về sự cần thiết tiêm tăng cường hay thời điểm tiêm tăng cường nên dựa vào việc phân tích cẩn thận dữ liệu lâm sàng có kiểm soát hay dữ liệu dịch tễ học, hoặc cả hai, cho thấy có việc giảm sút bền vững và có ý nghĩa các ca bệnh nặng,” các nhà khoa học viết trên tạp chí y khoa Lancet. Việc đánh giá lợi-hại nên xem xét con số những ca COVID-19 nặng mà các liều vaccine tăng cường hy vọng ngăn chặn dược, và liệu những liều tiêm tăng cường này có an toàn và hữu hiệu chống các biến thể hiện nay hay không, các nhà khoa học nói. “Bằng chứng hiện tại đường như không cho thấy sự cần thiết phải tiêm tăng cường nơi phần đông dân số, nơi những người mà tính hiệu nghiệm của vaccine chống lại bệnh nặng vẫn còn cao,” các nhà khoa học viết. Một số nước triển khai tiêm liều tăng cường, trong đó có Israel, đã cung cấp một số dữ liệu mà chính quyền của Tổng thống Biden đã dùng để biện minh cho kế hoạch tiêm chủng tăng cường. Các tác giả bài viết bao gồm Giám đốc Văn phòng Nghiêu cứu và Duyệt xét Vaccine Marion Gruber và Phó Giám đốc Phil Krause, cả hai người đều dự trù rời khỏi FDA trong vài tháng tới. Hai giới chức này công nhận là một số cá nhân có hệ miễn nhiễm yếu kém có thể hưởng lợi từ liều vaccine tăng cường. Tương lai có thể cần tiêm tăng cường rộng rãi nếu có việc miễn nhiễm mai một đối với vaccine nguyên thủy hay nếu các biến thể tiến hóa đến mức vaccine không còn bảo vệ chống virus, các nhà khoa học nói. Các liều tăng cường cũng có thể chứng tỏ nguy hiểm nếu được tiêm quá sớm hay quá thường xuyên, các nhà khoa học viết. Một ủy ban các chuyên gia cố vấn cho FDA về kế hoạch vaccine sẽ họp vào ngày 17/9 để thảo luận những liều vaccine tiêm thêm của Pfizer /BioNTech, bước đầu tiên trong chiến dịch tiêm tăng cường rộng rãi. Các tác giả bài viết bao gồm các nhà khoa học hàng đầu của WHO Soumya Swaminathan, Ana-Maria Henao-Restrepo và Mike Ryan. “Nguồn cung cấp vaccine hiện tại có thể cứu nhiều mạng sống nếu sử dụng nơi những người chưa được tiêm chủng,” các tác giả viết.  
......

Luật sư đưa vụ án Phạm Đoan Trang ra LHQ: Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng

Luật sư nhân quyền quốc tế Kurtulus Bastimar (trái) đã nộp hồ sơ vụ án Phạm Đoan Trang (phải) lên Nhóm công tác LHQ về Giam giữ tùy tiện (UNWGAD), đồng thời ông cho biết sẽ nhận được phán quyết trong tháng 9/2021. VOA Tiếng Việt| Luật sư nhân quyền quốc tế Kurtulus Bastimar có văn phòng ở Thổ Nhĩ Kỳ cho VOA biết ông đã nộp hồ sơ vụ án Phạm Đoan Trang lên Nhóm công tác Liên Hiệp Quốc về Giam giữ tùy tiện (UNWGAD), đồng thời ông cho biết sẽ nhận được phán quyết trong tháng 9 này. Ông nhận định rằng vụ án của nhà báo Phạm Đoan Trang, người bị chính quyền Việt Nam chính thức truy tố với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 88 Bộ Luật hình sự 1995 và sắp được đưa ra xét xử, “có nhiều vi phạm nghiêm trọng”. Cụ thể, ông cho rằng Việt Nam là quốc gia thường xuyên vi phạm quyền tự do ngôn luận và quyền được xét xử công bằng so với các quốc gia khác. Ông Bastimar là một luật sư người Kurd, tốt nghiệp trường Luật Châu Âu thuộc Đại học Maastricht, chuyên về luật nhân quyền châu Âu và luật nhân quyền quốc tế. Vừa qua ông đại diện thành công tại UNWGAD cho nhà báo Việt Nam Lê Hữu Minh Tuấn, và cho một nhà hoạt động nhân quyền Cuba Luis Manuel Otero Alcantara, người đã được phóng thích. Sau đây là nội dung cuộc trao đổi với Luật sư Bastimar. VOA: Thưa Luật sư, ông có thể cho biết một vài thông tin liên quan đến việc đưa vụ án Phạm Đoan Trang ra LHQ? Luật sư Kurtulus Bastimar: Tôi đã đưa trường hợp của bà Phạm Đoan Trang lên Nhóm Công tác của Liên hợp quốc về việc cô ấy bị bắt giữ tùy tiện, sau đó tôi đã chính thức nộp hồ sơ lên UNWGAD và hồ sơ đã được chấp nhận, và chính phủ Việt Nam cũng bị UNWGAD yêu cầu phải nộp giải trình của họ. Vừa qua tôi đã nhận được một e-mail từ Nhóm công tác UNWGAD thông báo rằng phán quyết sẽ được đưa ra trong tháng này, cụ thể là vào tháng 9, và theo phán quyết, tôi tin chắc rằng trong đó sẽ nêu sự vi phạm rất lớn của chính phủ Việt Nam đối với Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên ký kết. Chúng tôi đã viện dẫn các điều khoản vi phạm rất nghiêm trọng của chính quyền Việt Nam. VOA: Ông kỳ vọng điều gì từ việc nộp hồ sơ vụ án này lên LHQ và kế hoạch tiếp theo là gì? Luật sư Kurtulus Bastimar: Tôi chắc chắn sẽ thắng kiện chính phủ Việt Nam và UNWGAD sẽ ra phán quyết có vi phạm quyền tự do ngôn luận đối với thân chủ Phạm Đoan Trang, trong đó có quyền được xét xử công bằng ... Và sau khi nhận được phán quyết này, một phán quyết quốc tế, tôi tiếp tục hợp tác rất chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ có tiếng nói, có ảnh hưởng và các tổ chức quốc tế cũng như các cá nhân. Tôi đang lên kế hoạch bắt đầu một chiến dịch lớn sẽ tạo ra một áp lực rất lớn đối với chính phủ Việt Nam và tôi sẽ kêu gọi mọi người ủng hộ chiến dịch trả tự do cho thân chủ Phạm Đoan Trang của tôi, và tôi sẽ cố gắng hết sức. VOA: Thưa ông, qua hai hồ sơ của Lê Hữu Minh Tuấn và Phạm Đoan Trang, ông nhận định như thế nào về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam? Luật sư Kurtulus Bastimar: Rất tiếc, theo quan sát của tôi, Việt Nam là nước đầu tiên tôi biết vi phạm nhân quyền quá nhiều, và qua từng hồ sơ mà chúng tôi thực hiện cho thấy rõ tình trạng sử dụng các điều luật hay bộ luật hình sự của Việt Nam để bịt miệng các nhà báo và các tác giả. Vì vậy, tôi muốn nói rằng quyền tự do ngôn luận, cụ thể như quyền tự do báo chí, là quyền căn bản nhất và quan trọng nhất, lại đang bị chính phủ vi phạm rất nhiều so với các nước khác, ví dụ nữa là quyền được xét xử công bằng và những quyền khác. Đây thực sự là một vấn đề lớn. Về cơ bản, chính phủ Việt Nam sử dụng các bộ luật hình sự này như một công cụ để bịt miệng người dân và hạn chế, thậm chí cấm đoán quyền tự do ngôn luận. VOA: Ở trong nước, các luật sư cũng đang cố gắng xin được thăm gặp bà Phạm Đoan Trang và nỗ lực để bào chữa cho bà, ông sẽ đồng hành cùng với họ như thế nào? Luật sư Kurtulus Bastimar: Tôi muốn gửi lời nhắn đến những người đang bảo vệ quyền lợi cho bà Phạm Đoan Trang tại Việt Nam theo luật pháp trong nước. Và tôi sẽ nói rằng họ không đơn độc, và tôi sẽ ở bên họ cho đến khi Phạm Đoan Trang được tự do. Và tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho quyền của bà ấy.
......

Bầu cử quốc hội Đức

Chỉ còn 2 tuần nữa là bầu quốc hội Đức. Hình bên dưới là kết quả thăm dò dư luận. Có 3 chuyện lý thú: (1) Đảng Xanh (Grüne) vốn là hy vọng của tuổi trẻ, đã có lúc đứng đầu bảng với 26% vào cuối tháng tư. Nhưng sau 4 tháng, nay chỉ còn 16%, đứng thứ ba. Tại sao? Có lẽ do 3 vụ bê bối của nàng Annalena Baerbock, thủ lãnh ra tranh cử Thủ tướng. Ba vụ bê bối là: a) mập mờ về học vấn. Ai đọc CV của nàng đầu năm nay, đều tưởng là nàng đã có Bachelor, đã có tiến sĩ. Thật ra cả hai thứ đều không có vì nàng bỏ nửa chừng. Sau khi báo chí phát hiện, CV đã được chữa lại. b) mập mờ về hoạt động quốc tế: đọc CV cứ tưởng là nàng tham gia nhiều tổ chức quốc tế với chức vụ đình đám, thí dụ như UNHCR, thực chất là nàng cũng không phải là hội viên. c) tệ hại nhất là cuốn sách mới ra lò để góp phần tranh cử. Sách dày đâu chừng 200 trang, thì có hơn 50 chỗ đạo văn, mà lại đạo từ những người máu mặt mới dễ bị phát hiện. May quá, nếu nàng Baerbock với tính chất show giả dối đó mà lên làm Thủ tướng thì không biết Đức sẽ về đâu? (2) Đảng Liên minh Cơ Đốc (CDU/CSU) vốn dĩ luôn luôn dẫn đầu suốt 15 năm nay với khoảng cách khá xa. Năm nay phải xuống hàng 2. Tại sao? Bà Merkel của Liên minh đã nắm quyền 16 năm, như thế là quá dài rồi, đã đến lúc thay ngựa là vừa. Ngoài ra, anh Armin Laschet này quá xoàng. Merkel là một chính trị gia xuất chúng, nhưng chính sách nhân sự có vẻ có vấn đề: trong suốt 16 năm cầm quyền, không hiểu sao những người giỏi nhất đều từ bỏ chính trị để ra kỹ nghệ, hoặc được bà cất lên làm Tổng thống, như thế con đường trở về Thủ tướng cũng không còn. Liên minh này hết người tài rồi chăng? (3) Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) đã xuống dốc, suốt 3 năm qua lè tè ở mức 15%. Bỗng nhiên bây giờ nhảy vọt lên 25%, có lẽ nhờ cá nhân Olaf Scholz là chính, chứ thật ra hai ông và bà chủ tịch đảng coi bộ cũng thiếu Format? Trong 3 vị ở trên, Scholz của SPD cũng xứng đáng hạng nhất, vì dù đã xuống dốc, nhưng chính sách xã hội của SPD cũng tương đối tốt nhất so với tất cả các đảng khác trong 50 năm qua. Dường như dân Đức giờ này ít quan tâm đến phồn vinh, mà các đề tài ăn khách là: bình đẳng xã hội, môi trường, giáo dục, nâng mức lương tối thiểu v.v… Về các mặt đó, SPD cũng không thua kém ai. Thật khó để chọn ai năm này!   N.P.L Nguồn: Dien Dan Khai Phong  
......

Di sản của sự kiện 11/9

Timothy Trinh   Hôm nay là ngày 11 tháng 9, đánh dấu 20 năm kể từ ngày Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York bị sụp đổ, một sự kiện mang lại sự tàn phá, đau lòng và mất mát không thể tưởng tượng được cho nước Mỹ. Nhưng trong góc nhìn của một nhà báo chuyên mục, bà Ayaan Hirsi Ali, thì ngày 11 tháng 9 "nếu có một tia hy vọng đến từ khoảnh khắc bi thảm đó, thì đó là dành cho phụ nữ và trẻ em gái Afghanistan." Vào đúng 20 năm trước đây, bà Ali và các đồng nghiệp đang làm việc ở Hà Lan, đã kinh hoàng nhìn vào màn hình tivi khi hai chiếc máy bay lao vào hai tòa nhà biểu tượng cho thị trường tài chính số một của thế giới. "Chúng tôi tự hỏi làm thế nào siêu cường của thế giới sẽ phản ứng lại một cuộc tấn công ác độc như vậy vào quê hương Hoa Kỳ. Họ chắc chắn có sức mạnh, nguồn lực và lý do để đi tiêu diệt kẻ thù mới tìm thấy của họ", bà Ali nói. Vào thời điểm đó, "chúng tôi không thể ngờ rằng thảm kịch này sẽ mang lại nhiều quyền và tự do hơn cho phụ nữ ở Afghanistan." Hoa Kỳ đã có thể tiến vào Afghanistan, trả thù và rời đi. Họ có thể lật đổ những kẻ đã hỗ trợ cho quân khủng bố, và đảm bảo rằng al Qaeda sẽ không thể sử dụng Afghanistan làm căn cứ để tấn công Hoa Kỳ một lần nữa. Nhưng đây không phải là nơi kết thúc di sản của sự kiện 11/9. Nó không phải là tất cả sự trả thù và đánh trả cần thiết. Thay vào đó, Hoa Kỳ đã đề nghị giúp chính phủ Afghanistan xây dựng lại và mang lại hy vọng và quyền con người cho những người chưa từng có nó trước đây. Hoa Kỳ và đồng minh đã cùng Afghanistan xây dựng một xã hội hòa nhập hơn cho phụ nữ và trẻ em gái, với niềm tin rằng hình thức hiện đại hóa này sẽ làm giảm nguy cơ Taliban trở lại. Adam J. Tooze, giáo sư sử học của viện đại học Columbia, đã ghi lại trên nền tảng Substack những thành quả ở Afghanistan. Trong vòng ba năm sau ngày Hoa Kỳ và đồng minh can thiệp vào Afghanistan, số lượng phụ nữ đăng ký vào đại học đã lên đến 7.200 sinh viên. Từ năm 2003 đến 2018, con số đã vượt nhanh, lên đến 49.000 sinh viên nữ đăng ký vào đại học. Tuổi thọ của nữ giới tăng gần 10 năm. Trước năm 2000, dưới thời Taliban, đàn ông Afghanistan sống lâu hơn phụ nữ, ngược với thống kê trung bình thế giới. Từ năm 2001 đến nay, Afghanistan đã có được hình mẫu bình thường là phụ nữ sống lâu hơn đàn ông của họ. Còn nữa, tỷ lệ biết chữ của phụ nữ Afghanistan đã tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn hai thập kỷ vừa qua. Và rồi, một thế hệ mới của các cô gái lớn lên mà không hề biết đến cuộc sống dưới sự kiểm soát của Taliban. Năm 2017, một đội robot toàn nữ được thành lập, gọi là Những người mơ mộng Afghanistan, đã giành chiến thắng trong Thử thách doanh nhân tại lễ hội Robotex ở Estonia. Năm 2008, Afghanistan có được thị trưởng nữ đầu tiên, Azra Jafari, ở thị trấn Nili. Và cô ấy chỉ là người đầu tiên trong số nhiều phụ nữ nắm giữ các vị trí chính trị, bao gồm Salima Mazari, Zarifa Ghanfari và Fawzia Koofi. Phụ nữ chiếm 40% tổng số sinh viên tốt nghiệp gần đây nhất của đại học American University of Afghanistan. Họ có dàn nhạc toàn nữ của riêng họ. Các doanh nhân nữ đã đầu tư 77 triệu đô la trong 18 năm, tạo ra 77.000 việc làm. Quyền của họ được thúc đẩy bởi Hiến pháp Afghanistan năm 2004 tại Điều 44, nêu rõ rằng “nhà nước sẽ đề ra và thực hiện các chương trình hiệu quả để tạo ra và thúc đẩy nền giáo dục cân bằng cho phụ nữ”. Nhưng ngày hôm nay, trong khi quyền của phụ nữ Afghanistan đang bị tước đoạt, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã sai lầm, bằng cách củng cố lập luận cho rằng: hoặc rút hết quân ra hoặc quay lại chiến đấu với một “cuộc chiến tranh bất tận”. Biden đã phản bội di sản tích cực duy nhất của sự kiện 11/9. Việc rút bớt số lính Mỹ còn lại một cách hỗn loạn đã dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của chính phủ Afghanistan, sẽ dẫn đến việc nước này trở thành nơi trú ẩn an toàn của bọn khủng bố và loại bỏ lá chắn bảo vệ quyền của phụ nữ trong nước. Chắc chắn đây không phải là di sản mà người Mỹ muốn để lại nhân lễ tưởng niệm 20 năm ngày 11/9? Điều gì sẽ xảy ra với các cô gái Afghanistan, những người sinh ra và lớn lên từ năm 2001? Các cô gái lấy cảm hứng từ sự quyến rũ của tự do và quyền được theo đuổi ước mơ của chính mình. Những người cho đến nay vẫn chưa biết đến gánh nặng và rào cản cuộc sống dưới thời Taliban. Những cô gái bất chấp, lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình, rồi sẽ ra sao? Những người đã từng đặt câu hỏi về chủ nghĩa tôn giáo cực đoan của Taliban, rồi sẽ ra sao? Tại một cuộc biểu tình ở Herat, Afghanistan, gần đây nhằm kêu gọi giáo dục cho trẻ em gái, một trong những người tổ chức, Basira Taheri, giải thích: “Phụ nữ của vùng đất này có trình độ nhận thức và giáo dục. Chúng tôi không sợ hãi, chúng tôi đoàn kết”. Pashtana Durrani, Giám đốc Điều hành của Learn Afghanistan, một thành trì bảo vệ quyền của phụ nữ Afghanistan, cho biết: “Chúng tôi muốn đảm bảo [các cô gái] được đi học, được đi làm. Chúng tôi sẽ làm cho điều đó xảy ra bằng mọi cách". Nhà sử học Thomas Carlyle đã từng nói: “Một khi tâm trí đã được mở rộng bởi một ý tưởng lớn, nó sẽ không bao giờ quay trở lại trạng thái ban đầu của nó”. Taliban sẽ không thể quay ngược quá trình 20 năm mà không tắm máu của phụ nữ mới ở Afghanistan. Những phụ nữ lớn lên trong thế hệ mới của Afghanistan sẽ không chịu khuất phục trước một Kỷ nguyên đen tối. Ngay cả khi Taliban kiểm soát, các cô gái Afghanistan với trái tim tự do của phương Tây sẽ không bỏ cuộc. Tia hy vọng đó của những cô gái ở thủ đô Kabul sẽ được thắp lên như hai tia sáng ở thành phố New York trong ngày 11/9. Và bây giờ thế giới đang theo dõi. Trước ngày 11/9, những hành động tàn bạo của chế độ Taliban đối với phụ nữ Afghanistan rất ít sự đưa tin ở phương Tây. Giờ đây, mọi người đều biết đến câu chuyện của Bibi Aisha. Và chúng ta sẽ biết đến nhiều cái tên hơn, như Basira Taheri, khi chúng ta cổ vũ họ. Hai thập kỷ trôi qua, những người phụ nữ này có thể là thành tựu lâu dài nhất của cuộc can thiệp của Hoa Kỳ sau sự kiện 11/9. Người Đà Lạt Xưa viết theo bài quan điểm của bà Ayaan Hirsi Ali. ----------------------- Trong đoạn cuối của bài viết đã có nhắc đến tên của Bibi Aisha. Bibi là "Lady" trong tiếng Anh. Tên họ khai sinh của cô là Aisha Mohammadzai. Theo Wikipedia, Aisha sinh ra ở Afghanistan, mất mẹ khi còn nhỏ. Khi cô mười hai tuổi, cha cô đã hứa cô với một chiến binh Taliban để đền bù trong một cách thức gọi là "baad", vì một vụ giết người do một thành viên trong gia đình Aisha thực hiện. Cô buộc phải kết hôn với người đàn ông Taliban này khi mới mười bốn tuổi. Chồng cô và gia đình anh ta đã ngược đãi cô. Năm mười tám tuổi, cô chạy trốn khỏi sự ngược đãi, nhưng cô bị cảnh sát bắt, bị bỏ tù trong năm tháng, và trở về với cha cô, người sau đó đã trả cô lại cho chồng cô. Để trả thù cho sự trốn thoát của cô, cha chồng của Aisha, chồng và ba người đàn ông khác trong gia đình đã đưa Aisha lên núi, cắt mũi và tai của cô và để cô nằm ở đó chờ chết. Cô bò đến nhà ông nội nhưng bị từ chối giúp đỡ. Cuối cùng, cô đã tìm kiếm và nhận được sự giúp đỡ tại một căn cứ quân sự của Mỹ./.  
......

Nước Mỹ đánh dấu 20 năm vụ khủng bố 11/9

Khói bốc lên từ tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới trong vụ khủng bố 11/9/2001 tại thành phố New York, Mỹ. VOA| Những biến cố kinh hoàng trong ngày 11/9/2001 diễn ra chưa tới 102 phút. Hôm đó, 2.996 người thiệt mạng vì cuộc tấn công khủng bố khốc liệt nhất trong lịch sử cận đại. Tiếp sau là cuộc chiến tại Afghanistan kéo dài 19 năm, 10 tháng, 3 tuần, và 2 ngày. Bộ Quốc phòng Mỹ thống kê có ít nhất 2.325 lính Mỹ tử trận. Không ai biết chính xác số thường dân thiệt mạng là bao nhiêu. Ngày 911/9 năm nay, Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ vạch ra giới hạn dưới thảm kịch kép này, tới ba địa điểm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống, những sự mất mát đau thương tột cùng vốn đã châm ngòi cho cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ. Cuộc chiến Toàn cầu chống Khủng bố, như tên gọi của nó, trải dài vượt ra ngoài quốc gia Afghanistan nhỏ bé ở Trung Á vươn tới Iraq và các ngõ ngách khác trên địa cầu, xa tận châu Phi. Cuộc chiến tại Iraq đã cướp đi sinh mạng của gần 4.500 quân nhân Mỹ và hàng trăm ngàn thường dân. Kể từ sau quyết định gây tranh cãi rút toàn bộ quân ra khỏi Afghanistan trước cuối tháng 8, chính quyền Biden đã có những động thái dứt khoát để khép lại 20 năm qua bằng cách giải mật một loạt tài liệu có thể làm sáng tỏ các sự kiện ngày 11 tháng 9, và bằng cách duy trì một khoảng cách với chính phủ lâm thời theo đường lối cứng rắn của Taliban, phe đã chiếm quyền kiểm soát ở Afghanistan khi người Mỹ rút lui. Ba địa điểm tưởng niệm Ngày 11/9 năm nay, Tổng thống Biden đến viếng cả ba địa điểm bị khủng bố tấn công 20 năm về trước: Thành phố New York, nơi chuyến bay 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào toà tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới lúc 8:46 phút trong buổi sáng nắng ấm của tháng 9 năm ấy - và 17 phút sau, chuyến bay 175 của United Airlines lao vào toà tháp phía nam. Ông Biden cũng sẽ thăm Ngũ Giác Đài, nơi chuyến bay 77 của hãng hàng không American Airlines tông vào 34 phút sau đó. Tổng thống Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ tới tưởng niệm tại cánh đồng ở Shanksville, Pennsylvania, nơi yên nghỉ cuối cùng của chuyến bay 93 thuộc hãng hàng không United Airlines. Đây là sự khép màn theo kịch bản như phim, đóng lại 20 năm qua, theo giáo sư lịch sử Jeremi Suri thuộc Đại học Texas ở Austin. “Tổng thống đang vạch ra lằn ranh giới hạn sau 20 năm,” ông nói với VOA. “Và ông ấy vào vai một sử gia tuyên bố rằng chúng ta đã kết thúc một kỷ nguyên, như kết thúc thời Đệ nhị Thế chiến, và đã tới lúc đưa ra quyết định mới theo cách mà ông Harry Truman từng đưa ra quyết định mới sau thời Đệ nhị Thế chiến.” Ông Suri, tác giả các đầu sách viết về văn phòng các nhiệm quyền Tổng thống và chính sách ngoại giao Mỹ, nói các sử gia nhìn thấy một số logic trong cách ông Biden định hình thời khắc này. “Nhưng chúng ta sẽ cũng thấy, như thường thấy, rằng một kỷ nguyên không kết thúc khi một kỷ nguyên mới bắt đầu,” ông nói. “Theo tôi, chúng ta bước vào thời khắc khác biệt sau cuộc bầu cử 2020 và chúng ta đang trong một thời khắc khác biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhiều vấn đề từ 20 năm trước vẫn chưa có một chương kết gọn gàng theo cách chúng ta thường làm trong sách vở.” Phó cố vấn an ninh quốc gia Elizabeth Sherwood-Randall cho rằng điều quan trọng là, khi thế giới tròn hai thập niên kể từ 11/9/2001, không có một cuộc tấn công khủng bố lớn nào khác. Thử thách khác “Sau hai mươi năm, thử thách của chúng ta đã khác,” bà Sherwood-Randall tuyên bố trong tuần này khi phát biểu tại Hội đồng Đại Tây Dương, nhóm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu ở Washington. “Từ biến cố 11/9 chúng ta đã học cách bảo vệ người Mỹ trước khủng bố. Không phải an toàn tuyệt đối, những điều kinh khủng vẫn xảy ra. Nhưng bằng việc kết hợp các hành động trong và ngoài nước, tới nay chúng ta đã có thể triệt phá và ngăn chặn một cuộc khủng bố khác theo kiểu 11/9.” Tuy nhiên, sử gia Thomas Schwartz thuộc Đại học Vanderbilt dự đoán sẽ có những hệ quả không mong đợi vượt ngoài các cuộc tưởng niệm kết thúc kỷ nguyên ngày 11/9 năm nay. “Tôi có lẽ hơi khó tính vì tôi không nghĩ đây là điều thật sự có thể làm được,” ông nói. “Theo tôi, kẻ thù, theo một cách nào đó, có sự lựa chọn và họ có thể quyết định rằng cho dù chúng ta muốn chấm dứt sau 20 năm nhưng họ thì không. Và như vậy, tôi cho rằng những lời lẽ của Tổng thống Biden-và hành động-về thời hạn cố định phải rút quân ra khỏi Afghanistan là một sai lầm và là một lỗi lầm về phán đoán mà tôi nghĩ có thể ảnh hưởng nước Mỹ trong những năm tới.” Tổng thống ngày 11/9 năm nay có phần chắc sẽ tuyên bố công khai, nhưng ‘ngôn từ sẽ không làm nên sự khác biệt tại thời điểm này,” theo ông Norman Ornstein, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện American Enterprise, một nhóm nghiên cứu chính sách công bảo thủ ở Washington. “Dĩ nhiên, Tổng thống sẽ phải có một bài diễn văn trau chuốt kỹ lưỡng vào thứ Bảy này, một phần nói rằng chúng ta đã xoay sở qua nhiều đời chính quyền để ngăn một biến cố 11/9 khác,” ông Ornstein nói. “Chúng ta đã tìm cách tóm và hạ sát tay chủ mưu, Osama bin Laden, rằng mọi chuyện chưa xong, và rằng chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trên con đường của mình. Và chúng ta sẽ tìm cách tránh tái phạm những sai lầm đó trong tương lai.” Li-băng năm 1983 Tuy nhiên, ông lưu ý rằng người Mỹ nên nhìn lại lịch sử tận năm 1983, chứ không phải năm 2001, để thấy mọi chuyện ra sao, khi Tổng thống Ronald Reagan quyết định rút lực lượng Mỹ ra khỏi Li-băng nhiều tháng sau vụ đánh bom giết chết 241 quân nhân Mỹ. Ông Ornstein nói, đây là sự khác biệt căn bản giữa nước Mỹ hôm nay và nước Mỹ của các thập niên trước. “Chúng ta không hề kêu gọi Ronald Reagan từ chức hay có động thái đàn hặc ông ấy,” ông đối chiếu tình hình năm 1983 với tình hình lúc này khi các nhà lập pháp phe Cộng hoà đang kịch liệt chỉ trích cuộc di tản của Mỹ ra khỏi Afghanistan. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công luận gần đây, người Mỹ tiếp tục ủng hộ quyết định của ông Biden rút quân ra khỏi Afghanistan, nhưng họ cũng phê phán Tổng thống về cách chính quyền của ông xử lý cuộc di tản. Đây cũng là một phần lý do vì sao các cuộc thăm dò mới cho thấy tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Biden chỉ còn 43%, mức thấp nhất kể từ khi ông nhậm chức tới nay.  
......

20 năm vụ 11/9 : Người dân Afghanistan cay đắng và thất vọng về Mỹ

Vị đắng của dân Afghanistan trong ngày 11 tháng 9. Theo tiết lộ của báo New York Times, drone của Mỹ tại Afghan hôm 30/08/2021 bắn trúng thường dân. WAKIL KOHSAR AFP/File RFI Tại Afghanistan, sự kiện 11/09/2001 không tìm được tiếng vang do Taliban trở lại cầm quyền, đất nước quay trở lại với thời kỳ 20 năm trước.  Loạt khủng bố cách nay 20 năm là nguồn cội cho cuộc can thiệp quân sự của Mỹ tại Afghanistan với gần 2.300 tỷ đô la đã được chi ra. Sự can thiệp đó mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng khoét sâu thêm những cách biệt và ngăn cách về văn hóa ở phần lớn đất nước. Theo thông tín viên đài RFI Sonia Ghezali từ Kabul, cay đắng, thất vọng, ngờ vực là những cảm xúc của người dân Kabul khi nhìn về sự kiện này. « Người ta đang trong một tình trạng cách nay 20 năm. Vào thời kỳ đó, tôi còn nhỏ nhưng tôi vẫn nhớ hết ». Ali thổ lộ từ một căn phòng anh ở cùng với gia đình tại nhà người thân, nơi anh đang ẩn náu ở miền nam Afghanistan. Kể từ sau chiến thắng của Taliban, người giáo viên tiếng Anh này và thông dịch viên lo sợ cho sự sống của mình. Theo anh, mối liên hệ giữa Al Qaida – tác giả của loạt tấn công 11/9, và phe Taliban quá chặt chẽ, khó thể mà cắt đứt. Tại Kabul, Rabia cũng sống trong nỗi sợ hãi. Cô đã từ bỏ công việc nhà báo. Cô cho biết : « phần lớn thời gian, tôi sống trong lo âu, sợ hãi, gò bó ». Ngày 11/9 nguồn cội của sự can thiệp từ Mỹ, dẫn đầu một liên minh quốc tế đã thay đổi dòng đời của nhiều phụ nữ Afghanistan. Cô nói tiếp : « Hai mươi năm qua cứ như một giấc mơ dù là có rất nhiều khó khăn ».   Cô nghĩ đến cơ hội phụ nữ được đi học tại những vùng đô thị, được tiếp cận việc làm, tham gia chính phủ, và một nền công lý đương nhiên là chậm và còn nhiều chông gai, nhưng mang lại nhiều quyền hơn. Bà Ramiha Rezae, cựu thẩm phán tòa án Hôn nhân gia đình, hiện đang tỵ nạn tại châu Âu khi chính quyền tổng thống Ashraf Ghani sụp đổ, nhớ lại năm 2001, khi nhìn thấy những hình ảnh loạt tấn công 11/9, đã không nghĩ rằng đất nước của bà sẽ chuyển sang một thời kỳ mới. Hai mươi năm sau, thời kỳ đó không còn nữa để nhường chỗ cho những người từng bị đánh đuổi khỏi quyền lực ». New York Times : Quân đội Mỹ đã giết nhầm thường dân Liên quan đến vụ oanh kích sau cùng của Mỹ tại Afghanistan ngày 30/08/2021, New York Times hôm 10/09/2021 đã phản đối lời khẳng định của quân đội Mỹ cho là đã bắn hạ một quân thánh chiến với xe chở đầy chất nổ. Nhật báo Mỹ cho rằng các hình ảnh camera giám sát cho thấy tài xế là Ezmarai Ahmadi, một người làm việc cho một tổ chức phi chính phủ. Hôm xảy ra vụ oanh kích là một ngày làm việc bình thường, và trên xe chở đầy các thùng chứa nước. Gia đình nạn nhân nói rõ với AFP ngay hôm sau vụ oanh kích rằng có 10 người, trong đó phần lớn là trẻ em, đã bị thiệt mạng. RFI *** Lê Công Định 20 mươi năm tròn sau sự kiện 9/11, Taliban tái chiếm toàn bộ lãnh thổ Afghanistan và tiếp tục dung dưỡng các tổ chức khủng bố. Sau 20 năm, Taliban hùng mạnh hơn bao giờ nhờ kho vũ khí khổng lồ mà Hoa Kỳ vô tình trang bị và dâng không cho chúng. Hàng ngàn thanh niên Mỹ đã mất mạng ở chiến trường Afghanistan và hàng tỷ tỷ Dollars từ tiền đóng thuế của người Mỹ đã bị phí phạm trong 20 năm qua. Cuối cùng chế độ man rợ Taliban vẫn ở nguyên đó và bóng ma của chủ nghĩa khủng bố vẫn hiện hữu trên toàn cầu. Thế giới sẽ tiếp tục những ngày bất ổn, song song với trận khủng bố của một chế độ man rợ khác bằng virus Vũ Hán vẫn đang hoành hành khắp nơi. Hơn lúc nào hết Hoa Kỳ cần nhìn nhận lại chính sách đối ngoại nói riêng và sách lược địa chính trị nói chung của chính mình.  
......

Nước Mỹ đánh dấu 20 năm vụ khủng bố 11/9

VOA Những biến cố kinh hoàng trong ngày 11/9/2001 diễn ra chưa tới 102 phút. Hôm đó, 2.996 người thiệt mạng vì cuộc tấn công khủng bố khốc liệt nhất trong lịch sử cận đại. Tiếp sau là cuộc chiến tại Afghanistan kéo dài 19 năm, 10 tháng, 3 tuần, và 2 ngày. Bộ Quốc phòng Mỹ thống kê có ít nhất 2.325 lính Mỹ tử trận. Không ai biết chính xác số thường dân thiệt mạng là bao nhiêu. Ngày 11/9 năm nay, Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ vạch ra giới hạn dưới thảm kịch kép này, tới ba địa điểm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống, những sự mất mát đau thương tột cùng vốn đã châm ngòi cho cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ. Cuộc chiến Toàn cầu chống Khủng bố, như tên gọi của nó, trải dài vượt ra ngoài quốc gia Afghanistan nhỏ bé ở Trung Á vươn tới Iraq và các ngõ ngách khác trên địa cầu, xa tận châu Phi. Cuộc chiến tại Iraq đã cướp đi sinh mạng của gần 4.500 quân nhân Mỹ và hàng trăm ngàn thường dân. Kể từ sau quyết định gây tranh cãi rút toàn bộ quân ra khỏi Afghanistan trước cuối tháng 8, chính quyền Biden đã có những động thái dứt khoát để khép lại 20 năm qua bằng cách giải mật một loạt tài liệu có thể làm sáng tỏ các sự kiện ngày 11 tháng 9, và bằng cách duy trì một khoảng cách với chính phủ lâm thời theo đường lối cứng rắn của Taliban, phe đã chiếm quyền kiểm soát ở Afghanistan khi người Mỹ rút lui. Ba địa điểm tưởng niệm Ngày 11/9 năm nay, Tổng thống Biden đến viếng cả ba địa điểm bị khủng bố tấn công 20 năm về trước: Thành phố New York, nơi chuyến bay 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào toà tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới lúc 8:46 phút trong buổi sáng nắng ấm của tháng 9 năm ấy - và 17 phút sau, chuyến bay 175 của United Airlines lao vào toà tháp phía nam. Ông Biden cũng sẽ thăm Ngũ Giác Đài, nơi chuyến bay 77 của hãng hàng không American Airlines tông vào 34 phút sau đó. Tổng thống Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ tới tưởng niệm tại cánh đồng ở Shanksville, Pennsylvania, nơi yên nghỉ cuối cùng của chuyến bay 93 thuộc hãng hàng không United Airlines. Đây là sự khép màn theo kịch bản như phim, đóng lại 20 năm qua, theo giáo sư lịch sử Jeremi Suri thuộc Đại học Texas ở Austin. “Tổng thống đang vạch ra lằn ranh giới hạn sau 20 năm,” ông nói với VOA. “Và ông ấy vào vai một sử gia tuyên bố rằng chúng ta đã kết thúc một kỷ nguyên, như kết thúc thời Đệ nhị Thế chiến, và đã tới lúc đưa ra quyết định mới theo cách mà ông Harry Truman từng đưa ra quyết định mới sau thời Đệ nhị Thế chiến.” Ông Suri, tác giả các đầu sách viết về văn phòng các nhiệm quyền Tổng thống và chính sách ngoại giao Mỹ, nói các sử gia nhìn thấy một số logic trong cách ông Biden định hình thời khắc này. “Nhưng chúng ta sẽ cũng thấy, như thường thấy, rằng một kỷ nguyên không kết thúc khi một kỷ nguyên mới bắt đầu,” ông nói. “Theo tôi, chúng ta bước vào thời khắc khác biệt sau cuộc bầu cử 2020 và chúng ta đang trong một thời khắc khác biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhiều vấn đề từ 20 năm trước vẫn chưa có một chương kết gọn gàng theo cách chúng ta thường làm trong sách vở.” Phó cố vấn an ninh quốc gia Elizabeth Sherwood-Randall cho rằng điều quan trọng là, khi thế giới tròn hai thập niên kể từ 11/9/2001, không có một cuộc tấn công khủng bố lớn nào khác. Thử thách khác “Sau hai mươi năm, thử thách của chúng ta đã khác,” bà Sherwood-Randall tuyên bố trong tuần này khi phát biểu tại Hội đồng Đại Tây Dương, nhóm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu ở Washington. “Từ biến cố 11/9 chúng ta đã học cách bảo vệ người Mỹ trước khủng bố. Không phải an toàn tuyệt đối, những điều kinh khủng vẫn xảy ra. Nhưng bằng việc kết hợp các hành động trong và ngoài nước, tới nay chúng ta đã có thể triệt phá và ngăn chặn một cuộc khủng bố khác theo kiểu 11/9.” Tuy nhiên, sử gia Thomas Schwartz thuộc Đại học Vanderbilt dự đoán sẽ có những hệ quả không mong đợi vượt ngoài các cuộc tưởng niệm kết thúc kỷ nguyên ngày 11/9 năm nay. “Tôi có lẽ hơi khó tính vì tôi không nghĩ đây là điều thật sự có thể làm được,” ông nói. “Theo tôi, kẻ thù, theo một cách nào đó, có sự lựa chọn và họ có thể quyết định rằng cho dù chúng ta muốn chấm dứt sau 20 năm nhưng họ thì không. Và như vậy, tôi cho rằng những lời lẽ của Tổng thống Biden-và hành động-về thời hạn cố định phải rút quân ra khỏi Afghanistan là một sai lầm và là một lỗi lầm về phán đoán mà tôi nghĩ có thể ảnh hưởng nước Mỹ trong những năm tới.” Tổng thống ngày 11/9 năm nay có phần chắc sẽ tuyên bố công khai, nhưng ‘ngôn từ sẽ không làm nên sự khác biệt tại thời điểm này,” theo ông Norman Ornstein, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện American Enterprise, một nhóm nghiên cứu chính sách công bảo thủ ở Washington. “Dĩ nhiên, Tổng thống sẽ phải có một bài diễn văn trau chuốt kỹ lưỡng vào thứ Bảy này, một phần nói rằng chúng ta đã xoay sở qua nhiều đời chính quyền để ngăn một biến cố 11/9 khác,” ông Ornstein nói. “Chúng ta đã tìm cách tóm và hạ sát tay chủ mưu, Osama bin Laden, rằng mọi chuyện chưa xong, và rằng chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trên con đường của mình. Và chúng ta sẽ tìm cách tránh tái phạm những sai lầm đó trong tương lai.” Li-băng năm 1983 Tuy nhiên, ông lưu ý rằng người Mỹ nên nhìn lại lịch sử tận năm 1983, chứ không phải năm 2001, để thấy mọi chuyện ra sao, khi Tổng thống Ronald Reagan quyết định rút lực lượng Mỹ ra khỏi Li-băng nhiều tháng sau vụ đánh bom giết chết 241 quân nhân Mỹ. Ông Ornstein nói, đây là sự khác biệt căn bản giữa nước Mỹ hôm nay và nước Mỹ của các thập niên trước. “Chúng ta không hề kêu gọi Ronald Reagan từ chức hay có động thái đàn hặc ông ấy,” ông đối chiếu tình hình năm 1983 với tình hình lúc này khi các nhà lập pháp phe Cộng hoà đang kịch liệt chỉ trích cuộc di tản của Mỹ ra khỏi Afghanistan. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công luận gần đây, người Mỹ tiếp tục ủng hộ quyết định của ông Biden rút quân ra khỏi Afghanistan, nhưng họ cũng phê phán Tổng thống về cách chính quyền của ông xử lý cuộc di tản. Đây cũng là một phần lý do vì sao các cuộc thăm dò mới cho thấy tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Biden chỉ còn 43%, mức thấp nhất kể từ khi ông nhậm chức tới nay./.  
......

“Ám sát tư cách cá nhân” qua hai chuyện “16 tấn vàng và bốn xe tiền mặt”

Trần Trung Đạo   Mặc dù bản chất và mục tiêu giữa hai cuộc chiến Afghanistan và Việt Nam hoàn toàn khác nhau như người viết đã phân tích khá chi tiết trong bài “Kabul Không Phải Là Sài Gòn”, màn chót của hai bi kịch có nhiều điểm giống nhau đáng chú ý. Một trong chuyện đáng chú ý là chuyện vàng và bạc. Một TT Nguyễn Văn Thiệu mang theo “16 tấn vàng” và một TT Afghanistan Ashraf Ghani với “bốn xe và một trực thăng chở đầy bạc”. Một trong những kỹ thuật tuyên truyền bỉ ổi nhưng hữu hiệu trong chính trị là “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân” (Character Assassination). “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân” được định nghĩa trong trang Web Luật Mỹ (US Legal): “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân là những cuộc tấn công bằng lời nói ác ý nhằm gây tổn hại hoặc làm hoen ố danh tiếng của một người. Sau khi đã thực hiện xong, những hành vi này thường rất khó để đảo ngược hay cải chỉnh. Do đó nó được ví như một vụ ám sát mạng người theo đúng nghĩa đen. Thiệt hại có thể kéo dài suốt đời hoặc, đối với các nhân vật lịch sử và nhân vật quan trọng, trong nhiều thế kỷ sau khi họ qua đời.” (Character Assassination is malicious verbal assaults designed to damage or tarnish the reputation of a person. Once done, these acts are often difficult to reverse or rectify. Therefore it is likened to a literal assassination of a human life. The damage sustained can last a lifetime or, for historical figures and important personalities, for many centuries after their death.) Trường Hợp “16 Tấn Vàng” Hẳn nhiên hôm nay những người biết đọc, biết viết, biết nhận ra những điểm vô lý trong một câu chuyện “16 tấn vàng” đều đồng ý việc đưa 1.234 thỏi (16 tấn) vàng một cách bí mật từ dưới hai hầm của Ngân Hàng Quốc Gia VNCH ra phi trường Tân Sơn Nhất để từ đó bay sang Đài Bắc là sản phẩm Hollywood của báo chí tả khuynh phản chiến Mỹ. Kế hoạch dùng vàng dự trữ để mua vũ khí có thể đã được bàn nhưng cũng chỉ là bàn, không có phương án cụ thể nào hay một thỏa ước giữa VNCH và một nước ngoài nào đó. Không ít người cho rằng việc TT Nguyễn Văn Thiệu mang 16 tấn vàng đã được Phân Tích Viên CIA Frank Snepp kể lại trong tác phẩm Decent Interval, một tác phẩm không thể thiếu cho một người muốn nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Nhưng toàn văn cuốn sách nhất là 11 trang trong chương “High-Class Chauffer” (Tài Xế Hạng Sang) mô tả khi Frank Snepp lái xe đưa TT Nguyễn Văn Thiệu ra máy bay không có một chữ “vàng” nào. Tiếng kim loại va chạm nhau mà Frank Snepp tả trong sách và cũng có thể là nguồn cho “ám sát tư cách cá nhân” TT Nguyễn Văn Thiệu thật ra chỉ là tiếng va chạm giữa hai khẩu súng nhỏ của Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận để trong cặp samsonite. Một chuyến ra đi bí mật nhưng bình thường của cựu TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu và một số viên chức trên phi cơ C-118 Mỹ. Sau này TT Nguyễn Văn Thiệu nhắc lại điều ông Nguyễn Văn Hảo nói để mọi người biết nhưng trước đó tổng thống im lặng. Bởi vì ông biết có nói “không” một trăm lần thì những người nghĩ là có vẫn không tin. Họ tin BBC loan, tin AP viết “dựa theo một nguồn tin” được thêu dệt của những kẻ thù ghét VNCH thay vì bình tĩnh tìm ra những nghịch lý của chuyến đi trong thời gian cấp bách chỉ 5 ngày trước khi Sài Gòn mất vào tay CS. Trường Hợp “Bốn Xe Và Một Trực Thăng Chở Đầy Tiền Mặt” Trong mấy tuần qua, những người không biết nhiều về chính trị Afghanistan sẽ khinh bỉ cựu tổng thống của quốc gia này hết sức chỉ vì bản tin của một hãng tin Nga: “Tổng thống Ashraf Ghani bỏ trốn với nhiều xe và trực thăng chứa đầy tiền mặt” (Afghan president fled with cars and helicopter full of cash – RIA”. RIA là chữ viết tắt theo tiếng Anh của Cơ Quan Thông Tin Nga ( Russian Information Agency) thuộc quyền sở hữu của chính phủ Nga. Điều đó có nghĩa những tin do RIA phát là tin chính thức của Nga. Hầu hết các hãng tin và đài truyền hình lớn của Mỹ như Reuter, AP, ABC v.v.. và các báo lớn trên thế giới đều loan dựa theo nguồn tin RIA. Tòa đại sứ Nga tại Kabul còn lo không nhiều người tin vào RIA, đã tiếp lời bằng cách lên tiếng tố cáo tổng thống Ashraf Ghani bỏ trốn với bốn xe chất đầy tiền. Việc đánh phủ đầu bằng cách “ám sát tư cách cá nhân” của TT Ashraf Ghani là một trong những biện pháp cần phải thực hiện ngay. Putin biết cuộcchiến Afghanistan còn lâu mới chấm dứt. Các lực lượng chống Taliban còn chiếm giữ nhiều vùng và đóng quân chỉ cách thủ đô Kabul 100 cây số. Ahmad Massoud, con trai của anh hùng dân tộc Ahmad Shah Massoud (1953-2001), tư lịnh nổi tiếng của cuộc chiến chống Liên Xô xâm lược và là người bị al-Qaida ám sát đầu tháng 9, 2001, vẫn còn hoạt động chống Taliban tại nhiều nơi trên khắp nước. Ahmad Massoud đang kêu gọi thế giới ủng hộ cuộc chiến chống Taliban của nhân dân Afghanistan. Sau khi Mỹ rút, Nga và Trung Cộng là hai quốc gia có ảnh hưởng mạnh nhất trong đời sống chính trị của một nước gần 40 triệu dân vùng Trung Á này. Ashraf Ghani Là Ai? Ashraf Ghani sinh năm 1949 tại miền Nam Afghanistan. Theo chương trình trao đổi học sinh, Ashraf Ghani có cơ hội học tại trung học Lake Oswego, tiểu bang Oregon. Khi trở lại quê hương ông học tiếp để tốt nghiệp trung học và sau đó theo học American University at Beirut ngành Nhân Chủng Học Văn Hóa (Cultural Anthropology). Theo lời giới thiệu được lưu trữ tại Đại học Columbia, ông được học bổng học hai năm trong chương trình Master (Thạc Sĩ) của Columbia University. Sau khi vừa tốt nghiệp Master cũng là lúc gia đình ông bị các lực lượng thân Liên Xô bắt. Ông buộc phải ở lại học tiếp và trình luận án Tiến Sĩ Kinh Tế Nhân Chủng Học Văn Hóa tại trường này năm 1983. Sau khi tốt nghiệp, Dr. Ashraf Ghani được mời dạy tại University of California Berkeley, Johns Hopkins University. Ông gia nhập World Bank năm 1991 và làm việc 11 năm cho tổ chức này tại các vùng Đông và Nam Á Châu. Ashraf Ghani trở lại Afghanistan sau 24 năm để tham gia chính phủ. Bộ trưởng Tài Chánh Ashraf Ghani chủ trương minh bạch và trách nhiệm. Ông sa thải các viên chức tham nhũng. Mười một năm trong tổ chức World Bank cho ông biết minh bạch và trách nhiệm trước hết phải bắt đầu từ người lãnh đạo. Dr. Ashraf Ghani là người đầu tiên trong chính phủ Afghsnistan công khai hóa tài sản riêng của mình thu nhập được sau 24 năm sống và làm việc ở nước ngoài cũng như đất đai do cha ông để lại. Ông ra lịnh phải điện toán hóa mọi thu chi của bộ và từ chối trả lương cho quân đội nếu đơn vị nào không kết toán đầy đủ nhân sự và số lượng người tuyển dụng. Trong suốt các hoạt động văn hóa và chính trị của mình, Ashraf Ghani tập trung vào hai mục đích chính đáng cho dân tộc ông: (1) xóa bỏ nạn nghèo đói tại Afghanistan, (2) xây dựng quyền công dân. Ông không thành công như ý muốn, nhưng không phải vì ông tham nhũng hay độc tài mà do nhiều yếu tố chính trị, lịch sử, văn hóa, tập quán xã hội khác. Sau thời gian làm Bộ Trưởng Tài Chánh, ông từ chối tiếp tục tham chính và xin trở lại làm Viện Trưởng Viện Đại Học Kabul. Năm 2009, ông trở lại chính trường để ứng cử tổng thống. Tuy không thành công, ông được mời làm chủ tịch ủy ban chuyển giao quyền hạn từ Hoa Kỳ và NATO sang các lực lượng an ninh Afghanistan. Năm 2014, Ashraf Ghani được Foreign Policy magazine chọn là một trong một trăm World's Top 100 Global Thinkers. Ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và chính trị Afghanistan. Năm 2014, ông ứng cử tổng thống lần nữa và đắc cử. Ngày 15 tháng 8, 2021, TT Ashraf Ghani rời Afghannistan để “tránh đổ máu” và khỏi bị “treo cổ” nhưng hứa sẽ trở lại Afghanistan. Đọc tiểu sử và những đóng góp của TT Ashraf Ghani, một trí thức có tài sản được ExactNetworth ước lượng vào khoảng năm triệu dollar và được xếp vào hạng 100 nhà trí thức có ảnh hưởng trên thế giới để thấy với cái đầu suy nghĩ của ông ta chẳng lẽ tới giờ chót lại dại dột chở theo bốn xe chất đầy tiền mặt? Tài sản trị giá năm triệu dollar của một tiến sĩ giảng dạy nhiều năm tại các đại học danh tiếng thế giới, làm việc 11 năm cho World Bank, được thừa kế nhiều ruộng đất do ông cha để lại và đầu tư trong suốt 24 năm là một gia sản hợp lý nếu không muốn nói là khiêm nhượng. Hôm 18 tháng 8 vừa qua, TT Ashraf Ghani tố cáo Nga đã “ám sát tư cách cá nhân” ông khi tung tin không căn cứ. Giấy tờ khai với hải quan qua hai nước cho thấy ông chỉ mặc một bộ đồ truyền thống, khoác chiếc áo ‘vest’ và mang đôi giày ‘sandals”. Đành rằng "con người lòng tham không đáy”, không có gì chắc chắn để bảo đảm Ashraf Ghani giàu rồi nên không muốn giàu thêm nhưng ít nhất ông cũng biết mọi hành vi của ông không thể nào tránh được tai mắt của mọi người. Lý Do Putin Muốn “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân” Ashraf Ghani Muốn biết lý do chúng ta phải xem xét mối quan hệ giữa Taliban và Nga cũng như cách đánh giá của Putin về vai trò của Ashraf Ghani trong tương lai Afghanistan. Nga nhận xét Afghanistan như là một “vùng ảnh hưởng” của ba cường quốc: Mỹ, Trung Cộng và Nga. Quốc gia này có chung biên giới với các “kho thuốc súng” Trung Cộng, Iran, Pakistan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Nga được bao bọc bởi một vòng đai an ninh gồm ba nước Trung Á là Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Ba nước này là thành viên của Tổ Chức Liên Phòng An Ninh Tập Thể (Collective Security Treaty Organization) do Nga đứng đầu, và vì thế, biên giới của Nga trong thực tế là Afghanistan như đã có từ thời Liên Xô còn tồn tại. Lãnh thổ Afghanistan có thể sớm bị biến thành bãi chiến trường trong một cuộc Chiến Tranh Ủy Nhiệm (Proxy War) kiểu Syria mà Putin không muốn thấy. Lý do, tại Syria, Nga đóng vai “ngư ông đắc lợi” trong khi tại Afghanistan, Nga từng là “cò” và có thể sẽ là “cò” lần nữa trong tương lai. Mọi bất ổn trầm trọng của Afghanistan sẽ ảnh hưởng đến phần Á Châu của Nga. Bài học xương máu 10 năm xâm lược Afghanistan với 15,000 lính bị giết, 35,000 lính bị thương và làm nền kinh tế suy sụp như Gorbachev thừa nhận với RIA hôm 17 tháng 8, 2021 vừa qua là một bài học cay đắng của Liên Xô. Ngày 8 tháng 7, 2021, Nga là quốc gia đầu tiên mà các đại diện phe Taliban thăm viếng và cam kết cuộc tiến quân nhanh chóng của họ sẽ không ảnh hưởng gì đến các quốc gia lân cận trong vùng Trung Á và Taliban thừa nhận rằng họ có quan hệ tốt với Nga. Khi Nga tung tin để “ám sát tư cách cá nhân” một đối thủ chính trị của Taliban cho thấy mối lo xa của Putin và cũng để lấy lòng Taliban. Dù Ashraf Ghani đã cải chính “viên đạn” của Nga cũng đã làm ông bị tổn thương trầm trọng. Mấy tuần qua cách rút quân ra khỏi Afghanistan của TT Joe Biden làm trò cười cho thế giới và bị các chính khách cả hai đảng Dân Chủ lẫn Cộng Hòa phê bình. Khi bị phê bình, TT Joe Biden thay vì thừa nhận sai lầm đã đổ thừa lên TT Ashraf Ghani và quân đội Afghanistan nhu nhược, không có khả năng bảo vệ đất nước. Trong khi đó, TT Joe Biden và bộ tham mưu của ông đã làm ngược với sách vở và kinh nghiệm rút quân của thế giới cũng như của các chính phủ Mỹ trước đây. Trong số những người phê bình có Mikhail Gorbachev. Cũng trong bài trả lời phỏng vấn của RIA, Mikhail Gorbachev cho rằng Mỹ thất bại ngay từ đầu cuộc chiến Afghanistan. Nhận xét đó không đúng và chẳng qua là một cách gỡ gạc cho thất bại của chính mình. Mỹ không thua ở Afghanistan. Việc rút quân ra khỏi Afghanistan sau khi các mục đích chính đã hoàn thành dù tốn kém là một chọn lựa có tính chiến lược. Tuy nhiên, cách rút của TT Joe Biden đã biến những thành tựu nên được đề cao, những tốn kém cần được đánh đổi, những hy sinh cần được vinh danh thành những thất bại ê chề. Lẽ ra, TT Joe Biden nên tuần tự rút theo ưu tiên các thành phần dân sự Mỹ và các cộng tác viên người Afghanistan sau đó mới chính thức công bố thời hạn rút số quân còn lại. TT Joe Biden làm ngược với sách vở nên tạo ra một luồng sóng phản ứng tâm lý đối với mọi cấp từ lãnh đạo, quân đội đến người dân Afghanistan. Ai không sợ Taliban? Thời gian từ khi lên nắm quyền 1996, bị đánh bật ra khỏi Kabul 2001 và phục hồi, Taliban là cơn ác mộng hãi hùng của dân tộc Afghanistan vì đã gây ra vô số tội ác. Hình phạt mà Taliban thường dùng là cắt cổ. Cách đây không lâu, tháng 5, 2021, Sohail Pardis, một thông dịch viên cho quân đội Mỹ chỉ 16 tháng bị Taliban chận xe bắt và chặt đầu ngay giữa đường. TT Joe Biden và bộ tham mưu của ông biết rõ tội ác của Taliban nhưng vô cảm trước nỗi sợ hãi và tai họa sẽ giáng xuống đầu hàng triệu dân Afghanistan trong nay mai. Con Người Thường Rất Dễ Tin Sự dễ tin của một người phát xuất từ bốn lý do, (1) thiếu kiến thức căn bản để tự tìm hiểu các điều nghịch lý trong câu chuyện; (2) thiếu tự tin ở chính mình nên dễ bị lung lạc; (3) đầy định kiến nên tin vào những nguồn tin không chính xác nhưng lại phù hợp với tình cảm hay quan điểm riêng của mình; (4) những điều đó dẫn tới một trình độ nhận thức kém về những lãnh vực mà người đó quan tâm. Người viết không binh vực hay chống đối TT Ashraf Ghani nhưng chỉ viết ra đây mặt khác của vấn đề để các bạn trẻ đọc và qua đó sẽ có một cách nhìn sáng suốt, đa diện, khách quan và bình tĩnh khi có cơ hội đọc về những nhân vật lịch sử của cuộc chiến Việt Nam. Không riêng cố TT Nguyễn Văn Thiệu mà cả nước Việt Nam Cộng Hòa cho đến nay vẫn còn là nạn nhân của loại “ám sát” này. Thế giới con người đầy gai nhọn, gai trên đường đi và gai nhiều nhất trong lòng người. Mong các ban trẻ học chuyện nước ngoài để bước khéo hơn trên con đường Việt Nam đã, đang và sẽ đầy gai như thế. Trần Trung Đạo  
......

Thế giới hôm nay: 26/08/2021

* Tới nay đã có hơn 80.000 người được Mỹ và đồng minh sơ tán khỏi Afghanistan, ngay trước thềm thời hạn 31/8 mà Tổng thống Joe Biden muốn tuân thủ. Song cam kết rút quân của ông phụ thuộc vào việc Taliban có đảm bảo người dân được tiếp cận sân bay Kabul hay không. Ông Biden đã chỉ đạo cấp dưới soạn thảo các kế hoạch dự phòng nếu tình hình thay đổi. * Các cơ quan tình báo Mỹ được cho là đã không thể đưa ra kết luận cụ thể về nguồn gốc covid-19 trong báo cáo mật cho Tổng thống Joe Biden. Việc Trung Quốc từ chối chia sẻ dữ liệu đã gây khó cho quá trình điều tra nguồn gốc virus - bị rò rỉ từ phòng thí nghiệm Vũ Hán hay lây lan từ động vật. Trung Quốc nói báo cáo này không hề nhằm phục vụ khoa học, mà chỉ mang tính chính trị. * OnlyFans quyết định không cấm nội dung khiêu dâm mà công ty từng ấn định vào ngày 1 tháng 10. Nền tảng này là nơi người dùng trả tiền để xem ảnh và video, và đã tăng vọt doanh thu nhờ sự nhàm chán trong đại dịch. Nó cũng trở nên phổ biến với các công nhân tình dục. Ban đầu công ty nói phải cấm để tuân thủ yêu cầu từ ngân hàng, vốn không muốn xử lý các khoản thanh toán liên quan đến nội dung khiêu dâm. * Cổ phiếu của Pinduoduo, một trong những nhà bán lẻ trực tuyến lớn nhất Trung Quốc, đã tăng 22% sau khi cam kết quyên góp 10 tỷ nhân dân tệ (1,5 tỷ USD) cho lĩnh vực nông nghiệp. Con số này lớn hơn toàn bộ lợi nhuận công ty kiếm được kể từ khi niêm yết. Các công ty công nghệ Trung Quốc đang mạnh tay làm từ thiện nhằm tránh bị chính phủ đàn áp. * Chính quyền các bang và địa phương ở Mỹ chỉ mới phát 1,7 tỷ đô la cho người thuê nhà vào tháng 7, quá nhỏ so với ngân sách của Chương trình Hỗ trợ Cho thuê Khẩn cấp được Quốc hội thiết lập trong đại dịch để ngăn trục xuất người thuê nhà. Chậm trễ trong xử lý đơn xin trợ cấp khiến đến nay chỉ mới có 11% trong 46,5 tỷ đô la quỹ được giải ngân. * Hai đảng cầm quyền của Nhật Bản và Đài Loan sẽ tổ chức cuộc đàm phán an ninh song phương đầu tiên vào thứ Sáu. Cả hai nước này đều lo lắng trước thái độ ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực. Thậm chí Nhật Bản còn gắn liền an ninh quốc gia Đài Loan với an ninh quốc gia của chính họ trong sách trắng của chính phủ. Trung Quốc, nước nói Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình, lên án động thái này. * Delta Air Lines cho biết các nhân viên có tham gia bảo hiểm y tế doanh nghiệp nếu chưa tiêm chủng covid-19 sẽ phải trả thêm 200 đô la một tháng kể từ tháng 11. Đây là một dấu hiệu ban đầu cho thấy phí bảo hiểm sẽ tăng lên đối với những người không chịu tiêm ngừa, vì họ có rủi ro bị nhiễm và nhập viện cao hơn. Từ cuối tháng sau hãng cũng sẽ ngừng trả lương nghỉ ốm cho nhân viên chưa tiêm nếu họ nhiễm covid. TIÊU ĐIỂM * Đức sắp bước vào một cuộc bầu cử vô cùng khó đoán: Người Đức gọi thời gian này là “giai đoạn nóng bỏng” của chiến dịch tranh cử. Áp phích bầu cử ở mọi nơi, các ứng viên xuất hiện đầy trên TV, còn các hãng thăm dò làm việc hết tốc lực. Một tháng nữa là đến ngày bỏ phiếu, và mô hình dự báo bầu cử của The Economist cho thấy nước Đức bước vào cuộc bầu cử khó đoán nhất cho đến nay. Với Armin Laschet, ứng viên thủ tướng kém sức hút của CDU/CSU, khối trung hữu đã mất 1/4 ủng hộ chỉ trong sáu tuần. Còn đợt tăng ủng hộ hồi mùa xuân của Đảng Xanh không kéo dài được lâu. Trong khi đó cơ may tăng lên với đảng Dân chủ Xã hội, từ lâu bị coi là đảng về nhì, qua đó trao cho Olaf Scholz một cơ hội lên lãnh đạo chính phủ tiếp theo. Tình hình phân tán ủng hộ đồng nghĩa Đức có thể sẽ có liên minh ba bên đầu tiên sau nhiều thập kỷ. Tất cả những điều này là vì thủ tướng Angela Merkel về hưu sau 16 năm đương nhiệm với tỉ lệ ủng hộ cao ngất ngưởng. Dù điều gì xảy ra vào ngày 26 tháng 9, tương lai của người Đức vẫn rất khó đoán định. * Sắp khai mạc hội nghị Jackson Hole: Hôm nay sẽ công bố chương trình làm việc đầy đủ của hội nghị trực tuyến các nhà ngân hàng trung ương vào tuần này - vốn thường tổ chức ở Jackson Hole, Wyoming. Một năm trước các nhà hoạch định chính sách tiền tệ đã ngăn một cuộc khủng hoảng tài chính trong làn sóng dịch đầu tiên. Nhưng thành tựu của họ nhanh chóng bị quên đi. Đà tăng lạm phát hiện tại khiến Cục Dự trữ Liên bang bất ngờ; trong khi một ủy ban quốc hội nói Ngân hàng Trung ương Anh mắc chứng “nghiện nguy hiểm” đối với việc mua trái phiếu; còn Ngân hàng Trung ương Châu Âu công bố mục tiêu lạm phát “đối xứng” (cao hoặc thấp hơn) 2% (dù ai cũng dự đoán là thấp hơn 2%). Được mong đợi nhất sẽ là bài phát biểu của chủ tịch Fed Jerome Powell vào thứ Sáu. Ông có thể ra dấu hiệu về tương lai của chương trình nới lỏng định lượng của Fed, mà theo đó Fed mua 120 tỷ USD trái phiếu mỗi tháng. Những người phản đối — và một số đồng nghiệp của ông Powell — cho rằng con số đó quá nhiều. Lạm phát hiện đang cao hơn mục tiêu 2% của Fed. * Liệu Taliban có cấm thuốc phiện?: Tuần trước, một phát ngôn viên của Taliban cho biết nhóm sẽ cấm sản xuất thuốc phiện, một loại thuốc thu hoạch từ cây anh túc và có thể tinh chế thành heroin. Afghanistan là nhà cung cấp ma túy lớn nhất thế giới và ngành này tạo ra tới 6-11% GDP của cả nước. Taliban hưởng lợi từ việc đánh thuế buôn bán thuốc phiện. Nhưng họ cũng từng cấm thuốc phiện trong một thời gian ngắn trong giai đoạn cầm quyền trước, nhằm được quốc tế công nhận và được viện trợ. Kể từ đó, buôn bán thuốc phiện bùng nổ ở Afghanistan. Taliban vừa đang gánh trách nhiệm nhà nước, vừa đối mặt với một lỗ hổng tài chính. Chính quyền Biden đã đóng băng hơn 9 tỷ đô la tài sản của Afghanistan. Đức cắt viện trợ, và các nước khác có thể sẽ làm theo. (Quốc tế chi trả tới 75% ngân sách chính phủ Afghanistan vào năm 2019.) Cấm thuốc phiện sẽ chỉ làm gia tăng gánh nặng tiền bạc của Taliban. Do đó, có thể thấy họ sẽ không làm vậy trừ khi có lời hứa nào đó từ bên ngoài. ---- * Nguồn tiếng Anh: The Economist | Biên dịch: Đỗ Đặng Nhật Huy ** Nguồn tiếng Việt: http://nghiencuuquocte.org/.../the-gioi-hom-nay-26-08.../...  
......

Afghanistan: Chiến lợi phẩm để lại cho Taliban, một mối đau đầu khác cho Mỹ

Ảnh minh họa: Chiến binh Taliban chiếm được một chiếc xe thiết giáp Humvee do Mỹ chế tạo mà lực lượng chính phủ Afghnistan bỏ lại tại Herat (Afganistan) ngày 13/08/2021. - AFP Trọng Nghĩa - RFI| Sự sụp đổ nhanh chóng của lực lượng chính phủ Afghanistan, hầu như chỉ tháo chạy trước đà tiến của Taliban đã khiến cho một khối lượng vũ khí khổng lồ mà Mỹ trang bị cho quân đội nước này rơi vào tay phiến quân Hồi Giáo. Chính cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan ngày 17/08/2021 đã thừa nhận rằng một số lượng vũ khí “khá lớn” của Mỹ đã rơi vào tay lực lượng Taliban. Thực tế này đã làm dấy lên nhiều lo ngại về nguy cơ vũ khí tối tân của Mỹ bị các nhóm khủng bố sử dụng hoặc bị Taliban giao cho Trung Quốc hay Nga. Hãng tin Anh Reuters ngày 19/08 đã nhắc lại một số sự kiện rất mỉa mai: Chỉ cách nay khoảng một tháng, bộ Quốc Phòng Afghanistan đã đăng trên mạng xã hội những bức ảnh chụp 7 chiếc trực thăng mới tinh vừa được Hoa Kỳ chuyển đến Kabul. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Lloyd Austin vài hôm sau đã khoe với báo chí rằng Afghnistan “sẽ tiếp tục chứng kiến nhịp độ dồn dập” của viện trợ quân sự Mỹ. Thế nhưng, chỉ trong vài tuần, Taliban đã chiếm được hầu hết lãnh thổ Afghanistan cũng như mọi loại vũ khí và thiết bị quân sự mà quân đội Afghanistan đã bỏ lại khi tháo chạy. Nhiều đoạn video lưu hành trên mạng cho thấy phiến quân đang kiểm tra hàng dãy xe cơ giới và mở các thùng đựng nào là súng, nào là thiết bị liên lạc, thậm chí cả máy bay quân sự không người lái.   28 tỷ đô la vũ khí, từ Humvee đến Black Hawk Trả lời Reuters, một quan chức Mỹ cho biết là mặc dù chưa có số chính xác, nhưng các thông tin tình báo hiện tại ước lượng là Taliban đang nắm trong tay hơn 2.000 xe thiết giáp, trong đó có loại Humvee hiện đại của Mỹ, và đến 40 phi cơ bao gồm loại trực thăng UH-60 Black Hawk, trực thăng trinh sát tấn công và máy bay quân sự không người lái ScanEagle. Từ năm 2002 đến 2017, Hoa Kỳ đã cung cấp cho quân đội Afghanistan ước tính 28 tỷ đô la vũ khí, bao gồm súng, tên lửa, kính nhìn ban đêm và thậm chí cả máy bay không người lái nhỏ để thu thập thông tin tình báo. Trực thăng Black Hawk là dấu hiệu dễ thấy nhất về hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ và được cho là lợi thế lớn nhất của quân đội Afghanistan trước Taliban. Theo cơ quan chính phủ Mỹ GAO, từ năm 2003 đến năm 2016, Hoa Kỳ đã cung cấp cho các lực lượng Afghanistan 208 máy bay các loại. Vào tuần trước, theo một quan chức Mỹ, có khoảng từ 40 đến 50 máy bay do các phi công Afghanistan điều khiển đã bay qua Uzbekistan để tìm nơi ẩn náu. Ngoài ra một số khác đã được đưa về Mỹ để đươc bảo trì. Một số đã bảo trì xong và đang trên đường qua Afghanistan sẽ được quân đội Hoa Kỳ sử dụng vào chiến dịch di tản khỏi Kabul. Vũ khí Mỹ trong tay Taliban: Mối đe dọa cho Mỹ và đồng minh Các quan chức Mỹ đương nhiệm hay cựu quan chức đều đã lo ngại trước nguy cơ các loại vũ khí này có thể được Taliban sử dụng để giết dân thường, hay là bị các nhóm chiến binh khác như tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo chiếm giữ để tấn công vào các lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực. Trả lời Reuters bằng email, dân biểu đảng Cộng Hòa Michael McCaul thuộc Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Mỹ cho biết: “Chúng tôi đã thấy chiến binh Taliban dùng vũ khí do Mỹ sản xuất mà họ chiếm được từ tay lực lượng Afghanistan. Điều này gây ra mối đe dọa đáng kể đối với Mỹ và các đồng minh”. Chính quyền của tổng thống Joe Biden đang cân nhắc một số phương án đối phó trong đó có việc tấn công phá hủy các loại thiết bị lớn, chẳng hạn như máy bay trực thăng. Tuy nhiên khả năng này tạo ra lo ngại là điều đó sẽ chọc giận phe Taliban vào thời điểm và mục tiêu chính của Hoa Kỳ là sơ tán người của mình ra khỏi Afghanistan. Các quan chức Mỹ tuy nhiên nói rằng mặc dù họ lo ngại về việc Taliban có thể sử dụng trực thăng, nhưng loại phương tiện này đòi hỏi phải được bảo trì thường xuyên và nhiều loại không thể dùng được nếu không được đào tạo chuyên sâu. Nguy cơ đến từ khối lượng vũ khí cá nhân khổng lồ dễ sử dụng Tuy vậy có một mối lo ngại trước mắt về một số vũ khí và thiết bị dễ sử dụng hơn, chẳng hạn như vũ khí hạng nhẹ và các thiết bị như kính nhìn ban đêm. Kể từ năm 2003, Hoa Kỳ đã cung cấp cho lực lượng Afghanistan ít nhất 600.000 vũ khí dùng cho bộ binh, bao gồm súng trường tấn công M16, 162.000 thiết bị liên lạc và 16.000 thiết bị kính nhìn ban đêm. Một số chuyên gia cho rằng các loại súng mà Taliban chiếm được như đại liên, súng cối, cũng như các loại pháo bao gồm cả pháo tự hành, có thể mang lại lợi thế cho Taliban khi phải đánh vào các thành trì nổi tiếng là chống Taliban trong lịch sử như vùng Thung Lũng Panshir ở phía đông bắc Kabul. Theo trang mạng thông tin The Hill ngày 19/08, Elias Yousif, phó giám đốc Trung Tâm Chính Sách Quốc tế (Center for International Policy’s Security Assistance Monitor), đặc biệt lo ngại trước khối lượng vũ khí cá nhân khổng lồ mà Taliban tịch thu được. Trả lời phóng viên của The Hill, ông Yousif giải thích: “Chúng dễ bảo trì, dễ sử dụng, dễ vận chuyển. Điều đáng lo trong trường hợp các loại vũ khí nhẹ này là chúng là mặt hàng lâu bền và dễ chuyển nhượng hay bán đi. Chúng tôi đã thấy điều này trước đây mỗi khi một cuộc xung đột kết thúc và những vũ khí đã dùng ở đó được đưa đến mọi nơi trên thế giới.” Theo tạp chí Mỹ Politico ngày 19/08, Colin Clarke, giám đốc chính sách và nghiên cứu của The Soufan Group cho biết: “Tôi tin chắc rằng một số vũ khí sẽ rơi vào tay Al Qaeda và những thành phần xấu khác, đây là điều không thể tránh khỏi”. Nguy cơ này lại càng cao khi lực lượng Taliban đang rất cần tiền để có thể điều hành đất nước Afghanistan. Taliban sẽ cho Trung Quốc tiếp cận vũ khí Mỹ? Một trong những mối lo ngại khác được gợi lên là nguy cơ Taliban chia sẻ thiết bị quân sự Mỹ mà họ tịch thu được với các quốc gia đối thủ của Hoa Kỳ như Trung Quốc, nước bị tình nghi là đã từng đánh cắp công nghệ vũ khí của Mỹ. Andrew Small, một chuyên gia về chính sách đối ngoại Trung Quốc tại Quỹ Marshall của Hoa Kỳ, cho biết Taliban có khả năng cho Bắc Kinh quyền tiếp cận bất kỳ vũ khí nào của Hoa Kỳ mà họ nắm được trong tay. Tuy nhiên, theo Reuters, một quan chức Mỹ cho biết Trung Quốc có lẽ không cần đến điều này vì Bắc Kinh có thể đã tiếp cận được các loại vũ khí và thiết bị từ trước. Tướng Lục Quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu Joseph Votel, người từng giám sát các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ tại Afghanistan khi còn là Tư lệnh Bộ Chỉ Huy Trung Tâm Hoa Kỳ CentCom từ năm 2016 đến năm 2019, cho biết là hầu hết các thiết bị cao cấp lọt vào tay Taliban, bao gồm cả máy bay, đều không được trang bị công nghệ nhạy cảm của Hoa Kỳ. Theo ông Votel: “Trong một số trường hợp, nhiều loại vũ khí chỉ là chiến lợi phẩm để trưng bày mà thôi”. https://www.rfi.fr/vi/qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/20210820-afghanistan-chi%E1%BA%BFn-l%E1%BB%A3i-ph%E1%BA%A9m-%C4%91%E1%BB%83-l%E1%BA%A1i-cho-taliban-m%E1%BB%99t-m%E1%BB%91i-%C4%91au-%C4%91%E1%BA%A7u-kh%C3%A1c-cho-m%E1%BB%B9  
......

Taliban vẫn chưa kiểm soát được vùng đất huyền thoại của Ahmad Shah Massoud

Timothy Trinh Một lãnh đạo của chính quyền Afghanistan công bố rằng ông sẽ không đội trời chung với quân khủng bố Taliban, trước khi rời thủ đô Kabul để đến một vùng đất được kiểm soát bởi Liên minh phương Bắc ở tỉnh Panjshir chỉ cách thủ đô Kabul 50 km về hướng đông bắc. Amrullah Saleh, Phó tổng thống thứ nhất của chính quyền Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, tuyên thệ hôm Chủ nhật rằng: “Tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ và trong bất cứ hoàn cảnh nào cúi đầu trước những kẻ khủng bố Taliban. Tôi sẽ không bao giờ phản bội linh hồn và di sản của người anh hùng Ahmad Shah Massoud của tôi, người chỉ huy, huyền thoại và người dẫn đường. Tôi sẽ không bao giờ làm thất vọng hàng triệu người đã lắng nghe tôi. Tôi sẽ không đội trời chung với Taliban. CHƯA TỪNG.” Khác với Tổng thống Ashraf Ghani đã bỏ chạy ra nước ngoài, Phó tổng thống thứ nhất Amrullah Saleh vẫn ở lại để tiếp tục chiến đấu. Quyền Tổng thống Saleh, Bộ trưởng Quốc phòng Bismillah Khan và Ahmad Massoud, con trai của Ahmad Shah Massoud, được cho là đang thành lập ở Panjshir một lực lượng kháng chiến chống Taliban. Thung lũng Panjshir được xem như là một vùng đất huyền thoại của “Sư tử của Panjshir”, biệt danh của Ahmad Shah Massoud, một chính trị gia và chỉ huy quân sự người Afghanistan. Ông là một chỉ huy du kích của lực lượng kháng chiến Hồi giáo Mujahideen trong cuộc chiến chống lại sự chiếm đóng của Liên Xô từ năm 1979 đến 1989. Trong một video đăng trên Twitter, Ahmad Massoud, người con trai, được nhìn thấy cùng với một số tướng lĩnh quân đội đã lên trực thăng đến Panjshir, thành trì cuối cùng vẫn chưa bị kiểm soát bởi Taliban. Trong 72 giờ qua, các lực lượng đặc biệt Afghanistan đã tham gia cùng Massoud với vũ khí và đạn dược. Vào hôm thứ Ba, Amrullah Saleh công bố: “Theo quy định rõ ràng của Hiến pháp Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, trong trường hợp Tổng thống vắng mặt, bỏ trốn hoặc qua đời, Phó Tổng thống thứ nhất sẽ là quyền Tổng thống. Tôi đang ở trong nước và tôi phụ trách hợp pháp và chính đáng vị trí tổng thống. Tôi đang tham khảo với tất cả các nhà lãnh đạo để đảm bảo sự ủng hộ và đồng thuận của họ.” “Trên đất của tôi, với đồng bào tôi. Vì một nguyên nhân và mục đích, với niềm tin vững chắc vào lẽ phải. Chống lại sự áp bức và chế độ độc tài tàn bạo được hậu thuẫn bởi Pakistan là tính hợp pháp của chúng tôi”, ông Saleh nói. Đối với sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đổ lỗi chính quyền Afghanistan, ông Saleh cho biết: “Bây giờ tranh luận với Tổng thống Mỹ về vấn đề Afghanistan là vô ích. Hãy để ông ta tiêu hóa nó.” “Chúng tôi là người Afghanistan phải chứng minh rằng Afghanistan không phải là Việt Nam và những người Taliban thậm chí không giống Việt Cộng từ xa. Không giống như Mỹ / NATO, chúng tôi không mất tinh thần và nhìn thấy những cơ hội to lớn ở phía trước”, ông nói. “Những lời cảnh báo vô ích đã kết thúc”, và ông kêu gọi người dân Afghanistan hãy “THAM GIA KHÁNG CHIẾN.”  
......

10 tổ chức nhân quyền thúc giục Phó Tổng Thống Hoa Kỳ nêu các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam

Các tổ chức nhân quyền quốc tế| Nhiều thành viên trong cộng đồng quốc tế kêu gọi Phó Tổng Thống Kamala Harris nêu lên những quan ngại về nhân quyền trong chuyến công du Việt Nam sắp tới của bà. Việt Tân cùng 9 tổ chức phi chính phủ về nhân quyền kêu gọi Phó Tổng Thống Harris gặp gỡ các thành viên xã hội dân sự. Họ cũng yêu cầu bà thảo luận về việc Việt Nam cần phải tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế liên quan đến nhân quyền, bao gồm cả việc trả tự do ngay lập tức cho tất cả các tù nhân chính trị. — Ngày 18 tháng 8, 2021 Kính gởi: Phó Tổng Thống Kamala Harris Tòa Bạch Ốc 1600 Pennsylvania Avenue NW Washington, DC 20500 Thưa Phó Tổng Thống, Chúng tôi, các tổ chức ký tên dưới đây, khen ngợi chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ 5 triệu liều vắc xin cho Việt Nam. Hoa Kỳ đã thể hiện vai trò lãnh đạo tuyệt vời trong việc chống lại đại dịch đã làm chết hơn 4 triệu người trên toàn thế giới. Trong khi đại dịch COVID-19 thu hút sự chú ý của toàn cầu, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục bắt giữ và tống giam những người bảo vệ nhân quyền với những bản án khắc nghiệt. Trong vài năm gần đây, chính phủ Việt Nam đã tăng cường đàn áp những người bảo vệ nhân quyền, sử dụng các bộ luật hình sự mơ hồ để đàn áp quyền tự do ngôn luận. Kể từ khi Luật An Ninh Mạng có hiệu lực vào tháng 1 năm 2019, Nhà chức trách Việt Nam đã sử dụng các bài đăng trên các mạng xã hội như Facebook để bắt giữ và bỏ tù các nhà hoạt động. Tổ chức Defend the Defenders cho biết đến cuối năm 2020, Việt Nam có ít nhất 258 tù nhân lương tâm. Trong thời gian đại dịch, hơn 50 nhà hoạt động ôn hòa đã bị bắt giữ. Một số người đã bị kết án tới 15 năm tù, chỉ đơn giản vì chỉ trích chính sách của chính phủ và lên tiếng chống lại những bất công. Gần đây nhất là vụ Facebooker Trần Hoàng Huấn (Fb Huan Tran) bị bắt chỉ vì kêu gọi chính phủ miễn tiền điện, nước trong 3 tháng khi xảy ra đại dịch. Nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc cung cấp viện trợ để chống lại dịch COVID-19 là cần thiết và đáng khen ngợi. Tuy nhiên, không thể làm ngơ trước việc chính phủ Việt Nam vi phạm nhân quyền. Chúng tôi tin rằng Hoa Kỳ có thể khẳng định hơn nữa vai trò lãnh đạo toàn cầu của mình bằng cách yêu cầu Việt Nam tôn trọng nhân quyền và trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm vì những hoạt động ôn hòa của họ. Việt Nam đang ngày càng có nhiều cam kết hội nhập kinh tế toàn cầu và hợp tác an ninh khu vực. Do đó, Việt Nam cũng cần tuân thủ việc bảo vệ nhân quyền dựa trên các nghĩa vụ quốc tế của mình nhằm thúc đẩy ổn định và an ninh khu vực. Vì vậy, chúng tôi mong rằng trong chuyến công du Việt Nam, Bà sẽ: – Đặt vấn đề tình hình nhân quyền với chính phủ Việt Nam và yêu cầu trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm, bao gồm Lê Đình Lượng, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Chí Dũng, Châu Văn Khảm, Hồ Đức Hoà, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyễn, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Đoan Trang, Cấn Thị Thêu, Đinh Thị Thu Thủy, Huỳnh Tố Nga và Trần Thị Xuân. – Yêu cầu chính phủ Việt Nam tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do sử dụng Internet và chấm dứt việc bắt giữ tùy tiện những công dân bày tỏ quan điểm phê bình trên mạng xã hội. – Sắp xếp một cuộc gặp trực tiếp hoặc trực tuyến với những người bảo vệ nhân quyền và xã hội dân sự, để hiểu rõ hơn về những thách thức nhân quyền mà Việt Nam đang phải đối mặt. – Yêu cầu chính phủ Việt Nam bảo đảm một môi trường an toàn và tạo điều kiện cho sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự độc lập, được bảo vệ bởi Công Ứớc Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam đã phê chuẩn. Trân trọng, ACAT Vương Quốc Bỉ ACAT Pháp ACAT Đức ACAT Thụy Sĩ Hội Anh Em Dân Chủ Ủy Ban Thụy Sĩ-Việt Nam Cosunam Destination Justice Safeguard Defenders Phóng Viên Không Biên Giới – RSF Việt Tân — Nguyên bản Anh ngữ: August 18, 2021 The Honorable Kamala Harris Vice President of the United States of America The White House Office of the Vice President 1600 Pennsylvania Avenue NW Washington, DC 20500 Dear Vice President Harris, We, the undersigned organizations, commend the U.S government for donating 5 million vaccine doses to Vietnam. The United States has shown great leadership in fighting this pandemic that has killed over 4 million people worldwide. While COVID-19 has consumed global attention, the Vietnamese government continues to detain and imprison human rights defenders, sentencing them to long prison terms. In the last few years, the Vietnamese government has intensified its crackdown on human rights defenders, using vague penal codes to suppress freedom of expression. Since the Cybersecurity Law went into effect in January 2019, the Vietnamese authorities have used social media posts from platforms such as Facebook to arrest and imprison activists. Defend the Defenders reported that by the end of 2020, Vietnam had at least 258 prisoners of conscience. During the pandemic, more than 50 peaceful activists have been arrested. Some have been sentenced for up to 15 years, simply for criticizing government policy and raising their voice against injustices. Most recently, Facebooker Tran Hoang Huan (Fb Huan Tran) was arrested for calling on the government to waive the electricity and water bills for 3 months to help Vietnamese citizens during the pandemic. The United States’ effort in providing aid to combat COVID-19 is necessary and commendable. However, the Vietnamese government’s violation of human rights must not be ignored. We believe the United States can further affirm its global leadership by demanding that Vietnam respects human rights and releases all prisoners of conscience for their peaceful activism. Vietnam has increasingly committed to global economic integration and regional security cooperation. It is imperative that Vietnam also adheres to the protection of human rights based on its international obligations in order to foster regional stability and security. Thus, while visiting Vietnam, we urge you to: Address the human rights situation with the Vietnamese government and request for the release of all prisoners of conscience, including Le Dinh Luong, Tran Huynh Duy Thuc, Pham Chi Dung, Chau Van Kham, Ho Duc Hoa, Nguyen Trung Ton, Nguyen Bac Truyen, Nguyen Thuy Hanh, Pham Doan Trang, Can Thi Theu, Dinh Thi Thu Thuy, Huynh To Nga, and Tran Thi Xuan. Request the Vietnamese government to respect freedom of expression, freedom of the internet and to cease arbitrary detention of citizens who express their critical views on social media. Arrange a meeting with human rights defenders and civil society, either face-to-face or online, to have a better understanding of the human rights challenges facing Vietnam. Request the Vietnamese government to ensure a safe environment for the growth of independent civil society organizations, as protected by the International Covenant of Civil and Political Rights to which Vietnam has ratified. Yours Sincerely, ACAT Belgium ACAT France ACAT Germany ACAT Switzerland Brotherhood for Democracy Cosunam Destination Justice Safeguard Defenders Reporters Without Borders Viet Tan XEM THÊM: 60 tổ chức người Việt vận động Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Harris đặt vấn đề nhân quyền với CSVN https://viettan.org/10-to-chuc-quoc-te-thuc-giuc-pho-tong-thong-hoa-ky-neu-cac-van-de-nhan-quyen-o-viet-nam/    
......

Afghanistan: Joe Biden chịu trách nhiệm

Ngô Nhân Dụng Cả thế giới chứng kiến một chính quyền do nước Mỹ dựng lên và hỗ trợ trong gần 20 năm bỗng tan thành mây khói. Tòa đại sứ Mỹ chạy khỏi Kabul trong một ngày, để lại 5.000 quân sĩ giữ phi trường, vì 40.000 người Mỹ còn kẹt lại ở Afghanistan. Ba đời tổng thống Mỹ sa lầy ở Afghanistan. Tổng thống Donald Trump đã hứa sẽ rút quân từ khi tranh cử năm 2016; năm ngoái ông tuyên bố sẽ thực hiện trong năm nay. Tổng thống Joe Biden tự biện hộ rằng quyết định rút quân là do ông Donald Trump đưa ra, ông chỉ tiếp tục tiến hành! Nhưng ông Biden hoàn toàn chịu trách nhiệm để diễn ra cảnh tượng tan rã hỗn loạn nhục nhã mấy tuần lễ vừa qua. Ông Biden, cũng như các vị tổng thống trước, không tìm hiểu lịch sử, tôn giáo, xã hội Afghanistan. Họ sống với ảo tưởng một lực lượng 300.000 quân chính phủ Kabul. Thật ra, đó không phải là một “quân đội” mà chỉ là tập hợp lỏng lẻo các đám quân của các lãnh chúa địa phương, tất cả được quân đội Mỹ cung cấp vũ khí, lương thực, được máy bay yểm trợ, hoàn toàn phụ thuộc vũ khí và tiền lương do Mỹ cung cấp. Các cơ quan tình báo Mỹ không cho giới lãnh đạo dân sự biết tinh thần chiến đấu của quân Taliban và quân chính phủ khác nhau thế nào, không tiên đoán được tình trạng suy sụp nhanh chóng khi quân Mỹ bắt đầu rút. Quân Taliban chiến thắng, trước hết vì họ sẵn sàng chết để xây dựng một quốc gia Hồi Giáo thuần thành. Người lính cũng chiến đấu hăng hái khi biết phe mình sẽ thắng. Khi chính phủ Mỹ đàm phán riêng, còn yêu cầu Taliban đừng tấn công quân Mỹ trong thời gian đang nói chuyện, thì ai cũng biết nước Mỹ chỉ muốn chuẩn bị rút đi. Năm 1970 Việt Cộng cũng nghĩ như thế khi Kissinger bí mật gặp Lê Đức Thọ ở Paris mà Việt Nam Cộng Hòa không được dự. Tổng thống Donald Trump từng có ý định mời người lãnh đạo Taliban tới Camp David, bỏ ý đó vì một quân nhân Mỹ chết ở Kabul trong một vụ đánh bom khủng bố. Năm ngoái, ông còn xác định quân Mỹ sẽ rút đi vào tháng Năm, 2021. Đó là những dấu hiệu rõ ràng để quân Taliban thấy họ chỉ cần chờ ngày quân Mỹ rút. Điều kiện quan trọng nhất ông Trump đưa ra là quân Taliban ngưng tấn công trực tiếp quân đội Mỹ. Taliban vẫn giữ lời hứa đó đến bây giờ, để chứng tỏ họ theo chủ trương mới, không gây thù địch và không quá khích. Còn những người lính “của chính phủ Kabul” thì biết rằng sau khi Mỹ rút họ sẽ không được tiếp tế súng đạn, không còn được tình báo Mỹ đưa tin tức do vệ tinh nhân tạo cung cấp, nhất là không còn máy bay Mỹ yểm trợ nữa. Họ tự hỏi: Thế nào cũng thua, tại sao mình phải là người chết sau cùng? Chết cho ai? Binh pháp Tôn Tử nói, công thành không bằng công lương; công lương không bằng công tâm. Lãnh đạo Taliban đánh vào tâm lý đó, thương thuyết trực tiếp với các địa phương, chặt chân Kabul. Bốn thành phố lớn bị Taliban chiếm trong hai ngày là hình ảnh tiêu biểu. Tại thành phố Herat, thủ lãnh Ismail Khan của những người theo giáo phái Shia đã vùng lên đuổi quân Taliban đi ngay năm 2001. Ông ta kêu gọi đối thủ hãy “ôn hòa” trước khi đầu hàng để lính của mình không chết trong tuyệt vọng. Tại Kandahar, thành phố lớn thứ nhì sau thủ đô, đã chiến đấu dũng mãnh trong tuần lễ trước nhờ còn máy bay Mỹ yểm trợ; sau cùng cũng đầu hàng. Người thủ lãnh đứng “trao quyền” cho đối thủ để chụp hình. Hai bên đều tự hào cùng thuộc sắc tộc Pashtun mạnh nhất trong nước Afghanistan. Sau đó, quân Taliban chiếm thành phố Jalalabad không cần nổ súng sau khi các “trưởng lão” trong bộ lạc đi thương thuyết. Cứ điểm quan trọng nhất ở miền Bắc, Mazar-i-Sharif, vốn là một trung tâm đối nghịch với Taliban ngay từ khi họ chưa chiếm được Kabul năm 1996. Rashid Dostum, thủ lãnh sắc dân Uzbek, được phong làm phó tổng thống sau năm 2001, được chia phần viện trợ Mỹ cho lãnh địa của mình. Ngày 14 tháng 8, Dostum cùng hàng ngàn binh sĩ chạy sang láng giềng Uzbekistan. Cũng là thượng sách để bảo vệ các thuộc hạ trung thành. Đó chỉ là những hình ảnh tiêu biểu cuối cùng của cuộc chiến Afghanistan. Nhưng mầm mống thất bại của Mỹ đã bắt đầu từ 19 năm trước. Caspar Weinberge, bộ trưởng Quốc Phòng thời Tổng thống Reagan từng đề nghị: Nước Mỹ chỉ dự một cuộc chiến tranh khi cần bảo vệ các quyền lợi sinh tử. Thứ hai, phải xác định rõ con đường nào để chiến thắng. Đưa quân vào Afghanistan, mấy đời tổng thống Mỹ đã quên lời khuyến cáo này. Tổng thống George W. Bush tiến quân vào Afghanistan năm 2001, ông nêu một mục tiêu quan trọng và rõ ràng. Nhưng, sau khi thắng trận năm 2001, Tổng thống Bush còn đặt ra hai mục tiêu mới. Mục tiêu đầu tiên nhắm tìm bắt Osama bin Laden, để trừng phạt những người chủ mưu vụ khủng bố 11 tháng 9 làm 3.000 người Mỹ ở New York thiệt mạng. Chính quyền Taliban bị đánh bật ra khỏi Kabul nhanh chóng vì các bộ lạc khắp nước cùng nổi lên tự lập. Trong ba tháng Al Qaeda tan rã, đám tàn binh ẩn nấp trong miền núi Hindu Kush, biên thùy với Pakistan. Quân Mỹ không thể đi tìm bin Laden trong vùng hoang dã đó; nhưng trong năm 2002 có thể rút quân về, để lại các đội biệt kích tiếp tục tìm bắt bin Laden; và viện trợ cho chính quyền Afghanistan mới. Qua thời Tổng thống Barack Obama, bin Laden bị giết năm 2011, tại Abbottabad, Pakistan, nơi lẩn trốn cùng ba trong số 4 bà vợ. Lúc đó, chính phủ Mỹ cũng có thể tuyên bố đã đạt mục tiêu ban đầu, và rút quân về. Nhưng chính ông Obama vẫn theo con đường của ông Bush; đưa thêm 30.000 quân qua Afghanistan, nâng số quân Mỹ lên 140.000 – ông Biden là phó tổng thống lúc đó, chống quyết định này nhưng bị bác. Mục tiêu số 2 của Tổng thống Bush là: Ngăn chặn các tổ chức khủng bố Hồi Giáo quá khích. Mặt trận đã mở rộng ra ngoài một quốc gia, thành quốc tế, áp dụng cho cả vùng Trung Đông. Nhưng không thể ước tính đến bao giờ các phong trào Hồi Giáo chống Mỹ mới chấm dứt. Quân Mỹ còn đóng ở Afghanistan và Iraq có thể làm nhiều người chống Mỹ hơn. Nhiều thanh niên Hồi Giáo đã theo bin Laden chỉ vì họ ghét cảnh tượng quân Mỹ đóng trong các nước Saudi và Kuwait. Khó xác định được các tiêu chuẩn như thế nào thì coi là đạt được mục tiêu số 2 này! Cho nên, cũng không biết bao giờ thì thành công. Mục tiêu số 3 của ông Bush đề ra còn nuôi tham vọng cao hơn: Mỹ sẽ xây dựng một quốc gia Afghanistan tự do dân chủ theo khuôn mẫu Tây phương. Mục tiêu này là trường cửu, có thể thành một cuộc chiến “bất tận.” Vì vậy quân Mỹ ở lại Afghanistan trong 19 năm, nơi vẫn được gọi là “Mồ chôn các đế quốc.” Thời gian Mỹ ở xứ đó dài gấp hai lần quân Nga, và cũng lâu hơn thời gian quân Anh ở hai lần, 1839 đến 1842 rồi từ 1878 đến 1880. Mấy năm gần đây hầu như dân Mỹ đã quên cuộc chiến tranh Afghanistan. Chỉ còn hơn 2 ngàn quân Mỹ ở đó, một phần ba tổng số 6.000 quân ở Afghanistan, Iraq và Syria. Không có một phong trào phản chiến đòi chính phủ Mỹ phải rút quân về. Các nhà chính trị tự ý quyết định trong khi các tướng lãnh không muốn. Ông Joe Biden tuyên bố thời hạn rút quân mà không biết chuẩn bị rút quân như thế nào. Ông không biết trong chiến tranh hành động rút lui bao giờ cũng nguy hiểm hơn việc tấn công. Bất cứ một vị tướng chỉ huy nào, khi được lệnh cấp trên bảo phải rút quân, cũng phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Bây giờ ông Biden trút tội lên giới lãnh đạo Afghanistan, địa phương thì đầu hàng, trung ương thì bỏ chạy. Tình báo quân đội Mỹ và CIA nếu được hỏi về hậu quả, thì họ đã báo động cảnh tan hàng thế nào cũng xảy ra hay khi Mỹ bỏ cuộc. Ở nước Mỹ, giới quân nhân phải làm theo quyết định chiến lược của các nhà chính trị dân cử. Nhưng trong chiến tranh thì các nhà chính trị phải tham khảo ý kiến chiến thuật của các tướng lãnh. Trước khi tuyên bố rút quân, đáng lẽ ông Biden phải mở một cuộc họp cùng nghiên cứu các vấn đề chiến thuật: Khi nào thì rút bớt bao nhiêu quân? Yểm trợ chính phủ Kabul và quân đội của họ như thế nào trước và sau khi rút quân Mỹ. Có thể kéo dài trong một, hai năm hay không? Có một kế hoạch cụ thể rồi lặng lẽ thực hiện trước khi công bố cho bên địch nghe. Ông Joe Biden không làm như vậy. Vì không biết mà cũng không tìm hỏi ý kiến cho đầy đủ trước khi quyết định. Ông coi thường quân Taliban cũng giống như Tổng thống Trump coi thường bệnh dịch Covid. Ông bỏ qua ý kiến các chuyên viên quân sự, cũng như ông Trump coi thường các chuyên gia về bệnh dịch. Ông Biden sẽ gánh hậu quả./.
......

Điều gì giúp Taliban thắng như chẻ tre ở Afghanistan?

Nguồn: “The Taliban’s terrifying triumph in Afghanistan”, The Economist, 15/8/2021 Biên dịch: Phan Nguyên – BVN1 Trong những năm gần đây, dinh tổng thống ở Kabul, được gọi là Arg, hay tòa thành, đã là một ốc đảo yên bình trong một thành phố nhộn nhịp, căng thẳng. Để đến được nó, du khách phải đi một dặm qua các trạm kiểm soát, được biên chế bởi các đội biệt kích quân đội Afghanistan được trang bị ngày càng tốt. Bên trong tòa nhà được xây từ thế kỷ 19, các quan chức chính phủ Afghanistan nhâm nhi ly latte tại một quán cà phê thông minh, được bao quanh bởi những khu vườn được chăm sóc tốt, và thảo luận về tình hình chính trị bên ngoài, ở một đất nước Afghanistan thực tế. Khi phóng viên chúng tôi đến thăm lần gần đây nhất, các quan chức của Hội đồng An ninh Quốc gia giải thích rằng theo quan điểm của họ, Taliban rất yếu. Theo các quan chức này, lý do duy nhất khiến họ không bị quân đội chính phủ Afghanistan được Mỹ hỗ trợ đánh bại, là vì chính phủ Afghanistan không muốn gây nguy hiểm cho dân thường bằng cách tiến hành các cuộc tấn công. “Họ không thể giành chiến thắng quân sự”, một quan chức nói. “Lực lượng đặc biệt của chúng tôi rất mạnh. Taliban chỉ có thể đánh kiểu du kích”. Vào ngày 15 tháng 8, máy bay trực thăng đã bay qua bay lại dinh tổng thống để sơ tán những vị quan chức đó. Một đám khói bốc lên từ tòa nhà đại sứ quán của Mỹ, vốn trông giống như một pháo đài, khi nhân viên đốt các tài liệu nhạy cảm. Chỉ chưa đầy một tháng kể từ khi Tổng thống Joe Biden tuyên bố “sẽ không có trường hợp nào bạn phải chứng kiến người dân được bốc lên khỏi mái nhà” của tòa đại sứ quán Mỹ, như ở Sài Gòn năm 1975, đã xuất hiện hình ảnh các máy bay trực thăng bay lượn trên khu nhà này, đưa các nhà ngoại giao Mỹ đến sân bay. Trong khi đó, Zabihullah Mujahid, phát ngôn viên của Taliban ở Doha, thủ đô Qatar, nơi lực lượng này có đại diện ngoại giao và chính trị, đã hùng hồn tuyên bố rằng lực lượng Taliban sẽ ngừng tiến quân ngay cửa ngõ thành phố trong khi tiến hành các cuộc đàm phán về việc đầu hàng của chính phủ. Ashraf Ghani, tổng thống Afghanistan từ năm 2014, được cho là đã tháo chạy khỏi đất nước cùng với các phụ tá thân cận nhất của mình. Nhà nước Afghanistan, được xây dựng trong hơn hai thập niên với hàng nghìn tỷ đô la, dường như đã biến mất vào hư không. Làm thế nào mà một chính phủ với 350.000 binh sĩ, được huấn luyện và trang bị bởi những quân đội tốt nhất trên thế giới, lại sụp đổ nhanh chóng như vậy? Năm 1975, quân đội Bắc Việt Nam, được hậu thuẫn bởi một siêu cường, vẫn phải mất nhiều tháng để tiến quân qua miền Nam Việt Nam, chiến đấu khốc liệt để giành lãnh thổ. Taliban, được cho là có quân số không quá 200.000 người, được trang bị phần lớn bằng các thiết bị mà họ thu được từ kẻ thù, đã chiếm tất cả các trung tâm đô thị của Afghanistan trong vòng chưa đầy một tuần, mà nhìn chung hầu như không gặp phải nhiều kháng cự (xem bản đồ). Câu trả lời dường như là các hạn chế về sức mạnh quân sự của họ đã được bù đắp bởi sự mưu trí, quyết tâm, và khôn ngoan chính trị. Trong năm qua, các nhà ngoại giao ở Doha đã hy vọng rằng Taliban có thể bị buộc phải đàm phán với chính phủ của ông Ghani để chấp nhận một loại thỏa thuận chia sẻ quyền lực nào đó. Taliban rõ ràng nhận ra rằng sẽ có lợi hơn cho họ nếu thương lượng với cấp dưới của ông Ghani, qua từng thành phố một, từ đó làm mất vị thế của chính phủ trung ương. Do đó, tại Herat, một thành phố chiến lược gần biên giới Iran, Ismail Khan, vị lãnh chúa đã giành lại thành phố từ tay Taliban vào năm 2001 sau nhiều ngày chiến đấu, đã đầu hàng và được quay phim cảnh đang bị giam giữ, cầu xin “một môi trường hòa bình”. Tại Kandahar, thành phố nằm ở trung tâm kinh tế phía nam Afghanistan và là nơi khởi nguồn của lực lượng Taliban trước đây, xuất hiện hình ảnh vị thống đốc bàn giao chính quyền cho người đồng cấp Taliban của mình. Ở Jalalabad, nằm ở phía đông, Taliban tiến vào mà không phải bắn một phát súng nào, sau khi những người lớn tuổi trong thành phố thương lượng về việc đầu hàng. Mazar-i-Sharif, một thành phố phía bắc từng là pháo đài của quân kháng chiến chống Taliban vào những năm 1990, cũng đầu hàng theo kiểu tương tự. Trong mỗi trường hợp như vậy, phía Taliban đã đưa ra những lời hứa rộng rãi, là sẽ “tha thứ” cho những người từng phục vụ trong chính phủ do Mỹ hậu thuẫn, để đổi lại sự đầu hàng. Tại Kandahar, những cựu binh đầu hàng đã được cấp giấy thông hành mà họ có thể xuất trình tại các trạm kiểm soát của Taliban. Ở đó, suốt đêm thứ Sáu, tiếng súng vang vọng khắp thành phố. Theo người dân, đây chủ yếu là súng bắn chỉ thiên để ăn mừng. Quân đội Afghanistan, với tất cả sức mạnh rõ ràng của mình, dường như đã rơi vào cái gọi là hội chứng Yossarian, đặt theo tên một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết về chiến tranh thế giới thứ hai của Joseph Heller, có tựa đề “Bẫy 22”. Yossarian được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều nghĩ như anh ta, rằng chiến đấu là điều vô nghĩa, và anh ta trả lời rằng anh ta sẽ “là một kẻ ngu ngốc nếu nghĩ theo bất kỳ một cách nào khác”. Tương tự, tờ Washington Post dẫn lời một sĩ quan Afghanistan giải thích lý do tại sao các binh sĩ của anh ta không ngăn chặn Taliban: “Này anh, nếu không có ai khác chiến đấu, thì tại sao tôi phải làm như vậy?”. Tinh thần quân đội Afghanistan bị xuống thấp bởi cuộc khủng hoảng ngân sách của chính phủ, dẫn đến việc nhân viên chính phủ và quân đội không được trả lương trong nhiều tháng. Vậy sự tiếp quản của Taliban có nghĩa là gì? Ở Herat, nơi 60% sinh viên đại học là phụ nữ, họ được cho là đã được yêu cầu trở về nhà. Các nhân viên nữ đã được yêu cầu bàn giao công việc cho những người thân là nam giới. Một chỉ huy Taliban được BBC phỏng vấn đã nói rõ về vấn đề giáo dục trẻ em gái. “Không một bé gái nào đi học trong làng và huyện của chúng tôi… Các trường học như vậy không tồn tại, và chúng tôi cũng sẽ không cho phép điều đó”. Ngay cả triển vọng tốt nhất có thể, theo đó ban lãnh đạo Taliban quyết định thể hiện rằng họ nghiêm túc trong việc cải cách, cũng có vẻ ảm đạm. Một điều rõ ràng là chính phủ Afghanistan mới chỉ đạt được tiến bộ khiêm tốn trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân Afghanistan bình thường, ngay cả ở các thành phố, nơi họ có nhiều quyền kiểm soát hơn so với vùng nông thôn. Tình trạng tham nhũng của nó ngày càng sâu rộng, và chắc chắn đây là một phần lý do khiến Taliban có thể chinh phục đất nước một cách nhanh chóng như vậy. Đoạn phim về những binh sĩ Taliban đi qua những nội thất sang trọng trong ngôi nhà bị chiếm của Abdul Rashid Dostum, một lãnh chúa và cựu phó tổng thống, người được cho là đã trốn sang Uzbekistan, thể hiện sự thối nát của nhà nước này. Tuy nhiên, được hỗ trợ bởi rất nhiều viện trợ, chính phủ đã có thể cung cấp giáo dục cho người dân, và rất ít người Afghanistan bị chết đói. Nay khi các đại sứ quán đóng cửa và người nước ngoài tháo chạy, các khoản viện trợ từng giúp duy trì nền kinh tế và giáo dục trẻ em, bao gồm cả các trẻ em gái, chắc chắn sẽ cạn kiệt. Một thảm họa nhân đạo có thể nhanh chóng xảy ra sau đó. Sự sỉ nhục đối với Mỹ và các đồng minh phương Tây khó có thể nặng nề hơn. Một khi quá trình sơ tán công dân của họ, và một số ít nhân viên người Afghanistan may mắn giành được chỗ, kết thúc, các chính phủ phương Tây sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận rằng Taliban đang nắm quyền. Vào cuối những năm 1990, chính quyền Taliban chỉ được một số quốc gia công nhận, đáng kể nhất là Pakistan và Saudi Arabia. Hồi đó, Liên minh phương Bắc, một tập hợp các nhóm dân quân tập trung ở phía bắc Afghanistan, đã tổ chức chống lại Taliban. Lần này, Taliban đủ thông minh để quyết định chinh phục miền Bắc trước. Hôm nay, các quan chức Taliban đã gặp gỡ các nhà ngoại giao từ một số cường quốc khác. Vào cuối tháng 7, một phái đoàn của Taliban đã gặp ngoại trưởng Trung Quốc. Đại sứ quán Nga đã tuyên bố rằng họ sẽ không sơ tán khỏi Kabul. Liên minh châu Âu đã hứa sẽ “cô lập” chính phủ mới nếu họ nắm quyền thông qua bạo lực, một điều dường như ngày càng khó tin hơn./. Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2021/08/16/dieu-gi-giup-taliban-thang-nhu-che-tre-o-afghanistan/  
......

Bản tin tổng hợp về biến cố Afghanistan

A Phú Hãn thất thủ, Tổng Thống Ghani bỏ trốn, Taliban chiếm dinh tổng thống, TT Biden điều thêm 7.000 quân để bảo vệ cuộc di tản vào giờ phút cuối cùng Thứ Hai 16/08/2021 Sự sụp đổ bất ngờ và nhanh chóng của chính quyền Afghanistan (A Phú Hãn) đã khiến cả thế giới bàng hoàng. Chỉ trong vòng vài ngày, các vùng đất quanh thủ đô Kabul đã lần lượt rơi vào tay Taliban. Đúng 20 năm sau ngày lực lượng này bị quân đội Mỹ đánh đuổi vì đã tiếp tay cho khủng bố Al-Qaeda ẩn náu và thực hiện cuộc tấn công đẫm máu vào Mỹ ngày 11/9/2001, Taliban đã tái chiếm A Phú Hãn một cách dễ dàng trong mấy ngày qua. Trước sự tiến quân thần tốc của lực lượng Taliban - hiện đã chiếm đóng phủ tổng thống A Phú Hãn từ tối ngày hôm qua (15/8), Tổng thống Mohammad Ashraf Ghani Ahmadzai của A Phú Hãn đã đột ngột đào thoát hôm 15/8 dù mới hôm trước còn phủ dụ người dân yên tâm vì các lực lượng an ninh đã được điều phối để bảo vệ thủ đô. Không ai biết ông hiện đang ở đâu, nhưng đã đưa ra một thông báo giải thích lý do tại sao ông không ở lại, là vì muốn tránh cho quốc gia một cuộc đổ máu. Bà đại sứ của A Phú Hãn tại Mỹ cho biết ông bị áp lực phải từ nhiệm của Taliban. Trước đột biến của tình hình, Tổng thống Joe Biden hôm thứ Sáu ra lệnh gởi thêm 3000 quân tới hỗ trợ cho cuộc di tản, hôm sau thứ Bảy (14/8) tăng thành 5.000 quân, Chủ nhật tăng thành 6,000 quân và thứ Hai thành 7000 quân để bảo vệ người Mỹ và những cộng sự viên A Phú Hãn rời Kabul. Hàng ngàn quân Mỹ hiện đã có mặt tại phi trường Kabul nơi hàng ngàn những khuôn mặt lo âu đang dồn về để mong được di tản tới vùng trời bình yên, nhiều người A Phú Hãn đã rủ nhau chạy bộ tới phi trường. Tình trạng hỗn loạn khiến quân đội Mỹ đã phải bắn súng chỉ thiên để vãn hồi trật tự. Đã có tin một số người thiệt mạng tại phi trường. Chính quyền Biden bị chỉ trích mạnh mẽ trước cuộc triệt thoái hoảng loạn Dư luận và truyền thông đã lên tiếng phê bình gắt gao cuộc tháo chạy đáng xấu hổ của một cường quốc. Ngay cả những người ủng hộ ông Biden cũng chê trách và đặt câu hỏi: tại sao chính phủ Mỹ lại có thể để cho tình trạng “nước rút” xảy ra hỗn loạn như vậy, một sự thất bại về tổ chức, tình báo hay quân sự? Tướng Lục quân về hưu David Petraeus hôm 13/8 đã gọi tình hình tại Afghanistan là “bước lùi an ninh quốc gia to lớn”. “Những người đã đưa ra quyết định đó phải chịu trách nhiệm về nó và những hậu quả của nó”, ông Petraeus nói với đài phát thanh WABC về kế hoạch rút lính Mỹ của Tổng thống Biden. Ông nói thêm rằng tình hình tại Afghanistan là “thảm kịch và đáng tiếc”. Cựu Tổng thống George W. Bush cũng đã lên tiếng chỉ trích các chính sách về Afghanistan của chính quyền Biden. “Tôi lo ngại những phụ nữ và bé gái tại Afghanistan sẽ phải chịu tổn hại khôn xiết” sau khi lính Mỹ rời Afghanistan, cựu tổng thống của Đảng Cộng hòa nói vào tháng trước. “Thật không thể tin được xã hội đó sẽ thay đổi ra sao từ sự tàn bạo của Taliban”. Một loạt các cựu quan chức thời Obama hôm thứ Năm 12/8 đã lên tiếng chỉ trích rằng Tổng thống Biden đã quay lưng lại với chính phủ Afghanistan, làm suy yếu vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới và tặng không Afghanistan cho Taliban. Biện hộ Trước làn sóng chỉ trích, TT Biden đã lên tiếng qua một thông báo, đổ lỗi cho cựu Tổng thống Donald Trump đã giúp Taliban mạnh lên. Ông tuyên bố động thái điều quân thêm là cần thiết sau khi ông phải thừa hưởng một tình huống mong manh từ chính quyền trước vì ông Trump đã ký thỏa thuận với Taliban năm 2019, giúp lực lượng này có được vị thế quân sự mạnh mẽ, và làm giảm nhuệ khí chiến đấu của quân đội A Phú Hãn. “Ông ta đã mời Taliban đến Trại David để họp bàn ngay trước đêm tưởng niệm biến cố 11/9, điều đó đã giúp cho Taliban có được vị thế quân sự mạnh mẽ nhất kể từ năm 2001 và ông ta đã đặt ra hạn chót rút lính Mỹ vào ngày 1/5/2021. Ngay trước khi rời nhiệm sở, ông [Trump] cũng đã giảm sự hiện diện của binh lính Mỹ tại Afghanistan xuống con số rất thấp - 2.500 quân”, ông Biden nói trong tuyên bố. “Khi tôi trở thành Tổng thống, tôi đã phải đối mặt với sự lựa chọn: tuân thủ thỏa thuận [với Taliban] hoặc tăng cường sự hiện diện của chúng ta [tại Afghanistan], điều thêm lính Mỹ tới tiếp tục chiến đấu trong một cuộc nội chiến… Tôi là Tổng thống thứ tư chỉ huy đội quân Mỹ tại Afghanistan, gồm 2 tổng thống Đảng Cộng hòa và 2 tổng thống Đảng Dân chủ. Tôi không muốn và sẽ không chuyển tiếp cuộc chiến này cho vị tổng thống thứ năm”. Cựu Tổng thống Trump không im lặng Cựu Tổng thống Trump hôm 13/8 đã phát đi tuyên bố nói rằng “Tôi chắc hẳn sẽ thực hiện rút quân với nhiều khác biệt và thành công hơn, và Taliban đã hiểu điều đó hơn ai hết.” Ông chỉ trích các quyết định của Tổng thống Biden về Afghanistan, cho rằng tổng thống Mỹ đương nhiệm yếu kém và không thể thể hiện được sức mạnh trước các lãnh đạo Taliban. Dân biểu Cộng Hòa Liz Chenny đã lên tiếng cho rằng cả hai ông Trump và Biden đều phải chịu trách nhiệm về cuộc rút lui thất bại này. Cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Afghanistan Ryan Crocker do cựu TT Bush bổ nhiệm đã cáo buộc ông Trump tạo ra tình cảnh hiện nay Trong cuộc phỏng vấn hôm thứ Năm 12/8 trên CNN, ông Crocker đã đổ lỗi cho cựu Tổng thống Trump giúp gia tăng sức mạnh của Taliban, đồng thời làm yếu đi chính phủ của TT Ghani. Ông Trump đã lên kế hoạch gặp các nhà lãnh đạo Taliban và tổng thống A Phú Hãn tại Trại David vào năm 2019, ngay trước thềm tưởng niệm biến cố 9/11. Bị chống đối mạnh, ông Trump đã hủy cuộc họp ở Camp David, sau đó cho người đại diện Mỹ gặp Taliban ở Qatar vào tháng 2/2020 để ký thỏa thuận. Cuộc họp không những không có đại diện từ chính phủ Afghanistan, mà còn buộc chính phủ Ghani phải có một số nhượng bộ nhất định đối với Taliban. Ông Crocker tin rằng chính thỏa thuận này đã đẻ ra tình hình hiện nay. "Theo quan điểm của tôi, chúng ta chịu trách nhiệm lớn về việc này. Bắt đầu dưới thời Tổng thống Trump khi ông cho phép các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Taliban mà không có chính phủ Afghanistan trong phòng họp. Đó là một đòi hỏi quan trọng của Taliban. Chúng ta đã tham gia đồng thuận, và đó là một yếu tố làm mất tinh thần rất lớn đối với chính phủ Afghanistan và lực lượng an ninh của họ", ông Crocker nói. "Chúng ta đã áp lực chính phủ A Phú Hãn phải thả 5.000 tù nhân Taliban. Cuối cùng họ đã làm điều đó, và chứng kiến bọn người này quay về chống lại những người đã thả họ ra. Đây là một năm rưỡi của sự mất tinh thần." Trong một phát biểu về A Phú Hãn vào năm ngoái, ông Trump cho rằng Taliban chỉ còn chưa tới 200 quân. Việc thả 5000 tù nhân theo yêu cầu của Taliban là một hành động dựng lại sức mạnh cho lực lượng này. Cựu Đại sứ Crocker tin rằng Việc Mỹ rút quân khỏi A Phú Hãn theo thỏa thuận năm 2020 với Taliban, có nghĩa là chấm dứt các lực lượng Afghanistan. "Bây giờ sự rút lui đột ngột này từ phía chúng ta, càng củng cố thỏa thuận với Taliban.” Ông Crocker kết luận: “Giống như bất kỳ một sự việc phức tạp nào, có một số lý do cho sự sụp đổ của các lực lượng Afghanistan, nhưng chúng ta không thể bỏ qua rằng chúng ta đóng vai trò chính trong việc xóa đi quyền lực chính thống của chính phủ và quân đội của họ". Khi Taliban tiếp tục chiếm được các thành phố lớn với dường như ít hoặc không có sự kháng cự nào, ông Crocker nhắc lại rằng thất bại có thể truy nguồn từ thỏa thuận hòa bình với Taliban. "Tất nhiên, chúng ta là nguồn chống lưng lớn của chính phủ A Phú Hãn và lực lượng an ninh. Biểu tượng rất đáng kể, và hình ảnh rút quân hoàn toàn của quân đội Mỹ tác hại vô cùng", ông Crocker nói. "Chuyện này không xảy ra qua đêm. Quá trình mất tinh thần này, bắt đầu ngay ngày đầu tiên chúng ta ngồi xuống với Taliban và loại trừ chính phủ Afghanistan". Trong một cuộc phỏng vấn của CNN ngày 15/8, bà Adela Raz , đại sứ của chính quyền Ghani tại Mỹ, đã chia sẻ nhận định tương tự về cuộc sụp đổ tưởng như quá bất ngờ và nhanh chóng của chính quyền A Phú Hãn, nhưng thực chất là từ khi Mỹ bỏ rơi họ với cuộc thương lượng và ký kết thỏa thuận với Taliban đã khiến chính phủ và quân đội A Phú Hãn mất tinh thần. Bà cũng trách cứ ông Biden đã rút quân quá nhanh mà không có một biện pháp hỗ trợ cho một cuộc chuyển giao hòa bình có điều kiện, bắt Taliban cam kết không tạo ra đổ máu, không giết hại phụ nữ và con trẻ. Cuộc chiến dài nhất của Mỹ sau 20 năm, với hơn 2 ngàn tỷ Mỹ kim, 2.448 quân nhân và 3.846 cộng sự viên thiệt mạng đã kết thúc trong thảm bại và hỗn loạn, khiến hình ảnh vốn đã xấu đi của Mỹ trên trường quốc tế càng trở nên tồi tệ và ảnh hưởng không ít tới niềm tin của thế giới vào đồng minh Hoa Kỳ./. TDC  
......

Việt Nam Cộng Hòa hôm qua, Afghanistan hôm nay

songchi's blog   Trước đây chỉ một vài tuần thôi, một số nhà bình luận chính trị quốc tế dự đoán rằng Taliban có thể sẽ chiếm được thủ đô Kabul của Afghanistan trong vòng 6 tháng đến 1 năm, bây giờ khi Taliban đã chiếm thêm được một số vùng lãnh thổ, trong đó có Kandahar và Herat, thành phố lớn thứ hai và thứ ba của Afghanistan và đã kiểm soát hơn hai phần ba đất nước, thì một số người dự đoán thời hạn đó có thể chỉ còn 90 ngày, rồi 30 ngày, và cuối cùng là không biết liệu thủ đô Kabul có còn an toàn cho tới ngày 31.8 hay không! Đứng ở góc độ người Mỹ, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được quyết định rút quân khỏi Afghanistan của chính phủ Mỹ, nhất là khi cuộc chiến này đã kéo dài tới 20 năm, dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Dù Tổng thống Mỹ nào lên nắm quyền, thuộc đảng Dân chủ hay Cộng hòa, cũng sẽ phải làm như vậy, trước sức ép của dư luận và công chúng Mỹ. Nhưng có những quyết định của nước Mỹ mà phải nhiều năm sau mới thấy thực ra là đúng hay sai, mới thấy hết được hậu quả của nó. Việc Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trước đây cũng vậy. Lịch sử không có chữ “nếu” nhưng rõ ràng nếu VNCH vẫn còn và quân đội Mỹ vẫn còn ở Nam Việt Nam thì Trường Sa, Hoàng Sa đã không mất, và Trung Cộng vốn không có một mảnh đất cắm dùi trên Biển Đông, đã không thể có được chỗ đứng để từ đó mở rộng lãnh hải trên Biển Đông và hoành hành như bây giờ. Không có biển, sức mạnh của Trung Cộng giảm rất nhiều, ai cũng biết như vậy. Khi Mỹ tấn công Afghanistan, Al-Qaeda đã mất hầu hết các trại huấn luyện, các căn cứ hoạt động, kể cả Bộ Tư lệnh của họ tại đây. Hàng nghìn tay súng và nhiều thủ lĩnh Al-Qaeda đã bị tiêu diệt hoặc bắt giam. Hoạt động của Al-Qaeda và các tổ chức khủng bố Hồi giáo cực đoan đã giảm hẳn trong những năm gần đây. Bây giờ, khi Mỹ quyết định rút khỏi Afghanistan, và nếu Taliban chiếm được Afghanistan, thì Al-Qaeda lại có được căn cứ để hoạt động mạnh trở lại và biết đâu chỉ 5 năm nữa thôi, Mỹ lại đau đầu với những vụ khủng bố ngay trên đất Mỹ! Hiện tại Taliban hứa hẹn rằng sẽ không để cho bất cứ một tổ chức khủng bố Hồi giáo cực đoan nào sử dụng đất nước Afghanistan để từ đó tấn công Mỹ và các nước phương Tây, rằng mục tiêu của họ chỉ là xây dựng một quốc gia Hồi giáo trên đất nước Afghanistan. Nhưng, tin lời Taliban thì có khác gì tin lời mấy ông Việt Cộng ngày xưa khi họ hứa hẹn nếu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam thì hòa bình sẽ được thiết lập ở VN, VNCH và VNDCCH mạnh bên nào lo xây dựng quốc gia đó? Tất nhiên, nhiều người sẽ bảo không lẽ Mỹ cứ phải đổ tiền đổ của cho Nam Việt Nam hay Afghanistan mãi? Số phận của nước nào thì người dân nước đó phải tự lo. Nhưng trong thế giới toàn cầu, không có một quyết định nào ở khu vực này mà không ảnh hưởng liên đới đến những khu vực khác, một quyết định ở một quốc gia xa xôi như Nam Việt Nam hay Afghanistan nhiều năm sau lại quay ngược trở lại đe dọa đến sự bình yên của chính nước Mỹ và các nước dân chủ phương Tây, như chúng ta đã, đang và sẽ thấy. Những ngày này, trong khi người dân Afghanistan hoảng loạn, trong khi quân Taliban trên những chiếc xe cam-nhông, thậm chí trên xe máy, vác những khẩu súng to đùng trên vai, tiến chiếm các thành phố như vào chỗ không người, thì người Mỹ cùng với Nga, Trung Quốc, Pakistan và các nước, các tổ chức quốc tế đã bắt đầu đàm phán với đại diện của Taliban và chính phủ Afghanistan tại Doha, Qatar. Nhưng liệu có đạt được bất cứ thỏa thuận hòa bình nào khi Taliban cho rằng họ đang chiến thắng và sẽ đòi hỏi nhiều hơn, còn ưu tiên số một của người Mỹ là bảo đảm những công dân Mỹ được rút khỏi Afghanistan an toàn. Còn nguyện vọng của người dân Afghanistan có ai đếm xỉa đến? Không khác gì VNCH trước kia, với Hiệp định Paris… Những người Việt từ miền Nam nhìn tình cảnh Afghanistan và người dân Afghanistan bây giờ với cái nhìn ngậm ngùi thấu hiểu và nhớ lại những ngày cuối cùng của cuộc chiến VN 46 năm trước… Tuy nhiên, theo cảm nhận của người viết bài này, vẫn có những cái khác giữa tình huống của VNCH khi đó và Afghanistan bây giờ: 1. Cuộc chiến ở Afghanistan là một cuộc nội chiến giữa Taliban, một lực lượng chính trị-tôn giáo với chính phủ do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Còn VNCH và VNDCCH là 2 quốc gia riêng biệt, và khi quân đội Bắc Việt tiến chiếm miền Nam có nghĩa là một quốc gia xâm lược một quốc gia có chủ quyền, được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận. 2. Mỹ đã ở Afghanistan 20 năm, dài hơn gấp đôi thời gian ở Nam VN và khi rút lui, Mỹ tuyên bố vẫn tiếp tục viện trợ vũ khí quân sự, tài chính cho chính phủ Afghanistan chứ không phải như với VNCH. 3. VNCH đã cố gắng chiến đấu tới 2 năm sau khi quân Mỹ rút mới thất thủ, trong tình trạng nguồn viện trợ bị cắt giảm thê thảm năm 1974 rồi đầu năm 1975, cuối cùng phải "gãy súng" vì không còn đủ đạn dược, xăng dầu...trong khi quân đội Bắc Việt vẫn được trang bị và hậu thuẫn không giới hạn từ Liên Xô, Trung Cộng. Ngược lại ở Afghanistan, quân đội Mỹ và NATO mới rút đi chưa bao lâu mà chính phủ Afghanistan đã sắp thua đến nơi rồi. Liệu họ có giữ được cho tới ngày 31.8? Nhưng dù có những điểm khác nhau, vẫn có những điểm chung lớn nhất: 1. Số phận của những quốc gia nhược tiểu luôn luôn là những con chốt thí trên bàn cờ chính trị của các nước lớn. 2. Mỹ bao giờ cũng chỉ vì quyền lợi của nước Mỹ, và với Mỹ không có đồng minh mãi mãi cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Điều mà ai cũng biết. 3. Số phận của người dân Afghanistan không biết có tệ hại hơn người dân miền Nam VN sau ngày 30.4.1975 theo nhiều nghĩa hay không, nhưng cả hai dân tộc chắc chắn sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn nếu không phải chịu thảm họa Taliban hay cộng sản. Điều cuối cùng chốt lại, mỗi dân tộc phải tự chiến đấu cho tương lai, cho số phận của chính mình. Không ai khác có thể làm thay điều đó. Liệu bài học này có được người Việt Nam hôm nay ghi nhớ? Song Chi  
......

Afghanistan đang bị "giải phóng" bởi Taliban

Timothy Trinh    Sau hai mươi năm Taliban bị quét sạch khỏi quyền lực, sự trở lại của chế độ tà ác của nó giờ đây dường như là điều không thể tránh khỏi, và cái gọi là chiến thắng của quân khủng bố Taliban sẽ phá hủy tất cả những điều tốt đẹp đã được xây dựng ở Afghanistan.   Vào hôm thứ Sáu (13.8.2021), Taliban đã chiếm các thủ phủ của 4 tỉnh lớn tại Afghanistan, thêm vào danh sách các thành phố lớn thứ hai Kandahar và thứ ba Herat đã bị sụp đổ một ngày trước đó.   Cho đến hôm nay, với sự ủng hộ mới nhất từ phía Trung Quốc, quân Taliban và 9 nhóm khủng bố đã đồng loạt tấn công và kiểm soát hơn hai phần ba đất nước Afghanistan, và chẳng bao lâu nữa, họ sẽ bao vây thủ đô Kabul.   Chiến thắng của Taliban sẽ đồng nghĩa với việc thanh lọc sắc tộc và tôn giáo, sự chấm dứt giáo dục đối với phụ nữ, tử hình đối với người đồng tính luyến ái, và nhiều sự phẫn nộ sẽ trút xuống đầu người dân của Afghanistan.   Trên thực tế, những vi phạm nhân quyền đã bắt đầu ở các tỉnh thành vừa bị Taliban chiếm đóng. Những người lính Afghanistan bị bắt đang bị Taliban hành quyết, thường dân bị tấn công và nhiều phụ nữ, ngay cả các bé gái 12 tuổi, đã bị ép kết hôn với các chiến binh Hồi giáo.   Dưới sự cai trị của Taliban, phụ nữ và trẻ em gái sẽ bị từ chối bởi hệ thống giáo dục, và những cá nhân hoặc cơ sở có ý tưởng hoặc thực hiện các chương trình giáo dục dành cho phụ nữ sẽ bị trừng phạt.   Quân khủng bố Taliban và Nhà nước Hồi giáo đã từng đặt bom gần trường trung học Sayed Ul-Shuhada ở thủ đô Kabul vào ngày 8 tháng 5, giết chết ít nhất 90 người và hơn 240 người khác bị thương.   Biết rõ Sayed Ul-Shuhada tổ chức các lớp học cho nam sinh vào buổi sáng và cho nữ sinh vào buổi chiều, quân khủng bố Taliban đã kích nổ quả bom gài trong xe ô tô và hai thiết bị nổ ngẫu hứng vào khoảng 4 giờ chiều, nhằm gây thương vong tối đa cho các nữ sinh vừa ra khỏi cổng trường và trên đường về nhà.   Đó là bằng chứng một sự khủng bố gây ra bởi Taliban, những kẻ chà đạp lên mọi quyền cơ bản kể cả quyền đi học của phụ nữ.   Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ Afghan đều khiếp sợ và phục tùng dưới áp lực dã man của Taliban.   Salima Mazari, một nữ thống đốc quận ở Afghanistan do nam giới thống trị, được báo The Guardian ca ngợi là người "đang tuyển dụng nam giới để chống lại Taliban".   "Taliban là những kẻ chà đạp nhân quyền", cô Mazari nói trong một video của hãng thông tấn AFP. "Phụ nữ sẽ bị cấm tham gia các cơ hội giáo dục."   Mazari sinh ra ở Iran vào năm 1980, sau khi gia đình cha mẹ của cô chạy trốn khỏi cuộc chiến tranh của Liên Xô ở Afghanistan. Sau khi tốt nghiệp đại học ở Tehran, cô đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau tại các trường đại học và Tổ chức Di cư Quốc tế, trước khi quyết định trở về lại đất nước mà cha mẹ cô đã rời bỏ nhiều thập kỷ trước.   “Điều đau khổ nhất khi trở thành người tị nạn là thiếu cảm giác về đất nước của mình”, cô nói. Salima Mazari, một nữ thống đốc quận ở Afghanistan   Mazari cũng là một thành viên của cộng đồng Hazara - hầu hết là người Hồi giáo dòng Shia, những người mà Taliban dòng Sunni coi là một giáo phái dị giáo. Nếu Taliban lên cầm quyền, thì cộng đồng Hồi giáo dòng Shia của cô sẽ bị thanh lọc.   Cô đã từng chấp nhận mọi giá cho sự lựa chọn trở về làm việc trên đất nước của mình, và bây giờ cô không có sự lựa chọn bỏ cuộc.   Một phụ nữ khác ở Afghanistan được thế giới biết đến, là một trong 8 người được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trao Giải thưởng Phụ nữ Dũng cảm Quốc tế vào năm 2009.   Wazhma Frogh, một nhà hoạt động nhân quyền phụ nữ, đã đăng lên Twitter sáng hôm nay kêu gọi người Mỹ, Anh, châu Âu, và bất kỳ quốc gia nào trong số 40 quốc gia liên quan đến Afghanistan trong 20 năm qua, hãy nghĩ đến những thành quả đạt được.   "Lần đầu tiên hàng triệu trẻ em nữ sinh ở Afghanistan đã được đi học, hàng nghìn phụ nữ trẻ được vào trường đại học, hàng nghìn nữ bác sĩ và y tá", bà Frogh viết.   "Lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy thùng phiếu, chúng tôi thấy các chiến dịch bầu cử, chúng tôi thấy phụ nữ trong quốc hội - tất nhiên là còn nhiều thiếu sót. Nhưng nền tảng cho một nền dân chủ mới bắt đầu hình thành. Thanh niên ủng hộ các chương trình nghị sự của họ, đặt câu hỏi với chính phủ và gây áp lực cho sự thay đổi."     "Vì vậy, đừng hỏi liệu nó có xứng đáng hay không - hãy hỏi làm thế nào chúng ta có thể duy trì nó?"   "Làm thế nào để chúng ta hỗ trợ một quá trình mà những thay đổi này trong xã hội Afghanistan có thể được duy trì và chúng ta không quay trở lại thời kỳ những năm 90 vì điều đó sẽ nhấn chìm tất cả chúng ta với nhau", bà Frogh kêu gọi./.   Người Đà Lạt Xưa  
......

Pages