AUKUS và QUAD trong chiến lược Indo-Pacific

Nguyễn Quang Dy  QUAD (“Bộ Tứ” gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc) ra đời từ năm 2007 và hồi sinh vào cuối năm 2017 (thời Donald Trump). Còn AUKUS (“Bộ Tam” gồm Úc, Anh, Mỹ) vừa mới đầy tháng. Ngày 15/9/2021, nguyên thủ ba nước đã họp trực tuyến và tuyên bố thành lập liên minh AUKUS. Sự kiện này diễn ra chỉ mấy ngày sau khi Tổng thống Joe Biden điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình (10/9) và không lâu sau chuyến thăm Singapore và Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin (28/7) và Phó tổng thống Kamala Harris (24/8).    Ngay sau khi AUKUS vừa ra đời, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Úc Scott Morrison, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, và Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga đã họp trực tiếp tại Nhà Trắng (24/9/2021) để “nâng cấp Bộ Tứ”, với những sáng kiến đầy tham vọng. Có thể nói AUKUS và QUAD là “cặp bài trùng” trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific. Trong bài phân tích này, tôi sẽ lý giải để làm rõ thêm các vấn đề vừa nói trên. QUAD ("Bộ Tứ") gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc ra đời từ năm 2007 và hồi sinh vào cuối năm 2017 Phản ứng với AUKUS   Quyết định thành lập AUKUS khá đột ngột như một đợt sóng bất ngờ ập đến làm cho dự luận phản ứng khác nhau. Tuy Pháp là một đồng minh phương Tây, nhưng phản ứng rất mạnh như con gà trống Gô-Loa bị tổn thương nặng, đã triệu hồi đại sứ tại Mỹ và Úc. Trong khi đó, Trung Quốc là đối tượng chính tuy có lý do để phản ứng mạnh hơn, nhưng đã phản ứng khá ôn hòa, có thể vì Trung Quốc cần thỏa hiệp với Mỹ về vụ thả Mạnh Vãn Chu. (AUKUS: Why Beijing didn’t go ballistic, Jia Deng, Lowy Interpreter, October 14, 2021). Tuy trước mắt, Pháp phản ứng mạnh là dễ hiểu, không chỉ vì thiệt hại về kinh tế do mất một hợp đồng lớn mấy chục tỷ USD, mà còn vì thể diện chính trị trước tranh cử sắp tới. Nhưng về lâu dài, Pháp không thể quay lưng với các nước đồng minh phương Tây chủ chốt (như Mỹ, Anh, Úc), vì hợp tác ở Nam Thái Bình Dương. Tuy Pháp gọi AUKUS là “nhát dao đâm sau lưng”, nhưng họ cũng cần tự trách mình đã chủ quan làm mất hợp đồng. Trong khi đó, Trung Quốc đã không phản ứng mạnh vì những lý do nhất thời, nhưng về lâu dài, AUKUS là một cục xương khó nuốt, làm Bắc Kinh đau đầu. Có lẽ vì vậy mà Trung Quốc đã thông báo xin gia nhập CPTPP (ngày 16/9) như một nước cờ để làm Mỹ khó xử và “tiến thoái lưỡng nan”. Như phản ứng dây chuyền, Đài Loan cũng đã quyết định xin gia nhập CPTPP (ngày 22/9), làm cho Bắc Kinh tức giận, phải lên tiếng phản đối. AUKUS sẽ là một cơn ác mộng đối với Trung Quốc, vì đây có thể là tiền thân của một “NATO châu Á” mà Bắc Kinh vốn lo ngại lâu nay. Trong khi Mỹ muốn mở rộng nhóm “Ngũ Nhãn” (Five Eyes), gồm Mỹ, Anh, Úc, Canada, Tân Tây Lan, để kết nạp thêm Nhật và Hàn Quốc, thì NATO tăng cường quan hệ với bốn đối tác trong khu vực Indo-Pacific là Nhật, Hàn Quốc, Úc và Tân Tây Lan. Trong khi AUKUS cụ thể hóa chuyển trục chiến lược của Mỹ tới Indo-Pacific, thì nó giúp Anh khẳng định tầm nhìn “Global Britain”. AUKUS nằm trong chiến lược đối phó với Trung Quốc tại Indo-Pacific, không chỉ gồm ba nước Úc, Anh, Mỹ, mà còn gồm nhiều nước khác. Vì vậy, Trung Quốc chính là đối tượng mà QUAD và AUKUS nhắm tới. QUAD và AUKUS không chỉ đơn thuần là một liên minh về an ninh mà còn gồm các lĩnh vực khác như công nghệ kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo và tin học lượng tử. Năm 2015, Bang Bắc Úc đã cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc thuê cảng Darwin 99 năm, nhưng đã đến lúc Canberra cần chấm dứt hợp đồng này.  Phản ứng của ASEAN đối với AUKUS cũng khác nhau. Trong khi một số nước ủng hộ (như Singapore, Philippines) và một số nước phản đối (như Malaysia, Indonesia) vì lo ngại chạy đua vũ trang trong khu vực sẽ tăng lên, thì Việt Nam bên ngoài tỏ ra rất thận trọng, nhưng bên trong ngầm ủng hộ. Đợt sóng ngầm do AUKUS gây ra làm dư luận ồn ào với các cung bậc cảm xúc khác nhau, đang lắng xuống như “phần nổi của tảng băng chìm”.   Theo báo chí Nhật, viêc AUKUS ra đời đã làm thay đổi cuộc chơi, và là một tín hiệu mạnh về răn đe đối với Trung Quốc. Với AUKUS, vị thế chiến lược của Úc sẽ tăng lên, tạo điều kiện cho Canberra đóng một vai trò tích cực hơn để duy trì cân bằng quyền lực có lợi tại Indo- Pacific. (AUKUS shows beginnings of U.S. Indo-Pacific strategy, Susannah Patton, Ashley Townshend and Tom Corben, Nikkei Asia Review, October 1, 2021). Phản ứng của dư luận Úc tuy đa dạng, nhưng ngày càng tích cực hơn. AUKUS là một bước ngoặt lớn để định vị chiến lược lâu dài, nhưng điều đó không có nghĩa là Úc theo đuổi ngoại giao nước lớn mà coi nhẹ ngoại giao với các nước trong khu vực như ASEAN. Ngược lại, vai trò của Úc như một quốc gia bậc trung thực dụng, độc lập và tích cực ở khu vực Indo-Pacific sẽ tiếp tục và tăng cường trong thập kỷ tới. (The future of Australia's middle-power diplomacy after AUKUS, Thomas Parks, Asia Link Insight, October 7, 2021). AUKUS sẽ đi vào lịch sử, biến Úc thành quốc gia thứ 7 trên thế giới tham gia “câu lạc bộ tàu ngầm hạt nhân” (gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ). Nó đe dọa làm thay đổi bàn cờ chiến lược tại khu vực Indo-Pacific, gia tăng nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân, thúc đẩy Nhật Bản và Hàn Quốc theo đuổi trò chơi tốn kém này. Nói cách khác, AUKUS đã biến điều không thể thành có thể, “làm thay đổi cuộc chơi” (game changer).    Lợi ích quốc gia Úc Theo giáo sư Alexander Vuving (APCSS), trước mắt tuy AUKUS gây tranh cãi, nhưng về lâu dài nó đặt Úc “vào đúng vị trí lịch sử” (on the right side of history). Tranh chấp nước lớn Mỹ-Trung về cơ bản là cuộc đấu tranh giữa trật tự quốc tế dựa trên luật pháp (ruled-based) và trật tự quốc tế dựa trên thứ bậc (hierarchy-based). Là thành viên của QUAD & AUKUS, Úc có quyền lựa chọn chỗ đứng cho mình trong cuộc đấu tranh của thế kỷ này. AUKUS trước mắt có thể làm tổn thương quan hệ của Úc với một số đối tác ở Châu Âu (làm Pháp bất bình) và ở Đông Nam Á (làm Indonesia và Malaysia lo ngại), nhưng về lâu dài, có nhiều lý do để tin rằng AUKUS là sự lựa chọn đúng của Úc, vì lợi ích quốc gia của mình, để bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên pháp luật. (AUKUS Is a Short-Term Mess but a Long-Term Win for Australia, Alexander Vuving, Foreign Policy, October 11, 2021). Pháp có lý do bức xúc vì mất một hợp đồng lớn trị giá mấy chục tỷ USD, nhưng lên án AUKUS là “nhát dao đâm sau lưng” không thỏa đáng. AUKUS chủ yếu liên quan đến Trung Quốc chứ không phải Pháp, tuy đáng tiếc là nó đụng đến sự nhạy cảm của Pháp. Úc đã phí mười năm theo đuổi hợp đồng tàu ngầm với Pháp, vì ngay từ đầu có lẽ Úc đã chọn nhầm phương án. Hợp đồng đã bị chậm, mắc nhiều lỗi, phải thiết kế lại nhiều lần tốn kém. (AUKUS Is Good for Australia, Simon Cowan, American Conservative, September 24, 2021). Trị giá hợp đồng tàu ngầm với Pháp là 40 tỷ AUD (năm 2012), sẽ bị đội vốn lên 100 tỷ AUD khi chiếc tàu đầu tiên sẽ được hoàn thành năm 2040 (chậm10 năm). Vì vậy, AUKUS là quyết định đúng của Úc cho chiến lược “phòng thủ từ xa” (forward defense). Tàu ngầm của Úc phải vượt hơn 4,000 dặm để đến Biển Đông, ngoài tầm hoạt động của tàu ngầm chạy bằng diesel, vì sau đó tàu ngầm chạy bằng diesel phải mất hàng tuần để trở về Úc. Vì vậy, Úc cần hạm đội tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân với công suất lớn hơn, vì lợi ích quốc gia, phù hợp với lợi ích của đồng minh. Theo AUKUS, Mỹ và Anh sẽ giúp Úc có một hạm đội tàu ngầm (dự kiến 8 chiếc) chạy bằng năng lượng hạt nhân, để thay thế kế hoạch hợp tác với Pháp lập một đội tàu ngầm (gồm 12 chiếc) chạy bằng diesel và điện. Lâu nay, Úc không thấy cần phải chọn phe trong tranh chấp Mỹ-Trung, nhưng gần đây Úc bị Trung Quốc bắt nạt, buộc Canberra phải có lập trường cứng rắn hơn với Trung Quốc. Từ năm 2020, Trung Quốc đã trả đũa Úc vì kêu gọi điều tra nguồn gốc virus Corona bằng cách cấm nhập hàng hóa Úc, trị giá 20 tỷ USD. Trung Quốc sử dụng các biện pháp kinh tế, thương mại, và ngoại giao để trừng phạt Úc, nhưng chỉ làm cho Úc cứng rắn hơn và “thoát Trung”. Sau gần một năm tranh chấp, không chỉ Úc bị thiệt hại về kinh tế, mà Trung Quốc cũng bị “gậy ông đập lưng ông”. Nay Trung Quốc đang liên minh với Nga, Iran, và Pakistan để hình thành “Bộ Tứ” của Trung Quốc, nhằm đối phó với “Bộ Tứ” của Mỹ. Trong 18 tháng qua, hợp đồng tàu ngầm với Naval Group của Pháp đã gặp nhiều trở ngại, vì đội vốn và kéo dài tiến độ. Tháng 6/2021, Úc đã dự kiến “Kế hoạch B” nếu “Kế hoạch A” thất bại. Theo các nguồn tin thì Mỹ và Anh phải hành động gấp vì lý do “an ninh quốc gia”. Đây là lần đầu tiên sau 70 năm, Mỹ chuyển giao công nghệ tàu ngầm hạt nhân cho Úc, tạo tiền lệ cho Nhật Bản và Hàn Quốc. AUKUS là một thông điệp mà Mỹ, Anh, Úc muốn gửi đến Trung Quốc rằng liên minh AUKUS đã hình thành, và cuộc chơi mới bắt đầu. AUKUS rất quan trọng đối với Úc, không chỉ về địa chiến lược, mà còn vì đặc thù về văn hóa và lịch sử. Thứ nhất, ý thức hệ của ba nước này giống nhau. Thứ hai, Anh đã từng là “mẫu quốc” bảo hộ Úc cho đến khi Mỹ thay thế, nay sẵn sàng “trở lại tương lai” để cùng với Mỹ bảo đảm an ninh cho Úc. Thứ ba, cả ba nước này đều coi Trung Quốc là mối đe dọa đối với khu vực và thế giới. Sự hợp tác giữa ba nước này về tàu ngầm hạt nhân, chuyển giao công nghệ cao và các nhu cầu an ninh quốc phòng khác, sẽ làm thay đổi cuộc chơi.  Các đồng minh khả tín thường có chung văn hóa chính trị như một ưu thế so với các đối thủ. Sức mạnh của liên minh QUAD và AUKUS sẽ tạo ra thế cờ vây áp đảo đối phương (Trung Quốc, Nga, Iran, Pakistan). Nó có thể làm thay đổi sâu sắc chính sách ngoại giao và quốc phòng của Úc, không chỉ đối với Trung Quốc mà còn với khu vực và thế giới. Tham gia AUKUS, Úc chỉ có con đường tiến, mà không còn đường lùi. (How China Exports Authoritarianism, Charles Edel & David Shullman, Foreign Affairs, September 16, 2021). Đằng sau QUAD và AUKUS Tiếp theo cuộc họp cấp cao (trực tuyến) đầu tiên của QUAD (12/3/2021) ra thông cáo chung về hai chủ đề chính là đối phó với đại dịch và biến đổi khí hậu, là cuộc họp cấp cao (trực tiếp) của QUAD (24/9/2021). Cuộc họp này đề xuất các sáng kiến quan trọng về y tế (tài trợ sản xuất và phân phối vaccine qua “Nhóm Chuyên gia Vaccine” và “Nỗ lực An toàn Y tế”); về hạ tầng (khởi động “Nhóm Phối hợp Hạ tầng” để xây dựng “Hạ tầng Chất lượng cao”); về biến đổi khí hậu (lập “Mạng lưới Tàu biển xanh” và “Đối tác Năng lượng sạch”).    AUKUS mang dấu ấn của Kurt Campbell (kiến trúc sư “Pivot”, và “Indo-Pacific Coordinator” tại NSC); Ely Ratner (nguyên cố vấn cho Biden, là trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, trưởng nhóm đặc nhiệm về chiến lược mới); Rush Doshi (tác giả “The Long Game”, là Giám đốc Trung Quốc tại NSC); Mira Rapp-Hooper, nguyên cố vấn về Trung Quốc tại Vụ Hoạch định Chính sách Bộ Ngoại giao, làm việc tại NSC. (China whisperers: The US advisers shaping the world’s great rivalry, Emily Tamkin, New Statesman, September 17, 2021). Đây là một nhóm cựu quan chức và học giả về Châu Á tham gia “Team Biden”, chủ trương đối phó với Trung Quốc như “thách thức lớn nhất” đối với Mỹ. Họ đều là học giả tại các trường đại học danh tiếng (Ivy League), cùng tham gia think tank (như CNAS), từng phục vụ trong các chính quyền trước (Clinton và Obama). Họ đều nhận thấy Trung Quốc không giống như người ta among đợi là “trỗi dậy hòa bình”, thông qua tham dự có thể hòa nhập vào trật tự thế giới do Mỹ dẫn đầu, mà Trung Quốc ngày càng quyết đoán và độc tài.   Nếu AUKUS chứng tỏ chủ trương “xoay trục” của Mỹ cuối cùng đang diễn ra, thì vẫn còn thiếu “yếu tố kinh tế” (an economic component) như Kurt Campbell đã từng nhấn mạnh. Tuy QUAD và AUKUS có thể đóng góp rất nhiều, nhưng không thay thế được sự can dự thực tế của Mỹ ở khu vực. Tuy Anthony Blinken đã hứa với lãnh đạo ASEAN (cuối tháng 9/2021) là Mỹ sẽ có chiến lược toàn diện cho Đông Nam Á, nhưng vẫn chưa thấy. (Americas doughnut-shaped Indo-Pacific strategy, Henry Storey, Diplomat, October 18, 2021). Có nhiều lý do để Mỹ tham gia CPTPP, và Trung Quốc là nguyên nhân chính. Nay Trung Quốc đã xin vào CPTPP, nên Mỹ tham gia CPTPP không chỉ vì lợi ích kinh tế mà còn vì vai trò của Mỹ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Joe Biden tuyên bố đối phó với Trung Quốc là một trong các ưu tiên trong chính sách đối ngoại, nên Mỹ cần một chính sách thương mại mạnh với khu vực, nhưng vào CPTPP vẫn còn nhiều lực cản. (America Must Return to the Trans Pacific Partnership, Wendy Cutler, New York Times, September 10, 2021).  Theo các chuyên gia chiến lược, hiện nay QUAD và AUKUS vẫn còn thiếu các “điều kiện thiết yếu” (critical ingredients) so với thời chiến tranh lạnh, nên chưa đủ mạnh để ngăn chặn các tham vọng của Trung Quốc. AUKUS mới chỉ là những tuyên bố về ý định trong khi nội hàm chính của AUKUS là Úc sẽ mua 8 tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân, nhưng đàm phán cụ thể về giá cả và tiến độ vẫn chưa rõ. (The Gaps in the New Regional Security Architecture for the Indo-Pacific, Hanns Maull, Diplomat, October 16, 2021). Thành viên của AUKUS còn bất cập, do thiếu các đối tác quan trọng khác như Canada, New Zealand (nhóm “Five Eyes”) hay Viêt Nam và Indonesia (ASEAN). Anh tham gia AUKUS chủ yếu do ý chí chủ quan (wishful thinking) và tượng trưng (symbolism), chứ chưa phải là cố gắng nghiêm túc (serious effort). Khẩu hiệu “Nước Anh toàn cầu” (Global Britain) về cơ bản phản ánh ý định của Thủ tướng Boris Johnson muốn đánh lạc hướng dư luận (escapism) vì động cơ chính trị, chứ chưa chắc là chính sách an ninh khu vực của Anh. AUKUS và QUAD dù có được “nhất thể hóa” (integrated) thì cả hai thực thể này còn thiếu khuôn khổ cần thiết để xây dựng cơ chế an ninh khu vực Indo-Pacific đủ mạnh nhằm ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy. Trong khi Pháp (một cường quốc Indo-Pacific) bị gạt ra ngoài, thì Ấn Độ (không liên kết) vẫn chưa sẵn sàng tham gia một liên minh quân sự với Mỹ. Nói cách khác, cấu trúc an ninh khu vực Indo-Pacific cần được làm sâu sắc hơn. Vì vậy, câu chuyện QUAD và AUKUS chỉ là bước đầu, và là “phần nổi của tảng băng chìm”. Lời cuối Theo giáo sư Andrew Erickson (CMSI, Naval War College), trong 5 năm tới, Trung Quốc phải quyết định có tấn công Đài Loan hay không, vì quyền lực của Trung Quốc và Tập Cận Bình đã lên tới đỉnh cao, trong khi Đài Loan như “quả táo chín dễ hái”, nếu bỏ qua sẽ mất cơ hội vàng. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và phương Tây đang đau đầu nghĩ cách đối phó với “thách thức lớn nhất của thế kỷ 21 về đối ngoại”.  (A Dangerous Decade of Chinese Power Is Here, Andrew Erickson, Foreign Policy, October 18, 2021). Trong cuốn “Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific” (APCSS, September 2020), giáo sư Alexander Vuving cho rằng tuy tình hình Biển Đông rất nguy hiểm, nhưng khó rơi vào “bẫy Thucydides” như giáo sư Graham Allison dự đoán, vì nó theo quy luật “chicken game” (trọi gà) chứ không phải “Prisoner’s dilemma” (nan đề tù nhân). Nhưng tình hình eo biển Đài Loan hiện nay lại là một câu chuyện khác, và là một yếu tố hệ trọng trong bàn cờ Indo-Pacific, mà AUKUS là một nước cờ thế. Tham khảo 1. America Must Return to the Trans Pacific Partnership, Wendy Cutler, New York Times, September 10, 2021 2. China whisperers: The US advisers shaping the world’s great rivalry, Emily Tamkin, New Statesman, September 17, 2021 3. Fact Sheet: Quad Leaders Summit, The White House, September 24, 2021  4. AUKUS Is Good for Australia, Simon Cowan, American Conservative, September 24, 2021 5. SSN vs SSK, Hugh White, Lowy Interpreter, September 29, 2021 6. AUKUS shows beginnings of U.S. Indo-Pacific strategy, Susannah Patton, Ashley Townshend and Tom Corben, Nikkei Asia Review, October 1, 2021 7. The future of Australia's middle-power diplomacy after AUKUS, Thomas Parks, AsiaLink Insight, October 7, 2021 8. AUKUS Is a Short-Term Mess but a Long-Term Win for Australia, Alexander Vuving, Foreign Policy, October 11, 2021 9. AUKUS: Why Beijing didn’t go ballistic, Jia Deng, Lowy Interpreter, October 14, 2021 10. The Gaps in the New Regional Security Architecture for the Indo-Pacific, Hanns Maull, Diplomat, October 16, 2021 11. America’s doughnut-shaped Indo-Pacific strategy, Henry Storey, Diplomat, October 18, 2021 12. A Dangerous Decade of Chinese Power Is Here, Andrew Erickson, Foreign Policy, October 18, 2021   NQD. 19/10/2021 Nguồn: https://www.viet-studies.com/kinhte/NQuangDy_AUKUS_Quad.html  
......

Đài Loan và Biển Đông trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung

Nguyễn Quang Dy| Gần hai năm qua, Mỹ và thế giới phải tập trung đối phó với đại dịch Covid-19, với tổn thất nặng nề, làm hơn 664.000 người Mỹ chết. Trung Quốc đã nhân cơ hội đó gia tăng sức ép tại eo biển Đài Loan và Biển Đông, đặc biệt sau khi Mỹ rút quân khỏi Afghanistan, làm chính quyền Kabul sụp đổ nhanh chóng trước Taliban, như “Cú sốc Việt Nam” năm 1975. Tiếp theo bài AUKUS và QUAD trong chiến lược Indo-Pacific (Viet-studies, 19/10/2021), bài này sẽ phân tích vấn đề Đài Loan và Biển Đông trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung.       Hai thùng thuốc súng   Dù có phải “thuyết âm mưu” (conspiracy theory) hay không, Trung Quốc đã tranh thủ tối đa “cơ hội trời cho” (windfall) để gia tăng sức ép tại Đài Loan và Biển Đông. Ngày 4/10 là đỉnh điểm khi 49 máy bay của Trung Quốc đã xâm phạm vùng nhận diện phòng không (ADIZ) của  Đài Loan. Để đối phó với trò chơi “bên niệng hố chiến tranh” của Trung Quốc, Mỹ đã cùng với đồng minh Anh và Úc lập ra “AUKUS” (15/9) và họp thượng đỉnh “QUAD” tại Washington (24/9), như một nước cờ thế mới trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung.      Đài Loan và Biển Đông là hai lò lửa chiến tranh như hai “thùng thuốc súng” (power keg) trong bàn cờ chiến lược Mỹ-Trung tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhưng xét về thứ tự ưu tiên trong “lợi ích cốt lõi” (core interests) của Trung Quốc thì Đài Loan quan trọng hơn Biển Đông. Trong khi Đài Loan thuộc “vòng tròn đồng tâm thứ nhất” (first concentric circle) và “chuỗi đảo thứ nhất” (first iseland chain), trong “chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực” (Anti-Access/ Area Denial) thì Biển Đông thuộc “vòng tròn đồng tâm thứ hai”. Xét về mặt địa lý và dân tộc, thì Trung Quốc coi Đài Loan (cũng như Hongkong) là “một tỉnh của Trung Quốc”, và người Đài Loan là một bộ phận của dân tộc Trung Hoa. Sau khi thất bại trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc, thì Quốc Dân Đảng đã rút chạy ra Đài Loan. Vì vậy, Trung Quốc coi việc “thống nhất” (hay thôn tính) Đài Loan là mục tiêu chính đáng và “chỉ là vấn đề thời gian”. Trong khi đó, “Biển Đông chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc”, và dân tộc Việt Nam “chưa bao giờ bị đồng hóa” bởi người Hán ở Trung Quốc. Trung Quốc coi diễn biến tại Afghanistan là một đòn mạnh giáng vào uy tín của Mỹ, làm tổn hại cho cam kết “nước Mỹ trở lại” của Joe Biden. Trước sự hỗn loạn tại Kabul, Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn nói (18/8) “Đài Loan không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tăng cường sức mạnh quốc phòng”. Theo bà, “Đây không phải là một sự lựa chọn dành cho Đài Loan khi không làm gì và chỉ dựa vào sự bảo vệ của người khác”. Nếu nhìn ngược lại lịch sử từ chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Trung Quốc tuy rất ngang ngược nhưng chưa bao giờ tiến hành chiến tranh mà qua mặt Mỹ. Trong cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô trước đây, Mỹ và Trung Quốc đã bắt tay nhau (“Shanghai Communique” năm 1972).  Trong cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt (2/1979) Đặng Tiểu Bình đã sang Mỹ gặp Tổng thống Carter để vận động Mỹ ủng hộ, hoặc làm ngơ… Nhưng nay thời thế đã thay đổi. Tập Cận Bình đang đứng đầu bộ máy quân sự mạnh nhất lịch sử Trung Quốc. Một số chuyên gia lập luận rằng Tập đã chuẩn bị hậu trường để làm “hoàng đế Trung Hoa” thêm khóa thứ ba (từ 2022), nên có thể muốn chinh phục Đài Loan “để làm vương miện”. (Starting a Fire: US and China Enter Dangerous Territory Over Taiwan, Chris Buckley & Steven Lee Myers, New York Times, October 9, 2021). Phản ứng của Mỹ    Đây không phải lần đầu Trung Quốc dọa chiếm Đài Loan. Trong cuộc “khủng hoảng tên lửa eo biển Đài Loan” (1995-1996), khi Mỹ phản ứng mạnh, đưa hai tàu sân bay đến eo biển Đài Loan thì Trung Quốc đã xuống thang. Theo Bà Thái Anh Văn, “Đài Loan đứng trên tuyến đầu của tranh chấp toàn cầu giữa nền dân chủ tự do và chủ nghĩa chuyên chế…Nếu Đài Loan sụp đổ thì hậu quả rất tai hại với hòa bình khu vực và nền dân chủ. (Taiwan and the Fight for Democracy, Tsai Ing-wen, Foreign Affairs, November/December 2021). Trước nguy cơ Đài Loan bị tấn công, Tổng thống Biden nói “Có, chúng ta có một cam kết phải thực hiện điều đó”. Nhưng theo người phát ngôn Nhà Trắng, “Không có thay đổi nào trong chính sách của chúng ta… Chúng ta sẽ giữ vững cam kết của mình theo đạo luật “Quan hệ Đài Loan”. Có thể nói đến nay, Washington vẫn theo đuổi chính sách “mơ hồ chiến lược” (strategic ambiguity). (Mỹ sẽ đến bảo vệ Đài Loan, VOA, 22/10/2021).   Theo một báo cáo của CNAS (26/10/2021), Quân đội Trung Quốc có thể chiếm đảo Taiping (Pratas) tại Biển Đông do Đài Loan kiểm soát, và biến đảo này thành một tiền đồn. Các chuyên gia cho rằng Mỹ có thể chơi trò “chọi gà” (chicken game) với Trung Quốc ở Pratas, nhưng nếu không có Nhật hỗ trợ thì vị thế của Mỹ và Đài Loan sẽ suy yếu. Theo các chuyên gia, đây là thế “lưỡng nan” (dilemma) của Lầu Năm Góc (In Taiwan war game, few good options for US to deter China, Dan Lamothe, Washington Post, October 26, 2021). Theo Elbridge Colby (nguyên phó trợ lý bộ trưởng Quốc phòng) Trung Quốc đã dành 25 năm để xây dựng quân đội hiện đại, chủ yếu nhằm chiếm Đài Loan…Trung Quốc hoàn toàn có khả năng chiếm Đài Loan vào năm 2025.  Xét khả năng xảy ra xung đột lớn, nơi nguy hiểm nhất thế giới hiện nay chính là Đài Loan. Để tránh xung đột, Mỹ phải hành động nhanh để răn đe Bắc Kinh. Ưu tiên cấp bách là Đài Loan phải nâng cấp hệ thống phòng thủ. Mỹ cần thay thế “sự mơ hồ chiến lược” bằng đảm bảo cứng rắn hơn đối với Đài Loan(The Fight for Taiwan Could Come Soon, Elbridge Colby, Wall Street Journal, October 27, 2021).    Trong cuốn sách The Strategy of Denial: American Defense in an Age of Great Power Conflict”, Elbridge Colby cũng cho rằng trong bất cứ tình huống xung đột nào giữa Mỹ và Trung Quốc, chắc sẽ khởi đầu từ Đài Loan. Theo Elbridge Colby, Mỹ không phải chỉ cần bảo vệ Đài Loan mà còn phải cùng với đồng minh để chiến thắng và có thể ngăn chặn được xung đột leo thang vượt ra khỏi phạm vi Biển Đông. (As the US and China continue to posture, the key will be Taiwan, Clyde Prestowitz, Washington Post, October 29, 2021). Theo sử gia Niall Ferguson (Hoover Institution, Stanford University), cuộc chiến tranh lạnh lần thứ hai có “một giai đoạn nóng”, và nơi có thể xảy ra xung đột chính là Đài Loan. Điều đó có thể xảy ra sớm vì Tập Cận Bình biết rằng đối đầu với Mỹ tuy rất rủi ro, nhưng đây là thời điểm tốt nhất để làm điều đó, vì Mỹ thiếu khả năng răn đe về Đài Loan. Bắc Kinh cho rằng hành động ngay bây giờ tốt hơn là chờ thêm 10 năm nữa. (Will Xi move on Taiwan? History warns he might: Niall Ferguson, Mikio Sugeno, Nikkei, September 10, 2021).   Đài Loan và “bẫy Thucydides”  Trong cuốn Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific (do giáo sư Alexander Vuving chủ biên và APCSS xuất bản (9/2020), tác giả cho rằng Biển Đông tuy nguy hiểm, nhưng khó rơi vào “bẫy Thucydides” như giáo sư Graham Allison dự báo, vì nó theo quy luật “chọi gà” (chicken game) chứ không phải “thế lưỡng nan của tù nhân” (prisoner’s dilemma). Nếu eo biển Đài Loan nguy hiểm nhưng cũng theo quy luật “chọi gà”, thì hy vọng sẽ không rơi vào “bẫy Thcydides”, tức chiến tranh không phải tất yếu. Theo các chuyên gia, ảo tưởng về thắng lợi của nền dân chủ tự do và sự lỗi thời của đối đầu nước lớn, đã thúc đẩy các chính quyền Dân Chủ và Cộng Hòa theo đuổi chủ trương “can dự” (engagement) giúp Trung Quốc giàu mạnh. Mỹ đã tăng cường đầu tư vào Trung Quốc và cho họ vào hệ thống thương mại toàn cầu (WTO), tưởng Trung Quốc sẽ trở thành một nền dân chủ và “một thành viên có trách nhiệm” trong trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu. Nhưng ảo tưởng đó không thành hiện thực, vì Mỹ đã ngộ nhận về bản chất của Trung Quốc. Tại Châu Á, không có ranh giới rõ ràng nào chứng tỏ “bức màn sắt” (Iron Curtain) của Trung Quốc sẽ duy trì được ổn định. Ngược lại, một số cuộc xung đột tiềm ẩn ở khu vực, tuy có giới hạn và chỉ sử dụng vũ khí thông thường, nhưng đã làm cho chiến tranh “có thể” (thinkable). Đó là những cuộc chiến nhằm kiểm soát Đài Loan, Biển Đông, và quần đảo Điếu ngư (Senkaku Islands). (The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics, John  Mearsheimer, Foreign Affairs, November/December 2021).   Trong mấy thập kỷ qua, Trung Quốc đã lợi dụng sự ngộ nhận của Mỹ để “giấu mình chờ thời” và tranh thủ trỗi dậy trở thành siêu cường. Nay Tập Cận Bình cho rằng Trung Quốc đã đủ mạnh để cạnh tranh với Mỹ, mà không cần “giấu mình chờ thời”. Những kế hoạch đầy tham vọng mang dấu ấn Tập Cận Bình đã làm nước Mỹ giật mình tỉnh ngộ. Đó là sáng kiến “Vành đai Con đường” (BRI) để thao túng thế giới, chiến lược “Made in China 2025” để vươn lên ngang hàng với Mỹ, và chiến lược “Đường Lưỡi Bò” để thâu tóm Biển Đông và gạt Mỹ ra khỏi khu vực bằng “vùng xám” (grey area), với hạm đội “dân quân biển”. Đó chính là sự khác biệt giữa Biển Đông và Đài Loan. Trong khi Trung Quốc dùng “vùng xám”  và “dân quân biển” một cách hiệu quả để kiểm soát Biển Đông và gạt Mỹ ra khỏi khu vực, họ không triển khai “vùng xám” và “dân quân biển” tại eo biển Đài Loan. Trung Quốc không muốn chiến sự nổ ra tại Biển Đông, vì không muốn đối đầu với Mỹ. Theo binh pháp Tôn Tử, họ chỉ muốn dùng “cờ vây” để áp đảo đối phương. Nhưng nếu chiến sự nổ ra tại eo Biển Đài Loan, thì đó sẽ là một cuộc “chiến tranh thông thường” (conventional war). Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ vẫn có căn cứ quân sự và lực lượng mạnh (gồm không quân, hải quân, tên lửa, và lính thủy đánh bộ) đóng tại Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng không có lực lượng thường trực như vậy đóng tại các nước ASEAN. Tại sao cán cân lực lượng (balance of forces) và cơ cấu an ninh (security architechture) ở hai khu vực này khác nhau như vậy? Phải chăng vì Trung Quốc và Mỹ đều coi trọng Đài Loan và Đông Bắc Á hơn? Dù muốn hay không, đó là những thực tế khó phủ nhận trong bàn cờ chiến lược nước lớn. Thay lời kết  Nói cách khác, xét về lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, Đài Loan quan trọng hơn Biển Đông. Xét về cam kết của Mỹ với đồng minh, thì Đài Loan và Đông Bắc Á cũng quan trọng hơn, không chỉ vì bán đảo Triều Tiên, mà còn vì cam kết của Mỹ đối với Nhật Bản và Hàn Quốc là hai đồng minh quan trọng nhất ở Đông Á. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là Biển Đông kém quan trọng hơn Đài Loan, mà phải đặt cả hai trong tầm nhìn chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, với AUKUS và QUAD để kết nối mạng lưới đồng minh.    Nhưng trong mấy năm tới, dù căng thẳng đến đâu, Mỹ và Trung Quốc chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến thực sự, tuy có thể đe dọa “bên miệng hố chiến tranh” (war brinkmanship) để thử gân nhau. Theo Reuters (7/10) trước căng thẳng tại eo biển Đài Loan, Mỹ và Trung Quốc đã thỏa thuận về nguyên tắc để lãnh đạo hai nước gặp nhau (trực tuyến) vào cuối năm. Tiếp theo điện đàm giữa Joe Biden và Tập Cận Bình (9/9), Jake Sullivan (cố vấn an ninh quốc gia) và Dương Khiết Trì (đặc trách đối ngoại) vừa gặp nhau tại Thụy Sĩ (26/10). Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã xô đẩy thế giới vào khủng hoảng y tế và kinh tế toàn cầu, với những hệ quả khó lường, nên đối đầu Mỹ-Trung cũng buộc phải điều chỉnh theo một cách tương ứng và linh hoạt. Nói cách khác, như Ngoại trưởng Anthony Blinken đã tuyên bố, “Quan hệ của chúng ta với Trung Quốc sẽ là cạnh tranh khi cần, hợp tác khi có thể, và đối đầu khi bắt buộc” (A Foreign Policy for the American People, March 3, 2021). Tham khảo 1. A Foreign Policy for the American People, Anthony Blinken, Department of State, Washington, D.C, March 3, 2021 2. Taiwan and the Fight for Democracy, Tsai Ing-wen, Foreign Affairs, November/December 2021 3. The Inevitable Rivalry: America, China, and the Tragedy of Great-Power Politics, John  Mearsheimer, Foreign Affairs, November/December 2021 4. As the US and China continue to posture, the key will be Taiwan, Clyde Prestowitz, Washington Post, October 29, 2021 5. The Fight for Taiwan Could Come Soon, Elbridge Colby, Wall Street Journal, October 27, 2021   6. In Taiwan war game, few good options for US to deter China, Dan Lamothe, Washington Post, October 26, 2021 7. Mỹ sẽ đến bảo vệ Đài Loan, VOA, October 22, 2021 8. Starting a Fire: US and China Enter Dangerous Territory Over Taiwan, Chris Buckley & Steven Lee Myers, New York Times, October 9, 2021 9. Will Xi move on Taiwan? History warns he might: Niall Ferguson, Mikio Sugeno, Nikkei Asia, September 10, 2021 NQD. 01/11/2021 Nguồn: https://boxitvn.blogspot.com/2021/11/ai-loan-va-bien-ong-trong-ban-co-chien.html   Xem thêm: AUKUS và QUAD trong chiến lược Indo-Pacific https://www.viettin.de/content/aukus-v%C3%A0-quad-trong-chi%E1%BA%BFn-l%C6%B0%E1%BB%A3c-indo-pacific  
......

Đối đầu Anh – Pháp khiến Mỹ và phương Tây lo lắng

Tác giả: GIDEON RACHMAN Đây là tuần mà Boris Johnson phải kêu gọi thế giới đoàn kết chống lại biến đổi khí hậu. Nhưng vị thủ tướng Anh tham dự COP26 trong khi bị phân tâm bởi một cuộc tranh cãi gay gắt với Pháp về vấn đề đánh cá. “Bắn tỉa” và cạnh tranh nhau giữa Anh và Pháp đang trở thành một vấn đề quốc tế nghiêm trọng. Hội nghị thượng đỉnh G7 hồi tháng 6 diễn ra trong bối cảnh một tranh chấp khác giữa Pháp và Anh – lúc đó là về vấn đề Bắc Ireland. Mọi bất đồng nhỏ giữa hai nước dường như đều leo thang thành một cuộc cãi vã đầy những lời đe dọa và lăng mạ. Vấn đề cơ bản không phải là cá, hay Bắc Ireland. Mà là về Brexit. Nói một cách đơn giản, Johnson muốn Brexit thành công trong khi Emmanuel Macron, tổng thống Pháp, lại muốn nó thất bại. Một bức thư bị rò rỉ của thủ tướng Pháp Jean Castex gửi cho Ủy ban châu Âu đề xuất rằng điều quan trọng là phải chứng minh cho dư luận châu Âu thấy chi phí khi rời EU lớn hơn so với việc ở lại. Người Anh coi đây là bằng chứng cho thấy Paris đang tìm cách trừng phạt Anh vì Brexit. Người Pháp cho rằng đây là một cách cố tình hiểu sai đầy ác ý. Việc chính phủ Anh háo hức diễn giải theo cách tồi tệ nhất có thể về bức thư nói lên nhiều điều. Mặc dù Johnson đang thăng hoa sau hội nghị thành công của đảng Bảo thủ, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy công chúng Anh đang đi đến kết luận rằng Brexit là một sai lầm. Trả lời cho câu hỏi, “Bạn nghĩ Anh rời EU là đúng hay sai”, 49% trả lời là sai và 38% trả lời là đúng. Một cuộc thăm dò khác gần đây cho thấy 53% số người trả lời tin rằng Brexit đã dẫn đến giá cả cao hơn. Những thay đổi này trong quan điểm của công chúng có thể gây rắc rối cho Johnson, đặc biệt nếu lạm phát và tình trạng thiếu hụt hàng hóa trở nên tồi tệ hơn trong mùa đông. Điều đó làm cho một cuộc đụng độ với Macron trở nên quá hấp dẫn. Nếu người Pháp thực hiện lời đe dọa làm chậm lưu lượng hàng hóa của Anh qua các cảng bên kia eo biển, bất kỳ sự thiếu hụt nào sau đó có thể được đổ lỗi cho tư tưởng trừng phạt Anh của người Pháp hơn là những khiếm khuyết cố hữu của Brexit. Chính phủ Anh dường như cũng đang chuẩn bị thực hiện các thay đổi đơn phương đối với giao thức Bắc Ireland, một phần của thỏa thuận Brexit. Một cuộc tranh cãi với Pháp có thể cho phép Johnson tuyên bố những thay đổi đó là nhằm phản ứng với sự cứng rắn của Pháp, chứ không phải là một hành động thiếu thiện chí của Anh. Macron, giống như Johnson, cũng đang chịu áp lực chính trị dữ dội. Ông phải đối mặt với một cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Tư năm sau. Eric Zemmour, ngôi sao đang lên của cánh hữu, đã liên tục khẳng định “người Anh đã thắng trong trận chiến Brexit”. Macron cần phải dập tắt ý tưởng đó. Việc ký Aukus – một hiệp ước an ninh được đàm phán bí mật giữa Úc, Anh và Mỹ – đã giáng một đòn nặng nề vào Pháp. Một quan chức Mỹ nói: “Pháp tin rằng Brexit đã khiến Anh trở nên không còn quan trọng, và chúng tôi (người Mỹ) sẽ bỏ qua London. Sau đó, họ phát hiện ra chúng tôi đã thực hiện một thỏa thuận bí mật với người Anh, sau lưng họ ”. Sự tức giận của Pháp càng tăng lên khi mất hợp đồng quốc phòng có giá trị lớn với Australia. Áp lực mà chính phủ Macron đang phải chịu được phản ánh qua giọng điệu hơi cuồng loạn của một số trao đổi gần đây. Clément Beaune, Bộ trưởng Châu Âu của Pháp, khẳng định rằng ngôn ngữ duy nhất mà người Anh hiểu là vũ lực. Rõ ràng cần phải làm gì đó để giải tỏa những căng thẳng này theo cách có thể kéo dài hơn mức một vài tuần. Ben Judah thuộc viện nghiên cứu chính sách Hội đồng Đại Tây Dương, người mang hai quốc tịch Pháp-Anh, đưa ra đề xuất sáng tạo rằng hai nước nên thành lập một ủy ban chung gồm các đại diện để vạch ra một kế hoạch hòa giải song phương. Trong một thế giới lý tưởng, một sáng kiến như vậy có thể mở đường cho một “Entente Cordiale” mới – thỏa thuận hồi năm 1904 vốn giúp xoa dịu một giai đoạn kình địch giữa Anh và Pháp trước đó. Nhưng cả London và Paris dường như đều không sẵn sàng khắc phục mọi thứ. Peter Ricketts, cựu đại sứ Anh tại Paris, dự đoán rằng sẽ có thêm vài năm “bắn tỉa” trước khi quan hệ cuối cùng được cải thiện. Liên minh phương Tây không thể chấp nhận được điều đó. Quan hệ độc hại giữa Anh và Pháp có khả năng lây lan và nhiễm vào NATO, G7 và các cuộc đàm phán quốc tế về mọi thứ, từ biến đổi khí hậu đến thương mại. Xung đột Anh-Pháp cũng sẽ khiến việc hình thành các lập trường chung của phương Tây trong các cuộc tranh chấp với Trung Quốc và Nga trở nên khó khăn hơn. Thomas Wright thuộc Viện Brookings lo ngại rằng Anh và Pháp có nguy cơ biến thành “Nhật Bản và Hàn Quốc của châu Âu” – hai đồng minh thân cận của Mỹ nhưng cũng là đối thủ gay gắt của nhau. Ở châu Á, Mỹ đã cố gắng xây dựng cầu nối giữa Tokyo và Seoul. Bây giờ có thể đã đến lúc Washington thực hiện vai trò tương tự giữa London và Paris. Người Mỹ cần dẹp bỏ ảo tưởng của cả hai bên. Người Anh cần hiểu rằng Mỹ coi EU là một đối tác quan trọng và sẽ không từ bỏ Brussels chỉ vì không gian “Anglosphere”. Người Pháp cần chấp nhận rằng Mỹ cần nước Anh hậu Brexit thành công và sẽ không coi Anh là một quốc gia bất hảo. Khả năng đóng vai “người môi giới trung thực” của Mỹ đã trở nên phức tạp hơn sau thỏa thuận Aukus. Nhưng Biden có vẻ đã thực sự hối hận về việc qua mặt nước Pháp và đã nhanh chóng tiến hành các biện pháp nhằm khắc phục hậu quả. Thực tế, việc cả Macron và Johnson đều coi trọng mối quan hệ thân thiết của họ với Biden tạo cơ hội cho Mỹ. Nói theo ngôn ngữ tư vấn hòa giải, người Mỹ cần phải “dàn xếp một sự can thiệp”. Họ nên cố gắng thuyết phục người Anh và người Pháp từ bỏ những mối đe dọa kỳ quặc nhất của họ và hợp tác với nhau vì lợi ích của bản thân cũng như lợi ích của phương Tây nói chung. ----- * Nguồn tiếng Anh: Gideon Rachman, “UK-French rivalry puts the west at risk”, Financial Times, 01/11/2021. Biên dịch: Phan Nguyên. ** Nguồn tiếng Việt: http://nghiencuuquocte.org/.../doi-dau-anh-phap-khien.../...  
......

Chuyên gia nhân quyền LHQ kêu gọi Việt Nam trả tự do cho bà Phạm Đoan Trang

Trọng Thành - RFI Các chuyên gia độc lập về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc hôm 29/10/2021 đã kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho bà Phạm Đoan Trang, nhà tranh đấu nhân quyền, đang phải đối mặt với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” với án tù lên đến 12 năm. Theo thông báo của Hội Đồng Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, có trụ sở tại Genève, nhóm các báo cáo viên đặc biệt và chuyên gia độc lập về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc cho biết bà Phạm Đoan Trang là “nạn nhân mới nhất của việc chính quyền sử dụng các cáo buộc mơ hồ về tội tuyên truyền chống Nhà nước, để bắt bớ các nhà văn, nhà báo, nhà bảo vệ nhân quyền, hình sự hóa việc thực hiện quyền tự do phát biểu ý kiến ​​và chia sẻ thông tin của họ.” Bà Phạm Đoan Trang đang bị giam tại Trại tạm giam số 1 Hà Nội. Bà bị bắt vào tháng 10/2020. Theo nhóm chuyên gia độc lập, bà Trang bị tạm giam hơn một năm trước khi được phép gặp luật sư, và không được phép tiếp xúc với gia đình. Phiên tòa xét xử bà Phạm Đoan Trang ban đầu dự kiến ​​diễn ra vào ngày 4/11 đã bị hoãn, có khả năng sẽ diễn ra trong những tuần tới. Nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc cho biết các cáo buộc chống lại bà Phạm Đoan Trang xuất phát từ ít nhất ba báo cáo nhân quyền, mà bà là đồng tác giả, cũng như các trả lời phỏng vấn với một số hãng truyền thông nước ngoài. Ba báo cáo bao gồm báo cáo về thảm họa môi trường biển Formosa năm 2016 (liên quan đến công ty Đài Loan Formosa), luật về tôn giáo năm 2016, và về các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam nói chung. Các chuyên gia nhận định, “như chúng tôi đã nhiều lần cho biết trước đây, Điều 88 của Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, mà bà Phạm Đoan Trang bị buộc tội, được định nghĩa một cách mơ hồ và vi phạm các chuẩn mực nhân quyền quốc tế.” Các chuyên gia một lần nữa “kêu gọi chính phủ (Việt Nam) bãi bỏ tất cả các điều khoản xâm phạm quyền tự do ngôn luận'” Các chuyên gia cho biết, việc bắt và giam giữ một cá nhân thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình để báo cáo về các vấn đề nhân quyền là tước đoạt tùy tiện quyền tự do của người dân theo luật pháp quốc tế về nhân quyền.  Liên Hiệp Quốc đã khẳng định việc chính quyền Việt Nam giam giữ bà Phạm Đoan TranNhóm Công tác về Bắt giữ Tùy tiện củag là “tùy tiện” trong thông báo “Opinion ​​40/2021″ ban hành tháng 9/2021. Các chuyên gia “vô cùng lo ngại rằng các báo cáo ghi lại những quan ngại về nhân quyền đang được sử dụng chống lại những người bảo vệ nhân quyền, được sử dụng làm bằng chứng (chống lại họ) trong phiên tòa hình sự,” và “điều này có thể gây ra những hậu quả sâu rộng và củng cố bầu không khí sợ hãi ở Việt Nam, dẫn đến việc tự kiểm duyệt và ngăn cản những người khác hợp tác với Liên Hiệp Quốc.” Hoạt động của các báo cáo viên đặc biệt và các chuyên gia độc lập nằm trong “các Thủ tục Đặc biệt” của Hội đồng Nhân quyền, tên gọi chung để chỉ cơ chế giám sát độc lập của cơ quan Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. Các chuyên gia về “các Thủ tục Đặc biệt” không phải là nhân viên Liên Hiệp Quốc, làm việc tự nguyện và không nhận lương. Công việc của các chuyên gia nói trên độc lập với bất kỳ chính phủ hoặc tổ chức nào. Về sức khỏe của bà Phạm Đoan Trang, theo nhóm chuyên gia Liên Hiệp Quốc, bà Phạm Đoan Trang mới được điều trị y tế gần đây bất chấp sức khỏe của bà Trang ngày càng giảm sút. Các chuyên gia kêu gọi các cơ quan chức năng trước mắt cho phép bà Phạm Đoan Trang nhận được tất cả các chăm sóc y tế cần thiết. Trọng Thành Nguồn: RFI  
......

10 tổ chức vận động nhân quyền kêu gọi EU trừng phạt Tô Lâm và Nguyễn Hòa Bình

Việt Tân| Đảng Việt Tân, Hội Anh Em Dân Chủ cùng 8 tổ chức vận động nhân quyền kêu gọi Liên Minh Châu Âu, thông qua Đạo Luật Magnitsky Châu Âu, trừng phạt Bộ Trưởng Bộ Công An Tô Lâm và Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Nguyễn Hòa Bình vì hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Trong ngày 27 tháng Mười, 2021, ông Trần Sơn, đại diện Đảng Việt Tân và Luật Sư Nguyễn Văn Đài, đại diện Hội Anh Em Dân Chủ đã được mời đến trụ sở của European External Action Service – EEAS tức Cơ Quan Ngoại Giao của Liên Minh Châu Âu, tại Bruxelles, Vương Quốc Bỉ. Tại đây các ông đã có buổi làm việc với ông Johan Sorensen, giới chức phụ trách về các vấn đề Việt Nam và bà Alva Bruun, giới chức phụ trách về các vấn đề nhân quyền. Đại diện của Đảng Việt Tân và Hội Anh Em Dân Chủ đã trao cho các giới chức Liên Minh Châu Âu hồ sơ chứng cứ hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của hai quan chức CSVN nầy cùng một báo cáo về tình trạng Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam 2021. Hai tập tài liệu này đã được 10 tổ chức vận động cho nhân quyền Việt Nam và quốc tế phối hợp thực hiện. Theo ông Trần Sơn, giới chức của EEAS cho biết vào đầu tháng Chín, Chủ Tịch Ủy Ban Châu Âu (European Commission) bà Ursulla Von der Layen đã nêu vấn đề nhân quyền ở Việt Nam với Chủ Tịch Quốc Hội CSVN Vương Đình Huệ khi ông này đến Bruxelles. Liên Minh Châu Âu đang dùng tất cả phương tiện có trong tay để tạo áp lực lên CSVN và Luật Magnitsky là một trong những phương tiện đó. Vì vậy hai tập tài liệu về tình hình Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam 2021 và chứng cứ hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của hai quan chức CSVN nầy rất hữu dụng cho EEAS. Các tổ chức cũng thực hiện thỉnh nguyện thư kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ký tên để yêu cầu Hội Đồng Liên Minh Châu Âu trừng phạt hai quan chức cao cấp nầy của CSVN theo Đạo Luật Magnitsky Châu Âu. Link ký thỉnh nguyện thư: Link: https://chng.it/hpw4dYTwYt   XEM THÊM: EU thông qua một chế độ trừng phạt nhân quyền toàn cầu Liên Minh Châu Âu thông qua đạo luật Global Magnitsky  
......

Fanpage của ba đài RFA, VOA và BBC bất ngờ bị đổi tên

Ảnh chụp màn hình giao diện trang Facebook của 3 đài khi bị đổi tên RFA| Sáng ngày 30-10-2021, cả ba trang Facebook Việt ngữ của các đài lớn như Đài Á Châu Tự Do, VOA Tiếng Việt, BBC News Tiếng Việt đều đồng loạt bị đổi tên. Đài Á Châu Tự Do bị đổi thành "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm", BBC News Tiếng Việt bị chuyển thành "Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại" và VOA Tiếng Việt lại trở thành "Đông Lào Muôn Năm". Cả ba đài Việt ngữ này nhiều lần bị báo chí trong nước cho là các "trang báo thiếu thiện chí" đối với chính quyền Việt Nam, riêng RFA hiện có ba cộng tác viên, blogger đang bị cầm tù là các ông Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Tường Thụy và Trương Duy Nhất. Cả ba trang đều ngay lập tức có thông báo về việc tên trang bị đổi. VOA thông báo trên trang Facebook của mình như sau: "Vào khoảng 10 giờ tối ngày 29 tháng 10, giờ miền Đông Hoa Kỳ, trang Facebook của VOA Tiếng Việt bị “hack”, và bị đổi tên thành "Đông Lào Muôn Năm.” VOA Tiếng Việt đang liên lạc Facebook để lấy lại tên cũ, tăng cường bảo mật. Xin cáo lỗi cùng quý độc giả về sự cố này." Khoảng một đến hai giờ sau, các trang này đều lấy lại được tên như cũ và phối hợp với Facebook để khắc phục sự việc. Trong bài viết trên báo Nhân Dân - cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam hồi năm 2020 với tiêu đề "VOA, RFA vẫn tiếp tục chống phá Việt Nam" cho rằng, "bên cạnh việc đề nghị chính quyền cùng cơ quan chức năng của Mỹ cần chấn chỉnh hoạt động của VOA, RFA sao cho phù hợp với các nguyên tắc, quan điểm của nước Mỹ với Việt Nam; thì mặt khác, chúng ta cần tiếp tục đấu tranh vạch trần thái độ, mưu đồ, mọi thủ đoạn của VOA và RFA." Trang Chính trị Việt Nam chuyên đăng các tin ủng hộ Chính phủ chạy dòng tít "Sốc: Trang RFA chuyên chống phá Việt Nam bất ngờ đổi tên thành "Đảng Cộng Sản Việt Nam Muôn Năm". Một độc giả trên Facebook của đài RFA bình luận: “Hacker giỏi thế hack giúp tiền hỗ trợ COVID cho người dân đi, chờ từ năm ngoái đến giờ”. Một buổi hội thảo của Lực lượng 47 ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tỉnh. Ảnh: huyện Hương Khê. Việt Nam có lực lượng dư luận viên hùng hậu lên đến hàng chục ngàn người của cả quân đội và công an được cho là "vừa hồng vừa chuyên, kiên định lập trường, có trình độ, kỹ năng sử dụng công nghệ cao” Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam hồi năm 2016 cho thành lập Lực lượng 47 nhằm chống các "quan điểm sai trái" trên mạng Internet tại Việt Nam. Đến năm 2018, Bộ Quốc phòng tiếp tục cho ra mắt Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng, ngoài việc "tham gia bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng quốc gia" tổ chức này còn có nhiệm vụ "đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình trên không gian mạng; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc cả trên đất liền, trên không, trên biển và không gian mạng." Hồi năm ngoái, nhóm bảo mật của Facebook cho biết nhóm hacker APT32 (Ocean Lotus - Sen Biển) do chính phủ Việt Nam hậu thuẫn đã lan truyền mã độc nhắm vào các nhà hoạt động Việt Nam, các chính phủ nước ngoài, các cơ quan báo chí, cùng các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp. Tháng 10 này, báo chí quốc tế dẫn nguồn thạo tin cáo buộc Giám đốc điều hành của Facebook là Mark Zuckerberg đã đích thân chấp nhận yêu cầu mạnh mẽ của Hà Nội trong việc giới hạn những bài đăng bị cho ‘chống Nhà nước’. Theo AFP, mạng xã hội khổng lồ Facebook trong những năm qua trở thành một diễn đàn phổ biến cho giới hoạt động tại đất nước cộng sản này khi mà truyền thông độc lập bị cấm tiệt. Thế nhưng những tiếng nói chỉ trích trên mạng này trong thời gian sau này là mục tiêu bị ngăn chặn. https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/fanpages-of-three-media-rfa-voa-bbc-have-all-been-renamed-by-tricker-10302021012604.html
......

Nghị viên Âu Châu thông qua nghị quyết ủng hộ Đài Loan

Hôm 21.10.2021, Nghị viện châu Âu đã thông qua một nghị quyết  nhằm tăng cường quan hệ với Đài Loan với 580 phiếu ủng hộ và 26 phiếu chống và bắt đầu xúc tiến thỏa thuận đầu tư với vùng lãnh thổ tự trị này. Trong nghị quyết được thông qua này, các nhà lập pháp EU nói Liên hiệp châu Âu phải làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ với Đài Loan và bắt đầu làm việc về một thỏa thuận đầu tư với hòn đảo. Động thái này khiến Bắc Kinh tức giận. Trung Quốc và EU đã đạt được thỏa thuận tương tự hồi năm 2020 nhưng bị gác lại từ đó đến nay. Nghị quyết đề nghị nhánh hành pháp của khối là Ủy ban châu Âu "khẩn trương bắt đầu đánh giá tác động, tham vấn công khai và tính toán quy mô về một thỏa thuận đầu tư song phương". Các nhà lập pháp cũng yêu cầu văn phòng thương mại của khối ở Đài Bắc được đổi tên thành văn phòng Liên hiệp châu Âu tại Đài Loan, về thực chất là nâng cấp phái bộ này mặc dù cả EU lẫn các quốc gia thành viên đều không có quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, nơi bị Trung Quốc tuyên bố là lãnh thổ của họ. Nói với các phóng viên tại Bắc Kinh, Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc Wang Wenbin (Uông Văn Bân) đưa ra "lời lên án mạnh mẽ" rằng “Nghị viện EU cần dừng ngay những lời nói và hành động gây hại đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc”. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Đài Loan bày tỏ cảm ơn về sự ủng hộ của EU, nói rằng nghị quyết sẽ "đặt dấu mốc mới" cho mối quan hệ của hòn đảo với khối. Căng thẳng quân sự giữa Trung Quốc và Đài Loan đã gia tăng, kèm theo đó, Đài Bắc cho rằng Bắc Kinh sẽ có khả năng tiến hành một cuộc xâm lược "có quy mô toàn diện" đánh vào hòn đảo vào năm 2025. Vào năm 2015, EU đã đưa Đài Loan vào danh sách các đối tác thương mại đủ điều kiện để đi đến ký kết một thỏa thuận đầu tư, nhưng chưa tổ chức đàm phán với hòn đảo có chính quyền dân chủ về vấn đề này kể từ đó, mặc dù Đài Bắc rất muốn đạt được thỏa thuận. EU và đối tác thương mại lớn là Trung Quốc ký kết một thỏa thuận đầu tư tương tự hồi năm ngoái, nhưng nó đã bị chặn lại trong nhiều tháng nay. Nghị viện châu Âu hoãn việc phê chuẩn sau khi Bắc Kinh áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các nhà lập pháp EU vì hai bên có mâu thuẫn về nhân quyền. Trong khi đó, cường quốc công nghệ Đài Loan ngày càng trở nên hấp dẫn đối với EU trong bối cảnh toàn cầu thiếu linh kiện bán dẫn khiến Brussels vận động hành lang để các nhà sản xuất chip quan trọng của Đài Loan đầu tư vào khối như họ đã làm ở Hoa Kỳ./. Theo Reuters  
......

Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ thông qua dự luật trừng phạt hành vi bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông

Hình minh họa. Thượng Nghị sĩ Ben Carden (Đảng Dân Chủ) của tiểu bang Maryland. RFA Ủy ban Đối Ngoại Thượng viện Hoa Kỳ hôm thứ ba 19/10 thông qua dự luật áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với những cá nhân và đối tượng Trung Quốc tham gia vào các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải tại Biển Đông.  Dự luật lưỡng đảng do Thượng Nghị sĩ Cộng Hòa Marco Rubio, đại diện tiểu bang Florida và Thượng Nghị sĩ Dân Chủ Ben Cardin của tiểu bang Maryland bảo trợ, có tên “Dự luật Trừng phạt ở Biển Đông và Biển Hoa Đông”. Dự luật khi thành luật sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các cá nhân và đối tượng Trung Quốc tham gia vào hoạt động khẳng định yêu sách chủ quyền về hàng hải và lãnh thổ của Bắc Kinh đối với Biển Đông và Hoa Đông. Thượng Nghị sĩ Rubio trong một thông cáo báo chí nói: “Không có mối đe dọa nào lớn hơn đối với một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở hơn Đảng Cộng sản Trung Quốc và lực lượng vũ trang của họ là Quân đội Giải phóng Nhân dân”. Ông kêu gọi toàn thể đồng nghiệp trong Thượng viện thông qua dự luật này. Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông với đường đứt khúc chín đoạn đã bị Toà Trọng tài Quốc tế bác bỏ trong một phán quyết vào năm 2016 nhưng Bắc Kinh không tuân thủ phán quyết này. Mỹ không phải là một bên có tranh chấp về chủ quyền ở khu vực Biển Đông nhưng luôn khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không ở khu vực này, đồng thời lên án Trung Quốc đã bắt nạt các nước láng giềng có đòi hỏi chủ quyền ở đây, quân sự hoá khu vực Biển Đông.   
......

Nước Đức sẽ bỏ đại dịch lại phía sau

Lưu Thủy Hương Kế hoạch chấm dứt các biện pháp chống dịch dự trù vào tháng 11. Cuộc sống ở Đức sẽ trở lại bình thường, sau 19 tháng vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế, vừa nghiên cứu và phân bố vaccine cho toàn thế giới. * https://www.berliner-zeitung.de/.../jens-spahn-corona... Bộ trưởng bộ y tế Liên bang Đức, Jens Spahn tuyên bố: Tình trạng khẩn cấp chống lại Corona sẽ kết thúc vào tháng 11. Vì nguy cơ corona đối với những người được tiêm chủng chỉ còn ở mức "vừa phải". Spahn ủng hộ việc loại bỏ dần cái gọi là "tình hình dịch bệnh trên phạm vi quốc gia", căn cứ vào việc, Viện Robert Koch phân loại "nguy cơ đối với những người được tiêm chủng là vừa phải", vì vậy, tình hình đặc biệt chống lại dịch bệnh sẽ chấm dứt vào ngày 25 tháng 11 năm 2021, sau gần 19 tháng, kể từ ngày 28 tháng Ba năm 2020. Vào cuối tháng 8 vừa rồi, Hạ viện đã gia hạn tình trạng chống dịch thêm ba tháng. Và kế hoạch này sẽ tự động hết hạn nếu nó không được Quốc hội kéo dài thêm. * Trung bình mỗi ngày có 2.574 người tử vong ở nước Đức, vì các loại bệnh, trong đó chủ yếu là bệnh tim mạch và ung thư. Con số thống kê chung có thể dao động từ 2400 đến 3500 người/ngày. https://www1.wdr.de/.../coron.../corona-todesfaelle-100.html Với con số tử vong do covid hiện nay vào khoảng 20-80 người/ngày, rơi vào nhóm không tiêm chủng và nhóm suy yếu hệ thống miễn dịch, thì bệnh covid đã được xếp vào loại bệnh chỉ còn có nguy cơ vừa phải. Đây là phân loại do viện Robert Koch thực hiện, trung tâm chỉ huy chống đại dịch trên toàn quốc từ suốt 19 tháng nay. Chính quyền Đức chỉ tuân thủ hướng dẫn khoa học của các nhà nghiên cứu để đưa ra kế hoạch trên toàn quốc. Đúng là chính quyền Đức chống dịch gắt gao và căng thẳng hơn các nước quanh vùng, nhưng ngược lại, trong suốt 19 tháng đại dịch họ vẫn đảm bảo cho đời sống dân sinh được ổn định. Những công việc, sản xuất, giao dịch, hoạt động kinh tế cần thiết vẫn được duy trì. Chợ búa, nơi cung cấp thực phẩm và đồ gia dụng không được phép đóng cửa ngày nào. Các nhà thương và phòng khám bệnh vẫn mở cửa. Và người dân không hề bị cấm ra đường tập thể dục hay dạo mát, vì đó là nhu cầu rất cần thiết cho sức khỏe để chống dịch. Bây giờ, với tỉ lệ tiêm chủng là 64%, nước Đức đã quyết định: Bỏ đại dịch Corona lại phía sau để đi tới. Đó không phải là một thứ tên gọi bình thường mới, hay bình thường cũ. Đó là một xác định khoa học, đánh giá khoa học và quyết định khoa học. ° Thật ra thì tôi đã bắt đầu sống bình thường từ tháng Bảy – tháng Tám và đã trở lại với các hoạt động giải trí cuối tuần: thể thao, xem phim, tắm xông hơi, tham dự họp báo, hội thảo… Từ lâu tôi cũng không còn quan tâm đến các con số ở Đức. Nếu có nhiễm tôi cũng không bị bệnh nặng, nếu có nhiễm tôi cũng không lây ai. Quan tâm làm gì nữa. Sống với những kế hoạch cho tương lai thôi./.  
......

Mỹ trở lại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc

Thanh Hà -  RFI Liên Hiệp Quốc ngày 14/10/2021 biểu quyết cho phép Hoa Kỳ trở lại với Hội Đồng Nhân Quyền (HRC). Tháng 6/2018, Washington dưới chính quyền Trump đã ra khỏi tổ chức này với lý do HRC “che chở cho các quốc gia vi phạm nhân quyền” và có khuynh hướng bài Do Thái. Trong phiên họp hôm qua tại New York, 168 trên tổng số 193 quốc gia bỏ phiếu thuận để Mỹ hội nhập trở lại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Tổ chức này bao gồm 47 thành viên bắt đầu hoạt động từ năm 2006, trụ sở đặt tại Genève, Thụy Sĩ. Các thành viên được bầu lại 3 năm một lần. Washington sẽ chính thức trở lại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc kể từ ngày 01/01/2022 cùng với 17 nước khác, trong đó Ấn Độ, Malaysia hay Qatar,  Argentina… Giới quan sát dự báo với việc Washington hội nhập lại định chế đa quốc gia này, “nhiều cuộc tranh cãi gay go sẽ diễn ra, giữa Mỹ và Trung Quốc hay Nga.” Dưới chính quyền Trump, Hoa Kỳ đã rút lui khỏi Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Hãng tin Reuters lưu ý, trong thời gian Mỹ vắng mặt, Trung Quốc và nhiều đối tác của Bắc Kinh, như là Venezuela hay Belarus, đã tận dụng thời cơ thông qua những tuyên bố chung ủng hộ Bắc Kinh trên các vấn đề từ Hong Kong đến Tây Tạng hay Tân Cương. Tháng Giêng 2021, khi lên cầm quyền, Tổng Thống Joe Biden tuyên bố Nhà Trắng xem nhân quyền sẽ là “trung tâm” trong chính sách đối ngoại. Đại sứ Mỹ bên cạnh Liên Hiệp Quốc, Linda Thomas-Greenfield, trong thông cáo hôm qua nhấn mạnh trong giai đoạn đầu, Washington có thể sẽ xem xét trên các hồ sơ liên quan đến Afghanistan, Miến Điện, Trung Quốc, Ethiopia, Syria và Yemen. Đại diện của Hoa Kỳ cho biết thêm là sẽ đặc biệt chú ý đến trường hợp của Israel, không để các tuyên bố “quá đáng” bất lợi cho quốc gia này. Một cuộc điều tra do Reuters thực hiện hồi tháng 9/2021 cho thấy ngay cả chính quyền Biden đôi khi cũng đã gạt vấn đề nhân quyền sang một bên vì những ưu tiên như là “an ninh quốc gia hay nhu cầu cần nối lại đối thoại với một số nước lớn.” Tổ chức quan sát nhân quyền UN Watch chỉ trích Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, xem cơ quan này là một “trò hề” khi kết nạp các những quốc gia chà đạp nhân quyền, như Syria, Kazakhstan… Thanh Hà -  RFI  
......

Dân biểu, xã hội dân sự tại Đan Mạch lên tiếng vì quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam

Đoàn người trên đường đến trụ sở Google tại Copenhagen, Đan Mạch để trao kiến nghị hôm 7/10/2021. Giang Nguyễn - RFA| Hội thảo về Quyền Tự do Ngôn luận và Truy cập Mạng xã hội tại Việt Nam tổ chức hôm 7 tháng 10 tại Đan Mạch, diễn ra trong bối cảnh chính quyền Copenhagen đang triển khai một dự án với tên gọi là “Tech for Democracy” (công nghệ vì dân chủ), nhắm vào việc dùng công nghệ để hỗ trợ các phong trào đấu tranh cho dân chủ tại các nước độc tài. Bà Helena Hương Nguyễn, Trưởng Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam, nói dự án Tech for Democracy do Bộ Ngoại giao Đan Mạch khởi xướng: “Project (dự án) này của Đan Mạch khởi xướng nhưng nhắm vào toàn thế giới, nhiều quốc gia và những tech company (công ty công nghệ) quốc tế. Vì họ thấy được ví dụ như Facebook rất quan trọng đối với người dân ở các nước độc tài. Thành ra họ muốn liên kết với Facebook và Silicon Valley để không dập tắt những phong trào dân chủ”. Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam, một tập hợp nhiều hội đoàn và cá nhân Việt Nam tại Đan Mạch, đồng tổ chức hội thảo cùng với tập hợp Globalt Fokus của 80 hội đoàn phi chính phủ tại Đan Mạch. Bà Helena cho rằng chính quyền Đan Mạch đã nhận rõ nhiều người dân Đan Mạch có khuynh hướng quan tâm đến nhân quyền và quyền trên mạng tại Việt Nam. Thời gian qua nhiều Facebooker và nhà báo tự do tại Việt Nam đã bị bắt vì lên tiếng về những điều sai trái trong xã hội nước này.  “Chính quyền Đan Mạch và Bộ Ngoại giao Đan Mạch có khuynh hướng như vậy là một sự khởi đầu, một tin vui, một sự nâng đỡ, hỗ trợ tinh thần cho những phong trào đối kháng. Mọi chuyện, họ cũng nói phải từ từ để họ ra một chương trình hoạt động”. Bà Helena cho biết Bộ Ngoại giao Đan Mạch đang nhắm đến một thỏa thuận với nhiều quốc gia, nhiều công ty công nghệ như Facebook và Google để có một số quy định về hoạt động mạng xã hội ở các nước độc tài như Việt Nam. Vì vậy, những buổi hội thảo như ngày hôm nay là một cơ hội để cộng đồng người Việt liên đới với các nhà lãnh đạo Đan Mạch cũng như Châu Âu và các tổ chức phi lợi nhuận để trao đổi và nâng cấp tầm quan trọng trong việc đẩy mạnh quyền biểu đạt tại Việt Nam. Đây là năm thứ nhì Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam và Globalt Fokus tổ chức Hội thảo về Quyền Tư Do Ngôn Luận và chủ đề xoay quanh quyền truy cập trên mạng trong lúc Facebook, công ty có trụ sở tại Silicon Valley, thung lũng điện tử của Hoa Kỳ, đang bị chỉ trích đặt lợi nhuận riêng trên lợi ích cộng đồng.  Tại Việt Nam, cách điều hành của Facebook đã bị nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và nhà hoạt động lên án rằng đã hạn chế quyền tự do biểu đạt của người dân, thậm chí hỗ trợ chính sách dập tắt tiếng nói bất đồng chính kiến của Hà Nội. Ông Trần Đức Tuấn Sơn, thành viên Đảng Việt Tân và là một trong các diễn giả của buổi hội thảo, chia sẻ: “Facebook bây giờ cũng có một số hành vi ngăn chặn người trong nước xem một số bài vở đăng trên Facebook mà những người ngoài Việt Nam có thể truy cập được. Tôi lấy một vài ví dụ trên trang nhà của Facebook Việt Tân chúng tôi thường xuyên đăng một số bài hàng ngày. Có một số bài thì mọi người được xem. Nhưng có một số bài khác thì chỉ có những người ở ngoài nước Việt Nam truy cập được thôi. Ví dụ như là một bài gần đây nói lên sự lan tràn của COVID-19 trong nước, một bài rất vô thưởng vô phạt, nói về một đề tài rất thời sự cho đất nước Việt Nam. Chúng tôi không hiểu tại sao mà Facebook lại ngăn chặn sự truy cập của bài đó cho tất cả những người ở trong nước Việt Nam qua sự yêu cầu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam chứ không phải là tự Facebook làm.  Mỗi lần Facebook làm vậy là theo yêu cầu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Đây là vấn đề chúng tôi cần nêu lên trên dư luận quốc tế”. Ông Sơn nói thêm, đây là cách điều hành của Facebook tại nhiều quốc gia độc tài trên thế giới chứ không riêng gì Việt Nam nên người Việt có thể góp tiếng nói cùng với các tổ chức đấu tranh các nước trong nỗ lực này. Vẫn theo lời ông Sơn, riêng Việt Tân có những cuộc đàm phán với Facebook, nhưng kết quả đạt được chỉ chừng mực mà thôi. Ngoài ra tổ chức đấu tranh này cũng vận động các dân biểu quốc hội Hoa Kỳ có những quy định phù hợp đối với quyền hạn của Facebook. Hội thảo về Quyền Tự do Ngôn luận và Truy cập Mạng xã hội tại Việt Nam hôm 7/10/2021 tại Copenhagen, Đan Mạch. Ảnh: Courtesy of Ủy ban Hỗ trợ Việt Nam Dân biểu Quốc hội Châu Âu của Đan Mạch, bà Marianne Vind trong một cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do sau hội thảo, đã chia sẻ rằng Hiệp định Thương mại Tự do EU và Việt Nam (EVFTA), bắt đầu có hiệu lực từ đầu tháng 8/2020, là một công cụ tốt để các nhà ngoại giao Châu Âu thúc giục Việt Nam phải tôn trọng những cam kết về nhân quyền và dân quyền, đặc biệt quyền của người lao động. Bà nói: “Chúng tôi đã có một số kết quả về quyền của người lao động, vì hiện nay Việt Nam đã tham gia nhiều công ước của ILO (Tổ chức Lao động Quốc tế) hơn. Vì vậy, chúng ta đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, tôi cũng biết rằng các công nhân trên khắp đất nước Việt Nam hiện không cảm thấy như vậy. Nhưng khi chính phủ đã ký một số công ước, thì đây là một công cụ để thúc giục họ tôn trọng các quyền. Trên nguyên tắc người dân Việt Nam bây giờ có nhiều quyền hơn. Tôi biết chỉ có trên văn bản không là chưa đủ, nhưng đây là hướng đi đúng đắn”. Dân biểu Vind nhấn mạnh vấn đề nhân quyền liên tục được đưa lên bàn thảo luận giữa EU và Việt Nam.  “Chúng tôi đang theo dõi những gì đang diễn ra ở Việt Nam, và nếu chúng tôi thấy những điều đi ngược lại với cam kết hoặc không đi đúng hướng, chúng tôi có thể liên hệ với Việt Nam và hỏi xem chuyện gì đang xảy ra. Chúng tôi có thể đưa ra những biện pháp. Và nếu vấn đề tồi tệ đến mức đạt ngưỡng, thì chúng tôi có thể chấm dứt các hiệp định thương mại”. Trước và sau Hội thảo về Quyền Tự do Ngôn luận và Truy cập Mạng xã hội tại Việt Nam, các tham dự viên đã đi bộ đến trụ sở của Facebook và Google tại Copenhagen để trao kiến nghị, yêu cầu hai công ty công nghệ khổng lồ này không tiếp tay cho chính quyền Hà Nội trong việc đàn áp tiếng nói của người dân Việt Nam. Giang Nguyễn -  RFA  
......

Đức hỗ trợ bổ sung vắc-xin cho Việt Nam

Việt Nam Đức tiếp tục hỗ trợ chiến dịch tiêm chủng của Việt Nam với một lô vắc-xin thứ hai được gửi tới quốc gia Đông Nam Á này. Theo đại sứ quán Đức ở Việt Nam, ngày 26/9, lô vắc-xin tiếp theo với tổng cộng 2,6 triệu liều vắc-xin AstraZeneca ngừa COVID-19 đã về đến Thành phố Hồ Chí Minh. Tin cho hay, lô vắc-xin này được viện trợ từ nguồn dự trữ của Đức như đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel đề xuất với Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính. Theo cơ quan ngoại giao Đức ở Hà Nội, phát biểu tại lễ bàn giao vắc-xin ngày 27/9 tại trụ sở Bộ Ngoại giao Việt Nam với sự có mặt của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Tô Anh Dũng và đại diện Bộ Y tế, Đại sứ Đức tại Việt Nam Guido Hildner nói rằng “đây là lô vắc-xin thứ hai từ Đức trong vòng hai tuần qua” và rằng “cùng với lô vắc-xin được vận chuyển qua cơ chế COVAX ngày 16/9, chính phủ Đức đã viện trợ tổng cộng 3,45 triệu liều”. Ông Hildner được trích lời nói tiếp rằng “sự hỗ trợ này thể hiện tinh thần đoàn kết của chúng tôi với người dân tại Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh cam kết của chúng tôi đối với mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam mà hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập trong năm nay”. “Nước Đức luôn sát cánh cùng Việt Nam trong quá trình phòng chống và vượt qua đại dịch COVID-19”, ông Hildner nói, theo Đại sứ quán Đức. Theo cơ quan ngoại giao này, ngoài việc viện trợ các lô vắc-xin này, Đức và Việt Nam còn hợp tác chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực phòng chống dịch bệnh COVID-19. Tin cho hay, đầu năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ủng hộ Đức hơn 100.000 khẩu trang, và vào mùa hè năm 2021, một số bang của Đức đã viện trợ cho Việt Nam tổng cộng một triệu kít xét nghiệm nhanh kháng nguyên cũng như khẩu trang, quần áo bảo hộ và tủ lạnh chuyên dụng. Ngoài ra, theo đại sứ quán Đức, lĩnh vực hợp tác phát triển giữa Đức và Việt Nam cũng góp phần vào việc ứng phó với đại dịch COVID-19. Tin cho hay, một khoản kinh phí lên đến 104 triệu Euro sẽ được sử dụng để triển khai các dự án hiện tại và tương lai trong các lĩnh vực đào tạo nghề, phòng chống dịch bệnh, Một Sức khỏe (One Health), Phục hồi Xanh (Green Recovery), mạng lưới an sinh xã hội và số hóa, trong đó bao gồm kế hoạch xây dựng một trung tâm phòng chống dịch bệnh cùng với Bộ Y tế Việt Nam cũng như thiết lập các dịch vụ tư vấn về phòng chống buôn bán động vật hoang dã. Thêm nữa, tháng 5 vừa qua, Cơ quan Trao đổi hàn lâm Đức (DAAD) đã thành lập một trong bốn trung tâm toàn cầu mới về y tế và phòng chống dịch bệnh tại Việt Nam, và trung tâm này sẽ giúp phòng ngừa và điều trị các căn bệnh truyền nhiễm. Về đợt trao vắc-xin mới nhất hôm 27/9, theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng “bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới Chính phủ Đức về khoản hỗ trợ y tế gồm 2,6 triệu liều vắc-xin AstraZeneca qua kênh song phương, hơn 850 ngàn liều vắc-xin qua cơ chế COVAX và nhiều trang thiết bị vật tư y tế”. Ông Dũng được Bộ Ngoại giao trích lời nói tiếp rằng “đây là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tinh thần đoàn kết của Chính phủ Đức đối với Chính phủ và nhân dân Việt Nam, hỗ trợ thiết thực cho Việt Nam trong lúc dịch bệnh diễn biến phức tạp”. “Đồng thời, đây cũng là minh chứng sinh động cho tình hữu nghị gắn bó giữa hai nước, hai dân tộc, trong bối cảnh Việt Nam và Đức đang kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược (11/10/2011 - 11/10/2021)”, ông Dũng được trích lời nói và bày tỏ mong muốn rằng “Đại sứ Đức tiếp tục tham mưu, đề xuất chính phủ Đức hỗ trợ y tế cho Việt Nam, đặc biệt là tạo thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn cung vắc-xin, cung cấp vật tư, thiết bị y tế và hợp tác trong sản xuất vắc-xin và thuốc điều trị COVID-19”. Theo phía Việt Nam, tính đến ngày 28/9, khoản viện trợ vắc-xin và trang thiết bị y tế của chính phủ Đức là “sự hỗ trợ lớn nhất của một nước thành viên EU đối với Việt Nam”.
......

Bầu cử Đức: Tương lai nào sẽ đến?

Nguyễn Phú Lộc Cuộc bầu cử vừa chấm dứt hôm 26.9.2021 với một kết quả mà người ta có thể phỏng đoán từ hai tháng qua. Nền chính trị Đức đứng trước tình huống không dễ dàng để đưa ra một thỏa hiệp chính trị giữa các đảng phái để thành lập chính phủ. Dù chỉ là tạm thời, nhưng kết quả sau đây chắc hẳn không có gì thay đổi đáng kể. Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) lên nắm quyền sau 16 năm độc bá của Liên minh Cơ Đốc (CDU/CSU) thuộc Angela Merkel. Về các đảng lớn truyền thống: Điều rõ ràng nhất từ kết quả này là: Dù Angela Merkel rất nổi danh trên các vấn đề quốc tế, nhưng trong nội bộ nước Đức, dân chúng đã thất vọng và không còn đặt cược số phận của mình cho các đảng lớn, như họ đã từng tin tưởng hơn 50 năm qua. Trong hơn nửa thế kỷ đó, CDU/CSU hoặc SPD, dù chưa bao giờ đạt được đa số tuyệt đối, nhưng họ cũng thay phiên nhau chiếm được số phiếu đủ cao để có thể thành lập chính phủ với một đảng nhỏ nào đó, hoặc là Dân chủ Tự do (FDP) hoặc Đảng Xanh (Grüne). Với CDU/CSU, đi từ thắng lợi rực rỡ của Helmut Kohl với 48,8%, đến Angela Merkel với 32,9% vào nhiệm kỳ cuối cùng, và bây giờ Armin Laschet chỉ đạt 24,1%. Đảng cầm quyền của Angela Merkel bị giảm mất 8,8% chứng tỏ rằng, ngoài khả năng tranh cử quá kém của Armin Laschet, nguyên nhân lớn nhất vẫn nằm ở chính quyền Angela Merkel, trong thời gian qua đã thất bại trong việc đáp ứng yêu cầu của dân chúng. Một vài nguyên nhân nổi bật có thể nhận thấy là: 1) Cơ cấu quản lý nhà nước không đạt hiệu quả cao để đối phó những cuộc khủng hoảng bất chợt xảy đến. Đại dịch COVID và thảm họa thiên nhiên vừa mới đây đã chứng minh cho mọi người thấy rằng, dù chuyên gia có thể phát họa được con đường giải quyết khủng hoảng, nhưng sức ì của hệ thống quan liêu phức tạp đã làm cho các biện pháp xử lý không đạt được tốc độ nhanh chóng cần thiết. Hiệu quả quản lý rõ ràng chưa đạt đến mức độ mong muốn so với nguồn lực đang có. Hai tháng sau thảm họa bão lụt ở vùng biên giới Bỉ mà vẫn còn có gia đình phải sinh sống tạm bợ cho qua ngày. Tiền thì nhà nước không thiếu, nhưng hệ thống quan liêu rườm rà đã làm cho những cố gắng hỗ trợ từ mọi phía trở thành vô dụng. 2) Cơ cấu hạ tầng về kỹ thuật số không đủ độ phủ sóng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của dân chúng và công nghiệp. Trong một nước giàu như Đức, mà vẫn còn một số người dân ở vùng quê chưa tiếp cận được hàng ngày với Internet. Sự phát triển mạng truyền thông cấp cao (thí dụ 5G) vẫn còn ì ạch, trong lúc các nhu cầu của công nghiệp rất lớn. Mặc dù về công nghệ, các định chế tư nhân đã có đủ lời giải tối ưu vốn đã được giải quyết trong phạm vi thử nghiệm, nhưng để biến chúng thành ứng dụng thực tế thì gặp phải trở ngại về cơ cấu hạ tầng. Tất cả các công ty dịch vụ mạng đều ở trong tay tư nhân, nhưng điều đó không thể xem là lý do để biện hộ cho sự yếu kém của hệ thống luật pháp vốn dĩ là vai trò quan trọng hàng đầu của nhà nước Đức. 3) Chiến lược phát triển của nhà nước có vẻ không hoàn chỉnh để đối phó với những thách thức lớn lao của thời đại. Một vài lĩnh vực sau đây vẫn còn là những ẩn số chưa có lời giải: Dân số ngày càng già, tỉ lệ lao động trong dân chúng ngày càng thấp, trong lúc hệ thống an sinh xã hội phục vụ cho người già đã đến ngưỡng quá tải. Nếu chính sách nhập cư của Đức không tiến hành hợp lý, vị trí của Đức trên trường quốc tế sẽ suy giảm trong vài thập kỷ tới; Về biến đổi khí hậu, người ta chỉ nghe nói nhiều về năng lượng tái tạo, nhưng một giải pháp tổng thể vẫn còn mơ hồ. Việc ngưng sử dụng năng lượng hạt nhân và than nâu là những lời giải cục bộ, trong lúc việc truyền tải năng lượng từ các vùng phát điện tái tạo ở miền Bắc xuống vùng dân cư đông đúc và công nghiệp dày đặc ở miền Nam, sau 5 năm bàn cãi vẫn chưa có một lời giải dứt khoát. Đấy là chưa kể, biến đổi khí hậu không còn là vấn đề của các quốc gia riêng lẻ, mà là vấn đề toàn cầu. Tiếng nói của Đức trên quốc tế dường như còn quá yếu để có thể ảnh hưởng được điều gì. Về bất bình đẳng xã hội, nội các chính phủ trong 16 năm qua vẫn không tìm được một giải pháp hiệu quả để ngăn chặn xu hướng ngày càng tồi tệ: hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng rộng, trong lúc nhà nước bất lực trong việc huy động tài sản của những người siêu giàu cho các dự án xã hội cần thiết. 4) Về công nghiệp xe hơi, vốn dĩ là cột xương sống của nền công nghiệp quốc gia, nuôi sống hàng triệu người lao động và hàng chục ngàn công ty cung cấp linh kiện, thì dường như nhà nước khoán trắng cho tư nhân như những đứa con rơi. Các tập đoàn xe hơi lớn như VW, BMW, Mercedes, AUDI vốn không thua kém ai trong suốt cả 100 năm qua, và luôn luôn là những công ty tiên phong trong việc đáp ứng nhu cầu người tiêu thụ về các đòi hỏi công nghệ mới, thì giờ đây họ bỗng nhiên lu mờ trên thị trường quốc tế, thí dụ trong lĩnh vực xe hơi chạy điện. Cả bốn tập đoàn nói trên đã có sẵn lời giải trong hộc tủ, họ chỉ cần một khung pháp lý phù hợp, nếu được hỗ trợ thêm một ít tài chính thì càng tốt, họ sẽ nhanh chóng chiếm lại ưu thế đã mất, hoặc nuốt chửng hoặc đánh bạt luôn cả Tesla cũng không phải là điều không thể. Nhà nước Đức đã bất lực thời gian qua để đưa ra khung luật pháp cần thiết để thúc đẩy xu hướng thời đại trong công nghiệp xe hơi. 5) Sự thay đổi tư tưởng và lối sống của giới trẻ: CDU/CSU và cả SPD, đều có một lượng cử tri rất đông đảo thuộc thành phần trên 60 tuổi, chiếm gần 25%. Trong lúc đó, thế hệ trẻ của Đức hoàn toàn khác với các thế hệ cha ông của họ. Để xây dựng tương lai, họ đã trở nên xa lạ với truyền thống ăn chắc mặc bền, đổ hết tiền vào các qũy tiết kiệm, hoặc khá hơn là đầu tư vào bất động sản, mà ngôn ngữ Đức gọi là Beton Gold (nhà cửa là vàng). Giờ đây, gần một nửa giới trẻ trong lứa tuổi dưới 40 có xu hướng đầu tư vào các sáng kiến mới đầy rủi ro, nhưng cũng đầy cơ hội vàng chờ đón. Công ty vắc-xin BioNTech là một thí dụ, họ lỗ lã suốt 10 năm qua, bây giờ thành công lớn trong vòng vài tháng. Trong lúc đó thì mặc dù nguồn lực không thiếu, khung pháp lý của Đức vẫn chưa thể hiện tư duy mới của chính phủ để hỗ trợ các Start-Up. Chỉ cần nhìn quanh trên thế giới, có biết bao nhiêu lời giải hay: Mỹ có độ uyển chuyển cao, Bắc Âu có chính sách ủng hộ đầu tư kinh doanh kết hợp với chính sách xã hội tiến bộ. Không đáp ứng được đòi hỏi mới của giới trẻ, các đảng lớn truyền thống sẽ dần dần biến mất trên sân khấu chính trị Đức chỉ trong vòng vài nhiệm kỳ tới. Về phía các đảng nhỏ: Có những thay đổi lớn trong hoạt cảnh các đảng nhỏ. Trước hết, đảng cực hữu AfD (Alternative für Deutschland – Chọn lựa khác cho nước Đức) giảm hơn 2% sau thắng lợi huy hoàng cách đây bốn năm. Mặc dù AfD vẫn chiếm tỉ lệ cao ở hai tiểu bang, xu hướng chung trên liên bang không hề thuận lợi cho tư tưởng cực hữu. Rất có thể AfD sẽ rơi vào tình trạng của đảng cực hữu Republikaner vào thập niên 1990, đã vươn lên huy hoàng trong 10 năm, rồi dần dần rơi vào quên lãng không để lại một dấu vết nào. Xu hướng chung hiện nay cho thấy, rất có thể AfD cũng theo lộ trình đó. Hai nhiệm kỳ bầu cử sắp tới sẽ chứng minh rõ hơn. Sau nữa, Đảng Tả (Die Linke) không vượt qua được rào cản 5%, cho nên ngoại trừ vài ba đại biểu trúng cử trực tiếp, trong quốc hội không còn điều gọi là phái đoàn Đảng Tả để có thể ảnh hưởng lên các chính sách quan trọng. Di sản của Đông Đức (DDR – Cộng hòa Dân chủ Đức) dường như chỉ còn le lói ở vài tiểu bang phía Đông, và rất có thể sẽ rơi vào quên lãng trong thập niên tới. Cuối cùng, hai đảng nhỏ còn lại, Dân chủ Tự do (FDP) và Đảng Xanh (Die Grüne), với bề dày kinh nghiệm chính trị hơn nửa thế kỷ, trở nên những đảng quan trọng, không những có thể ảnh hưởng đến quá trình thành lập chính phủ trong vòng vài tuần tới, mà còn sẽ quyết định mạnh mẽ lên chương trình nghị sự của nội các sắp tới. Đa số cử tri ủng hộ hai đảng này thuộc thành phần trung lưu và trẻ dưới 40 tuổi. Nếu các đảng lớn truyền thống không cải cách triệt để, một ngày nào đó sẽ bị thay thế bởi hai đảng FDP và Đảng Xanh. Liên minh nào sẽ thành hình? Theo kết quả ở trên, chính phủ Đức nhiệm kỳ tới có thể là một trong ba liên minh sau đây: – Liên minh SPD + CDU/CSU: liên minh này không được dân chúng ưa chuộng (ít hơn 15%), ngoài ra cả hai vị thủ lãnh đều xem đây là giải pháp xấu nhất, chỉ thực hiện trong điều kiện “chẳng đặng đừng”. – Liên minh SPD + FDP + Đảng Xanh – Liên minh CDU/CSU + FDP + Đảng Xanh Đây là tình huống vô cùng khó khăn cho nền chính trị Đức. Trong quá khứ, hai đảng FDP và Đảng Xanh vốn xem như „không thể ngồi chung“ trên bàn nghị sự. Cách đây bốn năm, một liên minh tay ba như thế không thể thỏa thuận được, cuối cùng đưa đến đám cưới bất đắt dĩ giữa CDU/CSU và SPD. FDP thì nghiêng về kinh tế và chống việc tăng thuế, Đảng Xanh thì chú trọng việc bảo vệ môi trường cho dù phải hy sinh quyền lợi giới công nghiệp. Sẽ vô cùng gay go, chưa chắc một liên minh có thể được thành lập trước cuối năm. Đảng nào, SPD hay CDU/CSU, sẽ được phép cử người làm Thủ tướng? Thật khôi hài, điều đó không tùy thuộc vào chính hai đảng đó, mà hoàn toàn tùy thuộc vào cách hành xử của hai đảng nhỏ còn lại, FDP và Đảng Xanh. Nếu có thỏa hiệp tay ba, thì đây là lần đầu trong lịch sử nước Đức có một nội các ba thành phần. Dù khó khăn, liên minh đó cũng khá hơn là tổ chức lại một đám cưới của hai người đã tuyên bố ly hôn: SPD và CDU/CSU. Đố có ai dám quả quyết liên minh nào sẽ ra đời? Nguyễn Phú Lộc Nguồn: https://diendankhaiphong.org/bau-cu-duc-tuong-lai-nao-se-den/ Để hiểu hệ thống bầu cử của Đức, xin xem bài viết súc tích của TS Nguyễn Tường Bách: https://www.diendan.org/the-gioi/hallo-deutschland-lich-su-sang-trang
......

Bàn cờ Ấn Độ Thái Bình Dương thay đổi

Các lãnh đạo của QUAD: TT Joe Biden (Mỹ), từ trái: Scott Morrison (thủ tướng Úc), Narendra Modi (thủ tướng Ấn Độ), thủ tướng Nhật Bản (Yoshihide Suga), tại Tòa Bạch Ốc. Ngô Nhân Dụng| Ngày Thứ Sáu 24 tháng Chín 2021 Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản và Australia (nhóm QUAD) họp thượng đỉnh, lần đầu tiên, ở Washington D.C. Cuộc họp diễn ra trong bối cảnh AUKUS được khai sinh, giữa A (Australia), UK (Anh quốc) và Mỹ (US), giúp nước Úc chế tạo 8 chiếc tàu ngầm nguyên tử theo mẫu của Anh và Mỹ, trong mười năm tới. Bắc Kinh đã cực lực phản đối thỏa hiệp AUKUS. Vì đây là một chuyển hướng quân sự và ngoại giao quan trọng của nước Úc để đối phó với việc bành trướng của Trung Cộng trong vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Đó cũng là mục tiêu khi QUAD ra đời. Nhưng AUKUS là bước tiến cụ thể đầu tiên, mặc dù trước đây đã có liên minh quân sự giữa ba nước Australia, New Zealand và US trong hiệp ước ANZUS. Ba quốc gia đã thảo luận vấn đề này trong bí mật nhiều tháng qua; việc hợp tác bao gồm các khía cạnh kỹ thuật chế tạo và các vấn đề mới như Trí khôn Nhân tạo (AI) và an ninh tin học (cyber-security) Với AUKUS, Úc sẽ mạnh hơn về mặt quân sự, khi dùng tàu ngầm nguyên tử có thể lặn sâu lâu ngày hơn, với hỏa tiễn bắn tầm xa hơn. Dự án Úc ký với Pháp năm 2016 làm 12 tàu ngầm chạy điện và diesel. Những tàu ngầm kiểu cũ từ căn cứ ở Perth đi tuần trong vùng Đường Chín Đoạn mà Trung Quốc vẽ ra, có thể giữ im khi chạy máy điện; nhưng bị giới hạn trong vòng hai tuần lễ. Các tàu ngầm nguyên tử có thể đi lâu hơn, từ 77 đến 81 ngày. Thời gian hoạt động trong vùng Trường Sa và biển Đông nước ta sẽ gia tăng từ 11 ngày lên 77 ngày. Trong thời gian đó, hải quân Úc có thể theo dõi, thu lượm tin tức về hoạt động của hải quân Trung Cộng. Các tàu ngầm nguyên tử còn có thể phóng hỏa tiễn đường xa, từ vùng biển phía Đông Philippines sang tới lục địa Trung Quốc. Nhưng AUKUS còn mang ý nghĩa chiến lược; chứng tỏ một chuyển hướng ngoại giao quan trọng của nước Úc, cùng quyết định “chuyển trục sang Á châu” của Mỹ để đối phó với Trung Cộng. Cho nên ngày 16 tháng Chín, phát ngôn viên ngoại giao của Bắc Kinh Triệu Lập Kiên (Zhao Lijian, 赵立坚) đã lên án thỏa thuận giữa Mỹ, Anh và Úc “gây tai hại cho hòa bình và ổn định trong vùng.” Triệu Lập Kiên còn lo AUKUS sẽ dẫn đến một “cuộc chạy đua vũ khí, kể cả vũ khí nguyên tử.” Vì trong khi tiếp nhận kỹ thuật chế tạo tàu ngầm nguyên tử, nước Úc có cơ hội phát triển kỹ thuật tinh luyện chất uranium, có thể đến trình độ làm bom. Nhưng chính Trung Cộng đã gây ra tình trạng bang giao căng thẳng với nước Úc. Trong hai thập niên vừa qua, Úc vẫn thân thiện với Trung Quốc, xuất cảng quặng mỏ, nông phẩm với số lượng giao thương lớn nhất. Năm ngoái, Trung Cộng bất bình khi chính phủ Úc yêu cầu cho các chuyên gia quốc tế đến điều tra nguồn gốc của Vi khuẩn Vũ Hán gây bệnh dịch Covid-19. Trung Cộng phản ứng giận dữ, bỗng nhiên ngưng nhập cảng nhiều thứ hàng. Một đạo luật của Úc nhằm ngăn chặn người ngoại quốc can dự vào chính trị nội bộ được ban hành sau khi thấy chứng cớ các công ty của Bắc Kinh tìm cách ủng hộ một số nhà chính trị Úc. Úc cũng tố cáo những “nhà báo” Trung Cộng đóng vai gián điệp. Trung Cộng tỏ ra coi thường nước Úc, công bố 14 điểm “kể tội” Úc về các hành động trên. Không riêng chính sách ngoại giao của Úc thay đổi, chính nước Mỹ cũng chuyển hướng. Cán cân lực lượng hải quân trong vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương sẽ dần dần thay đổi. Các cứ điểm quân sự của Mỹ trong vùng này từ lâu vẫn đặt trên các hải đảo; từ Hawaii đến Guam, Okinawa ở Nhật và Diego Garcia thuê nhượng từ Anh quốc ở phía Nam Ấn Độ. Liên minh với Úc, từ nay Mỹ sẽ có thể đặt căn cứ trên một địa bàn rộng như một lục địa. Nhật Bản là đồng minh lớn nhất của Mỹ trong vùng, gần đây đã cải thiện quan hệ về an ninh với Úc; có thể đóng góp các kỹ thuật mới nhất về kiến thiết tàu ngầm. Bốn năm trước, Tổng thống Donald Trump rút khỏi hiệp ước Hợp tác Thái Bình Dương (TPP). Sau đó, 11 nước còn lại vẫn tiếp tục với một thỏa ước mới, mang tên CPTPP, bỏ bớt một số điều khoản do Mỹ “ép buộc,” như bảo vệ nhân quyền và quyền lập công đoàn của giới lao động. Trong thời gian đó, Trung Cộng tỏ ra hung hãn hơn trước; củng cố các căn cứ quân sự và cho ngư dân tới đánh cá trong vòng đai Đường Chín Đoạn thuộc hải phận của Việt Nam hoặc Philippines. Năm ngoái, Trung Cộng gây nên cuộc chạm súng với quân đội Ấn Độ ở biên giới; tiếp tục quấy nhiễu vùng biển quanh hòn đảo Sensaku mà người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư Đài. Bắc Kinh có lúc còn đe dọa ngưng mua bán với Nam Hàn. Ngay sau khi Mỹ với Úc thỏa thuận về tàu ngầm nguyên tử, Bắc Kinh đã tỏ ý muốn gia nhập thỏa ước CPTPP mà trước đây Mỹ đã gạt Trung Cộng ra ngoài. Bắc Kinh còn tỏ ý giận dữ khi Đài Loan cũng muốn tham dự vào CPTPP! Anh quốc cũng từng xin gia nhập thỏa ước này. Nhưng ai cũng biết rằng 11 nước trong đó không thể chấp nhận Trung Cộng mà có thể nhận Anh quốc và Đài Loan vì thỏa ước này không cho phép các nước được trợ cấp các doanh nghiệp nhà nước như chủ trương cố hữu của chế độ cộng sản. Thỏa hiệp AUKUS và CPTPP đang thay đổi bản đồ ngoại giao trong vùng Đông Nam Á. Các nước Philippines và Singapore công khai hoan nghênh. Các nước ở xa hơn như Nhật Bản và Đài Loan cũng hoan nghênh. Việt Nam cũng vậy, dù không dám nói công khai. Hai nước Nam Hàn và Nhật Bản có thể sẽ hợp tác với Mỹ để chế tạo tàu ngầm nguyên tử. Chỉ có các nước Âu châu còn im lặng. Chính phủ Pháp có lý do chính đáng khi than phiền nước Úc đã xóa bỏ thỏa thuận làm tàu ngầm với họ, đáng giá $100 tỷ mỹ kim. Dự án này nằm trong chiến lược của Pháp trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, nơi nước Pháp làm chủ nhiều hòn đảo, với 7,000 quân sĩ và gần 2 triệu công dân sinh sống. Các nước Âu châu khác cũng không hề được chính phủ Mỹ báo trước về AUKUS! Họ không quên rằng chính phủ Mỹ cũng hành động như vậy khi rút quân nhanh chóng khỏi Afghanistan. Trong toàn thể chiến lược của Mỹ ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương còn một “lỗ hổng” lớn, về kinh tế và thương mại. Số lượng hàng xuất cảng và nhập cảng của Trung Quốc với các nước Á Đông và Thái Bình Dương, trong năm 2019 mỗi loại đều lên gần một ngàn tỷ đô la; trong khi nước Mỹ nhập cảng dưới $500 tỷ và xuất cảng dưới $300 tỷ với các nước này. Tuy nhiên, nước Mỹ có thế mạnh trong các công nghiệp kỹ thuật cao cấp. Nước Mỹ có thể hợp tác với Nhật Bản và Ấn Độ cùng tham dự với Úc cùng phát triển các ngành như Trí khôn Nhân tạo (AI), vi tính lượng tử (uantum computing), bao trùm cả các hoạt động về an ninh, vì cả ba đều theo chế độ tự do dân chủ. Cộng thêm Nam Hàn và Đài Loan, các nước này, cùng với các đồng minh ở Âu châu, sẽ đặt nền tảng và xác định các tiêu chuẩn cho các phát minh, sáng kiến kỹ thuật trong tương lai, lôi kéo theo các nước khác. Trung Cộng và Nga sẽ rất yếu trước một khối kỹ thuật cao đẳng như vậy. AUKUS là một bước đầu trong cuộc chuyển hướng của Mỹ trở lại vùng Đông Á và Thái Bình Dương. Một vấn đề là chính sách của nước Mỹ có thể thay đổi khi các đảng thay nhau lên nắm quyền. Liệu các quốc gia trong vùng có thể yên tâm liên kết với Mỹ trong thời gian lâu dài hay không? Điều này do người dân Mỹ đi bỏ phiếu quyết định.  
......

Bầu cử quốc hội liên bang Đức 2021

Kết quả cuộc bầu cử quốc hội liên bang Đức vào ngày 26.9.2021 vừa qua liên minh lưỡng đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU) và Xã hội Thiên chúa giáo (CSU) của thủ tướng Angela Merkel chỉ đạt được 24,1% số phiếu cử tri, tính ra đã bị mất đến 8,8% so với kỳ bầu cử vào năm 2017.   Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD), đảng chính trị lâu đời nhất của Đức, đã giành được 25,7% số phiếu bầu, tăng 5,2% so với cuộc bầu cử liên bang năm 2017.   Olaf Scholz, ứng cử viên thủ tướng của Đảng SPD, hôm thứ Hai, 27.9.2021 tuyên bố sẽ củng cố Liên minh châu Âu và duy trì mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương trong một chính phủ liên minh ba bên mà ông hy vọng sẽ thành lập vào trước Giáng sinh.   Ông Scholz, 63 tuổi, cho biết một chính phủ liên minh với đảng SPD do ông lãnh đạo sẽ đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục duy trì các mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương.   Trong cùng ngày, người đối thủ là Armin Laschet (CDU), 60 tuổi, cho rằng ông ta vẫn có thể cố gắng thành lập chính phủ mặc dù đã lãnh đạo khối CDU / CSU đến một kết quả bầu cử quốc gia tồi tệ nhất từ trước đến nay.   Trong cuộc bầu cử quốc hội liên bang kỳ này so với kỳ trước 2017 thì đảng cực hữu AFD (Một giải pháp khác cho nước Đức) chỉ đạt 10,3%, tính ra đã mất 2,3%; đảng Linke (hậu thân đảng CS Đức) chỉ đạt 4,9% (mất 4,3%), các đảng nhỏ khác đạt 8,7% (tăng 3,5%); đảng Xanh (Grün) giành được 14,8% số phiếu bầu (tăng 5,9%), đảng FDP (tự do dân chủ) được 11,5% (tăng 0,8%). Sắp tới đảng các bên sẽ bắt đầu nói chuyện với nhau trong các cuộc thảo luận về việc thành lập liên minh để nắm chính quyền. Có 3 khả năng liên minh như sau: - SPD + Grün + FDP - CDU, CSU + Grün + FDP - CDU,CSU + SPD Quốc hội liên bang Đức có 735 ghế được chia theo tỉ lệ như hình trên.   Đảng Grün và FDP công bố hôm Chủ Nhật rằng họ sẽ thảo luận trước với nhau để tìm kiếm các lĩnh vực thỏa hiệp, trước khi bắt đầu đàm phán với SPD hoặc liên đảng CDU / CSU.   Bà Merkel đã không ra tranh cử thêm nhiệm kỳ thủ tướng lần thứ năm, và sẽ giữ vai trò người giám sát trong các cuộc đàm phán liên minh để đi đến việc thành lập một chính phủ tương lai của nền kinh tế lớn nhất châu Âu.   Đó là câu chuyện ở Đức. Còn ở Việt Nam thì chỉ có một đảng cộng sản duy nhất và lãnh đạo đảng cứ nhất định lì lợm ôm chặt chiếc ghế cầm quyền chờ đến khi người dân nổi giận mạnh dạn đứng lên giành lại./.  
......

Ngoại giao văn hóa 5.0 và "cú đấm" BTS của Hàn Quốc

Nguyen Huy Vu Cựu đại sứ Hoàng Anh Tuấn có một phân tích rất thú vị về cách làm thương hiệu của Hàn Quốc nhân chuyện ban nhạc BTS của Hàn Quốc đến biểu diễn ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Người ta có thể không biết đến Hàn Quốc là ai nhưng thông qua văn hoá, mà cụ thể ở đây là ban nhạc nổi tiếng BTS, người ta biết đến Hàn Quốc. Sau khi biết đến Hàn Quốc rồi thì người ta sẽ tìm hiểu các sản phẩm của Hàn Quốc để mua, từ điện thoại, ti vi, cho đến kim chi. Và ngược lại, sau khi dùng thử các sản phẩm cứng của Hàn Quốc, như xe hơi, đồ điện tử, nếu thấy vừa lòng, thì họ sẽ tìm hiểu đến các sản phẩm “mềm” của Hàn Quốc như âm nhạc, ẩm thực, văn hoá, du lịch. Nói người rồi nghĩ đến mình. Trong bao năm ở nước ngoài, đi bao nhiêu nước, điểm đầu tiên người ta nhắc đến Việt Nam, đối với những người chưa bao giờ trải nghiệm ở Việt Nam, đó là câu hỏi: nước mày vẫn còn ở chế độ cộng sản hả? Lúc đó tôi chỉ biết trả lời rằng, ừ nước tao là một trong những nước cộng sản của thế giới còn sót lại. Còn những người đã từng đến Việt Nam, họ đều khen đẹp, thức ăn ngon. Cái cảm nghĩ của những người đã đến Việt Nam đó là tại sao nước mày có nhiều tài nguyên, con người lanh lợi thông minh vậy mà lại chịu chấp nhận sự lãnh đạo của một đảng Cộng sản độc tài như một cô gái đẹp suốt ngày bị hãm hiếp bởi một kẻ thất phu, để rồi cô gái đó mỗi ngày thêm thân tàn ma dại. Nhận xét đó nó không quá lời đâu. Bạn hãy nhìn những công trình xấu xí một cách đầy đau đớn mọc lên ở khắp Việt Nam, các thành phố ngày mỗi ô nhiễm, chật chội, các cánh rừng chặt trụi, các đỉnh núi bị cạo, và các chính sách chống dịch chỉ làm tan hoang đất nước. Nhiều bạn cũng sẽ hỏi, ủa Trung Quốc cũng có đảng Cộng sản, rồi Triều Tiên, Cuba cũng có đảng Cộng sản thì sao? Câu trả lời là trong cả bốn nước cộng sản thì dân Trung Quốc được người ta coi trọng hơn cả. Coi trọng bởi vì Trung Quốc mạnh, chứ họ không nể. Thế giới đã qua rồi kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh, nhưng ám ảnh của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn. Chừng nào một quốc gia thoát khỏi chủ nghĩa độc tài, gia nhập với thế giới tự do văn minh, thì văn hoá mới được người ở xứ văn minh tôn trọng, ngưỡng mộ, và lan toả. Người ta ăn KFC hay McDonald không chỉ vì nó dễ ăn, ở vị trí thuận tiện, sạch sẽ, mà còn bởi vì thấy thoải mái với hình ảnh của thương hiệu Mỹ, một xứ sở của tự do. Hãy thử thay bằng một thương hiệu của Triều Tiên ở cùng vị trí thử xem coi có bao nhiêu người muốn vào ăn? Cho nên nói đi cũng phải nói lại, cái chế độ chính trị là công cụ rất quan trọng để quảng bá một quốc gia. Trong kỷ nguyên dân chủ, không có chổ đứng cho một vị trí của một chế độ độc tài. Sớm hay muộn, các chế độ độc tài phải bị quét đi, như thông điệp mà Mỹ đang thể hiện ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc: Mỹ đang dẫn đầu liên minh để chống lại các lực lượng phản dân chủ. —————— [Ngoại giao văn hóa 5.0 và "cú đấm" BTS của Hàn Quốc] Tác giả: Cựu đại sứ Hoàng Anh Tuấn 1. Đại hội đồng LHQ họp vào tháng 9 hàng năm, bắt đầu từ ngày Thứ ba của tuần thứ ba. Đây là nơi các nguyên thủ, lãnh đạo các quốc gia trên thế giới tề tựu, bàn chuyện bang giao, tế thế như chống con Covid-19, phân phối vaccine, khôi phục kinh tế sau đại dịch, biến đổi khí hậu, chiến tranh lạnh mới... Tóm lại là toàn các vấn đề to đùng. 2. "Tự dưng" năm nay anh Hàn Quốc chơi "khác người". Đoàn Hàn Quốc do Tổng thống Moon Jae-in dẫn đầu, và không có ý định có bài diễn văn đao to, búa lớn. Tuy nhiên, Tổng thống Moon lại đem theo "Át chủ bài" là ban nhạc nổi tiếng BTS. Muốn biết BTS là ai thì đề nghị tra thêm Google. Đại để: - Đây là ban nhạc toàn nam Boy Band gồm 7 ông tóc vàng, ăn mặc sành điệu: Jin, Suga, J-Hope, RM, Jimin, V, và Jungkook. - Boy Band này ra đời cách đây khoảng 10 năm (2010), nhưng từ năm 2015 đã trở thành ban nhạc số 1 Hàn Quốc và thuộc sở hữu của công ty Big Hit Entertainment. - Trong vài năm gần đây, tiếng tăm của BTS vượt ra ngoài biên giới Hàn Quốc và vươn tới tầm toàn cầu. Nhiều bài hát và tên tuổi của BTS chiếm lĩnh vị trí số 1 trong bảng xếp hạng âm nhạc của các cường quốc nhạc pop như Mỹ, Anh, Australia, Canada... - Boy Band này tạo ra doanh thu có tổng giá trị 4,5 tỷ USD, tức 0,3% GDP của Hàn Quốc. - Tài khoản Twitter của BTS có tới 39,3 triệu người theo dõi. Đối với thanh niên nhiều nước, họ có thể không biết Tổng thống Moon Jae-in là ai, nhưng nhắc đến BTS thì có thể kể ra danh sách các bài hát ruột, cũng như phong cách hát và ăn mặc của họ! 3. Tại sao lại là BTS và tại sao là Liên hợp quốc? Câu trả lời khá đơn giản: người Hàn Quốc ngày nay rất thực dụng. Họ là một cường quốc kinh tế và cường quốc công nghệ. Cách tốt nhất và nhanh nhất để mọi người biết đến thương hiệu Hàn Quốc, để xuất khẩu được nhiều hơn TV màn hình phẳng, Smartphone, đồ gia dụng... đi khắp thế giới là thông qua con đường ngoại giao văn hóa. Và về tính đại diện thì ở thời điểm hiện nay không "sản phẩm" nào có thể qua mặt được BTS. Hơn nữa, các thông điệp của BTS luôn nhắm vào giới trẻ, nói về các trải nghiệm tâm sinh lý, những khó khăn để vượt qua các rào cản của gia đình và xã hội - những vấn đề mà chính các chàng trai BTS đã trải qua và mong muốn chia sẻ. Bài hát "Permission to Dance" (Xin phép để khiêu vũ) cùng thông điệp đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc của BTS với sự có mặt của Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in là thông điệp khá mạnh. BTS không chỉ nói lên tiếng nói của thanh niên Hàn Quốc, mà của cả thanh niên thế giới nói chung, về 2 năm khó khăn vừa qua khi phải sống chung với dịch bệnh Covid-19, và giờ là lúc họ hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn, làm những điều có ích, đặc biệt là thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Và sự chuẩn bị công phu của Hàn Quốc đã được đền đáp xứng đáng. Ngay ngày khai mạc Đại hội đồng Liên hợp quốc, đồng loạt các tờ báo và hãng tin lớn của Mỹ và thế giới đưa tin về BTS, bài hát "Permission to Dance" của họ và màn nhảy múa tưng bừng của hàng trăm nam thanh nữ tú Hàn Quốc ngay giữa New York. Vậy thì đây đúng là "quả" PR ngoại giao văn hóa 5.0 đỉnh của đỉnh rồi còn gì!  
......

Thượng đỉnh QUAD vì một khu vực “Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”

Thanh Hà -: RFI Trong thông cáo chung kết thúc thượng đỉnh QUAD tại Nhà Trắng hôm 24/09/2021, lãnh đạo bốn nước Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc nhấn mạnh “các bên bảo vệ Nhà Nước pháp quyền, quyền tự do trên biển, trên không (…), bảo vệ những giá trị tự do và sự toàn vẹn lãnh thổ.” Sau hai giờ họp, Tổng Thống Joe Biden cùng ba vị Thủ Tướng Narendra Modi, Yoshihide Suga và Scott Morrison tránh nêu đích danh Trung Quốc. Tuy nhiên, những lời lẽ trong thông cáo chung được cho là trực tiếp nhắm vào Bắc Kinh. Cũng trong văn bản này, lãnh đạo Bộ Tứ lưu ý các bên “cùng nhau, một lần nữa cam kết thúc đẩy một trật tự căn cứ trên nền tảng pháp luật, tự do, rộng mở và không nao núng trước những hành vi cưỡng ép, để củng cố an ninh, sự thịnh vượng trong vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương và xa hơn khu vực này.” Liên quan đến hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên, mối quan tâm của Mỹ và Nhật Bản, nhóm QUAD kêu gọi Bình Nhưỡng thiên về giải pháp ngoại giao. Tuy nhiên, như đã dự báo, phần lớn nội dung thượng đỉnh lần này tập trung vào các về hợp tác trong lĩnh vực công nghệ, y tế, đối phó với đại dịch Covid-19, nhất là trong bối cảnh Ấn Độ vẫn có thêm trên dưới 30 ngàn ca dương tính với virus corona mỗi ngày. Thông tín viên Carrie Nooten tại New York ghi nhận thượng đỉnh nhóm Bộ Tứ lần này đã cố ý đẩy lùi vế an ninh xuống hàng thứ yếu để tập trung vào những hồ sơ y tế, hay chống biến đổi khí hậu: “Vào lúc mà khủng hoảng ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Pháp về vụ tàu ngầm vừa tạm lắng xuống và Trung Quốc dự báo liên minh bộ tứ QUAD sẽ ‘thất bại,’ Washington đã làm tất cả để giảm thiểu khía cạnh an ninh nhân thượng đỉnh hôm qua. Thí dụ như các bên đã xoáy vào những điểm như 1 tỷ liều vắc-xin chống Covid-19 được trao cho Ấn Độ hay thỏa thuận cho phép tăng cường mức độ an toàn về các khâu sản xuất linh kiện bán dẫn trong tương lai.  Dù vậy, cả bốn quốc gia dân chủ đều quan ngại trước đà vươn lên của Trung Quốc và những đợt thâm nhập Biển Đông của Hải Quân Trung Quốc. Các thành viên nhóm QUAD lần lượt kêu gọi duy trì một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Thủ Tướng Úc Scott Morrison tuyên bố: ‘Chúng tôi có mặt tại đây cùng nhau vì Ấn Độ – Thái Bình Dương, một khu vực mà chúng tôi mong muốn không bị những hành vi o ép, nơi mà chủ quyền của tất cả các quốc gia đều phải được tôn trọng, nơi mà mọi tranh chấp đều phải được giải quyết một cách bình tĩnh và trong khuôn khổ của luật pháp quốc tế.’ Sau thông báo thành lập liên minh quân sự AUKUS, nhóm QUAD là liên minh thứ nhì được Hoa Kỳ khởi động lại trong vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương. Đây là một thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Châu Âu và Liên Minh Bắc Đại Tây Dương [NATO] vẫn là những đồng minh của Hoa Kỳ, nhưng cả Liên Âu và NATO không còn là những đồng minh quan trọng duy nhất đối với Mỹ. Ngoại Trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian đã trao đổi với các đồng nhiệm Ấn Độ và Nhật Bản. Chắc chắn đó là để thăm dò tác động của QUAD trong quan hệ giữa Paris với hai đối tác này.”   Thanh Hà -: RFI  
......

AUKUS: Cơn ác mộng của Bắc Kinh về một NATO châu Á đang thành hiện thực?

Tổng thống Mỹ Joe Biden họp trực tuyến từ Nhà Trắng (Washington-Hoa Kỳ) với thủ tướng Úc Scott Morrison (t) và thủ tướng Anh Boris Johnson (p), nhân buổi công bố việc thành lập liên minh AUKUS ngày 15/09/2021. AP - Andrew Harnik Trọng Nghĩa - RFI| Dư luận Pháp đến nay chủ yếu tập trung vào việc Paris mất đi một hợp đồng đóng tàu ngầm kếch xù cho Úc mà hầu như không chú ý đến liên minh chiến lược Anh-Mỹ-Úc vừa được chính thức khai sinh ngày 15/09/2021. Đối với giới chuyên gia địa lý chính trị, việc liên minh AUKUS được hình thành là một ác mộng đối với Trung Quốc, vì đây có thể là tiền thân của một “NATO châu Á” mà Bắc Kinh đang lo sợ. AUKUS là một liên minh quân sự bao gồm ba đồng minh truyền thống: Úc, Anh và Hoa Kỳ, mà tên gọi lấy từ các chữ cái đầu tiên trong tên gọi bằng tiếng Anh của ba quốc gia liên quan, xếp theo thứ tự alphabet (AUstralia – UK United Kingdom – US United States). Trung Quốc: Đối tượng trong tầm nhắm của AUKUS Thông cáo chung về việc thành lập liên minh khẳng định mục tiêu của khối này là “củng cố và hỗ trợ” lợi ích của ba thành viên trong các vấn đề quốc phòng và an ninh, thông qua việc “tăng cường chia sẻ thông tin và công nghệ” và “hội nhập sâu hơn các lãnh vực khoa học, công nghiệp và chuỗi cung ứng.” Sáng kiến ​​đầu tiên được công bố của liên minh AUKUS chính là việc Mỹ và Anh sẽ “hỗ trợ” Úc để có được tàu ngầm hạt nhân trong vòng 18 tháng tới đây, sử dụng năng lực công nghiệp Hoa Kỳ và Anh Quốc. Tuy nhiên, liên minh AUKUS không đơn thuần là quân sự, mà còn bao gồm các lĩnh vực khác nhau chủ yếu liên quan đến kỹ thuật số như mạng tin học, trí tuệ nhân tạo và thậm chí cả tin học lượng tử. Đối với giới quan sát, dù không được nêu đích danh, nhưng Trung Quốc chính là đối tượng mà liên minh AUKUS nhắm tới. Cả ba thành viên liên minh đều đã từng cho thấy quyết tâm ngăn chặn đà bành trướng Bắc Kinh. Mỹ: Nền tảng của liên minh Theo ghi nhận của báo Pháp Les Echos ngày 18/09, Hoa Kỳ, nền tảng của liên minh AUKUS đã cho thấy rõ quyết tâm đối đầu với Trung Quốc, và liên minh mới hình thành này nằm trong chiến lược đa phương, liên minh với các đối tác truyền thống trong một mặt trận thống nhất, trái hẳn với cách làm đơn phương thời Donald Trump. Úc: Thành viên nhiệt tình nhất Úc được cho là nước hăng hái nhất trong liên minh, vào lúc quan hệ Canberra – Bắc Kinh ngày càng căng thẳng. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc không ngừng mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, đặc biệt là kể từ khi họ tung ra sáng kiến “Con Đường Tơ Lụa Mới” vào năm 2013. Les Echos nhắc lại rằng năm 2015, Canberra đã nhượng lại cảng Darwin ở miền Bắc Úc cho tập đoàn Landbridge của Trung Quốc. Cơ sở hạ tầng chiến lược này nằm trên lộ trình của Con Đường Tơ Lụa Mới và tiếp giáp với một căn cứ Mỹ. Peter Dutton, bộ trưởng Quốc Phòng Úc, gần đây cho biết sẵn sàng chấm dứt hợp đồng cho thuê cảng Darwin, và việc xây dựng một cảng thứ hai, cho Hải Quân Úc và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ hoạt động, đang được tiến hành. Liên minh AUKUS do đó cũng nằm trong chiến lược chống Trung Quốc của Úc. Vào tháng 6 năm 2020, thủ tướng Úc Scott Morrison đã công bố ngân sách 270 tỷ đô la trong vòng 10 năm để cải thiện quân đội Úc, trong đó có việc mở rộng khả năng tấn công của Hải Quân. Anh: Phát huy chiến lược Global Britain Luân Đôn rất muốn lấy lại vị thế của mình trên trường quốc tế sau khi rời Liên Hiệp Châu Âu. Về mặt lịch sử, Anh rất gần với Mỹ và Úc, và liên minh AUKUS là một cách để Boris Johnson tái khẳng định chiến lược “Nước Anh Toàn Cầu – Global Britain” của ông, dựa trên việc tăng cường hiện diện ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương để kiềm chế Trung Quốc. Theo nhận định của hầu hết các chuyên gia, hiệp ước giữa Mỹ, Anh và Úc là một sự kiện địa chính trị rất quan trọng, cụ thể hóa quyết tâm của chính quyền Biden đối phó với Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, cơn ác mộng về sự hình thành một liên minh theo kiểu NATO ở châu Á nhằm bao vây Trung Quốc có thể là đã bắt đầu trở thành hiện thực. Trả lời phỏng vấn của báo Les Echos, ông Antoine Bondaz, chuyên gia về Trung Quốc tại Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp FRS, cho rằng AUKUS cụ thể hóa sự chuyển hướng chiến lược của Washington qua vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, khiến Bắc Kinh thêm lo ngại trước nguy cơ bị bao vây. Công nghệ tàu ngầm hạt nhân: Úc trước, các nước khác sau? Theo chuyên gia Bondaz, quyết định của Washington chuyển giao công nghệ động cơ tàu ngầm hạt nhân cho Úc rất quan trọng, vì đây là lần đầu tiên sau 70 năm mà Mỹ làm điều này. Trường hợp Úc có thể làm tiền lệ cho Nhật Bản, Hàn Quốc và trong tương lai xa hơn là Indonesia hoặc Việt Nam. Chính quyền Trung Quốc, theo ông Bondaz, chắc chắn là đang hết sức lo lắng trước nguy cơ bị Mỹ bao vây về mặt chiến lược. Trái với Washington, vốn có rất nhiều đồng minh, Bắc Kinh hầu như bị cô lập về mặt quân sự. Trung Quốc không có đồng minh quân sự nào, ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Nga và Pakistan hiện chỉ là đối tác chứ không hoàn toàn là đồng minh. AUKUS rồi QUAD, rồi Five Eyes… Đối với chuyên gia Bondaz, điều mà Bắc Kinh lo ngại hơn cả là về lâu về dài, một NATO châu Á sẽ hình thành. Với AUKUS, Washington đã thành công trong việc gắn kết hai đồng minh Anh và Úc. Sắp tới đây, Hoa Kỳ sẽ cố gắng thể chế hóa quan hệ đối tác quốc phòng của họ, bằng cách thúc đẩy việc chính thức hóa nhóm QUAD, tức là Bộ Tứ, bao gồm 4 nước Mỹ, Úc Nhật và Ấn nhân hội nghị thượng đỉnh tại Washington. Mỹ cũng đang cố gắng mở rộng liên minh tình báo Ngũ Nhãn Five Eyes (Hoa Kỳ, Anh Quốc, Canada, New Zealand, và Úc), để kết nạp thêm hai đối tác châu Á của Mỹ là Nhật Bản và Hàn Quốc. Mối lo ngại của Trung Quốc trước khả năng hình thành một “NATO Châu Á” lại càng gia tăng trong bối cảnh khối NATO đang tăng cường quan hệ với 4 đối tác chính thức trong vùng châu Á Thái Bình Dương là Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand, để bảo vệ “trật tự quốc tế dựa trên luật pháp.” Trọng Nghĩa Nguồn: RFI  
......

Thủ tướng Đức Angela Merkel hé lộ kế hoạch sau khi hết nhiệm kỳ

Theo hãng tin RIA của Nga, bà Merkel mới đây đã bác bỏ tin đồn về kế hoạch chuyển đến Hamburg sau khi bà hết nhiệm kỳ. Cụ thể, Thủ tướng Đức nói rằng, sau khi hết nhiệm kỳ bà sẽ ở lại Berlin và Uckermark, nơi gia đình bà có một căn hộ và một ngôi nhà ở vùng nông thôn. “Sẽ không xa để đi từ đó đến khu vực bầu cử cũ của tôi”, bà Merkel nói. Đồng thời, bà Merkel cho hay, bà cảm thấy “thiếu Biển Baltic”. Trước đó, Thủ tướng Merkel đã thông báo ý định rời khỏi chính trường sau cuộc bầu cử Nghị viện năm 2021. Theo kết quả bầu cử Quốc hội vào ngày 26/9, nội các Chính phủ mới của Đức sẽ được thành lập và tiến cử tân Thủ tướng. Năm 2005, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức Thủ tướng Đức và đã giữ chức vụ này trong 16 năm. Theo hãng tin DPA, Thủ tướng Đức Angela Merkel (67 tuổi) sau khi rời nhiệm sở sẽ nhận lương hưu khoảng 15 nghìn euro mỗi tháng. Số tiền lương hưu được xác định như vậy là do kể từ năm 1990 bà Merkel thường xuyên được bầu làm thành viên Hạ viện Đức. DPA cho biết, bà Merkel được hưởng lương hưu với số tiền bằng 65% lương nghị viện hiện nay. Đồng thời, bà Merkel, với tư cách là cựu thủ tướng Đức, sẽ có quyền có văn phòng riêng với 2 trợ lý, 1 thư ký và 1 tài xế. Theo một cuộc khảo sát của kênh truyền hình ARD, Thủ tướng Merkel - một trong số nhân vật nữ quyền lực nhất châu Âu, đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, từ khủng hoảng đồng euro, vấn đề bảo vệ khí hậu, loại bỏ hạt nhân sau thảm hoạ tại Fukushima (Nhật Bản), vấn đề người tị nạn và giờ đây là đại dịch Covid-19. Có tới 3/4 (75%) số người được hỏi đánh giá tích cực vai trò thủ tướng Đức của bà Merkel trong ứng phó với các vấn đề này. Đặc biệt có tới 78% số người đủ tuổi bầu cử được hỏi nhận xét nữ Thủ tướng là người có năng lực, 77% đánh giá bà có tài lãnh đạo, 71% nhìn nhận bà là người đáng tin cậy và 69% nói nữ chính trị gia 67 tuổi của đảng Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo Đức (CDU) là người có thiện cảm, dễ mến. Hôm 4/6/2020, bất chấp tỷ lệ ủng hộ đang ở mức cao, Thủ tướng Merkel tuyên bố sẽ không tái tranh cử nhiệm kỳ 5 và đang “dọn đường” cho người kế nhiệm. Cuộc đua vào ghế Thủ tướng Đức đang bước vào chặng nước rút với ưu thế nghiêng về Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Olaf Scholz, đại diện cho đảng Dân chủ Xã hội (SPD), hai ứng viên còn lại là Chủ tịch đảng Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo (CDU) đồng thời là Thủ hiến bang Nordrhein-Westfalen, ông Armin Laschet, đại diện cho Liên minh Dân chủ/Xã hội Cơ đốc giáo; và Chủ tịch đảng Xanh là bà Annalena Baerbock./.  
......

'Thời đại' của bà Angela Merkel chấm dứt sau 16 năm làm thủ tướng Đức

Lưỡng Nguyên Sau khi quyết định không ra tranh cử lần thứ năm vào ngày 26 tháng 9 năm 2021, thì thời gian nắm chính quyền của bà thủ tướng Đức Angela Merkle không còn bao lâu nữa. Trong những chuyến công du ngoại quốc cuối cùng, chuyến công du qua Mỹ vào giữa tháng 7 năm 2021 của bà trên cương vị thủ tướng có ý nghĩa và quan trọng nhất. Đây là lần đầu tiên một vị lãnh đạo châu Âu có cuộc gặp gỡ với tổng thống Joe Biden tại tòa Bạch Ốc từ khi vị tổng thống thứ 46 của nước Mỹ lên nắm chính quyền.  „Chuyến đi thăm chia tay“ của bà Merkel với mục đích là cải thiện lại mối quan hệ giữa hai quốc gia Đức và Mỹ mà dưới thời tổng thống Trump đã bị „đóng băng“. Không phải đây là lần đầu bà tới thăm chính thức thủ đô Washington mà là lần thứ 23, trong suốt thời gian tại chức bà đã làm việc với 4 tổng thống của nước Mỹ: George W. Busch, Barack Obama. Donald Trump, Joe Biden. Cũng như trên chính trường thế giới, bà đã từng làm việc với 5 thủ tướng Anh, 4 tổng thống Pháp và 7 thủ tướng Ý. Nếu mọi chuyện ra đi đúng như dự tính, thì bà Merkel là người giữ chức thủ tướng lâu thứ nhì ở Đức, vượt qua Konrad Adenauer (1949-1963), thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Liên bang Đức sau Đệ nhị thế chiến, nhưng lại ít hơn mấy ngày so với thủ tướng Helmut Kohl (1982-1998), người đã có công thống nhất nước Đức và xây dựng Liên minh châu Âu. Khi nhắc đến bà Merkel, người ta thường nghĩ đến một nữ bộ trưởng trẻ tuổi nhất trong nội các của Helmut Kohl sau khi Đức thống nhất năm 1991 (36 tuổi), thủ tướng đầu tiên xuất thân từ Đông Đức, một phụ nữ đầu tiên và trẻ tuổi nhất đứng đầu chính phủ vào năm 2005 lúc mới 51 tuổi. Nhiều tờ báo Đức cũng như Anh đã so sánh bà với cựu thủ tướng Anh Margaret Thatcher và đặt cho bà Merkel danh hiệu "Iron Lady" (bà Đầm Thép). Hai nhà lãnh đạo này có những điểm giống nhau mạnh mẽ, quyết đoán và nổi tiếng. Bà Thatcher thuộc đảng Bảo Thủ Anh, bà Merkel thuộc đảng cánh hữu Đức CDU (Liên minh Dân Chủ Thiên Chúa Giáo). Thân thế Tên thật của bà là Angela Dorothea Kasner sinh ngày 17 tháng 7 năm 1954 tại Hamburg, cha là Horst Kasner một mục sư Tin Lành và mẹ là Herlind Kasner làm nghề cô giáo. Gia đình bà có nguồn gốc từ Ba Lan di cư qua Đức sau Đệ nhất thế chiến. Đúng ra tên họ của gia đình bà là Kazmierczak, ông nội của bà tên là Ludwig Kazmierczak, sau một thời gian tới Đức, năm 1930 ông đã đổi họ thành Kasner. Năm 1957, cả gia đình bà dọn qua Templin, hồi đó thuộc lãnh thổ Đông Đức (Cộng hòa Dân chủ Đức), vì ông Horst Kasner được lãnh nhiệm vụ cai quản một nhà thờ ở vùng đó. Năm 1973, Angela Dorothea Kasner đậu tú tài với số điểm 1,0 (tối ưu). Bà nói thông thạo hai thứ tiếng Anh và Nga. Là con người say mê khoa học, bà ghi tên học về vật lý ở đại học Leipzig và lấy bằng tiến sĩ về vật lý năm 1986.  Vào những năm 70 bà xin làm việc ở Đại học Bách khoa Ilmenau, theo như lời bà kể, mật vụ Stasi của cộng sản đông Đức muốn tuyển mộ bà làm việc cho họ, nhưng bà từ chối. Chính vì thế bà không được nhận làm việc cho trường đại học. Năm 1977 bà làm đám cưới với Ulrich Merkel. một người bạn học cũng là một nhà vật lý học. Bà lấy họ của chồng và đổi tên là Angela Dorothea Merkel. Sau mấy năm chung sống, hai người chia tay nhau năm 1982. Năm 1984 bà quen ông Joachim Sauer, cũng là tiến sĩ về vật lý và sau này trở thành giáo sư đại học ở Berlin. Hai ông bà làm đám cưới năm 1998 và sống với nhau không có con cho đến ngày hôm nay. Năm 1989, sau khi bức tường Berlin chia đôi nước Đức bị sụp đổ, bà gia nhập đảng DA (Thức tỉnh Dân chủ) là một đảng nhỏ ở Đông Đức. Năm 1990, Đông Đức sáp nhập vào Tây Đức, bà ra tranh cử, thắng cử và trở thành dân biểu của quốc hội thống nhất đầu tiên. Khi đảng DA được sáp nhập vào đảng CDU, bà được thủ tướng Kohl mời làm bộ trưởng bộ Phụ nữ và thanh niên. Bà trở thành một bộ trưởng trẻ tuổi nhất trong nội các lúc bấy giờ. Ít lâu sau bà được ông Kohl giao cho một trọng trách lớn hơn là làm bộ trưởng về Môi trường và An toàn Lò Phản ứng Hạt nhân. Ở chức vụ này bà đã chứng tỏ được khả năng của mình và được thủ tướng Kohl hoàn toàn tín nhiệm. Ông thường gọi bà thân mật là „das Mädchen“ (cô gái). Năm 1998 sau 16 năm làm thủ tướng, Helmut Kohl ra tranh cử lần thứ năm và bị thua Gerhard Schröder thuộc đảng SPD (Dân Chủ Xã Hội Đức). Sau đó ông Kohl bị buộc phải nhường chức chủ tịch đảng cho Wolfgang Schäuble, bà Merkel được đề cử làm tổng thư ký đảng CDU. Hơn một năm sau, Helmut Kohl và Wolfgang Schäuble, cả hai bị dính dáng đến vụ quỹ đen của đảng và chính bà là người đứng lên công khai lên án vụ bê bối này. Ông Kohl bắt buộc phải từ chức chủ tịch danh dự và ông Schäuble phải nhường chức chủ tịch đảng CDU cho bà năm 2000. Bà trở thành một phụ nữ đầu tiên nắm chức vụ này trong một đảng có truyền thống bảo thủ. Là người đứng đầu phe đối lập, bà Merkel đã thành công và thắng thủ tướng Gerhard Schröder đảng SPD trong cuộc bầu cử vào năm 2005 để lên làm nữ thủ tướng đầu tiên và trẻ nhất trong lịch sử nước Đức.  Sự nghiệp Từ năm 2005 đến năm 2021, qua 4 lần tranh cử bà Merkel vẫn được người dân tín nhiệm và nhờ đó giữ vững được chiếc ghế thủ tướng, mặc dù có lúc phải liên minh với đảng SPD năm 2005, hay với đảng FDP (Đảng Dân chủ Tự do) năm 2009, hoặc trở lại liên minh với đảng SPD vào năm 2013 và 2017. Nhiều năm liên tiếp tạp chí Mỹ Forbes đã bầu bà là người phụ nữ quyền lực nhất thế giới, tờ Time đã bình chọn bà “Nhân vật của năm 2015” mà trước bà chỉ có cựu thủ tướng Willy Brandt là một người Đức duy nhất được danh hiệu đó cho năm 1970. Bà cũng được báo chí ngợi khen là người đàn bà có ảnh hưởng nhiều nhất ở châu Âu. Nhưng chính cái ánh hào quang sáng chói đó đã làm lu mờ những người chung quanh, làm trở ngại cho đảng CDU khi đi kiếm người kế nhiệm. Sau 18 năm trời làm chủ tịch đảng, vào năm 2018 bà phải từ chức và nhường chức vụ này cho bà Annegret Kramp-Karrenbauer, tổng thư ký đảng, vì đảng CDU bị liên tục mất phiếu trong các cuộc bầu cử ở cấp tiểu bang. Bà Kramp-Karrenbauer  là người được bà Merkel tín nhiệm và đề nghị. Tuy nhiên chỉ hơn 1 năm, bà Kramp-Karrenbauer đã xin rút lui để ông Armin Laschet lên thay thế vì bị quá nhiều áp lực trong đảng.   Trong mọi hoàn cảnh bà luôn luôn chứng tỏ là nhà Quản trị khủng hoảng (Crisis Manager) tài năng đi xây dựng sự đồng thuận. Đây cũng là sức mạnh của bà, đi tìm sự đồng thuận với tất cả phe nhóm. Bình tĩnh, thực tế và lý luận thay vì khích động, bà dễ tạo nên sự cảm thông và đạt được mục đích của mình. Mềm dẻo nhưng không đi ra khỏi nguyên tắc, người ta ví von bà “vững chắc như bánh mì đen và Mercedes” (solide wie Schwarzbrot und Mercedes). Bánh mì đen và xe hơi Mercedes là hai sản phẩm có chất lượng cao cấp của Đức. Trong 4 nhiệm kỳ làm thủ tướng, bà đã mang lại cho nước Đức một nền kinh tế phồn thịnh và cuộc sống ổn định. Người Đức mến mộ bà vì đức tính giản dị, khiêm tốn. Họ thân mật gọi bà thủ tướng của họ là “Mutti” có nghĩa là “Mẹ”. Họ không quên được hình ảnh của bà Merkel đẩy xe đi chợ ở một siêu thị vào tháng 3 năm 2020 ở thời điểm đại dịch Corona đang lên cao. Trong xe có vài chai rượu, một ít đồ ăn và vài cuộn giấy đi cầu.  Với đầu óc phân tích thấu đáo đến tận cùng của một khoa học gia, với đức tính thận trọng của một con người từng sống dưới chế độ cộng sản, với bản tính khéo léo, khôn ngoan cộng thêm lòng chân thành và sự tận tụy bà đã dẫn dắt nước Đức đi qua nhiều cơn khủng hoảng lớn. Như năm 2010, nhờ sự quyết tâm và bình tĩnh bà tìm được giải pháp chung để vượt qua được cơn khủng hoảng về tài chính trong khu vực đồng Euro (Eurozone) và cứu được nước Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ái Nhĩ Lan thoát khỏi phá sản. Năm 2015 khi những làn sóng tị nạn từ Trung Đông tràn qua, bà ra lệnh mở cửa biên giới để nhận hơn 1 triệu người tị nạn, mặc dù không được sự đồng thuận của một số quốc gia trong Liên minh châu Âu. Để biện minh cho hành động nhân đạo của mình, bà nói “Đức là nước mạnh, nếu đã cứu được các ngân hàng thì cũng cứu được con người”. Hơn 1 triệu người tị nạn đã tạo nên ít nhiều xáo trộn trong cuộc sống của người Đức và làm nặng gánh tài chánh quốc gia (78 tỷ Euro) đưa đến sự bất mãn của một số  dân chúng. Hậu quả là đảng cực hữu AfD (Con đường khác cho nước Đức) từ một đảng nhỏ không có tiếng tăm, năm 2017 vào được quốc hội Đức và đứng hàng thứ ba chỉ sau đảng CDU, SPD với 12,6% số phiếu. Năm 2021, khủng hoảng về khí hậu thay đổi gây lên lũ lụt, thêm khủng hoảng về đại dịch Corona, bà vẫn là người đứng đầu để giải quyết những vấn đề cấp bách. Nhưng không phải lúc nào bà cũng thành công, tính thận trọng, suy nghĩ thấu đáo cần thời gian và để có sự đồng thuận với các nhà lãnh đạo 16 tiểu bang trong việc chống lại Covid-19 cũng cần nhiều nỗ lực để thuyết phục. Sự phản ứng chậm chạp đã làm mức độ lây nhiễm của vi khuẩn Corona phát triển gia tăng nhanh chóng vào những tháng đầu năm 2021. Rồi sự thiếu thuốc chủng và khẩu trang trong thời gian đầu cũng làm người dân mất dần sự tin tưởng vào chính phủ. 16 năm trời không phải là dài, nhưng lại là một thời gian quá dài trong một thế giới đang quay cuồng với một vận tốc quá nhanh, hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác. Người dân Đức cần một sự thay đổi, cần một khuôn mặt mới, cần những ý tưởng mới, cần thấy một viễn ảnh mới khác với một nền chính trị “cứ tiếp tục như thế” (“weiter so”) của bà Merkel. Bởi vì “cứ tiếp tục như thế” sẽ không biết như thế đi về đâu? Khi sự phồn thịnh mà bà Merkel mang tới một phần lớn là cũng là do từ chương trình cải cách “Agenda 2010” của cựu thủ tướng Schröder và từ Thị trường chung châu Âu do cựu thủ tướng Kohl đã dày công xây dựng. Đất nước Đức thiếu những cải cách cần thiết để chuẩn bị cho thời gian sau Merkel, thiếu cái nhìn xa để đương đầu hữu hiện hơn cho những vấn đề trong tương lai. Nước Đức là một trong những nước tiên tiến về kỹ thuật và sống nhờ vào xuất cảng. Nước Đức sẽ đi về đâu khi không còn dẫn đầu về kỹ thuật, không còn xuất cảng được máy móc, xe hơi? Đó là những băng khoăng của người dân Đức khi nhìn về tương lai. Công nghệ kỹ thuật số (digital technology) bị đình trệ, công nghệ về xe hơi Đức vẫn bám vào những động cơ nổ chạy bằng xăng dầu, trong khi các nước khác trên thế giới đã bỏ hết công sức vào công nghệ xe hơi điện. Năm 2010, Trung Quốc đã sản xuất được xe Bus điện. Hãng xe hơi điện Tesla của Mỹ ra đời năm 2003, đến năm 2021 giá trị doanh nghiệp của Tesla gấp hai lần cả 3 hãng xe hơi của Đức cộng lại (Volkswagen, BMW, Daimler). Những năm cuối cùng trên ghế thủ tướng, bà Merkel chỉ làm công việc của người quản trị khủng hoảng (Crisis Manager), thiếu sáng kiến và thiếu cái nhìn xa. Những cá tính của bà như đắn đo suy nghĩ, cẩn thận, cân nhắc, im lặng chờ đợi đã trở thành thụ động trong thời đại mới và là rào cản cho sự thành công. Những cuộc bầu cử liên bang cho thấy đảng CDU đang tuột dốc. Năm 2013, ở cuộc bầu cử quốc hội liên bang đảng CDU với đảng liên kết CSU (Liên minh Xã Hội Thiên Chúa Giáo) đạt được 41,5 % , đến năm 2017 chỉ còn 32,9% và theo lần thăm dò ý kiến của  ZDF thì cuộc bầu cử vào ngày 26 tháng 9 năm 2021 CDU/CSU  chỉ còn có 26% (13.8.2021). Một kết quả thấp nhất mà hai đảng này có được từ lúc thành lập Cộng hòa Liên bang Đức đến giờ. Giã từ Khi được hỏi sẽ làm gì khi về hưu, bà Merkel trả lời “Sẽ ngủ nhiều hơn một chút” và nói thêm không muốn bị chê là “lười biếng” trong thời gian làm thủ tướng. Sự quyết định không ra tranh cử vào tháng 9 năm 2021, được đánh giá là sự khôn ngoan của bà Merkel. Kinh nghiệm về sự thất bại của cựu thủ tướng Helmut Kohl trong lần tranh cử lần thứ năm, cho thấy người Đức không thích có một thủ tướng ở chức vụ này quá lâu dù có công trạng đến đâu đi nữa. Nước Đức có 3 cựu thủ tướng đã làm nên lịch sử là cựu thủ tướng Konrad Adenauer đã đặt nền móng đầu tiên xây dựng Cộng hòa Liên bang Đức, cựu thủ tướng Willy Brandt (1969-1974) với chính sách Phương Đông đã đưa đến sự sụp đổ toàn bộ các nước cộng sản đông Âu, cựu thủ tướng Helmut Kohl là người đã có công thống nhất nước Đức và xây dựng Liên minh châu Âu. Thật ra khó mà có thể so sánh công bằng sự nghiệp của bà Merkel với ba vị thủ tướng trên. Nhưng có điều, người ta không thể phủ nhận được trong 16 năm qua bà Merkel đã mang lại sự phồn thịnh cho dân Đức và sự ổn định của nền chính trị ở Đức nói riêng và châu Âu nói chung. Nước Đức đã trở thành một cường quốc về kinh tế lẫn chính trị. Bà Merkel là một người đàn bà giản dị và khiêm tốn, nhưng nhiều đối thủ chính trị lại rất nể trọng bà, họ đã truyền cho nhau một kinh nghiệm quý báu là “Không bao giờ được đánh giá thấp bà Merkel”. Một con người đi từ “das Mädchen” (cô gái) mà cựu thủ tướng Kohl thường thân mật gọi lúc ban đầu khi bà mới bước chân vào chính trường, cho đến khi lên làm thủ tướng mang danh hiệu "Iron Lady" (bà Đầm Thép) của báo chí trao tặng, rồi cuối nhiệm kỳ trở thành “Mutti” (Mẹ) mà người dân bình thường hay gọi khi nhắc đến bà, hẳn nhiên phải có một nội lực rất thâm hậu của một con người đã có một thời mang danh là “Người đàn bà quyền lực nhất thế giới”. Thời đại của bà Angela Merkel sắp kết thúc, nhưng chắc chắn một điều sẽ để lại những dấu ấn đậm nét trong lịch sử nước Đức./. Nguồn: Việt Báo
......

Tác động từ việc Mỹ và Anh hỗ trợ Úc phát triển tàu ngầm hạt nhân

The Economist - Nghiên Cứu Quốc Tế| Nguồn: “Australia is getting nuclear subs, with American and British help” – The Economist, 15/09/2021. Biên dịch: Phan Nguyên Chỉ có 6 quốc gia trên thế giới — Mỹ, Anh, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ và Nga — hiện đang vận hành tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân. Úc có thể trở thành nước thứ bảy một cách bất ngờ. Trong một tuyên bố đưa ra trong lần xuất hiện chung trên truyền hình vào ngày 15 tháng 9, Joe Biden, Boris Johnson và Scott Morrison, các nhà lãnh đạo của Mỹ, Anh và Úc, đã công bố điều mà họ mô tả là “quan hệ đối tác an ninh ba bên nâng cao,” có tên là AUKUS. Sáng kiến ​​đầu tiên, và là viên ngọc trên vương miện của họ, sẽ là việc hợp tác phát triển tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân trong tương lai cho Hải quân Hoàng gia Úc. Hiệp ước này, sẽ được ký chính thức tại Washington vào tuần tới, phản ánh mối quan ngại chung của họ về sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, và mong muốn của Mỹ trong việc tăng cường khả năng quân sự của các đối tác châu Á. AUKUS dựa trên một ý tưởng của Úc. Nó sẽ bao gồm hợp tác ngoại giao, an ninh và quốc phòng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Nó cũng bao gồm hợp tác về phát triển năng lực không gian mạng, trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử và “các khả năng bổ sung dưới đáy biển,” chẳng hạn như cảm biến dưới nước và máy bay không người lái. Tuy nhiên, yếu tố gây chú ý nhất là thỏa thuận về tàu ngầm, được cho là hoạt động hợp tác quốc tế quan trọng nhất thế giới về phát triển năng lực quốc phòng trong nhiều thập kỷ qua. Australia trước đây đã ký một hợp đồng trị giá 90 tỷ đô la với Naval Group, một công ty của Pháp, để đóng 12 tàu ngầm diesel-điện tiên tiến, nhưng không hài lòng khi công ty này không đầu tư đầy đủ cho các nhà cung cấp địa phương. Bây giờ Australia đang hủy bỏ thỏa thuận đó. Thay vào đó, họ sẽ mua tàu ngầm hạt nhân, và các đối tác của họ sẽ là Mỹ và Anh, cả hai đều đã vận hành các tàu ngầm như vậy trong nhiều thập niên. “Chúng tôi sẽ tận dụng chuyên môn từ Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, tận dụng các chương trình tàu ngầm của hai quốc gia này, để đưa tàu ngầm của Úc vào hoạt động sớm nhất có thể,” tuyên bố chung hứa hẹn. Một số tờ báo của Úc đã đưa tin rằng, Mỹ có thể sẽ vận hành các tàu ngầm tấn công ngoài khơi từ cảng HMAS Sterling, một căn cứ hải quân của Úc ở Perth, trong thời gian chờ đợi. Việc mua các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân sẽ hỗ trợ đáng kể cho hải quân Australia. Chúng lớn hơn và đắt hơn, nhưng cũng nhanh hơn và có thể ở dưới nước lâu hơn nhiều so với các loại tàu ngầm diesel-điện, như các tàu ngầm lớp Collins hiện nay của Úc, vốn cần phải nổi lên mặt nước định kỳ. Chúng cũng có thể đi biển lâu hơn mà không cần tiếp tế, một yếu tố quan trọng trong một Thái Bình Dương rộng lớn. Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách (CSBA), viện nghiên cứu chính sách của Mỹ, tính toán rằng trong khi một tàu ngầm diesel-điện đi từ Perth có thể hoạt động trong 11 ngày ở Biển Đông, thì một tàu ngầm hạt nhân có thể hoạt động trong hơn hai tháng. Theo Malcolm Davis thuộc Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI), các tàu mới được đề xuất sẽ cung cấp “sức mạnh tấn công… thực sự,” “đó là những gì chúng ta cần để răn đe và đối phó với thách thức ngày càng tăng từ Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.” Mối quan hệ của Australia với Trung Quốc ngày càng trở nên băng giá. Năm ngoái, Trung Quốc đã áp đặt lệnh cấm đối với nhiều hàng hóa khác nhau của Australia để đáp trả việc nước này kêu gọi điều tra nguồn gốc của đại dịch coronavirus. Mối quan hệ hợp tác mới cũng diễn ra vào thời điểm thích hợp đối với ông Biden. Việc ông rút quân khỏi Afghanistan và sự sụp đổ sau đó của chính phủ nước này đã khiến nhiều đồng minh lo ngại về độ tin cậy của Mỹ. Trên lý thuyết, việc rút quân đó là một phần trong quá trình tái định hướng nói chung các nguồn lực ngoại giao và quân sự của Mỹ sang châu Á. Nhưng trên thực tế, nhiều đồng minh đã tỏ ra nghi ngờ. “Cách tiếp cận của chính quyền Biden đối với Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cho đến nay thiếu sự tập trung và tính cấp bách,” một báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ (USSC) tại Đại học Sydney hồi tháng trước phàn nàn. Ashley Townshend, đồng tác giả của báo cáo đó, nói rằng việc ông Biden sẵn sàng chia sẻ công nghệ quốc phòng tiên tiến – “điều mà Mỹ hiếm khi sẵn lòng làm” – là một điều ngạc nhiên đáng hoan nghênh. “Nó gợi ý một cách tiếp cận mang tính chiến lược hơn đối với phòng thủ tập thể.” Vào ngày 24 tháng 9, ông Biden cũng sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo của Bộ Tứ, một khối ngoại giao đang phát triển bao gồm Mỹ, Úc, Nhật Bản và Ấn Độ. Tuy nhiên, hợp tác hạt nhân giữa Mỹ, Úc và Anh không phải là không có vấn đề. Phil Weir, một chuyên gia hải quân cho biết: “Hải quân Mỹ đang thường xuyên thiếu tàu ngầm và tình hình có thể xấu đi trước khi tốt hơn.” Ông nói rằng năng lực xây dựng lò phản ứng hạt nhân của Mỹ và Anh cũng bị giảm sút. Việc xây dựng năng lực bổ sung để hỗ trợ chương trình của Úc sẽ mất nhiều năm. Tuyên bố của các nhà lãnh đạo vào ngày 15 tháng 9 nói rằng “giai đoạn xác định phạm vi ban đầu” sẽ kéo dài 18 tháng. Vào năm 2017, Marise Payne, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Australia và hiện là Bộ trưởng Ngoại giao của nước này, thừa nhận rằng một hạm đội tàu ngầm hạt nhân “thuộc chủ quyền Australia” sẽ mất “nhiều hơn một thập niên,” và sẽ “có chi phí rất đáng kể so với hạm đội thông thường của chúng tôi.” Năng lượng hạt nhân cũng có ý nghĩa chiến lược rộng hơn. Mặc dù hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân cấm các thành viên là nước chưa có vũ khí hạt nhân chế tạo bom, nhưng hiệp định có một lỗ hổng là nó cho phép các nước đưa vật liệu hạt nhân ra khỏi sự giám sát quốc tế chính thức nếu vật liệu này được sử dụng cho tàu ngầm. Tuy nhiên, uranium được làm giàu trong tàu ngầm cũng giống như uranium được sử dụng trong bom hạt nhân. Đáng nói là, nhiên liệu được sử dụng trong cả tàu ngầm của Anh và Mỹ đều được làm giàu đến mức đặc biệt cao. Mặc dù Úc ít có khả năng muốn có bom hạt nhân cho riêng mình – nước này đã từ bỏ việc theo đuổi vũ khí hạt nhân vào năm 1973 – nhưng các quốc gia muốn khám phá về hạt nhân khác có thể coi tàu ngầm là một con đường thuận tiện để có nhiên liệu chế tạo bom. Brazil đang tìm cách phát triển tàu ngầm hạt nhân của riêng mình, và hy vọng sẽ đưa vào sử dụng vào những năm 2030, trong khi Iran đã từng thử nghiệm ý tưởng này trong quá khứ. Hàn Quốc trong tuần này đã thử nghiệm một tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm thông thường, và cũng sẽ được quốc tế theo dõi chặt chẽ. Trong khi đó, các thủy thủ tàu ngầm Úc sẽ mở nút chai ăn mừng và lấy sách giáo khoa vật lý ra nghiên cứu. Nguồn: Nghiên Cứu Quốc Tế  
......

Quân Đội Hoa Kỳ thêm một nữ Tướng gốc Việt

Phó đề đốc Vũ Thế Thùy Anh   Tin từ Quân Đội Hoa Kỳ vừa thêm viên nữ tướng gốc Việt thứ hai trong quân đội Mỹ là Vũ Thế Thùy Anh. Bà cũng được gắn sao trên ve áo cùng thời gian với bà Danielle Ngô, tháng 6 năm 2019, nhưng vì phục vụ trong Hải quân nên hàm chính danh của bà là Rear Admiral, Phó Đề Đốc, tương đương với Chuẩn Tướng trong các binh chủng khác. Chào đời vào năm Mậu Thân 1968, di tản qua Mỹ vào năm 1975, Thùy Anh sau đó theo học ngành Dược tại Đại học Maryland. Ra trường năm 1994, bà làm việc tại Đại học John Hopkins. Là con gái đầu của Hải Quân Đại Úy Vũ Thế Hiệp, bà quyết định theo nghiệp hải hồ của cha. Bà gia nhập U.S. Public Health Service, viết tắt là PHS, và trở thành sĩ quan quân dược của Hải quân. Nhiều người sẽ thắc mắc về tổ chức PHS này. Ra đời vào năm 1798, PHS được quân đội hóa vào năm 1889 với một chuỗi các bệnh viện Hải quân đặt ở các hải cảng quan trọng như Boston, Charleston, New Orleans…để kiểm soát dịch bệnh khỏi thâm nhập vào Mỹ. Thành viên của PHS là các bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, y tá. Họ mang cấp bậc quân đội và hoạt động cho cộng đồng khi có thiên tai, bão lụt, bệnh tật hay dịch bệnh. PHS có nhiệm vụ cách ly và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm trước khi nó bùng nổ và phát tán ra khắp nơi trong cả nước. Chính PHS đã đóng một vai trò quan trọng trong trận đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 và cộng tác với cơ quan phòng chống dịch Centers for Disease Control mà chúng ta biết tới với tên viết tắt là CDC trong trận chiến chống Covid-19 hiện nay. Năm 2015, sau 12 năm phục vụ trong PHS, bà Vũ Thế Thùy Anh đã mang lon Đại Tá và, như chúng ta biết, bà đã được vinh thăng Phó Đề Đốc (Rear Admiral). Như vậy là hiện tại chúng ta có 5 nam tướng và 2 nữ tướng gốc Việt trong quân đội Mỹ. Nhưng hình như chúng ta chỉ nghe nói nhiều tới các nam tướng. Kể cũng lạ! Ngày nay chốn “ba quân” đâu có phải chỉ toàn là các đấng nam nhi. Được đeo sao trên ve áo trong quân ngũ Mỹ không phải chuyện dễ, nam tướng hay nữ tướng cũng đều phải theo một trình tự khe khắt như nhau. Ở đây, chúng ta chỉ nói tới Chuẩn Tướng, cấp bậc của Danielle Ngô và Vũ Thế Thùy Anh. Thử nhìn vào con số trước. Số chuẩn tướng trong quân đội Mỹ hiện có như sau: Hải Quân: 110 Phó Đề Đốc; Coast Guard (Tuần Duyên): 19 Phó Đề Đốc; Thủy Quân Lục Chiến: 40 Chuẩn Tướng; Lục Quân: 150 Chuẩn Tướng; Không Quân: 139 Chuẩn Tướng. Tổng cộng là 439 Phó Đề Đốc và Chuẩn Tướng. Các điều kiện để được đề nghị phong cấp Chuẩn Tướng khá khó khăn. Trước hết phải mang cấp Đại Tá được 3 năm. Sau đó phải là Chỉ Huy Trưởng xuất sắc. Tiến trình sau đó tuần tự như sau: được Hội Đồng Thăng Cấp chọn lọc, Tư Lệnh quân chủng đề nghị lên Bộ Trưởng Quốc Phòng, Thượng Viện duyệt xét, Tổng Thống quyết định bổ nhiệm. Thường chỉ có 3% các Đại Tá được đề nghị trở thành Chuẩn Tướng! Thêm niềm hãnh diện cho cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam thành tâm chúc mừng bà Vũ Thế Thùy Anh vừa được vinh thăng Phó Đề Đốc, tương đương Chuẩn Tướng./-  
......

Các khoa học gia hàng đầu của FDA và WHO: Không cần tiêm mũi vaccine tăng cường

Vaccine COVID-19 của Pfizer. Reuters - VOA| Các liều vaccine COVID tiêm tăng cường không cần thiết cho phần đông dân số, theo các nhà khoa học hàng đầu bao gồm hai quan chức cao cấp của Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) và một số giới chức của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong một bài báo đăng trên một tạp chí y khoa ngày 13/9. Các khoa học gia này cho rằng cần có thêm bằng chứng để biện minh cho việc cần phải tiêm thêm các liều vaccine tăng cường. Quan điểm này bất đồng với những kế hoạch của chính phủ Mỹ định bắt đầu tiêm liều vaccine tăng cường cho những người đã tiêm chủng hoàn toàn sớm nhất là vào tuần tới. Kế hoạch này đang chờ sự chấp thuận của giới thẩm quyền y tế Mỹ. Trong lúc số ca COVID-19 do biến thể Delta gây ra đang gia tăng, chính quyền Tổng thống Joe Biden lo ngại rằng các ca nhiễm nơi những người đã được chích ngừa là dấu hiệu cho thấy bảo vệ của vaccine đang mai một, vì vậy chính quyền đã đẩy mạnh việc tiêm tăng cường như một cách tái gầy dựng miễn dịch. WHO cho rằng nên nhường cho các nước chưa có vaccine được tiêm mũi đầu tiên trước khi tiêm tăng cường mũi thứ ba tại các nước giàu. “Bất cứ quyết định nào về sự cần thiết tiêm tăng cường hay thời điểm tiêm tăng cường nên dựa vào việc phân tích cẩn thận dữ liệu lâm sàng có kiểm soát hay dữ liệu dịch tễ học, hoặc cả hai, cho thấy có việc giảm sút bền vững và có ý nghĩa các ca bệnh nặng,” các nhà khoa học viết trên tạp chí y khoa Lancet. Việc đánh giá lợi-hại nên xem xét con số những ca COVID-19 nặng mà các liều vaccine tăng cường hy vọng ngăn chặn dược, và liệu những liều tiêm tăng cường này có an toàn và hữu hiệu chống các biến thể hiện nay hay không, các nhà khoa học nói. “Bằng chứng hiện tại đường như không cho thấy sự cần thiết phải tiêm tăng cường nơi phần đông dân số, nơi những người mà tính hiệu nghiệm của vaccine chống lại bệnh nặng vẫn còn cao,” các nhà khoa học viết. Một số nước triển khai tiêm liều tăng cường, trong đó có Israel, đã cung cấp một số dữ liệu mà chính quyền của Tổng thống Biden đã dùng để biện minh cho kế hoạch tiêm chủng tăng cường. Các tác giả bài viết bao gồm Giám đốc Văn phòng Nghiêu cứu và Duyệt xét Vaccine Marion Gruber và Phó Giám đốc Phil Krause, cả hai người đều dự trù rời khỏi FDA trong vài tháng tới. Hai giới chức này công nhận là một số cá nhân có hệ miễn nhiễm yếu kém có thể hưởng lợi từ liều vaccine tăng cường. Tương lai có thể cần tiêm tăng cường rộng rãi nếu có việc miễn nhiễm mai một đối với vaccine nguyên thủy hay nếu các biến thể tiến hóa đến mức vaccine không còn bảo vệ chống virus, các nhà khoa học nói. Các liều tăng cường cũng có thể chứng tỏ nguy hiểm nếu được tiêm quá sớm hay quá thường xuyên, các nhà khoa học viết. Một ủy ban các chuyên gia cố vấn cho FDA về kế hoạch vaccine sẽ họp vào ngày 17/9 để thảo luận những liều vaccine tiêm thêm của Pfizer /BioNTech, bước đầu tiên trong chiến dịch tiêm tăng cường rộng rãi. Các tác giả bài viết bao gồm các nhà khoa học hàng đầu của WHO Soumya Swaminathan, Ana-Maria Henao-Restrepo và Mike Ryan. “Nguồn cung cấp vaccine hiện tại có thể cứu nhiều mạng sống nếu sử dụng nơi những người chưa được tiêm chủng,” các tác giả viết.  
......

Luật sư đưa vụ án Phạm Đoan Trang ra LHQ: Việt Nam vi phạm nhân quyền trầm trọng

Luật sư nhân quyền quốc tế Kurtulus Bastimar (trái) đã nộp hồ sơ vụ án Phạm Đoan Trang (phải) lên Nhóm công tác LHQ về Giam giữ tùy tiện (UNWGAD), đồng thời ông cho biết sẽ nhận được phán quyết trong tháng 9/2021. VOA Tiếng Việt| Luật sư nhân quyền quốc tế Kurtulus Bastimar có văn phòng ở Thổ Nhĩ Kỳ cho VOA biết ông đã nộp hồ sơ vụ án Phạm Đoan Trang lên Nhóm công tác Liên Hiệp Quốc về Giam giữ tùy tiện (UNWGAD), đồng thời ông cho biết sẽ nhận được phán quyết trong tháng 9 này. Ông nhận định rằng vụ án của nhà báo Phạm Đoan Trang, người bị chính quyền Việt Nam chính thức truy tố với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 88 Bộ Luật hình sự 1995 và sắp được đưa ra xét xử, “có nhiều vi phạm nghiêm trọng”. Cụ thể, ông cho rằng Việt Nam là quốc gia thường xuyên vi phạm quyền tự do ngôn luận và quyền được xét xử công bằng so với các quốc gia khác. Ông Bastimar là một luật sư người Kurd, tốt nghiệp trường Luật Châu Âu thuộc Đại học Maastricht, chuyên về luật nhân quyền châu Âu và luật nhân quyền quốc tế. Vừa qua ông đại diện thành công tại UNWGAD cho nhà báo Việt Nam Lê Hữu Minh Tuấn, và cho một nhà hoạt động nhân quyền Cuba Luis Manuel Otero Alcantara, người đã được phóng thích. Sau đây là nội dung cuộc trao đổi với Luật sư Bastimar. VOA: Thưa Luật sư, ông có thể cho biết một vài thông tin liên quan đến việc đưa vụ án Phạm Đoan Trang ra LHQ? Luật sư Kurtulus Bastimar: Tôi đã đưa trường hợp của bà Phạm Đoan Trang lên Nhóm Công tác của Liên hợp quốc về việc cô ấy bị bắt giữ tùy tiện, sau đó tôi đã chính thức nộp hồ sơ lên UNWGAD và hồ sơ đã được chấp nhận, và chính phủ Việt Nam cũng bị UNWGAD yêu cầu phải nộp giải trình của họ. Vừa qua tôi đã nhận được một e-mail từ Nhóm công tác UNWGAD thông báo rằng phán quyết sẽ được đưa ra trong tháng này, cụ thể là vào tháng 9, và theo phán quyết, tôi tin chắc rằng trong đó sẽ nêu sự vi phạm rất lớn của chính phủ Việt Nam đối với Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên ký kết. Chúng tôi đã viện dẫn các điều khoản vi phạm rất nghiêm trọng của chính quyền Việt Nam. VOA: Ông kỳ vọng điều gì từ việc nộp hồ sơ vụ án này lên LHQ và kế hoạch tiếp theo là gì? Luật sư Kurtulus Bastimar: Tôi chắc chắn sẽ thắng kiện chính phủ Việt Nam và UNWGAD sẽ ra phán quyết có vi phạm quyền tự do ngôn luận đối với thân chủ Phạm Đoan Trang, trong đó có quyền được xét xử công bằng ... Và sau khi nhận được phán quyết này, một phán quyết quốc tế, tôi tiếp tục hợp tác rất chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ có tiếng nói, có ảnh hưởng và các tổ chức quốc tế cũng như các cá nhân. Tôi đang lên kế hoạch bắt đầu một chiến dịch lớn sẽ tạo ra một áp lực rất lớn đối với chính phủ Việt Nam và tôi sẽ kêu gọi mọi người ủng hộ chiến dịch trả tự do cho thân chủ Phạm Đoan Trang của tôi, và tôi sẽ cố gắng hết sức. VOA: Thưa ông, qua hai hồ sơ của Lê Hữu Minh Tuấn và Phạm Đoan Trang, ông nhận định như thế nào về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam? Luật sư Kurtulus Bastimar: Rất tiếc, theo quan sát của tôi, Việt Nam là nước đầu tiên tôi biết vi phạm nhân quyền quá nhiều, và qua từng hồ sơ mà chúng tôi thực hiện cho thấy rõ tình trạng sử dụng các điều luật hay bộ luật hình sự của Việt Nam để bịt miệng các nhà báo và các tác giả. Vì vậy, tôi muốn nói rằng quyền tự do ngôn luận, cụ thể như quyền tự do báo chí, là quyền căn bản nhất và quan trọng nhất, lại đang bị chính phủ vi phạm rất nhiều so với các nước khác, ví dụ nữa là quyền được xét xử công bằng và những quyền khác. Đây thực sự là một vấn đề lớn. Về cơ bản, chính phủ Việt Nam sử dụng các bộ luật hình sự này như một công cụ để bịt miệng người dân và hạn chế, thậm chí cấm đoán quyền tự do ngôn luận. VOA: Ở trong nước, các luật sư cũng đang cố gắng xin được thăm gặp bà Phạm Đoan Trang và nỗ lực để bào chữa cho bà, ông sẽ đồng hành cùng với họ như thế nào? Luật sư Kurtulus Bastimar: Tôi muốn gửi lời nhắn đến những người đang bảo vệ quyền lợi cho bà Phạm Đoan Trang tại Việt Nam theo luật pháp trong nước. Và tôi sẽ nói rằng họ không đơn độc, và tôi sẽ ở bên họ cho đến khi Phạm Đoan Trang được tự do. Và tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho quyền của bà ấy.
......

Bầu cử quốc hội Đức

Chỉ còn 2 tuần nữa là bầu quốc hội Đức. Hình bên dưới là kết quả thăm dò dư luận. Có 3 chuyện lý thú: (1) Đảng Xanh (Grüne) vốn là hy vọng của tuổi trẻ, đã có lúc đứng đầu bảng với 26% vào cuối tháng tư. Nhưng sau 4 tháng, nay chỉ còn 16%, đứng thứ ba. Tại sao? Có lẽ do 3 vụ bê bối của nàng Annalena Baerbock, thủ lãnh ra tranh cử Thủ tướng. Ba vụ bê bối là: a) mập mờ về học vấn. Ai đọc CV của nàng đầu năm nay, đều tưởng là nàng đã có Bachelor, đã có tiến sĩ. Thật ra cả hai thứ đều không có vì nàng bỏ nửa chừng. Sau khi báo chí phát hiện, CV đã được chữa lại. b) mập mờ về hoạt động quốc tế: đọc CV cứ tưởng là nàng tham gia nhiều tổ chức quốc tế với chức vụ đình đám, thí dụ như UNHCR, thực chất là nàng cũng không phải là hội viên. c) tệ hại nhất là cuốn sách mới ra lò để góp phần tranh cử. Sách dày đâu chừng 200 trang, thì có hơn 50 chỗ đạo văn, mà lại đạo từ những người máu mặt mới dễ bị phát hiện. May quá, nếu nàng Baerbock với tính chất show giả dối đó mà lên làm Thủ tướng thì không biết Đức sẽ về đâu? (2) Đảng Liên minh Cơ Đốc (CDU/CSU) vốn dĩ luôn luôn dẫn đầu suốt 15 năm nay với khoảng cách khá xa. Năm nay phải xuống hàng 2. Tại sao? Bà Merkel của Liên minh đã nắm quyền 16 năm, như thế là quá dài rồi, đã đến lúc thay ngựa là vừa. Ngoài ra, anh Armin Laschet này quá xoàng. Merkel là một chính trị gia xuất chúng, nhưng chính sách nhân sự có vẻ có vấn đề: trong suốt 16 năm cầm quyền, không hiểu sao những người giỏi nhất đều từ bỏ chính trị để ra kỹ nghệ, hoặc được bà cất lên làm Tổng thống, như thế con đường trở về Thủ tướng cũng không còn. Liên minh này hết người tài rồi chăng? (3) Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) đã xuống dốc, suốt 3 năm qua lè tè ở mức 15%. Bỗng nhiên bây giờ nhảy vọt lên 25%, có lẽ nhờ cá nhân Olaf Scholz là chính, chứ thật ra hai ông và bà chủ tịch đảng coi bộ cũng thiếu Format? Trong 3 vị ở trên, Scholz của SPD cũng xứng đáng hạng nhất, vì dù đã xuống dốc, nhưng chính sách xã hội của SPD cũng tương đối tốt nhất so với tất cả các đảng khác trong 50 năm qua. Dường như dân Đức giờ này ít quan tâm đến phồn vinh, mà các đề tài ăn khách là: bình đẳng xã hội, môi trường, giáo dục, nâng mức lương tối thiểu v.v… Về các mặt đó, SPD cũng không thua kém ai. Thật khó để chọn ai năm này!   N.P.L Nguồn: Dien Dan Khai Phong  
......

Di sản của sự kiện 11/9

Timothy Trinh   Hôm nay là ngày 11 tháng 9, đánh dấu 20 năm kể từ ngày Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York bị sụp đổ, một sự kiện mang lại sự tàn phá, đau lòng và mất mát không thể tưởng tượng được cho nước Mỹ. Nhưng trong góc nhìn của một nhà báo chuyên mục, bà Ayaan Hirsi Ali, thì ngày 11 tháng 9 "nếu có một tia hy vọng đến từ khoảnh khắc bi thảm đó, thì đó là dành cho phụ nữ và trẻ em gái Afghanistan." Vào đúng 20 năm trước đây, bà Ali và các đồng nghiệp đang làm việc ở Hà Lan, đã kinh hoàng nhìn vào màn hình tivi khi hai chiếc máy bay lao vào hai tòa nhà biểu tượng cho thị trường tài chính số một của thế giới. "Chúng tôi tự hỏi làm thế nào siêu cường của thế giới sẽ phản ứng lại một cuộc tấn công ác độc như vậy vào quê hương Hoa Kỳ. Họ chắc chắn có sức mạnh, nguồn lực và lý do để đi tiêu diệt kẻ thù mới tìm thấy của họ", bà Ali nói. Vào thời điểm đó, "chúng tôi không thể ngờ rằng thảm kịch này sẽ mang lại nhiều quyền và tự do hơn cho phụ nữ ở Afghanistan." Hoa Kỳ đã có thể tiến vào Afghanistan, trả thù và rời đi. Họ có thể lật đổ những kẻ đã hỗ trợ cho quân khủng bố, và đảm bảo rằng al Qaeda sẽ không thể sử dụng Afghanistan làm căn cứ để tấn công Hoa Kỳ một lần nữa. Nhưng đây không phải là nơi kết thúc di sản của sự kiện 11/9. Nó không phải là tất cả sự trả thù và đánh trả cần thiết. Thay vào đó, Hoa Kỳ đã đề nghị giúp chính phủ Afghanistan xây dựng lại và mang lại hy vọng và quyền con người cho những người chưa từng có nó trước đây. Hoa Kỳ và đồng minh đã cùng Afghanistan xây dựng một xã hội hòa nhập hơn cho phụ nữ và trẻ em gái, với niềm tin rằng hình thức hiện đại hóa này sẽ làm giảm nguy cơ Taliban trở lại. Adam J. Tooze, giáo sư sử học của viện đại học Columbia, đã ghi lại trên nền tảng Substack những thành quả ở Afghanistan. Trong vòng ba năm sau ngày Hoa Kỳ và đồng minh can thiệp vào Afghanistan, số lượng phụ nữ đăng ký vào đại học đã lên đến 7.200 sinh viên. Từ năm 2003 đến 2018, con số đã vượt nhanh, lên đến 49.000 sinh viên nữ đăng ký vào đại học. Tuổi thọ của nữ giới tăng gần 10 năm. Trước năm 2000, dưới thời Taliban, đàn ông Afghanistan sống lâu hơn phụ nữ, ngược với thống kê trung bình thế giới. Từ năm 2001 đến nay, Afghanistan đã có được hình mẫu bình thường là phụ nữ sống lâu hơn đàn ông của họ. Còn nữa, tỷ lệ biết chữ của phụ nữ Afghanistan đã tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn hai thập kỷ vừa qua. Và rồi, một thế hệ mới của các cô gái lớn lên mà không hề biết đến cuộc sống dưới sự kiểm soát của Taliban. Năm 2017, một đội robot toàn nữ được thành lập, gọi là Những người mơ mộng Afghanistan, đã giành chiến thắng trong Thử thách doanh nhân tại lễ hội Robotex ở Estonia. Năm 2008, Afghanistan có được thị trưởng nữ đầu tiên, Azra Jafari, ở thị trấn Nili. Và cô ấy chỉ là người đầu tiên trong số nhiều phụ nữ nắm giữ các vị trí chính trị, bao gồm Salima Mazari, Zarifa Ghanfari và Fawzia Koofi. Phụ nữ chiếm 40% tổng số sinh viên tốt nghiệp gần đây nhất của đại học American University of Afghanistan. Họ có dàn nhạc toàn nữ của riêng họ. Các doanh nhân nữ đã đầu tư 77 triệu đô la trong 18 năm, tạo ra 77.000 việc làm. Quyền của họ được thúc đẩy bởi Hiến pháp Afghanistan năm 2004 tại Điều 44, nêu rõ rằng “nhà nước sẽ đề ra và thực hiện các chương trình hiệu quả để tạo ra và thúc đẩy nền giáo dục cân bằng cho phụ nữ”. Nhưng ngày hôm nay, trong khi quyền của phụ nữ Afghanistan đang bị tước đoạt, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã sai lầm, bằng cách củng cố lập luận cho rằng: hoặc rút hết quân ra hoặc quay lại chiến đấu với một “cuộc chiến tranh bất tận”. Biden đã phản bội di sản tích cực duy nhất của sự kiện 11/9. Việc rút bớt số lính Mỹ còn lại một cách hỗn loạn đã dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của chính phủ Afghanistan, sẽ dẫn đến việc nước này trở thành nơi trú ẩn an toàn của bọn khủng bố và loại bỏ lá chắn bảo vệ quyền của phụ nữ trong nước. Chắc chắn đây không phải là di sản mà người Mỹ muốn để lại nhân lễ tưởng niệm 20 năm ngày 11/9? Điều gì sẽ xảy ra với các cô gái Afghanistan, những người sinh ra và lớn lên từ năm 2001? Các cô gái lấy cảm hứng từ sự quyến rũ của tự do và quyền được theo đuổi ước mơ của chính mình. Những người cho đến nay vẫn chưa biết đến gánh nặng và rào cản cuộc sống dưới thời Taliban. Những cô gái bất chấp, lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình, rồi sẽ ra sao? Những người đã từng đặt câu hỏi về chủ nghĩa tôn giáo cực đoan của Taliban, rồi sẽ ra sao? Tại một cuộc biểu tình ở Herat, Afghanistan, gần đây nhằm kêu gọi giáo dục cho trẻ em gái, một trong những người tổ chức, Basira Taheri, giải thích: “Phụ nữ của vùng đất này có trình độ nhận thức và giáo dục. Chúng tôi không sợ hãi, chúng tôi đoàn kết”. Pashtana Durrani, Giám đốc Điều hành của Learn Afghanistan, một thành trì bảo vệ quyền của phụ nữ Afghanistan, cho biết: “Chúng tôi muốn đảm bảo [các cô gái] được đi học, được đi làm. Chúng tôi sẽ làm cho điều đó xảy ra bằng mọi cách". Nhà sử học Thomas Carlyle đã từng nói: “Một khi tâm trí đã được mở rộng bởi một ý tưởng lớn, nó sẽ không bao giờ quay trở lại trạng thái ban đầu của nó”. Taliban sẽ không thể quay ngược quá trình 20 năm mà không tắm máu của phụ nữ mới ở Afghanistan. Những phụ nữ lớn lên trong thế hệ mới của Afghanistan sẽ không chịu khuất phục trước một Kỷ nguyên đen tối. Ngay cả khi Taliban kiểm soát, các cô gái Afghanistan với trái tim tự do của phương Tây sẽ không bỏ cuộc. Tia hy vọng đó của những cô gái ở thủ đô Kabul sẽ được thắp lên như hai tia sáng ở thành phố New York trong ngày 11/9. Và bây giờ thế giới đang theo dõi. Trước ngày 11/9, những hành động tàn bạo của chế độ Taliban đối với phụ nữ Afghanistan rất ít sự đưa tin ở phương Tây. Giờ đây, mọi người đều biết đến câu chuyện của Bibi Aisha. Và chúng ta sẽ biết đến nhiều cái tên hơn, như Basira Taheri, khi chúng ta cổ vũ họ. Hai thập kỷ trôi qua, những người phụ nữ này có thể là thành tựu lâu dài nhất của cuộc can thiệp của Hoa Kỳ sau sự kiện 11/9. Người Đà Lạt Xưa viết theo bài quan điểm của bà Ayaan Hirsi Ali. ----------------------- Trong đoạn cuối của bài viết đã có nhắc đến tên của Bibi Aisha. Bibi là "Lady" trong tiếng Anh. Tên họ khai sinh của cô là Aisha Mohammadzai. Theo Wikipedia, Aisha sinh ra ở Afghanistan, mất mẹ khi còn nhỏ. Khi cô mười hai tuổi, cha cô đã hứa cô với một chiến binh Taliban để đền bù trong một cách thức gọi là "baad", vì một vụ giết người do một thành viên trong gia đình Aisha thực hiện. Cô buộc phải kết hôn với người đàn ông Taliban này khi mới mười bốn tuổi. Chồng cô và gia đình anh ta đã ngược đãi cô. Năm mười tám tuổi, cô chạy trốn khỏi sự ngược đãi, nhưng cô bị cảnh sát bắt, bị bỏ tù trong năm tháng, và trở về với cha cô, người sau đó đã trả cô lại cho chồng cô. Để trả thù cho sự trốn thoát của cô, cha chồng của Aisha, chồng và ba người đàn ông khác trong gia đình đã đưa Aisha lên núi, cắt mũi và tai của cô và để cô nằm ở đó chờ chết. Cô bò đến nhà ông nội nhưng bị từ chối giúp đỡ. Cuối cùng, cô đã tìm kiếm và nhận được sự giúp đỡ tại một căn cứ quân sự của Mỹ./.  
......

Nước Mỹ đánh dấu 20 năm vụ khủng bố 11/9

Khói bốc lên từ tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới trong vụ khủng bố 11/9/2001 tại thành phố New York, Mỹ. VOA| Những biến cố kinh hoàng trong ngày 11/9/2001 diễn ra chưa tới 102 phút. Hôm đó, 2.996 người thiệt mạng vì cuộc tấn công khủng bố khốc liệt nhất trong lịch sử cận đại. Tiếp sau là cuộc chiến tại Afghanistan kéo dài 19 năm, 10 tháng, 3 tuần, và 2 ngày. Bộ Quốc phòng Mỹ thống kê có ít nhất 2.325 lính Mỹ tử trận. Không ai biết chính xác số thường dân thiệt mạng là bao nhiêu. Ngày 911/9 năm nay, Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ vạch ra giới hạn dưới thảm kịch kép này, tới ba địa điểm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống, những sự mất mát đau thương tột cùng vốn đã châm ngòi cho cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ. Cuộc chiến Toàn cầu chống Khủng bố, như tên gọi của nó, trải dài vượt ra ngoài quốc gia Afghanistan nhỏ bé ở Trung Á vươn tới Iraq và các ngõ ngách khác trên địa cầu, xa tận châu Phi. Cuộc chiến tại Iraq đã cướp đi sinh mạng của gần 4.500 quân nhân Mỹ và hàng trăm ngàn thường dân. Kể từ sau quyết định gây tranh cãi rút toàn bộ quân ra khỏi Afghanistan trước cuối tháng 8, chính quyền Biden đã có những động thái dứt khoát để khép lại 20 năm qua bằng cách giải mật một loạt tài liệu có thể làm sáng tỏ các sự kiện ngày 11 tháng 9, và bằng cách duy trì một khoảng cách với chính phủ lâm thời theo đường lối cứng rắn của Taliban, phe đã chiếm quyền kiểm soát ở Afghanistan khi người Mỹ rút lui. Ba địa điểm tưởng niệm Ngày 11/9 năm nay, Tổng thống Biden đến viếng cả ba địa điểm bị khủng bố tấn công 20 năm về trước: Thành phố New York, nơi chuyến bay 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào toà tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới lúc 8:46 phút trong buổi sáng nắng ấm của tháng 9 năm ấy - và 17 phút sau, chuyến bay 175 của United Airlines lao vào toà tháp phía nam. Ông Biden cũng sẽ thăm Ngũ Giác Đài, nơi chuyến bay 77 của hãng hàng không American Airlines tông vào 34 phút sau đó. Tổng thống Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ tới tưởng niệm tại cánh đồng ở Shanksville, Pennsylvania, nơi yên nghỉ cuối cùng của chuyến bay 93 thuộc hãng hàng không United Airlines. Đây là sự khép màn theo kịch bản như phim, đóng lại 20 năm qua, theo giáo sư lịch sử Jeremi Suri thuộc Đại học Texas ở Austin. “Tổng thống đang vạch ra lằn ranh giới hạn sau 20 năm,” ông nói với VOA. “Và ông ấy vào vai một sử gia tuyên bố rằng chúng ta đã kết thúc một kỷ nguyên, như kết thúc thời Đệ nhị Thế chiến, và đã tới lúc đưa ra quyết định mới theo cách mà ông Harry Truman từng đưa ra quyết định mới sau thời Đệ nhị Thế chiến.” Ông Suri, tác giả các đầu sách viết về văn phòng các nhiệm quyền Tổng thống và chính sách ngoại giao Mỹ, nói các sử gia nhìn thấy một số logic trong cách ông Biden định hình thời khắc này. “Nhưng chúng ta sẽ cũng thấy, như thường thấy, rằng một kỷ nguyên không kết thúc khi một kỷ nguyên mới bắt đầu,” ông nói. “Theo tôi, chúng ta bước vào thời khắc khác biệt sau cuộc bầu cử 2020 và chúng ta đang trong một thời khắc khác biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhiều vấn đề từ 20 năm trước vẫn chưa có một chương kết gọn gàng theo cách chúng ta thường làm trong sách vở.” Phó cố vấn an ninh quốc gia Elizabeth Sherwood-Randall cho rằng điều quan trọng là, khi thế giới tròn hai thập niên kể từ 11/9/2001, không có một cuộc tấn công khủng bố lớn nào khác. Thử thách khác “Sau hai mươi năm, thử thách của chúng ta đã khác,” bà Sherwood-Randall tuyên bố trong tuần này khi phát biểu tại Hội đồng Đại Tây Dương, nhóm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu ở Washington. “Từ biến cố 11/9 chúng ta đã học cách bảo vệ người Mỹ trước khủng bố. Không phải an toàn tuyệt đối, những điều kinh khủng vẫn xảy ra. Nhưng bằng việc kết hợp các hành động trong và ngoài nước, tới nay chúng ta đã có thể triệt phá và ngăn chặn một cuộc khủng bố khác theo kiểu 11/9.” Tuy nhiên, sử gia Thomas Schwartz thuộc Đại học Vanderbilt dự đoán sẽ có những hệ quả không mong đợi vượt ngoài các cuộc tưởng niệm kết thúc kỷ nguyên ngày 11/9 năm nay. “Tôi có lẽ hơi khó tính vì tôi không nghĩ đây là điều thật sự có thể làm được,” ông nói. “Theo tôi, kẻ thù, theo một cách nào đó, có sự lựa chọn và họ có thể quyết định rằng cho dù chúng ta muốn chấm dứt sau 20 năm nhưng họ thì không. Và như vậy, tôi cho rằng những lời lẽ của Tổng thống Biden-và hành động-về thời hạn cố định phải rút quân ra khỏi Afghanistan là một sai lầm và là một lỗi lầm về phán đoán mà tôi nghĩ có thể ảnh hưởng nước Mỹ trong những năm tới.” Tổng thống ngày 11/9 năm nay có phần chắc sẽ tuyên bố công khai, nhưng ‘ngôn từ sẽ không làm nên sự khác biệt tại thời điểm này,” theo ông Norman Ornstein, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện American Enterprise, một nhóm nghiên cứu chính sách công bảo thủ ở Washington. “Dĩ nhiên, Tổng thống sẽ phải có một bài diễn văn trau chuốt kỹ lưỡng vào thứ Bảy này, một phần nói rằng chúng ta đã xoay sở qua nhiều đời chính quyền để ngăn một biến cố 11/9 khác,” ông Ornstein nói. “Chúng ta đã tìm cách tóm và hạ sát tay chủ mưu, Osama bin Laden, rằng mọi chuyện chưa xong, và rằng chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trên con đường của mình. Và chúng ta sẽ tìm cách tránh tái phạm những sai lầm đó trong tương lai.” Li-băng năm 1983 Tuy nhiên, ông lưu ý rằng người Mỹ nên nhìn lại lịch sử tận năm 1983, chứ không phải năm 2001, để thấy mọi chuyện ra sao, khi Tổng thống Ronald Reagan quyết định rút lực lượng Mỹ ra khỏi Li-băng nhiều tháng sau vụ đánh bom giết chết 241 quân nhân Mỹ. Ông Ornstein nói, đây là sự khác biệt căn bản giữa nước Mỹ hôm nay và nước Mỹ của các thập niên trước. “Chúng ta không hề kêu gọi Ronald Reagan từ chức hay có động thái đàn hặc ông ấy,” ông đối chiếu tình hình năm 1983 với tình hình lúc này khi các nhà lập pháp phe Cộng hoà đang kịch liệt chỉ trích cuộc di tản của Mỹ ra khỏi Afghanistan. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công luận gần đây, người Mỹ tiếp tục ủng hộ quyết định của ông Biden rút quân ra khỏi Afghanistan, nhưng họ cũng phê phán Tổng thống về cách chính quyền của ông xử lý cuộc di tản. Đây cũng là một phần lý do vì sao các cuộc thăm dò mới cho thấy tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Biden chỉ còn 43%, mức thấp nhất kể từ khi ông nhậm chức tới nay.  
......

20 năm vụ 11/9 : Người dân Afghanistan cay đắng và thất vọng về Mỹ

Vị đắng của dân Afghanistan trong ngày 11 tháng 9. Theo tiết lộ của báo New York Times, drone của Mỹ tại Afghan hôm 30/08/2021 bắn trúng thường dân. WAKIL KOHSAR AFP/File RFI Tại Afghanistan, sự kiện 11/09/2001 không tìm được tiếng vang do Taliban trở lại cầm quyền, đất nước quay trở lại với thời kỳ 20 năm trước.  Loạt khủng bố cách nay 20 năm là nguồn cội cho cuộc can thiệp quân sự của Mỹ tại Afghanistan với gần 2.300 tỷ đô la đã được chi ra. Sự can thiệp đó mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng khoét sâu thêm những cách biệt và ngăn cách về văn hóa ở phần lớn đất nước. Theo thông tín viên đài RFI Sonia Ghezali từ Kabul, cay đắng, thất vọng, ngờ vực là những cảm xúc của người dân Kabul khi nhìn về sự kiện này. « Người ta đang trong một tình trạng cách nay 20 năm. Vào thời kỳ đó, tôi còn nhỏ nhưng tôi vẫn nhớ hết ». Ali thổ lộ từ một căn phòng anh ở cùng với gia đình tại nhà người thân, nơi anh đang ẩn náu ở miền nam Afghanistan. Kể từ sau chiến thắng của Taliban, người giáo viên tiếng Anh này và thông dịch viên lo sợ cho sự sống của mình. Theo anh, mối liên hệ giữa Al Qaida – tác giả của loạt tấn công 11/9, và phe Taliban quá chặt chẽ, khó thể mà cắt đứt. Tại Kabul, Rabia cũng sống trong nỗi sợ hãi. Cô đã từ bỏ công việc nhà báo. Cô cho biết : « phần lớn thời gian, tôi sống trong lo âu, sợ hãi, gò bó ». Ngày 11/9 nguồn cội của sự can thiệp từ Mỹ, dẫn đầu một liên minh quốc tế đã thay đổi dòng đời của nhiều phụ nữ Afghanistan. Cô nói tiếp : « Hai mươi năm qua cứ như một giấc mơ dù là có rất nhiều khó khăn ».   Cô nghĩ đến cơ hội phụ nữ được đi học tại những vùng đô thị, được tiếp cận việc làm, tham gia chính phủ, và một nền công lý đương nhiên là chậm và còn nhiều chông gai, nhưng mang lại nhiều quyền hơn. Bà Ramiha Rezae, cựu thẩm phán tòa án Hôn nhân gia đình, hiện đang tỵ nạn tại châu Âu khi chính quyền tổng thống Ashraf Ghani sụp đổ, nhớ lại năm 2001, khi nhìn thấy những hình ảnh loạt tấn công 11/9, đã không nghĩ rằng đất nước của bà sẽ chuyển sang một thời kỳ mới. Hai mươi năm sau, thời kỳ đó không còn nữa để nhường chỗ cho những người từng bị đánh đuổi khỏi quyền lực ». New York Times : Quân đội Mỹ đã giết nhầm thường dân Liên quan đến vụ oanh kích sau cùng của Mỹ tại Afghanistan ngày 30/08/2021, New York Times hôm 10/09/2021 đã phản đối lời khẳng định của quân đội Mỹ cho là đã bắn hạ một quân thánh chiến với xe chở đầy chất nổ. Nhật báo Mỹ cho rằng các hình ảnh camera giám sát cho thấy tài xế là Ezmarai Ahmadi, một người làm việc cho một tổ chức phi chính phủ. Hôm xảy ra vụ oanh kích là một ngày làm việc bình thường, và trên xe chở đầy các thùng chứa nước. Gia đình nạn nhân nói rõ với AFP ngay hôm sau vụ oanh kích rằng có 10 người, trong đó phần lớn là trẻ em, đã bị thiệt mạng. RFI *** Lê Công Định 20 mươi năm tròn sau sự kiện 9/11, Taliban tái chiếm toàn bộ lãnh thổ Afghanistan và tiếp tục dung dưỡng các tổ chức khủng bố. Sau 20 năm, Taliban hùng mạnh hơn bao giờ nhờ kho vũ khí khổng lồ mà Hoa Kỳ vô tình trang bị và dâng không cho chúng. Hàng ngàn thanh niên Mỹ đã mất mạng ở chiến trường Afghanistan và hàng tỷ tỷ Dollars từ tiền đóng thuế của người Mỹ đã bị phí phạm trong 20 năm qua. Cuối cùng chế độ man rợ Taliban vẫn ở nguyên đó và bóng ma của chủ nghĩa khủng bố vẫn hiện hữu trên toàn cầu. Thế giới sẽ tiếp tục những ngày bất ổn, song song với trận khủng bố của một chế độ man rợ khác bằng virus Vũ Hán vẫn đang hoành hành khắp nơi. Hơn lúc nào hết Hoa Kỳ cần nhìn nhận lại chính sách đối ngoại nói riêng và sách lược địa chính trị nói chung của chính mình.  
......

Nước Mỹ đánh dấu 20 năm vụ khủng bố 11/9

VOA Những biến cố kinh hoàng trong ngày 11/9/2001 diễn ra chưa tới 102 phút. Hôm đó, 2.996 người thiệt mạng vì cuộc tấn công khủng bố khốc liệt nhất trong lịch sử cận đại. Tiếp sau là cuộc chiến tại Afghanistan kéo dài 19 năm, 10 tháng, 3 tuần, và 2 ngày. Bộ Quốc phòng Mỹ thống kê có ít nhất 2.325 lính Mỹ tử trận. Không ai biết chính xác số thường dân thiệt mạng là bao nhiêu. Ngày 11/9 năm nay, Tổng thống Mỹ Joe Biden sẽ vạch ra giới hạn dưới thảm kịch kép này, tới ba địa điểm để tưởng nhớ những người đã nằm xuống, những sự mất mát đau thương tột cùng vốn đã châm ngòi cho cuộc chiến dài nhất của nước Mỹ. Cuộc chiến Toàn cầu chống Khủng bố, như tên gọi của nó, trải dài vượt ra ngoài quốc gia Afghanistan nhỏ bé ở Trung Á vươn tới Iraq và các ngõ ngách khác trên địa cầu, xa tận châu Phi. Cuộc chiến tại Iraq đã cướp đi sinh mạng của gần 4.500 quân nhân Mỹ và hàng trăm ngàn thường dân. Kể từ sau quyết định gây tranh cãi rút toàn bộ quân ra khỏi Afghanistan trước cuối tháng 8, chính quyền Biden đã có những động thái dứt khoát để khép lại 20 năm qua bằng cách giải mật một loạt tài liệu có thể làm sáng tỏ các sự kiện ngày 11 tháng 9, và bằng cách duy trì một khoảng cách với chính phủ lâm thời theo đường lối cứng rắn của Taliban, phe đã chiếm quyền kiểm soát ở Afghanistan khi người Mỹ rút lui. Ba địa điểm tưởng niệm Ngày 11/9 năm nay, Tổng thống Biden đến viếng cả ba địa điểm bị khủng bố tấn công 20 năm về trước: Thành phố New York, nơi chuyến bay 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào toà tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới lúc 8:46 phút trong buổi sáng nắng ấm của tháng 9 năm ấy - và 17 phút sau, chuyến bay 175 của United Airlines lao vào toà tháp phía nam. Ông Biden cũng sẽ thăm Ngũ Giác Đài, nơi chuyến bay 77 của hãng hàng không American Airlines tông vào 34 phút sau đó. Tổng thống Biden và Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ tới tưởng niệm tại cánh đồng ở Shanksville, Pennsylvania, nơi yên nghỉ cuối cùng của chuyến bay 93 thuộc hãng hàng không United Airlines. Đây là sự khép màn theo kịch bản như phim, đóng lại 20 năm qua, theo giáo sư lịch sử Jeremi Suri thuộc Đại học Texas ở Austin. “Tổng thống đang vạch ra lằn ranh giới hạn sau 20 năm,” ông nói với VOA. “Và ông ấy vào vai một sử gia tuyên bố rằng chúng ta đã kết thúc một kỷ nguyên, như kết thúc thời Đệ nhị Thế chiến, và đã tới lúc đưa ra quyết định mới theo cách mà ông Harry Truman từng đưa ra quyết định mới sau thời Đệ nhị Thế chiến.” Ông Suri, tác giả các đầu sách viết về văn phòng các nhiệm quyền Tổng thống và chính sách ngoại giao Mỹ, nói các sử gia nhìn thấy một số logic trong cách ông Biden định hình thời khắc này. “Nhưng chúng ta sẽ cũng thấy, như thường thấy, rằng một kỷ nguyên không kết thúc khi một kỷ nguyên mới bắt đầu,” ông nói. “Theo tôi, chúng ta bước vào thời khắc khác biệt sau cuộc bầu cử 2020 và chúng ta đang trong một thời khắc khác biệt với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhiều vấn đề từ 20 năm trước vẫn chưa có một chương kết gọn gàng theo cách chúng ta thường làm trong sách vở.” Phó cố vấn an ninh quốc gia Elizabeth Sherwood-Randall cho rằng điều quan trọng là, khi thế giới tròn hai thập niên kể từ 11/9/2001, không có một cuộc tấn công khủng bố lớn nào khác. Thử thách khác “Sau hai mươi năm, thử thách của chúng ta đã khác,” bà Sherwood-Randall tuyên bố trong tuần này khi phát biểu tại Hội đồng Đại Tây Dương, nhóm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu ở Washington. “Từ biến cố 11/9 chúng ta đã học cách bảo vệ người Mỹ trước khủng bố. Không phải an toàn tuyệt đối, những điều kinh khủng vẫn xảy ra. Nhưng bằng việc kết hợp các hành động trong và ngoài nước, tới nay chúng ta đã có thể triệt phá và ngăn chặn một cuộc khủng bố khác theo kiểu 11/9.” Tuy nhiên, sử gia Thomas Schwartz thuộc Đại học Vanderbilt dự đoán sẽ có những hệ quả không mong đợi vượt ngoài các cuộc tưởng niệm kết thúc kỷ nguyên ngày 11/9 năm nay. “Tôi có lẽ hơi khó tính vì tôi không nghĩ đây là điều thật sự có thể làm được,” ông nói. “Theo tôi, kẻ thù, theo một cách nào đó, có sự lựa chọn và họ có thể quyết định rằng cho dù chúng ta muốn chấm dứt sau 20 năm nhưng họ thì không. Và như vậy, tôi cho rằng những lời lẽ của Tổng thống Biden-và hành động-về thời hạn cố định phải rút quân ra khỏi Afghanistan là một sai lầm và là một lỗi lầm về phán đoán mà tôi nghĩ có thể ảnh hưởng nước Mỹ trong những năm tới.” Tổng thống ngày 11/9 năm nay có phần chắc sẽ tuyên bố công khai, nhưng ‘ngôn từ sẽ không làm nên sự khác biệt tại thời điểm này,” theo ông Norman Ornstein, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện American Enterprise, một nhóm nghiên cứu chính sách công bảo thủ ở Washington. “Dĩ nhiên, Tổng thống sẽ phải có một bài diễn văn trau chuốt kỹ lưỡng vào thứ Bảy này, một phần nói rằng chúng ta đã xoay sở qua nhiều đời chính quyền để ngăn một biến cố 11/9 khác,” ông Ornstein nói. “Chúng ta đã tìm cách tóm và hạ sát tay chủ mưu, Osama bin Laden, rằng mọi chuyện chưa xong, và rằng chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trên con đường của mình. Và chúng ta sẽ tìm cách tránh tái phạm những sai lầm đó trong tương lai.” Li-băng năm 1983 Tuy nhiên, ông lưu ý rằng người Mỹ nên nhìn lại lịch sử tận năm 1983, chứ không phải năm 2001, để thấy mọi chuyện ra sao, khi Tổng thống Ronald Reagan quyết định rút lực lượng Mỹ ra khỏi Li-băng nhiều tháng sau vụ đánh bom giết chết 241 quân nhân Mỹ. Ông Ornstein nói, đây là sự khác biệt căn bản giữa nước Mỹ hôm nay và nước Mỹ của các thập niên trước. “Chúng ta không hề kêu gọi Ronald Reagan từ chức hay có động thái đàn hặc ông ấy,” ông đối chiếu tình hình năm 1983 với tình hình lúc này khi các nhà lập pháp phe Cộng hoà đang kịch liệt chỉ trích cuộc di tản của Mỹ ra khỏi Afghanistan. Trong các cuộc thăm dò ý kiến công luận gần đây, người Mỹ tiếp tục ủng hộ quyết định của ông Biden rút quân ra khỏi Afghanistan, nhưng họ cũng phê phán Tổng thống về cách chính quyền của ông xử lý cuộc di tản. Đây cũng là một phần lý do vì sao các cuộc thăm dò mới cho thấy tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Biden chỉ còn 43%, mức thấp nhất kể từ khi ông nhậm chức tới nay./.  
......

“Ám sát tư cách cá nhân” qua hai chuyện “16 tấn vàng và bốn xe tiền mặt”

Trần Trung Đạo   Mặc dù bản chất và mục tiêu giữa hai cuộc chiến Afghanistan và Việt Nam hoàn toàn khác nhau như người viết đã phân tích khá chi tiết trong bài “Kabul Không Phải Là Sài Gòn”, màn chót của hai bi kịch có nhiều điểm giống nhau đáng chú ý. Một trong chuyện đáng chú ý là chuyện vàng và bạc. Một TT Nguyễn Văn Thiệu mang theo “16 tấn vàng” và một TT Afghanistan Ashraf Ghani với “bốn xe và một trực thăng chở đầy bạc”. Một trong những kỹ thuật tuyên truyền bỉ ổi nhưng hữu hiệu trong chính trị là “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân” (Character Assassination). “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân” được định nghĩa trong trang Web Luật Mỹ (US Legal): “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân là những cuộc tấn công bằng lời nói ác ý nhằm gây tổn hại hoặc làm hoen ố danh tiếng của một người. Sau khi đã thực hiện xong, những hành vi này thường rất khó để đảo ngược hay cải chỉnh. Do đó nó được ví như một vụ ám sát mạng người theo đúng nghĩa đen. Thiệt hại có thể kéo dài suốt đời hoặc, đối với các nhân vật lịch sử và nhân vật quan trọng, trong nhiều thế kỷ sau khi họ qua đời.” (Character Assassination is malicious verbal assaults designed to damage or tarnish the reputation of a person. Once done, these acts are often difficult to reverse or rectify. Therefore it is likened to a literal assassination of a human life. The damage sustained can last a lifetime or, for historical figures and important personalities, for many centuries after their death.) Trường Hợp “16 Tấn Vàng” Hẳn nhiên hôm nay những người biết đọc, biết viết, biết nhận ra những điểm vô lý trong một câu chuyện “16 tấn vàng” đều đồng ý việc đưa 1.234 thỏi (16 tấn) vàng một cách bí mật từ dưới hai hầm của Ngân Hàng Quốc Gia VNCH ra phi trường Tân Sơn Nhất để từ đó bay sang Đài Bắc là sản phẩm Hollywood của báo chí tả khuynh phản chiến Mỹ. Kế hoạch dùng vàng dự trữ để mua vũ khí có thể đã được bàn nhưng cũng chỉ là bàn, không có phương án cụ thể nào hay một thỏa ước giữa VNCH và một nước ngoài nào đó. Không ít người cho rằng việc TT Nguyễn Văn Thiệu mang 16 tấn vàng đã được Phân Tích Viên CIA Frank Snepp kể lại trong tác phẩm Decent Interval, một tác phẩm không thể thiếu cho một người muốn nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam. Nhưng toàn văn cuốn sách nhất là 11 trang trong chương “High-Class Chauffer” (Tài Xế Hạng Sang) mô tả khi Frank Snepp lái xe đưa TT Nguyễn Văn Thiệu ra máy bay không có một chữ “vàng” nào. Tiếng kim loại va chạm nhau mà Frank Snepp tả trong sách và cũng có thể là nguồn cho “ám sát tư cách cá nhân” TT Nguyễn Văn Thiệu thật ra chỉ là tiếng va chạm giữa hai khẩu súng nhỏ của Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận để trong cặp samsonite. Một chuyến ra đi bí mật nhưng bình thường của cựu TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu và một số viên chức trên phi cơ C-118 Mỹ. Sau này TT Nguyễn Văn Thiệu nhắc lại điều ông Nguyễn Văn Hảo nói để mọi người biết nhưng trước đó tổng thống im lặng. Bởi vì ông biết có nói “không” một trăm lần thì những người nghĩ là có vẫn không tin. Họ tin BBC loan, tin AP viết “dựa theo một nguồn tin” được thêu dệt của những kẻ thù ghét VNCH thay vì bình tĩnh tìm ra những nghịch lý của chuyến đi trong thời gian cấp bách chỉ 5 ngày trước khi Sài Gòn mất vào tay CS. Trường Hợp “Bốn Xe Và Một Trực Thăng Chở Đầy Tiền Mặt” Trong mấy tuần qua, những người không biết nhiều về chính trị Afghanistan sẽ khinh bỉ cựu tổng thống của quốc gia này hết sức chỉ vì bản tin của một hãng tin Nga: “Tổng thống Ashraf Ghani bỏ trốn với nhiều xe và trực thăng chứa đầy tiền mặt” (Afghan president fled with cars and helicopter full of cash – RIA”. RIA là chữ viết tắt theo tiếng Anh của Cơ Quan Thông Tin Nga ( Russian Information Agency) thuộc quyền sở hữu của chính phủ Nga. Điều đó có nghĩa những tin do RIA phát là tin chính thức của Nga. Hầu hết các hãng tin và đài truyền hình lớn của Mỹ như Reuter, AP, ABC v.v.. và các báo lớn trên thế giới đều loan dựa theo nguồn tin RIA. Tòa đại sứ Nga tại Kabul còn lo không nhiều người tin vào RIA, đã tiếp lời bằng cách lên tiếng tố cáo tổng thống Ashraf Ghani bỏ trốn với bốn xe chất đầy tiền. Việc đánh phủ đầu bằng cách “ám sát tư cách cá nhân” của TT Ashraf Ghani là một trong những biện pháp cần phải thực hiện ngay. Putin biết cuộcchiến Afghanistan còn lâu mới chấm dứt. Các lực lượng chống Taliban còn chiếm giữ nhiều vùng và đóng quân chỉ cách thủ đô Kabul 100 cây số. Ahmad Massoud, con trai của anh hùng dân tộc Ahmad Shah Massoud (1953-2001), tư lịnh nổi tiếng của cuộc chiến chống Liên Xô xâm lược và là người bị al-Qaida ám sát đầu tháng 9, 2001, vẫn còn hoạt động chống Taliban tại nhiều nơi trên khắp nước. Ahmad Massoud đang kêu gọi thế giới ủng hộ cuộc chiến chống Taliban của nhân dân Afghanistan. Sau khi Mỹ rút, Nga và Trung Cộng là hai quốc gia có ảnh hưởng mạnh nhất trong đời sống chính trị của một nước gần 40 triệu dân vùng Trung Á này. Ashraf Ghani Là Ai? Ashraf Ghani sinh năm 1949 tại miền Nam Afghanistan. Theo chương trình trao đổi học sinh, Ashraf Ghani có cơ hội học tại trung học Lake Oswego, tiểu bang Oregon. Khi trở lại quê hương ông học tiếp để tốt nghiệp trung học và sau đó theo học American University at Beirut ngành Nhân Chủng Học Văn Hóa (Cultural Anthropology). Theo lời giới thiệu được lưu trữ tại Đại học Columbia, ông được học bổng học hai năm trong chương trình Master (Thạc Sĩ) của Columbia University. Sau khi vừa tốt nghiệp Master cũng là lúc gia đình ông bị các lực lượng thân Liên Xô bắt. Ông buộc phải ở lại học tiếp và trình luận án Tiến Sĩ Kinh Tế Nhân Chủng Học Văn Hóa tại trường này năm 1983. Sau khi tốt nghiệp, Dr. Ashraf Ghani được mời dạy tại University of California Berkeley, Johns Hopkins University. Ông gia nhập World Bank năm 1991 và làm việc 11 năm cho tổ chức này tại các vùng Đông và Nam Á Châu. Ashraf Ghani trở lại Afghanistan sau 24 năm để tham gia chính phủ. Bộ trưởng Tài Chánh Ashraf Ghani chủ trương minh bạch và trách nhiệm. Ông sa thải các viên chức tham nhũng. Mười một năm trong tổ chức World Bank cho ông biết minh bạch và trách nhiệm trước hết phải bắt đầu từ người lãnh đạo. Dr. Ashraf Ghani là người đầu tiên trong chính phủ Afghsnistan công khai hóa tài sản riêng của mình thu nhập được sau 24 năm sống và làm việc ở nước ngoài cũng như đất đai do cha ông để lại. Ông ra lịnh phải điện toán hóa mọi thu chi của bộ và từ chối trả lương cho quân đội nếu đơn vị nào không kết toán đầy đủ nhân sự và số lượng người tuyển dụng. Trong suốt các hoạt động văn hóa và chính trị của mình, Ashraf Ghani tập trung vào hai mục đích chính đáng cho dân tộc ông: (1) xóa bỏ nạn nghèo đói tại Afghanistan, (2) xây dựng quyền công dân. Ông không thành công như ý muốn, nhưng không phải vì ông tham nhũng hay độc tài mà do nhiều yếu tố chính trị, lịch sử, văn hóa, tập quán xã hội khác. Sau thời gian làm Bộ Trưởng Tài Chánh, ông từ chối tiếp tục tham chính và xin trở lại làm Viện Trưởng Viện Đại Học Kabul. Năm 2009, ông trở lại chính trường để ứng cử tổng thống. Tuy không thành công, ông được mời làm chủ tịch ủy ban chuyển giao quyền hạn từ Hoa Kỳ và NATO sang các lực lượng an ninh Afghanistan. Năm 2014, Ashraf Ghani được Foreign Policy magazine chọn là một trong một trăm World's Top 100 Global Thinkers. Ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và chính trị Afghanistan. Năm 2014, ông ứng cử tổng thống lần nữa và đắc cử. Ngày 15 tháng 8, 2021, TT Ashraf Ghani rời Afghannistan để “tránh đổ máu” và khỏi bị “treo cổ” nhưng hứa sẽ trở lại Afghanistan. Đọc tiểu sử và những đóng góp của TT Ashraf Ghani, một trí thức có tài sản được ExactNetworth ước lượng vào khoảng năm triệu dollar và được xếp vào hạng 100 nhà trí thức có ảnh hưởng trên thế giới để thấy với cái đầu suy nghĩ của ông ta chẳng lẽ tới giờ chót lại dại dột chở theo bốn xe chất đầy tiền mặt? Tài sản trị giá năm triệu dollar của một tiến sĩ giảng dạy nhiều năm tại các đại học danh tiếng thế giới, làm việc 11 năm cho World Bank, được thừa kế nhiều ruộng đất do ông cha để lại và đầu tư trong suốt 24 năm là một gia sản hợp lý nếu không muốn nói là khiêm nhượng. Hôm 18 tháng 8 vừa qua, TT Ashraf Ghani tố cáo Nga đã “ám sát tư cách cá nhân” ông khi tung tin không căn cứ. Giấy tờ khai với hải quan qua hai nước cho thấy ông chỉ mặc một bộ đồ truyền thống, khoác chiếc áo ‘vest’ và mang đôi giày ‘sandals”. Đành rằng "con người lòng tham không đáy”, không có gì chắc chắn để bảo đảm Ashraf Ghani giàu rồi nên không muốn giàu thêm nhưng ít nhất ông cũng biết mọi hành vi của ông không thể nào tránh được tai mắt của mọi người. Lý Do Putin Muốn “Ám Sát Tư Cách Cá Nhân” Ashraf Ghani Muốn biết lý do chúng ta phải xem xét mối quan hệ giữa Taliban và Nga cũng như cách đánh giá của Putin về vai trò của Ashraf Ghani trong tương lai Afghanistan. Nga nhận xét Afghanistan như là một “vùng ảnh hưởng” của ba cường quốc: Mỹ, Trung Cộng và Nga. Quốc gia này có chung biên giới với các “kho thuốc súng” Trung Cộng, Iran, Pakistan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Nga được bao bọc bởi một vòng đai an ninh gồm ba nước Trung Á là Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Ba nước này là thành viên của Tổ Chức Liên Phòng An Ninh Tập Thể (Collective Security Treaty Organization) do Nga đứng đầu, và vì thế, biên giới của Nga trong thực tế là Afghanistan như đã có từ thời Liên Xô còn tồn tại. Lãnh thổ Afghanistan có thể sớm bị biến thành bãi chiến trường trong một cuộc Chiến Tranh Ủy Nhiệm (Proxy War) kiểu Syria mà Putin không muốn thấy. Lý do, tại Syria, Nga đóng vai “ngư ông đắc lợi” trong khi tại Afghanistan, Nga từng là “cò” và có thể sẽ là “cò” lần nữa trong tương lai. Mọi bất ổn trầm trọng của Afghanistan sẽ ảnh hưởng đến phần Á Châu của Nga. Bài học xương máu 10 năm xâm lược Afghanistan với 15,000 lính bị giết, 35,000 lính bị thương và làm nền kinh tế suy sụp như Gorbachev thừa nhận với RIA hôm 17 tháng 8, 2021 vừa qua là một bài học cay đắng của Liên Xô. Ngày 8 tháng 7, 2021, Nga là quốc gia đầu tiên mà các đại diện phe Taliban thăm viếng và cam kết cuộc tiến quân nhanh chóng của họ sẽ không ảnh hưởng gì đến các quốc gia lân cận trong vùng Trung Á và Taliban thừa nhận rằng họ có quan hệ tốt với Nga. Khi Nga tung tin để “ám sát tư cách cá nhân” một đối thủ chính trị của Taliban cho thấy mối lo xa của Putin và cũng để lấy lòng Taliban. Dù Ashraf Ghani đã cải chính “viên đạn” của Nga cũng đã làm ông bị tổn thương trầm trọng. Mấy tuần qua cách rút quân ra khỏi Afghanistan của TT Joe Biden làm trò cười cho thế giới và bị các chính khách cả hai đảng Dân Chủ lẫn Cộng Hòa phê bình. Khi bị phê bình, TT Joe Biden thay vì thừa nhận sai lầm đã đổ thừa lên TT Ashraf Ghani và quân đội Afghanistan nhu nhược, không có khả năng bảo vệ đất nước. Trong khi đó, TT Joe Biden và bộ tham mưu của ông đã làm ngược với sách vở và kinh nghiệm rút quân của thế giới cũng như của các chính phủ Mỹ trước đây. Trong số những người phê bình có Mikhail Gorbachev. Cũng trong bài trả lời phỏng vấn của RIA, Mikhail Gorbachev cho rằng Mỹ thất bại ngay từ đầu cuộc chiến Afghanistan. Nhận xét đó không đúng và chẳng qua là một cách gỡ gạc cho thất bại của chính mình. Mỹ không thua ở Afghanistan. Việc rút quân ra khỏi Afghanistan sau khi các mục đích chính đã hoàn thành dù tốn kém là một chọn lựa có tính chiến lược. Tuy nhiên, cách rút của TT Joe Biden đã biến những thành tựu nên được đề cao, những tốn kém cần được đánh đổi, những hy sinh cần được vinh danh thành những thất bại ê chề. Lẽ ra, TT Joe Biden nên tuần tự rút theo ưu tiên các thành phần dân sự Mỹ và các cộng tác viên người Afghanistan sau đó mới chính thức công bố thời hạn rút số quân còn lại. TT Joe Biden làm ngược với sách vở nên tạo ra một luồng sóng phản ứng tâm lý đối với mọi cấp từ lãnh đạo, quân đội đến người dân Afghanistan. Ai không sợ Taliban? Thời gian từ khi lên nắm quyền 1996, bị đánh bật ra khỏi Kabul 2001 và phục hồi, Taliban là cơn ác mộng hãi hùng của dân tộc Afghanistan vì đã gây ra vô số tội ác. Hình phạt mà Taliban thường dùng là cắt cổ. Cách đây không lâu, tháng 5, 2021, Sohail Pardis, một thông dịch viên cho quân đội Mỹ chỉ 16 tháng bị Taliban chận xe bắt và chặt đầu ngay giữa đường. TT Joe Biden và bộ tham mưu của ông biết rõ tội ác của Taliban nhưng vô cảm trước nỗi sợ hãi và tai họa sẽ giáng xuống đầu hàng triệu dân Afghanistan trong nay mai. Con Người Thường Rất Dễ Tin Sự dễ tin của một người phát xuất từ bốn lý do, (1) thiếu kiến thức căn bản để tự tìm hiểu các điều nghịch lý trong câu chuyện; (2) thiếu tự tin ở chính mình nên dễ bị lung lạc; (3) đầy định kiến nên tin vào những nguồn tin không chính xác nhưng lại phù hợp với tình cảm hay quan điểm riêng của mình; (4) những điều đó dẫn tới một trình độ nhận thức kém về những lãnh vực mà người đó quan tâm. Người viết không binh vực hay chống đối TT Ashraf Ghani nhưng chỉ viết ra đây mặt khác của vấn đề để các bạn trẻ đọc và qua đó sẽ có một cách nhìn sáng suốt, đa diện, khách quan và bình tĩnh khi có cơ hội đọc về những nhân vật lịch sử của cuộc chiến Việt Nam. Không riêng cố TT Nguyễn Văn Thiệu mà cả nước Việt Nam Cộng Hòa cho đến nay vẫn còn là nạn nhân của loại “ám sát” này. Thế giới con người đầy gai nhọn, gai trên đường đi và gai nhiều nhất trong lòng người. Mong các ban trẻ học chuyện nước ngoài để bước khéo hơn trên con đường Việt Nam đã, đang và sẽ đầy gai như thế. Trần Trung Đạo  
......

Thế giới hôm nay: 26/08/2021

* Tới nay đã có hơn 80.000 người được Mỹ và đồng minh sơ tán khỏi Afghanistan, ngay trước thềm thời hạn 31/8 mà Tổng thống Joe Biden muốn tuân thủ. Song cam kết rút quân của ông phụ thuộc vào việc Taliban có đảm bảo người dân được tiếp cận sân bay Kabul hay không. Ông Biden đã chỉ đạo cấp dưới soạn thảo các kế hoạch dự phòng nếu tình hình thay đổi. * Các cơ quan tình báo Mỹ được cho là đã không thể đưa ra kết luận cụ thể về nguồn gốc covid-19 trong báo cáo mật cho Tổng thống Joe Biden. Việc Trung Quốc từ chối chia sẻ dữ liệu đã gây khó cho quá trình điều tra nguồn gốc virus - bị rò rỉ từ phòng thí nghiệm Vũ Hán hay lây lan từ động vật. Trung Quốc nói báo cáo này không hề nhằm phục vụ khoa học, mà chỉ mang tính chính trị. * OnlyFans quyết định không cấm nội dung khiêu dâm mà công ty từng ấn định vào ngày 1 tháng 10. Nền tảng này là nơi người dùng trả tiền để xem ảnh và video, và đã tăng vọt doanh thu nhờ sự nhàm chán trong đại dịch. Nó cũng trở nên phổ biến với các công nhân tình dục. Ban đầu công ty nói phải cấm để tuân thủ yêu cầu từ ngân hàng, vốn không muốn xử lý các khoản thanh toán liên quan đến nội dung khiêu dâm. * Cổ phiếu của Pinduoduo, một trong những nhà bán lẻ trực tuyến lớn nhất Trung Quốc, đã tăng 22% sau khi cam kết quyên góp 10 tỷ nhân dân tệ (1,5 tỷ USD) cho lĩnh vực nông nghiệp. Con số này lớn hơn toàn bộ lợi nhuận công ty kiếm được kể từ khi niêm yết. Các công ty công nghệ Trung Quốc đang mạnh tay làm từ thiện nhằm tránh bị chính phủ đàn áp. * Chính quyền các bang và địa phương ở Mỹ chỉ mới phát 1,7 tỷ đô la cho người thuê nhà vào tháng 7, quá nhỏ so với ngân sách của Chương trình Hỗ trợ Cho thuê Khẩn cấp được Quốc hội thiết lập trong đại dịch để ngăn trục xuất người thuê nhà. Chậm trễ trong xử lý đơn xin trợ cấp khiến đến nay chỉ mới có 11% trong 46,5 tỷ đô la quỹ được giải ngân. * Hai đảng cầm quyền của Nhật Bản và Đài Loan sẽ tổ chức cuộc đàm phán an ninh song phương đầu tiên vào thứ Sáu. Cả hai nước này đều lo lắng trước thái độ ngày càng hung hăng của Trung Quốc trong khu vực. Thậm chí Nhật Bản còn gắn liền an ninh quốc gia Đài Loan với an ninh quốc gia của chính họ trong sách trắng của chính phủ. Trung Quốc, nước nói Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình, lên án động thái này. * Delta Air Lines cho biết các nhân viên có tham gia bảo hiểm y tế doanh nghiệp nếu chưa tiêm chủng covid-19 sẽ phải trả thêm 200 đô la một tháng kể từ tháng 11. Đây là một dấu hiệu ban đầu cho thấy phí bảo hiểm sẽ tăng lên đối với những người không chịu tiêm ngừa, vì họ có rủi ro bị nhiễm và nhập viện cao hơn. Từ cuối tháng sau hãng cũng sẽ ngừng trả lương nghỉ ốm cho nhân viên chưa tiêm nếu họ nhiễm covid. TIÊU ĐIỂM * Đức sắp bước vào một cuộc bầu cử vô cùng khó đoán: Người Đức gọi thời gian này là “giai đoạn nóng bỏng” của chiến dịch tranh cử. Áp phích bầu cử ở mọi nơi, các ứng viên xuất hiện đầy trên TV, còn các hãng thăm dò làm việc hết tốc lực. Một tháng nữa là đến ngày bỏ phiếu, và mô hình dự báo bầu cử của The Economist cho thấy nước Đức bước vào cuộc bầu cử khó đoán nhất cho đến nay. Với Armin Laschet, ứng viên thủ tướng kém sức hút của CDU/CSU, khối trung hữu đã mất 1/4 ủng hộ chỉ trong sáu tuần. Còn đợt tăng ủng hộ hồi mùa xuân của Đảng Xanh không kéo dài được lâu. Trong khi đó cơ may tăng lên với đảng Dân chủ Xã hội, từ lâu bị coi là đảng về nhì, qua đó trao cho Olaf Scholz một cơ hội lên lãnh đạo chính phủ tiếp theo. Tình hình phân tán ủng hộ đồng nghĩa Đức có thể sẽ có liên minh ba bên đầu tiên sau nhiều thập kỷ. Tất cả những điều này là vì thủ tướng Angela Merkel về hưu sau 16 năm đương nhiệm với tỉ lệ ủng hộ cao ngất ngưởng. Dù điều gì xảy ra vào ngày 26 tháng 9, tương lai của người Đức vẫn rất khó đoán định. * Sắp khai mạc hội nghị Jackson Hole: Hôm nay sẽ công bố chương trình làm việc đầy đủ của hội nghị trực tuyến các nhà ngân hàng trung ương vào tuần này - vốn thường tổ chức ở Jackson Hole, Wyoming. Một năm trước các nhà hoạch định chính sách tiền tệ đã ngăn một cuộc khủng hoảng tài chính trong làn sóng dịch đầu tiên. Nhưng thành tựu của họ nhanh chóng bị quên đi. Đà tăng lạm phát hiện tại khiến Cục Dự trữ Liên bang bất ngờ; trong khi một ủy ban quốc hội nói Ngân hàng Trung ương Anh mắc chứng “nghiện nguy hiểm” đối với việc mua trái phiếu; còn Ngân hàng Trung ương Châu Âu công bố mục tiêu lạm phát “đối xứng” (cao hoặc thấp hơn) 2% (dù ai cũng dự đoán là thấp hơn 2%). Được mong đợi nhất sẽ là bài phát biểu của chủ tịch Fed Jerome Powell vào thứ Sáu. Ông có thể ra dấu hiệu về tương lai của chương trình nới lỏng định lượng của Fed, mà theo đó Fed mua 120 tỷ USD trái phiếu mỗi tháng. Những người phản đối — và một số đồng nghiệp của ông Powell — cho rằng con số đó quá nhiều. Lạm phát hiện đang cao hơn mục tiêu 2% của Fed. * Liệu Taliban có cấm thuốc phiện?: Tuần trước, một phát ngôn viên của Taliban cho biết nhóm sẽ cấm sản xuất thuốc phiện, một loại thuốc thu hoạch từ cây anh túc và có thể tinh chế thành heroin. Afghanistan là nhà cung cấp ma túy lớn nhất thế giới và ngành này tạo ra tới 6-11% GDP của cả nước. Taliban hưởng lợi từ việc đánh thuế buôn bán thuốc phiện. Nhưng họ cũng từng cấm thuốc phiện trong một thời gian ngắn trong giai đoạn cầm quyền trước, nhằm được quốc tế công nhận và được viện trợ. Kể từ đó, buôn bán thuốc phiện bùng nổ ở Afghanistan. Taliban vừa đang gánh trách nhiệm nhà nước, vừa đối mặt với một lỗ hổng tài chính. Chính quyền Biden đã đóng băng hơn 9 tỷ đô la tài sản của Afghanistan. Đức cắt viện trợ, và các nước khác có thể sẽ làm theo. (Quốc tế chi trả tới 75% ngân sách chính phủ Afghanistan vào năm 2019.) Cấm thuốc phiện sẽ chỉ làm gia tăng gánh nặng tiền bạc của Taliban. Do đó, có thể thấy họ sẽ không làm vậy trừ khi có lời hứa nào đó từ bên ngoài. ---- * Nguồn tiếng Anh: The Economist | Biên dịch: Đỗ Đặng Nhật Huy ** Nguồn tiếng Việt: http://nghiencuuquocte.org/.../the-gioi-hom-nay-26-08.../...  
......

Afghanistan: Chiến lợi phẩm để lại cho Taliban, một mối đau đầu khác cho Mỹ

Ảnh minh họa: Chiến binh Taliban chiếm được một chiếc xe thiết giáp Humvee do Mỹ chế tạo mà lực lượng chính phủ Afghnistan bỏ lại tại Herat (Afganistan) ngày 13/08/2021. - AFP Trọng Nghĩa - RFI| Sự sụp đổ nhanh chóng của lực lượng chính phủ Afghanistan, hầu như chỉ tháo chạy trước đà tiến của Taliban đã khiến cho một khối lượng vũ khí khổng lồ mà Mỹ trang bị cho quân đội nước này rơi vào tay phiến quân Hồi Giáo. Chính cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan ngày 17/08/2021 đã thừa nhận rằng một số lượng vũ khí “khá lớn” của Mỹ đã rơi vào tay lực lượng Taliban. Thực tế này đã làm dấy lên nhiều lo ngại về nguy cơ vũ khí tối tân của Mỹ bị các nhóm khủng bố sử dụng hoặc bị Taliban giao cho Trung Quốc hay Nga. Hãng tin Anh Reuters ngày 19/08 đã nhắc lại một số sự kiện rất mỉa mai: Chỉ cách nay khoảng một tháng, bộ Quốc Phòng Afghanistan đã đăng trên mạng xã hội những bức ảnh chụp 7 chiếc trực thăng mới tinh vừa được Hoa Kỳ chuyển đến Kabul. Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Lloyd Austin vài hôm sau đã khoe với báo chí rằng Afghnistan “sẽ tiếp tục chứng kiến nhịp độ dồn dập” của viện trợ quân sự Mỹ. Thế nhưng, chỉ trong vài tuần, Taliban đã chiếm được hầu hết lãnh thổ Afghanistan cũng như mọi loại vũ khí và thiết bị quân sự mà quân đội Afghanistan đã bỏ lại khi tháo chạy. Nhiều đoạn video lưu hành trên mạng cho thấy phiến quân đang kiểm tra hàng dãy xe cơ giới và mở các thùng đựng nào là súng, nào là thiết bị liên lạc, thậm chí cả máy bay quân sự không người lái.   28 tỷ đô la vũ khí, từ Humvee đến Black Hawk Trả lời Reuters, một quan chức Mỹ cho biết là mặc dù chưa có số chính xác, nhưng các thông tin tình báo hiện tại ước lượng là Taliban đang nắm trong tay hơn 2.000 xe thiết giáp, trong đó có loại Humvee hiện đại của Mỹ, và đến 40 phi cơ bao gồm loại trực thăng UH-60 Black Hawk, trực thăng trinh sát tấn công và máy bay quân sự không người lái ScanEagle. Từ năm 2002 đến 2017, Hoa Kỳ đã cung cấp cho quân đội Afghanistan ước tính 28 tỷ đô la vũ khí, bao gồm súng, tên lửa, kính nhìn ban đêm và thậm chí cả máy bay không người lái nhỏ để thu thập thông tin tình báo. Trực thăng Black Hawk là dấu hiệu dễ thấy nhất về hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ và được cho là lợi thế lớn nhất của quân đội Afghanistan trước Taliban. Theo cơ quan chính phủ Mỹ GAO, từ năm 2003 đến năm 2016, Hoa Kỳ đã cung cấp cho các lực lượng Afghanistan 208 máy bay các loại. Vào tuần trước, theo một quan chức Mỹ, có khoảng từ 40 đến 50 máy bay do các phi công Afghanistan điều khiển đã bay qua Uzbekistan để tìm nơi ẩn náu. Ngoài ra một số khác đã được đưa về Mỹ để đươc bảo trì. Một số đã bảo trì xong và đang trên đường qua Afghanistan sẽ được quân đội Hoa Kỳ sử dụng vào chiến dịch di tản khỏi Kabul. Vũ khí Mỹ trong tay Taliban: Mối đe dọa cho Mỹ và đồng minh Các quan chức Mỹ đương nhiệm hay cựu quan chức đều đã lo ngại trước nguy cơ các loại vũ khí này có thể được Taliban sử dụng để giết dân thường, hay là bị các nhóm chiến binh khác như tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo chiếm giữ để tấn công vào các lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực. Trả lời Reuters bằng email, dân biểu đảng Cộng Hòa Michael McCaul thuộc Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Mỹ cho biết: “Chúng tôi đã thấy chiến binh Taliban dùng vũ khí do Mỹ sản xuất mà họ chiếm được từ tay lực lượng Afghanistan. Điều này gây ra mối đe dọa đáng kể đối với Mỹ và các đồng minh”. Chính quyền của tổng thống Joe Biden đang cân nhắc một số phương án đối phó trong đó có việc tấn công phá hủy các loại thiết bị lớn, chẳng hạn như máy bay trực thăng. Tuy nhiên khả năng này tạo ra lo ngại là điều đó sẽ chọc giận phe Taliban vào thời điểm và mục tiêu chính của Hoa Kỳ là sơ tán người của mình ra khỏi Afghanistan. Các quan chức Mỹ tuy nhiên nói rằng mặc dù họ lo ngại về việc Taliban có thể sử dụng trực thăng, nhưng loại phương tiện này đòi hỏi phải được bảo trì thường xuyên và nhiều loại không thể dùng được nếu không được đào tạo chuyên sâu. Nguy cơ đến từ khối lượng vũ khí cá nhân khổng lồ dễ sử dụng Tuy vậy có một mối lo ngại trước mắt về một số vũ khí và thiết bị dễ sử dụng hơn, chẳng hạn như vũ khí hạng nhẹ và các thiết bị như kính nhìn ban đêm. Kể từ năm 2003, Hoa Kỳ đã cung cấp cho lực lượng Afghanistan ít nhất 600.000 vũ khí dùng cho bộ binh, bao gồm súng trường tấn công M16, 162.000 thiết bị liên lạc và 16.000 thiết bị kính nhìn ban đêm. Một số chuyên gia cho rằng các loại súng mà Taliban chiếm được như đại liên, súng cối, cũng như các loại pháo bao gồm cả pháo tự hành, có thể mang lại lợi thế cho Taliban khi phải đánh vào các thành trì nổi tiếng là chống Taliban trong lịch sử như vùng Thung Lũng Panshir ở phía đông bắc Kabul. Theo trang mạng thông tin The Hill ngày 19/08, Elias Yousif, phó giám đốc Trung Tâm Chính Sách Quốc tế (Center for International Policy’s Security Assistance Monitor), đặc biệt lo ngại trước khối lượng vũ khí cá nhân khổng lồ mà Taliban tịch thu được. Trả lời phóng viên của The Hill, ông Yousif giải thích: “Chúng dễ bảo trì, dễ sử dụng, dễ vận chuyển. Điều đáng lo trong trường hợp các loại vũ khí nhẹ này là chúng là mặt hàng lâu bền và dễ chuyển nhượng hay bán đi. Chúng tôi đã thấy điều này trước đây mỗi khi một cuộc xung đột kết thúc và những vũ khí đã dùng ở đó được đưa đến mọi nơi trên thế giới.” Theo tạp chí Mỹ Politico ngày 19/08, Colin Clarke, giám đốc chính sách và nghiên cứu của The Soufan Group cho biết: “Tôi tin chắc rằng một số vũ khí sẽ rơi vào tay Al Qaeda và những thành phần xấu khác, đây là điều không thể tránh khỏi”. Nguy cơ này lại càng cao khi lực lượng Taliban đang rất cần tiền để có thể điều hành đất nước Afghanistan. Taliban sẽ cho Trung Quốc tiếp cận vũ khí Mỹ? Một trong những mối lo ngại khác được gợi lên là nguy cơ Taliban chia sẻ thiết bị quân sự Mỹ mà họ tịch thu được với các quốc gia đối thủ của Hoa Kỳ như Trung Quốc, nước bị tình nghi là đã từng đánh cắp công nghệ vũ khí của Mỹ. Andrew Small, một chuyên gia về chính sách đối ngoại Trung Quốc tại Quỹ Marshall của Hoa Kỳ, cho biết Taliban có khả năng cho Bắc Kinh quyền tiếp cận bất kỳ vũ khí nào của Hoa Kỳ mà họ nắm được trong tay. Tuy nhiên, theo Reuters, một quan chức Mỹ cho biết Trung Quốc có lẽ không cần đến điều này vì Bắc Kinh có thể đã tiếp cận được các loại vũ khí và thiết bị từ trước. Tướng Lục Quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu Joseph Votel, người từng giám sát các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ tại Afghanistan khi còn là Tư lệnh Bộ Chỉ Huy Trung Tâm Hoa Kỳ CentCom từ năm 2016 đến năm 2019, cho biết là hầu hết các thiết bị cao cấp lọt vào tay Taliban, bao gồm cả máy bay, đều không được trang bị công nghệ nhạy cảm của Hoa Kỳ. Theo ông Votel: “Trong một số trường hợp, nhiều loại vũ khí chỉ là chiến lợi phẩm để trưng bày mà thôi”. https://www.rfi.fr/vi/qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/20210820-afghanistan-chi%E1%BA%BFn-l%E1%BB%A3i-ph%E1%BA%A9m-%C4%91%E1%BB%83-l%E1%BA%A1i-cho-taliban-m%E1%BB%99t-m%E1%BB%91i-%C4%91au-%C4%91%E1%BA%A7u-kh%C3%A1c-cho-m%E1%BB%B9  
......

Taliban vẫn chưa kiểm soát được vùng đất huyền thoại của Ahmad Shah Massoud

Timothy Trinh Một lãnh đạo của chính quyền Afghanistan công bố rằng ông sẽ không đội trời chung với quân khủng bố Taliban, trước khi rời thủ đô Kabul để đến một vùng đất được kiểm soát bởi Liên minh phương Bắc ở tỉnh Panjshir chỉ cách thủ đô Kabul 50 km về hướng đông bắc. Amrullah Saleh, Phó tổng thống thứ nhất của chính quyền Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, tuyên thệ hôm Chủ nhật rằng: “Tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ và trong bất cứ hoàn cảnh nào cúi đầu trước những kẻ khủng bố Taliban. Tôi sẽ không bao giờ phản bội linh hồn và di sản của người anh hùng Ahmad Shah Massoud của tôi, người chỉ huy, huyền thoại và người dẫn đường. Tôi sẽ không bao giờ làm thất vọng hàng triệu người đã lắng nghe tôi. Tôi sẽ không đội trời chung với Taliban. CHƯA TỪNG.” Khác với Tổng thống Ashraf Ghani đã bỏ chạy ra nước ngoài, Phó tổng thống thứ nhất Amrullah Saleh vẫn ở lại để tiếp tục chiến đấu. Quyền Tổng thống Saleh, Bộ trưởng Quốc phòng Bismillah Khan và Ahmad Massoud, con trai của Ahmad Shah Massoud, được cho là đang thành lập ở Panjshir một lực lượng kháng chiến chống Taliban. Thung lũng Panjshir được xem như là một vùng đất huyền thoại của “Sư tử của Panjshir”, biệt danh của Ahmad Shah Massoud, một chính trị gia và chỉ huy quân sự người Afghanistan. Ông là một chỉ huy du kích của lực lượng kháng chiến Hồi giáo Mujahideen trong cuộc chiến chống lại sự chiếm đóng của Liên Xô từ năm 1979 đến 1989. Trong một video đăng trên Twitter, Ahmad Massoud, người con trai, được nhìn thấy cùng với một số tướng lĩnh quân đội đã lên trực thăng đến Panjshir, thành trì cuối cùng vẫn chưa bị kiểm soát bởi Taliban. Trong 72 giờ qua, các lực lượng đặc biệt Afghanistan đã tham gia cùng Massoud với vũ khí và đạn dược. Vào hôm thứ Ba, Amrullah Saleh công bố: “Theo quy định rõ ràng của Hiến pháp Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, trong trường hợp Tổng thống vắng mặt, bỏ trốn hoặc qua đời, Phó Tổng thống thứ nhất sẽ là quyền Tổng thống. Tôi đang ở trong nước và tôi phụ trách hợp pháp và chính đáng vị trí tổng thống. Tôi đang tham khảo với tất cả các nhà lãnh đạo để đảm bảo sự ủng hộ và đồng thuận của họ.” “Trên đất của tôi, với đồng bào tôi. Vì một nguyên nhân và mục đích, với niềm tin vững chắc vào lẽ phải. Chống lại sự áp bức và chế độ độc tài tàn bạo được hậu thuẫn bởi Pakistan là tính hợp pháp của chúng tôi”, ông Saleh nói. Đối với sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đổ lỗi chính quyền Afghanistan, ông Saleh cho biết: “Bây giờ tranh luận với Tổng thống Mỹ về vấn đề Afghanistan là vô ích. Hãy để ông ta tiêu hóa nó.” “Chúng tôi là người Afghanistan phải chứng minh rằng Afghanistan không phải là Việt Nam và những người Taliban thậm chí không giống Việt Cộng từ xa. Không giống như Mỹ / NATO, chúng tôi không mất tinh thần và nhìn thấy những cơ hội to lớn ở phía trước”, ông nói. “Những lời cảnh báo vô ích đã kết thúc”, và ông kêu gọi người dân Afghanistan hãy “THAM GIA KHÁNG CHIẾN.”  
......

10 tổ chức nhân quyền thúc giục Phó Tổng Thống Hoa Kỳ nêu các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam

Các tổ chức nhân quyền quốc tế| Nhiều thành viên trong cộng đồng quốc tế kêu gọi Phó Tổng Thống Kamala Harris nêu lên những quan ngại về nhân quyền trong chuyến công du Việt Nam sắp tới của bà. Việt Tân cùng 9 tổ chức phi chính phủ về nhân quyền kêu gọi Phó Tổng Thống Harris gặp gỡ các thành viên xã hội dân sự. Họ cũng yêu cầu bà thảo luận về việc Việt Nam cần phải tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế liên quan đến nhân quyền, bao gồm cả việc trả tự do ngay lập tức cho tất cả các tù nhân chính trị. — Ngày 18 tháng 8, 2021 Kính gởi: Phó Tổng Thống Kamala Harris Tòa Bạch Ốc 1600 Pennsylvania Avenue NW Washington, DC 20500 Thưa Phó Tổng Thống, Chúng tôi, các tổ chức ký tên dưới đây, khen ngợi chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ 5 triệu liều vắc xin cho Việt Nam. Hoa Kỳ đã thể hiện vai trò lãnh đạo tuyệt vời trong việc chống lại đại dịch đã làm chết hơn 4 triệu người trên toàn thế giới. Trong khi đại dịch COVID-19 thu hút sự chú ý của toàn cầu, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục bắt giữ và tống giam những người bảo vệ nhân quyền với những bản án khắc nghiệt. Trong vài năm gần đây, chính phủ Việt Nam đã tăng cường đàn áp những người bảo vệ nhân quyền, sử dụng các bộ luật hình sự mơ hồ để đàn áp quyền tự do ngôn luận. Kể từ khi Luật An Ninh Mạng có hiệu lực vào tháng 1 năm 2019, Nhà chức trách Việt Nam đã sử dụng các bài đăng trên các mạng xã hội như Facebook để bắt giữ và bỏ tù các nhà hoạt động. Tổ chức Defend the Defenders cho biết đến cuối năm 2020, Việt Nam có ít nhất 258 tù nhân lương tâm. Trong thời gian đại dịch, hơn 50 nhà hoạt động ôn hòa đã bị bắt giữ. Một số người đã bị kết án tới 15 năm tù, chỉ đơn giản vì chỉ trích chính sách của chính phủ và lên tiếng chống lại những bất công. Gần đây nhất là vụ Facebooker Trần Hoàng Huấn (Fb Huan Tran) bị bắt chỉ vì kêu gọi chính phủ miễn tiền điện, nước trong 3 tháng khi xảy ra đại dịch. Nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc cung cấp viện trợ để chống lại dịch COVID-19 là cần thiết và đáng khen ngợi. Tuy nhiên, không thể làm ngơ trước việc chính phủ Việt Nam vi phạm nhân quyền. Chúng tôi tin rằng Hoa Kỳ có thể khẳng định hơn nữa vai trò lãnh đạo toàn cầu của mình bằng cách yêu cầu Việt Nam tôn trọng nhân quyền và trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm vì những hoạt động ôn hòa của họ. Việt Nam đang ngày càng có nhiều cam kết hội nhập kinh tế toàn cầu và hợp tác an ninh khu vực. Do đó, Việt Nam cũng cần tuân thủ việc bảo vệ nhân quyền dựa trên các nghĩa vụ quốc tế của mình nhằm thúc đẩy ổn định và an ninh khu vực. Vì vậy, chúng tôi mong rằng trong chuyến công du Việt Nam, Bà sẽ: – Đặt vấn đề tình hình nhân quyền với chính phủ Việt Nam và yêu cầu trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm, bao gồm Lê Đình Lượng, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Chí Dũng, Châu Văn Khảm, Hồ Đức Hoà, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyễn, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Đoan Trang, Cấn Thị Thêu, Đinh Thị Thu Thủy, Huỳnh Tố Nga và Trần Thị Xuân. – Yêu cầu chính phủ Việt Nam tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do sử dụng Internet và chấm dứt việc bắt giữ tùy tiện những công dân bày tỏ quan điểm phê bình trên mạng xã hội. – Sắp xếp một cuộc gặp trực tiếp hoặc trực tuyến với những người bảo vệ nhân quyền và xã hội dân sự, để hiểu rõ hơn về những thách thức nhân quyền mà Việt Nam đang phải đối mặt. – Yêu cầu chính phủ Việt Nam bảo đảm một môi trường an toàn và tạo điều kiện cho sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự độc lập, được bảo vệ bởi Công Ứớc Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam đã phê chuẩn. Trân trọng, ACAT Vương Quốc Bỉ ACAT Pháp ACAT Đức ACAT Thụy Sĩ Hội Anh Em Dân Chủ Ủy Ban Thụy Sĩ-Việt Nam Cosunam Destination Justice Safeguard Defenders Phóng Viên Không Biên Giới – RSF Việt Tân — Nguyên bản Anh ngữ: August 18, 2021 The Honorable Kamala Harris Vice President of the United States of America The White House Office of the Vice President 1600 Pennsylvania Avenue NW Washington, DC 20500 Dear Vice President Harris, We, the undersigned organizations, commend the U.S government for donating 5 million vaccine doses to Vietnam. The United States has shown great leadership in fighting this pandemic that has killed over 4 million people worldwide. While COVID-19 has consumed global attention, the Vietnamese government continues to detain and imprison human rights defenders, sentencing them to long prison terms. In the last few years, the Vietnamese government has intensified its crackdown on human rights defenders, using vague penal codes to suppress freedom of expression. Since the Cybersecurity Law went into effect in January 2019, the Vietnamese authorities have used social media posts from platforms such as Facebook to arrest and imprison activists. Defend the Defenders reported that by the end of 2020, Vietnam had at least 258 prisoners of conscience. During the pandemic, more than 50 peaceful activists have been arrested. Some have been sentenced for up to 15 years, simply for criticizing government policy and raising their voice against injustices. Most recently, Facebooker Tran Hoang Huan (Fb Huan Tran) was arrested for calling on the government to waive the electricity and water bills for 3 months to help Vietnamese citizens during the pandemic. The United States’ effort in providing aid to combat COVID-19 is necessary and commendable. However, the Vietnamese government’s violation of human rights must not be ignored. We believe the United States can further affirm its global leadership by demanding that Vietnam respects human rights and releases all prisoners of conscience for their peaceful activism. Vietnam has increasingly committed to global economic integration and regional security cooperation. It is imperative that Vietnam also adheres to the protection of human rights based on its international obligations in order to foster regional stability and security. Thus, while visiting Vietnam, we urge you to: Address the human rights situation with the Vietnamese government and request for the release of all prisoners of conscience, including Le Dinh Luong, Tran Huynh Duy Thuc, Pham Chi Dung, Chau Van Kham, Ho Duc Hoa, Nguyen Trung Ton, Nguyen Bac Truyen, Nguyen Thuy Hanh, Pham Doan Trang, Can Thi Theu, Dinh Thi Thu Thuy, Huynh To Nga, and Tran Thi Xuan. Request the Vietnamese government to respect freedom of expression, freedom of the internet and to cease arbitrary detention of citizens who express their critical views on social media. Arrange a meeting with human rights defenders and civil society, either face-to-face or online, to have a better understanding of the human rights challenges facing Vietnam. Request the Vietnamese government to ensure a safe environment for the growth of independent civil society organizations, as protected by the International Covenant of Civil and Political Rights to which Vietnam has ratified. Yours Sincerely, ACAT Belgium ACAT France ACAT Germany ACAT Switzerland Brotherhood for Democracy Cosunam Destination Justice Safeguard Defenders Reporters Without Borders Viet Tan XEM THÊM: 60 tổ chức người Việt vận động Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Harris đặt vấn đề nhân quyền với CSVN https://viettan.org/10-to-chuc-quoc-te-thuc-giuc-pho-tong-thong-hoa-ky-neu-cac-van-de-nhan-quyen-o-viet-nam/    
......

Afghanistan: Joe Biden chịu trách nhiệm

Ngô Nhân Dụng Cả thế giới chứng kiến một chính quyền do nước Mỹ dựng lên và hỗ trợ trong gần 20 năm bỗng tan thành mây khói. Tòa đại sứ Mỹ chạy khỏi Kabul trong một ngày, để lại 5.000 quân sĩ giữ phi trường, vì 40.000 người Mỹ còn kẹt lại ở Afghanistan. Ba đời tổng thống Mỹ sa lầy ở Afghanistan. Tổng thống Donald Trump đã hứa sẽ rút quân từ khi tranh cử năm 2016; năm ngoái ông tuyên bố sẽ thực hiện trong năm nay. Tổng thống Joe Biden tự biện hộ rằng quyết định rút quân là do ông Donald Trump đưa ra, ông chỉ tiếp tục tiến hành! Nhưng ông Biden hoàn toàn chịu trách nhiệm để diễn ra cảnh tượng tan rã hỗn loạn nhục nhã mấy tuần lễ vừa qua. Ông Biden, cũng như các vị tổng thống trước, không tìm hiểu lịch sử, tôn giáo, xã hội Afghanistan. Họ sống với ảo tưởng một lực lượng 300.000 quân chính phủ Kabul. Thật ra, đó không phải là một “quân đội” mà chỉ là tập hợp lỏng lẻo các đám quân của các lãnh chúa địa phương, tất cả được quân đội Mỹ cung cấp vũ khí, lương thực, được máy bay yểm trợ, hoàn toàn phụ thuộc vũ khí và tiền lương do Mỹ cung cấp. Các cơ quan tình báo Mỹ không cho giới lãnh đạo dân sự biết tinh thần chiến đấu của quân Taliban và quân chính phủ khác nhau thế nào, không tiên đoán được tình trạng suy sụp nhanh chóng khi quân Mỹ bắt đầu rút. Quân Taliban chiến thắng, trước hết vì họ sẵn sàng chết để xây dựng một quốc gia Hồi Giáo thuần thành. Người lính cũng chiến đấu hăng hái khi biết phe mình sẽ thắng. Khi chính phủ Mỹ đàm phán riêng, còn yêu cầu Taliban đừng tấn công quân Mỹ trong thời gian đang nói chuyện, thì ai cũng biết nước Mỹ chỉ muốn chuẩn bị rút đi. Năm 1970 Việt Cộng cũng nghĩ như thế khi Kissinger bí mật gặp Lê Đức Thọ ở Paris mà Việt Nam Cộng Hòa không được dự. Tổng thống Donald Trump từng có ý định mời người lãnh đạo Taliban tới Camp David, bỏ ý đó vì một quân nhân Mỹ chết ở Kabul trong một vụ đánh bom khủng bố. Năm ngoái, ông còn xác định quân Mỹ sẽ rút đi vào tháng Năm, 2021. Đó là những dấu hiệu rõ ràng để quân Taliban thấy họ chỉ cần chờ ngày quân Mỹ rút. Điều kiện quan trọng nhất ông Trump đưa ra là quân Taliban ngưng tấn công trực tiếp quân đội Mỹ. Taliban vẫn giữ lời hứa đó đến bây giờ, để chứng tỏ họ theo chủ trương mới, không gây thù địch và không quá khích. Còn những người lính “của chính phủ Kabul” thì biết rằng sau khi Mỹ rút họ sẽ không được tiếp tế súng đạn, không còn được tình báo Mỹ đưa tin tức do vệ tinh nhân tạo cung cấp, nhất là không còn máy bay Mỹ yểm trợ nữa. Họ tự hỏi: Thế nào cũng thua, tại sao mình phải là người chết sau cùng? Chết cho ai? Binh pháp Tôn Tử nói, công thành không bằng công lương; công lương không bằng công tâm. Lãnh đạo Taliban đánh vào tâm lý đó, thương thuyết trực tiếp với các địa phương, chặt chân Kabul. Bốn thành phố lớn bị Taliban chiếm trong hai ngày là hình ảnh tiêu biểu. Tại thành phố Herat, thủ lãnh Ismail Khan của những người theo giáo phái Shia đã vùng lên đuổi quân Taliban đi ngay năm 2001. Ông ta kêu gọi đối thủ hãy “ôn hòa” trước khi đầu hàng để lính của mình không chết trong tuyệt vọng. Tại Kandahar, thành phố lớn thứ nhì sau thủ đô, đã chiến đấu dũng mãnh trong tuần lễ trước nhờ còn máy bay Mỹ yểm trợ; sau cùng cũng đầu hàng. Người thủ lãnh đứng “trao quyền” cho đối thủ để chụp hình. Hai bên đều tự hào cùng thuộc sắc tộc Pashtun mạnh nhất trong nước Afghanistan. Sau đó, quân Taliban chiếm thành phố Jalalabad không cần nổ súng sau khi các “trưởng lão” trong bộ lạc đi thương thuyết. Cứ điểm quan trọng nhất ở miền Bắc, Mazar-i-Sharif, vốn là một trung tâm đối nghịch với Taliban ngay từ khi họ chưa chiếm được Kabul năm 1996. Rashid Dostum, thủ lãnh sắc dân Uzbek, được phong làm phó tổng thống sau năm 2001, được chia phần viện trợ Mỹ cho lãnh địa của mình. Ngày 14 tháng 8, Dostum cùng hàng ngàn binh sĩ chạy sang láng giềng Uzbekistan. Cũng là thượng sách để bảo vệ các thuộc hạ trung thành. Đó chỉ là những hình ảnh tiêu biểu cuối cùng của cuộc chiến Afghanistan. Nhưng mầm mống thất bại của Mỹ đã bắt đầu từ 19 năm trước. Caspar Weinberge, bộ trưởng Quốc Phòng thời Tổng thống Reagan từng đề nghị: Nước Mỹ chỉ dự một cuộc chiến tranh khi cần bảo vệ các quyền lợi sinh tử. Thứ hai, phải xác định rõ con đường nào để chiến thắng. Đưa quân vào Afghanistan, mấy đời tổng thống Mỹ đã quên lời khuyến cáo này. Tổng thống George W. Bush tiến quân vào Afghanistan năm 2001, ông nêu một mục tiêu quan trọng và rõ ràng. Nhưng, sau khi thắng trận năm 2001, Tổng thống Bush còn đặt ra hai mục tiêu mới. Mục tiêu đầu tiên nhắm tìm bắt Osama bin Laden, để trừng phạt những người chủ mưu vụ khủng bố 11 tháng 9 làm 3.000 người Mỹ ở New York thiệt mạng. Chính quyền Taliban bị đánh bật ra khỏi Kabul nhanh chóng vì các bộ lạc khắp nước cùng nổi lên tự lập. Trong ba tháng Al Qaeda tan rã, đám tàn binh ẩn nấp trong miền núi Hindu Kush, biên thùy với Pakistan. Quân Mỹ không thể đi tìm bin Laden trong vùng hoang dã đó; nhưng trong năm 2002 có thể rút quân về, để lại các đội biệt kích tiếp tục tìm bắt bin Laden; và viện trợ cho chính quyền Afghanistan mới. Qua thời Tổng thống Barack Obama, bin Laden bị giết năm 2011, tại Abbottabad, Pakistan, nơi lẩn trốn cùng ba trong số 4 bà vợ. Lúc đó, chính phủ Mỹ cũng có thể tuyên bố đã đạt mục tiêu ban đầu, và rút quân về. Nhưng chính ông Obama vẫn theo con đường của ông Bush; đưa thêm 30.000 quân qua Afghanistan, nâng số quân Mỹ lên 140.000 – ông Biden là phó tổng thống lúc đó, chống quyết định này nhưng bị bác. Mục tiêu số 2 của Tổng thống Bush là: Ngăn chặn các tổ chức khủng bố Hồi Giáo quá khích. Mặt trận đã mở rộng ra ngoài một quốc gia, thành quốc tế, áp dụng cho cả vùng Trung Đông. Nhưng không thể ước tính đến bao giờ các phong trào Hồi Giáo chống Mỹ mới chấm dứt. Quân Mỹ còn đóng ở Afghanistan và Iraq có thể làm nhiều người chống Mỹ hơn. Nhiều thanh niên Hồi Giáo đã theo bin Laden chỉ vì họ ghét cảnh tượng quân Mỹ đóng trong các nước Saudi và Kuwait. Khó xác định được các tiêu chuẩn như thế nào thì coi là đạt được mục tiêu số 2 này! Cho nên, cũng không biết bao giờ thì thành công. Mục tiêu số 3 của ông Bush đề ra còn nuôi tham vọng cao hơn: Mỹ sẽ xây dựng một quốc gia Afghanistan tự do dân chủ theo khuôn mẫu Tây phương. Mục tiêu này là trường cửu, có thể thành một cuộc chiến “bất tận.” Vì vậy quân Mỹ ở lại Afghanistan trong 19 năm, nơi vẫn được gọi là “Mồ chôn các đế quốc.” Thời gian Mỹ ở xứ đó dài gấp hai lần quân Nga, và cũng lâu hơn thời gian quân Anh ở hai lần, 1839 đến 1842 rồi từ 1878 đến 1880. Mấy năm gần đây hầu như dân Mỹ đã quên cuộc chiến tranh Afghanistan. Chỉ còn hơn 2 ngàn quân Mỹ ở đó, một phần ba tổng số 6.000 quân ở Afghanistan, Iraq và Syria. Không có một phong trào phản chiến đòi chính phủ Mỹ phải rút quân về. Các nhà chính trị tự ý quyết định trong khi các tướng lãnh không muốn. Ông Joe Biden tuyên bố thời hạn rút quân mà không biết chuẩn bị rút quân như thế nào. Ông không biết trong chiến tranh hành động rút lui bao giờ cũng nguy hiểm hơn việc tấn công. Bất cứ một vị tướng chỉ huy nào, khi được lệnh cấp trên bảo phải rút quân, cũng phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Bây giờ ông Biden trút tội lên giới lãnh đạo Afghanistan, địa phương thì đầu hàng, trung ương thì bỏ chạy. Tình báo quân đội Mỹ và CIA nếu được hỏi về hậu quả, thì họ đã báo động cảnh tan hàng thế nào cũng xảy ra hay khi Mỹ bỏ cuộc. Ở nước Mỹ, giới quân nhân phải làm theo quyết định chiến lược của các nhà chính trị dân cử. Nhưng trong chiến tranh thì các nhà chính trị phải tham khảo ý kiến chiến thuật của các tướng lãnh. Trước khi tuyên bố rút quân, đáng lẽ ông Biden phải mở một cuộc họp cùng nghiên cứu các vấn đề chiến thuật: Khi nào thì rút bớt bao nhiêu quân? Yểm trợ chính phủ Kabul và quân đội của họ như thế nào trước và sau khi rút quân Mỹ. Có thể kéo dài trong một, hai năm hay không? Có một kế hoạch cụ thể rồi lặng lẽ thực hiện trước khi công bố cho bên địch nghe. Ông Joe Biden không làm như vậy. Vì không biết mà cũng không tìm hỏi ý kiến cho đầy đủ trước khi quyết định. Ông coi thường quân Taliban cũng giống như Tổng thống Trump coi thường bệnh dịch Covid. Ông bỏ qua ý kiến các chuyên viên quân sự, cũng như ông Trump coi thường các chuyên gia về bệnh dịch. Ông Biden sẽ gánh hậu quả./.
......

Điều gì giúp Taliban thắng như chẻ tre ở Afghanistan?

Nguồn: “The Taliban’s terrifying triumph in Afghanistan”, The Economist, 15/8/2021 Biên dịch: Phan Nguyên – BVN1 Trong những năm gần đây, dinh tổng thống ở Kabul, được gọi là Arg, hay tòa thành, đã là một ốc đảo yên bình trong một thành phố nhộn nhịp, căng thẳng. Để đến được nó, du khách phải đi một dặm qua các trạm kiểm soát, được biên chế bởi các đội biệt kích quân đội Afghanistan được trang bị ngày càng tốt. Bên trong tòa nhà được xây từ thế kỷ 19, các quan chức chính phủ Afghanistan nhâm nhi ly latte tại một quán cà phê thông minh, được bao quanh bởi những khu vườn được chăm sóc tốt, và thảo luận về tình hình chính trị bên ngoài, ở một đất nước Afghanistan thực tế. Khi phóng viên chúng tôi đến thăm lần gần đây nhất, các quan chức của Hội đồng An ninh Quốc gia giải thích rằng theo quan điểm của họ, Taliban rất yếu. Theo các quan chức này, lý do duy nhất khiến họ không bị quân đội chính phủ Afghanistan được Mỹ hỗ trợ đánh bại, là vì chính phủ Afghanistan không muốn gây nguy hiểm cho dân thường bằng cách tiến hành các cuộc tấn công. “Họ không thể giành chiến thắng quân sự”, một quan chức nói. “Lực lượng đặc biệt của chúng tôi rất mạnh. Taliban chỉ có thể đánh kiểu du kích”. Vào ngày 15 tháng 8, máy bay trực thăng đã bay qua bay lại dinh tổng thống để sơ tán những vị quan chức đó. Một đám khói bốc lên từ tòa nhà đại sứ quán của Mỹ, vốn trông giống như một pháo đài, khi nhân viên đốt các tài liệu nhạy cảm. Chỉ chưa đầy một tháng kể từ khi Tổng thống Joe Biden tuyên bố “sẽ không có trường hợp nào bạn phải chứng kiến người dân được bốc lên khỏi mái nhà” của tòa đại sứ quán Mỹ, như ở Sài Gòn năm 1975, đã xuất hiện hình ảnh các máy bay trực thăng bay lượn trên khu nhà này, đưa các nhà ngoại giao Mỹ đến sân bay. Trong khi đó, Zabihullah Mujahid, phát ngôn viên của Taliban ở Doha, thủ đô Qatar, nơi lực lượng này có đại diện ngoại giao và chính trị, đã hùng hồn tuyên bố rằng lực lượng Taliban sẽ ngừng tiến quân ngay cửa ngõ thành phố trong khi tiến hành các cuộc đàm phán về việc đầu hàng của chính phủ. Ashraf Ghani, tổng thống Afghanistan từ năm 2014, được cho là đã tháo chạy khỏi đất nước cùng với các phụ tá thân cận nhất của mình. Nhà nước Afghanistan, được xây dựng trong hơn hai thập niên với hàng nghìn tỷ đô la, dường như đã biến mất vào hư không. Làm thế nào mà một chính phủ với 350.000 binh sĩ, được huấn luyện và trang bị bởi những quân đội tốt nhất trên thế giới, lại sụp đổ nhanh chóng như vậy? Năm 1975, quân đội Bắc Việt Nam, được hậu thuẫn bởi một siêu cường, vẫn phải mất nhiều tháng để tiến quân qua miền Nam Việt Nam, chiến đấu khốc liệt để giành lãnh thổ. Taliban, được cho là có quân số không quá 200.000 người, được trang bị phần lớn bằng các thiết bị mà họ thu được từ kẻ thù, đã chiếm tất cả các trung tâm đô thị của Afghanistan trong vòng chưa đầy một tuần, mà nhìn chung hầu như không gặp phải nhiều kháng cự (xem bản đồ). Câu trả lời dường như là các hạn chế về sức mạnh quân sự của họ đã được bù đắp bởi sự mưu trí, quyết tâm, và khôn ngoan chính trị. Trong năm qua, các nhà ngoại giao ở Doha đã hy vọng rằng Taliban có thể bị buộc phải đàm phán với chính phủ của ông Ghani để chấp nhận một loại thỏa thuận chia sẻ quyền lực nào đó. Taliban rõ ràng nhận ra rằng sẽ có lợi hơn cho họ nếu thương lượng với cấp dưới của ông Ghani, qua từng thành phố một, từ đó làm mất vị thế của chính phủ trung ương. Do đó, tại Herat, một thành phố chiến lược gần biên giới Iran, Ismail Khan, vị lãnh chúa đã giành lại thành phố từ tay Taliban vào năm 2001 sau nhiều ngày chiến đấu, đã đầu hàng và được quay phim cảnh đang bị giam giữ, cầu xin “một môi trường hòa bình”. Tại Kandahar, thành phố nằm ở trung tâm kinh tế phía nam Afghanistan và là nơi khởi nguồn của lực lượng Taliban trước đây, xuất hiện hình ảnh vị thống đốc bàn giao chính quyền cho người đồng cấp Taliban của mình. Ở Jalalabad, nằm ở phía đông, Taliban tiến vào mà không phải bắn một phát súng nào, sau khi những người lớn tuổi trong thành phố thương lượng về việc đầu hàng. Mazar-i-Sharif, một thành phố phía bắc từng là pháo đài của quân kháng chiến chống Taliban vào những năm 1990, cũng đầu hàng theo kiểu tương tự. Trong mỗi trường hợp như vậy, phía Taliban đã đưa ra những lời hứa rộng rãi, là sẽ “tha thứ” cho những người từng phục vụ trong chính phủ do Mỹ hậu thuẫn, để đổi lại sự đầu hàng. Tại Kandahar, những cựu binh đầu hàng đã được cấp giấy thông hành mà họ có thể xuất trình tại các trạm kiểm soát của Taliban. Ở đó, suốt đêm thứ Sáu, tiếng súng vang vọng khắp thành phố. Theo người dân, đây chủ yếu là súng bắn chỉ thiên để ăn mừng. Quân đội Afghanistan, với tất cả sức mạnh rõ ràng của mình, dường như đã rơi vào cái gọi là hội chứng Yossarian, đặt theo tên một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết về chiến tranh thế giới thứ hai của Joseph Heller, có tựa đề “Bẫy 22”. Yossarian được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều nghĩ như anh ta, rằng chiến đấu là điều vô nghĩa, và anh ta trả lời rằng anh ta sẽ “là một kẻ ngu ngốc nếu nghĩ theo bất kỳ một cách nào khác”. Tương tự, tờ Washington Post dẫn lời một sĩ quan Afghanistan giải thích lý do tại sao các binh sĩ của anh ta không ngăn chặn Taliban: “Này anh, nếu không có ai khác chiến đấu, thì tại sao tôi phải làm như vậy?”. Tinh thần quân đội Afghanistan bị xuống thấp bởi cuộc khủng hoảng ngân sách của chính phủ, dẫn đến việc nhân viên chính phủ và quân đội không được trả lương trong nhiều tháng. Vậy sự tiếp quản của Taliban có nghĩa là gì? Ở Herat, nơi 60% sinh viên đại học là phụ nữ, họ được cho là đã được yêu cầu trở về nhà. Các nhân viên nữ đã được yêu cầu bàn giao công việc cho những người thân là nam giới. Một chỉ huy Taliban được BBC phỏng vấn đã nói rõ về vấn đề giáo dục trẻ em gái. “Không một bé gái nào đi học trong làng và huyện của chúng tôi… Các trường học như vậy không tồn tại, và chúng tôi cũng sẽ không cho phép điều đó”. Ngay cả triển vọng tốt nhất có thể, theo đó ban lãnh đạo Taliban quyết định thể hiện rằng họ nghiêm túc trong việc cải cách, cũng có vẻ ảm đạm. Một điều rõ ràng là chính phủ Afghanistan mới chỉ đạt được tiến bộ khiêm tốn trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân Afghanistan bình thường, ngay cả ở các thành phố, nơi họ có nhiều quyền kiểm soát hơn so với vùng nông thôn. Tình trạng tham nhũng của nó ngày càng sâu rộng, và chắc chắn đây là một phần lý do khiến Taliban có thể chinh phục đất nước một cách nhanh chóng như vậy. Đoạn phim về những binh sĩ Taliban đi qua những nội thất sang trọng trong ngôi nhà bị chiếm của Abdul Rashid Dostum, một lãnh chúa và cựu phó tổng thống, người được cho là đã trốn sang Uzbekistan, thể hiện sự thối nát của nhà nước này. Tuy nhiên, được hỗ trợ bởi rất nhiều viện trợ, chính phủ đã có thể cung cấp giáo dục cho người dân, và rất ít người Afghanistan bị chết đói. Nay khi các đại sứ quán đóng cửa và người nước ngoài tháo chạy, các khoản viện trợ từng giúp duy trì nền kinh tế và giáo dục trẻ em, bao gồm cả các trẻ em gái, chắc chắn sẽ cạn kiệt. Một thảm họa nhân đạo có thể nhanh chóng xảy ra sau đó. Sự sỉ nhục đối với Mỹ và các đồng minh phương Tây khó có thể nặng nề hơn. Một khi quá trình sơ tán công dân của họ, và một số ít nhân viên người Afghanistan may mắn giành được chỗ, kết thúc, các chính phủ phương Tây sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận rằng Taliban đang nắm quyền. Vào cuối những năm 1990, chính quyền Taliban chỉ được một số quốc gia công nhận, đáng kể nhất là Pakistan và Saudi Arabia. Hồi đó, Liên minh phương Bắc, một tập hợp các nhóm dân quân tập trung ở phía bắc Afghanistan, đã tổ chức chống lại Taliban. Lần này, Taliban đủ thông minh để quyết định chinh phục miền Bắc trước. Hôm nay, các quan chức Taliban đã gặp gỡ các nhà ngoại giao từ một số cường quốc khác. Vào cuối tháng 7, một phái đoàn của Taliban đã gặp ngoại trưởng Trung Quốc. Đại sứ quán Nga đã tuyên bố rằng họ sẽ không sơ tán khỏi Kabul. Liên minh châu Âu đã hứa sẽ “cô lập” chính phủ mới nếu họ nắm quyền thông qua bạo lực, một điều dường như ngày càng khó tin hơn./. Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2021/08/16/dieu-gi-giup-taliban-thang-nhu-che-tre-o-afghanistan/  
......

Bản tin tổng hợp về biến cố Afghanistan

A Phú Hãn thất thủ, Tổng Thống Ghani bỏ trốn, Taliban chiếm dinh tổng thống, TT Biden điều thêm 7.000 quân để bảo vệ cuộc di tản vào giờ phút cuối cùng Thứ Hai 16/08/2021 Sự sụp đổ bất ngờ và nhanh chóng của chính quyền Afghanistan (A Phú Hãn) đã khiến cả thế giới bàng hoàng. Chỉ trong vòng vài ngày, các vùng đất quanh thủ đô Kabul đã lần lượt rơi vào tay Taliban. Đúng 20 năm sau ngày lực lượng này bị quân đội Mỹ đánh đuổi vì đã tiếp tay cho khủng bố Al-Qaeda ẩn náu và thực hiện cuộc tấn công đẫm máu vào Mỹ ngày 11/9/2001, Taliban đã tái chiếm A Phú Hãn một cách dễ dàng trong mấy ngày qua. Trước sự tiến quân thần tốc của lực lượng Taliban - hiện đã chiếm đóng phủ tổng thống A Phú Hãn từ tối ngày hôm qua (15/8), Tổng thống Mohammad Ashraf Ghani Ahmadzai của A Phú Hãn đã đột ngột đào thoát hôm 15/8 dù mới hôm trước còn phủ dụ người dân yên tâm vì các lực lượng an ninh đã được điều phối để bảo vệ thủ đô. Không ai biết ông hiện đang ở đâu, nhưng đã đưa ra một thông báo giải thích lý do tại sao ông không ở lại, là vì muốn tránh cho quốc gia một cuộc đổ máu. Bà đại sứ của A Phú Hãn tại Mỹ cho biết ông bị áp lực phải từ nhiệm của Taliban. Trước đột biến của tình hình, Tổng thống Joe Biden hôm thứ Sáu ra lệnh gởi thêm 3000 quân tới hỗ trợ cho cuộc di tản, hôm sau thứ Bảy (14/8) tăng thành 5.000 quân, Chủ nhật tăng thành 6,000 quân và thứ Hai thành 7000 quân để bảo vệ người Mỹ và những cộng sự viên A Phú Hãn rời Kabul. Hàng ngàn quân Mỹ hiện đã có mặt tại phi trường Kabul nơi hàng ngàn những khuôn mặt lo âu đang dồn về để mong được di tản tới vùng trời bình yên, nhiều người A Phú Hãn đã rủ nhau chạy bộ tới phi trường. Tình trạng hỗn loạn khiến quân đội Mỹ đã phải bắn súng chỉ thiên để vãn hồi trật tự. Đã có tin một số người thiệt mạng tại phi trường. Chính quyền Biden bị chỉ trích mạnh mẽ trước cuộc triệt thoái hoảng loạn Dư luận và truyền thông đã lên tiếng phê bình gắt gao cuộc tháo chạy đáng xấu hổ của một cường quốc. Ngay cả những người ủng hộ ông Biden cũng chê trách và đặt câu hỏi: tại sao chính phủ Mỹ lại có thể để cho tình trạng “nước rút” xảy ra hỗn loạn như vậy, một sự thất bại về tổ chức, tình báo hay quân sự? Tướng Lục quân về hưu David Petraeus hôm 13/8 đã gọi tình hình tại Afghanistan là “bước lùi an ninh quốc gia to lớn”. “Những người đã đưa ra quyết định đó phải chịu trách nhiệm về nó và những hậu quả của nó”, ông Petraeus nói với đài phát thanh WABC về kế hoạch rút lính Mỹ của Tổng thống Biden. Ông nói thêm rằng tình hình tại Afghanistan là “thảm kịch và đáng tiếc”. Cựu Tổng thống George W. Bush cũng đã lên tiếng chỉ trích các chính sách về Afghanistan của chính quyền Biden. “Tôi lo ngại những phụ nữ và bé gái tại Afghanistan sẽ phải chịu tổn hại khôn xiết” sau khi lính Mỹ rời Afghanistan, cựu tổng thống của Đảng Cộng hòa nói vào tháng trước. “Thật không thể tin được xã hội đó sẽ thay đổi ra sao từ sự tàn bạo của Taliban”. Một loạt các cựu quan chức thời Obama hôm thứ Năm 12/8 đã lên tiếng chỉ trích rằng Tổng thống Biden đã quay lưng lại với chính phủ Afghanistan, làm suy yếu vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới và tặng không Afghanistan cho Taliban. Biện hộ Trước làn sóng chỉ trích, TT Biden đã lên tiếng qua một thông báo, đổ lỗi cho cựu Tổng thống Donald Trump đã giúp Taliban mạnh lên. Ông tuyên bố động thái điều quân thêm là cần thiết sau khi ông phải thừa hưởng một tình huống mong manh từ chính quyền trước vì ông Trump đã ký thỏa thuận với Taliban năm 2019, giúp lực lượng này có được vị thế quân sự mạnh mẽ, và làm giảm nhuệ khí chiến đấu của quân đội A Phú Hãn. “Ông ta đã mời Taliban đến Trại David để họp bàn ngay trước đêm tưởng niệm biến cố 11/9, điều đó đã giúp cho Taliban có được vị thế quân sự mạnh mẽ nhất kể từ năm 2001 và ông ta đã đặt ra hạn chót rút lính Mỹ vào ngày 1/5/2021. Ngay trước khi rời nhiệm sở, ông [Trump] cũng đã giảm sự hiện diện của binh lính Mỹ tại Afghanistan xuống con số rất thấp - 2.500 quân”, ông Biden nói trong tuyên bố. “Khi tôi trở thành Tổng thống, tôi đã phải đối mặt với sự lựa chọn: tuân thủ thỏa thuận [với Taliban] hoặc tăng cường sự hiện diện của chúng ta [tại Afghanistan], điều thêm lính Mỹ tới tiếp tục chiến đấu trong một cuộc nội chiến… Tôi là Tổng thống thứ tư chỉ huy đội quân Mỹ tại Afghanistan, gồm 2 tổng thống Đảng Cộng hòa và 2 tổng thống Đảng Dân chủ. Tôi không muốn và sẽ không chuyển tiếp cuộc chiến này cho vị tổng thống thứ năm”. Cựu Tổng thống Trump không im lặng Cựu Tổng thống Trump hôm 13/8 đã phát đi tuyên bố nói rằng “Tôi chắc hẳn sẽ thực hiện rút quân với nhiều khác biệt và thành công hơn, và Taliban đã hiểu điều đó hơn ai hết.” Ông chỉ trích các quyết định của Tổng thống Biden về Afghanistan, cho rằng tổng thống Mỹ đương nhiệm yếu kém và không thể thể hiện được sức mạnh trước các lãnh đạo Taliban. Dân biểu Cộng Hòa Liz Chenny đã lên tiếng cho rằng cả hai ông Trump và Biden đều phải chịu trách nhiệm về cuộc rút lui thất bại này. Cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Afghanistan Ryan Crocker do cựu TT Bush bổ nhiệm đã cáo buộc ông Trump tạo ra tình cảnh hiện nay Trong cuộc phỏng vấn hôm thứ Năm 12/8 trên CNN, ông Crocker đã đổ lỗi cho cựu Tổng thống Trump giúp gia tăng sức mạnh của Taliban, đồng thời làm yếu đi chính phủ của TT Ghani. Ông Trump đã lên kế hoạch gặp các nhà lãnh đạo Taliban và tổng thống A Phú Hãn tại Trại David vào năm 2019, ngay trước thềm tưởng niệm biến cố 9/11. Bị chống đối mạnh, ông Trump đã hủy cuộc họp ở Camp David, sau đó cho người đại diện Mỹ gặp Taliban ở Qatar vào tháng 2/2020 để ký thỏa thuận. Cuộc họp không những không có đại diện từ chính phủ Afghanistan, mà còn buộc chính phủ Ghani phải có một số nhượng bộ nhất định đối với Taliban. Ông Crocker tin rằng chính thỏa thuận này đã đẻ ra tình hình hiện nay. "Theo quan điểm của tôi, chúng ta chịu trách nhiệm lớn về việc này. Bắt đầu dưới thời Tổng thống Trump khi ông cho phép các cuộc đàm phán giữa Mỹ và Taliban mà không có chính phủ Afghanistan trong phòng họp. Đó là một đòi hỏi quan trọng của Taliban. Chúng ta đã tham gia đồng thuận, và đó là một yếu tố làm mất tinh thần rất lớn đối với chính phủ Afghanistan và lực lượng an ninh của họ", ông Crocker nói. "Chúng ta đã áp lực chính phủ A Phú Hãn phải thả 5.000 tù nhân Taliban. Cuối cùng họ đã làm điều đó, và chứng kiến bọn người này quay về chống lại những người đã thả họ ra. Đây là một năm rưỡi của sự mất tinh thần." Trong một phát biểu về A Phú Hãn vào năm ngoái, ông Trump cho rằng Taliban chỉ còn chưa tới 200 quân. Việc thả 5000 tù nhân theo yêu cầu của Taliban là một hành động dựng lại sức mạnh cho lực lượng này. Cựu Đại sứ Crocker tin rằng Việc Mỹ rút quân khỏi A Phú Hãn theo thỏa thuận năm 2020 với Taliban, có nghĩa là chấm dứt các lực lượng Afghanistan. "Bây giờ sự rút lui đột ngột này từ phía chúng ta, càng củng cố thỏa thuận với Taliban.” Ông Crocker kết luận: “Giống như bất kỳ một sự việc phức tạp nào, có một số lý do cho sự sụp đổ của các lực lượng Afghanistan, nhưng chúng ta không thể bỏ qua rằng chúng ta đóng vai trò chính trong việc xóa đi quyền lực chính thống của chính phủ và quân đội của họ". Khi Taliban tiếp tục chiếm được các thành phố lớn với dường như ít hoặc không có sự kháng cự nào, ông Crocker nhắc lại rằng thất bại có thể truy nguồn từ thỏa thuận hòa bình với Taliban. "Tất nhiên, chúng ta là nguồn chống lưng lớn của chính phủ A Phú Hãn và lực lượng an ninh. Biểu tượng rất đáng kể, và hình ảnh rút quân hoàn toàn của quân đội Mỹ tác hại vô cùng", ông Crocker nói. "Chuyện này không xảy ra qua đêm. Quá trình mất tinh thần này, bắt đầu ngay ngày đầu tiên chúng ta ngồi xuống với Taliban và loại trừ chính phủ Afghanistan". Trong một cuộc phỏng vấn của CNN ngày 15/8, bà Adela Raz , đại sứ của chính quyền Ghani tại Mỹ, đã chia sẻ nhận định tương tự về cuộc sụp đổ tưởng như quá bất ngờ và nhanh chóng của chính quyền A Phú Hãn, nhưng thực chất là từ khi Mỹ bỏ rơi họ với cuộc thương lượng và ký kết thỏa thuận với Taliban đã khiến chính phủ và quân đội A Phú Hãn mất tinh thần. Bà cũng trách cứ ông Biden đã rút quân quá nhanh mà không có một biện pháp hỗ trợ cho một cuộc chuyển giao hòa bình có điều kiện, bắt Taliban cam kết không tạo ra đổ máu, không giết hại phụ nữ và con trẻ. Cuộc chiến dài nhất của Mỹ sau 20 năm, với hơn 2 ngàn tỷ Mỹ kim, 2.448 quân nhân và 3.846 cộng sự viên thiệt mạng đã kết thúc trong thảm bại và hỗn loạn, khiến hình ảnh vốn đã xấu đi của Mỹ trên trường quốc tế càng trở nên tồi tệ và ảnh hưởng không ít tới niềm tin của thế giới vào đồng minh Hoa Kỳ./. TDC  
......

Việt Nam Cộng Hòa hôm qua, Afghanistan hôm nay

songchi's blog   Trước đây chỉ một vài tuần thôi, một số nhà bình luận chính trị quốc tế dự đoán rằng Taliban có thể sẽ chiếm được thủ đô Kabul của Afghanistan trong vòng 6 tháng đến 1 năm, bây giờ khi Taliban đã chiếm thêm được một số vùng lãnh thổ, trong đó có Kandahar và Herat, thành phố lớn thứ hai và thứ ba của Afghanistan và đã kiểm soát hơn hai phần ba đất nước, thì một số người dự đoán thời hạn đó có thể chỉ còn 90 ngày, rồi 30 ngày, và cuối cùng là không biết liệu thủ đô Kabul có còn an toàn cho tới ngày 31.8 hay không! Đứng ở góc độ người Mỹ, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được quyết định rút quân khỏi Afghanistan của chính phủ Mỹ, nhất là khi cuộc chiến này đã kéo dài tới 20 năm, dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Dù Tổng thống Mỹ nào lên nắm quyền, thuộc đảng Dân chủ hay Cộng hòa, cũng sẽ phải làm như vậy, trước sức ép của dư luận và công chúng Mỹ. Nhưng có những quyết định của nước Mỹ mà phải nhiều năm sau mới thấy thực ra là đúng hay sai, mới thấy hết được hậu quả của nó. Việc Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trước đây cũng vậy. Lịch sử không có chữ “nếu” nhưng rõ ràng nếu VNCH vẫn còn và quân đội Mỹ vẫn còn ở Nam Việt Nam thì Trường Sa, Hoàng Sa đã không mất, và Trung Cộng vốn không có một mảnh đất cắm dùi trên Biển Đông, đã không thể có được chỗ đứng để từ đó mở rộng lãnh hải trên Biển Đông và hoành hành như bây giờ. Không có biển, sức mạnh của Trung Cộng giảm rất nhiều, ai cũng biết như vậy. Khi Mỹ tấn công Afghanistan, Al-Qaeda đã mất hầu hết các trại huấn luyện, các căn cứ hoạt động, kể cả Bộ Tư lệnh của họ tại đây. Hàng nghìn tay súng và nhiều thủ lĩnh Al-Qaeda đã bị tiêu diệt hoặc bắt giam. Hoạt động của Al-Qaeda và các tổ chức khủng bố Hồi giáo cực đoan đã giảm hẳn trong những năm gần đây. Bây giờ, khi Mỹ quyết định rút khỏi Afghanistan, và nếu Taliban chiếm được Afghanistan, thì Al-Qaeda lại có được căn cứ để hoạt động mạnh trở lại và biết đâu chỉ 5 năm nữa thôi, Mỹ lại đau đầu với những vụ khủng bố ngay trên đất Mỹ! Hiện tại Taliban hứa hẹn rằng sẽ không để cho bất cứ một tổ chức khủng bố Hồi giáo cực đoan nào sử dụng đất nước Afghanistan để từ đó tấn công Mỹ và các nước phương Tây, rằng mục tiêu của họ chỉ là xây dựng một quốc gia Hồi giáo trên đất nước Afghanistan. Nhưng, tin lời Taliban thì có khác gì tin lời mấy ông Việt Cộng ngày xưa khi họ hứa hẹn nếu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam thì hòa bình sẽ được thiết lập ở VN, VNCH và VNDCCH mạnh bên nào lo xây dựng quốc gia đó? Tất nhiên, nhiều người sẽ bảo không lẽ Mỹ cứ phải đổ tiền đổ của cho Nam Việt Nam hay Afghanistan mãi? Số phận của nước nào thì người dân nước đó phải tự lo. Nhưng trong thế giới toàn cầu, không có một quyết định nào ở khu vực này mà không ảnh hưởng liên đới đến những khu vực khác, một quyết định ở một quốc gia xa xôi như Nam Việt Nam hay Afghanistan nhiều năm sau lại quay ngược trở lại đe dọa đến sự bình yên của chính nước Mỹ và các nước dân chủ phương Tây, như chúng ta đã, đang và sẽ thấy. Những ngày này, trong khi người dân Afghanistan hoảng loạn, trong khi quân Taliban trên những chiếc xe cam-nhông, thậm chí trên xe máy, vác những khẩu súng to đùng trên vai, tiến chiếm các thành phố như vào chỗ không người, thì người Mỹ cùng với Nga, Trung Quốc, Pakistan và các nước, các tổ chức quốc tế đã bắt đầu đàm phán với đại diện của Taliban và chính phủ Afghanistan tại Doha, Qatar. Nhưng liệu có đạt được bất cứ thỏa thuận hòa bình nào khi Taliban cho rằng họ đang chiến thắng và sẽ đòi hỏi nhiều hơn, còn ưu tiên số một của người Mỹ là bảo đảm những công dân Mỹ được rút khỏi Afghanistan an toàn. Còn nguyện vọng của người dân Afghanistan có ai đếm xỉa đến? Không khác gì VNCH trước kia, với Hiệp định Paris… Những người Việt từ miền Nam nhìn tình cảnh Afghanistan và người dân Afghanistan bây giờ với cái nhìn ngậm ngùi thấu hiểu và nhớ lại những ngày cuối cùng của cuộc chiến VN 46 năm trước… Tuy nhiên, theo cảm nhận của người viết bài này, vẫn có những cái khác giữa tình huống của VNCH khi đó và Afghanistan bây giờ: 1. Cuộc chiến ở Afghanistan là một cuộc nội chiến giữa Taliban, một lực lượng chính trị-tôn giáo với chính phủ do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Còn VNCH và VNDCCH là 2 quốc gia riêng biệt, và khi quân đội Bắc Việt tiến chiếm miền Nam có nghĩa là một quốc gia xâm lược một quốc gia có chủ quyền, được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận. 2. Mỹ đã ở Afghanistan 20 năm, dài hơn gấp đôi thời gian ở Nam VN và khi rút lui, Mỹ tuyên bố vẫn tiếp tục viện trợ vũ khí quân sự, tài chính cho chính phủ Afghanistan chứ không phải như với VNCH. 3. VNCH đã cố gắng chiến đấu tới 2 năm sau khi quân Mỹ rút mới thất thủ, trong tình trạng nguồn viện trợ bị cắt giảm thê thảm năm 1974 rồi đầu năm 1975, cuối cùng phải "gãy súng" vì không còn đủ đạn dược, xăng dầu...trong khi quân đội Bắc Việt vẫn được trang bị và hậu thuẫn không giới hạn từ Liên Xô, Trung Cộng. Ngược lại ở Afghanistan, quân đội Mỹ và NATO mới rút đi chưa bao lâu mà chính phủ Afghanistan đã sắp thua đến nơi rồi. Liệu họ có giữ được cho tới ngày 31.8? Nhưng dù có những điểm khác nhau, vẫn có những điểm chung lớn nhất: 1. Số phận của những quốc gia nhược tiểu luôn luôn là những con chốt thí trên bàn cờ chính trị của các nước lớn. 2. Mỹ bao giờ cũng chỉ vì quyền lợi của nước Mỹ, và với Mỹ không có đồng minh mãi mãi cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Điều mà ai cũng biết. 3. Số phận của người dân Afghanistan không biết có tệ hại hơn người dân miền Nam VN sau ngày 30.4.1975 theo nhiều nghĩa hay không, nhưng cả hai dân tộc chắc chắn sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn nếu không phải chịu thảm họa Taliban hay cộng sản. Điều cuối cùng chốt lại, mỗi dân tộc phải tự chiến đấu cho tương lai, cho số phận của chính mình. Không ai khác có thể làm thay điều đó. Liệu bài học này có được người Việt Nam hôm nay ghi nhớ? Song Chi  
......

Afghanistan đang bị "giải phóng" bởi Taliban

Timothy Trinh    Sau hai mươi năm Taliban bị quét sạch khỏi quyền lực, sự trở lại của chế độ tà ác của nó giờ đây dường như là điều không thể tránh khỏi, và cái gọi là chiến thắng của quân khủng bố Taliban sẽ phá hủy tất cả những điều tốt đẹp đã được xây dựng ở Afghanistan.   Vào hôm thứ Sáu (13.8.2021), Taliban đã chiếm các thủ phủ của 4 tỉnh lớn tại Afghanistan, thêm vào danh sách các thành phố lớn thứ hai Kandahar và thứ ba Herat đã bị sụp đổ một ngày trước đó.   Cho đến hôm nay, với sự ủng hộ mới nhất từ phía Trung Quốc, quân Taliban và 9 nhóm khủng bố đã đồng loạt tấn công và kiểm soát hơn hai phần ba đất nước Afghanistan, và chẳng bao lâu nữa, họ sẽ bao vây thủ đô Kabul.   Chiến thắng của Taliban sẽ đồng nghĩa với việc thanh lọc sắc tộc và tôn giáo, sự chấm dứt giáo dục đối với phụ nữ, tử hình đối với người đồng tính luyến ái, và nhiều sự phẫn nộ sẽ trút xuống đầu người dân của Afghanistan.   Trên thực tế, những vi phạm nhân quyền đã bắt đầu ở các tỉnh thành vừa bị Taliban chiếm đóng. Những người lính Afghanistan bị bắt đang bị Taliban hành quyết, thường dân bị tấn công và nhiều phụ nữ, ngay cả các bé gái 12 tuổi, đã bị ép kết hôn với các chiến binh Hồi giáo.   Dưới sự cai trị của Taliban, phụ nữ và trẻ em gái sẽ bị từ chối bởi hệ thống giáo dục, và những cá nhân hoặc cơ sở có ý tưởng hoặc thực hiện các chương trình giáo dục dành cho phụ nữ sẽ bị trừng phạt.   Quân khủng bố Taliban và Nhà nước Hồi giáo đã từng đặt bom gần trường trung học Sayed Ul-Shuhada ở thủ đô Kabul vào ngày 8 tháng 5, giết chết ít nhất 90 người và hơn 240 người khác bị thương.   Biết rõ Sayed Ul-Shuhada tổ chức các lớp học cho nam sinh vào buổi sáng và cho nữ sinh vào buổi chiều, quân khủng bố Taliban đã kích nổ quả bom gài trong xe ô tô và hai thiết bị nổ ngẫu hứng vào khoảng 4 giờ chiều, nhằm gây thương vong tối đa cho các nữ sinh vừa ra khỏi cổng trường và trên đường về nhà.   Đó là bằng chứng một sự khủng bố gây ra bởi Taliban, những kẻ chà đạp lên mọi quyền cơ bản kể cả quyền đi học của phụ nữ.   Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ Afghan đều khiếp sợ và phục tùng dưới áp lực dã man của Taliban.   Salima Mazari, một nữ thống đốc quận ở Afghanistan do nam giới thống trị, được báo The Guardian ca ngợi là người "đang tuyển dụng nam giới để chống lại Taliban".   "Taliban là những kẻ chà đạp nhân quyền", cô Mazari nói trong một video của hãng thông tấn AFP. "Phụ nữ sẽ bị cấm tham gia các cơ hội giáo dục."   Mazari sinh ra ở Iran vào năm 1980, sau khi gia đình cha mẹ của cô chạy trốn khỏi cuộc chiến tranh của Liên Xô ở Afghanistan. Sau khi tốt nghiệp đại học ở Tehran, cô đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau tại các trường đại học và Tổ chức Di cư Quốc tế, trước khi quyết định trở về lại đất nước mà cha mẹ cô đã rời bỏ nhiều thập kỷ trước.   “Điều đau khổ nhất khi trở thành người tị nạn là thiếu cảm giác về đất nước của mình”, cô nói. Salima Mazari, một nữ thống đốc quận ở Afghanistan   Mazari cũng là một thành viên của cộng đồng Hazara - hầu hết là người Hồi giáo dòng Shia, những người mà Taliban dòng Sunni coi là một giáo phái dị giáo. Nếu Taliban lên cầm quyền, thì cộng đồng Hồi giáo dòng Shia của cô sẽ bị thanh lọc.   Cô đã từng chấp nhận mọi giá cho sự lựa chọn trở về làm việc trên đất nước của mình, và bây giờ cô không có sự lựa chọn bỏ cuộc.   Một phụ nữ khác ở Afghanistan được thế giới biết đến, là một trong 8 người được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trao Giải thưởng Phụ nữ Dũng cảm Quốc tế vào năm 2009.   Wazhma Frogh, một nhà hoạt động nhân quyền phụ nữ, đã đăng lên Twitter sáng hôm nay kêu gọi người Mỹ, Anh, châu Âu, và bất kỳ quốc gia nào trong số 40 quốc gia liên quan đến Afghanistan trong 20 năm qua, hãy nghĩ đến những thành quả đạt được.   "Lần đầu tiên hàng triệu trẻ em nữ sinh ở Afghanistan đã được đi học, hàng nghìn phụ nữ trẻ được vào trường đại học, hàng nghìn nữ bác sĩ và y tá", bà Frogh viết.   "Lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy thùng phiếu, chúng tôi thấy các chiến dịch bầu cử, chúng tôi thấy phụ nữ trong quốc hội - tất nhiên là còn nhiều thiếu sót. Nhưng nền tảng cho một nền dân chủ mới bắt đầu hình thành. Thanh niên ủng hộ các chương trình nghị sự của họ, đặt câu hỏi với chính phủ và gây áp lực cho sự thay đổi."     "Vì vậy, đừng hỏi liệu nó có xứng đáng hay không - hãy hỏi làm thế nào chúng ta có thể duy trì nó?"   "Làm thế nào để chúng ta hỗ trợ một quá trình mà những thay đổi này trong xã hội Afghanistan có thể được duy trì và chúng ta không quay trở lại thời kỳ những năm 90 vì điều đó sẽ nhấn chìm tất cả chúng ta với nhau", bà Frogh kêu gọi./.   Người Đà Lạt Xưa  
......

Tập Cận Bình trọng Đảng hơn Kinh tế

Ngô Nhân Dụng Ở nước Mỹ, nếu cổ phiếu các công ty kỹ thuật hàng đầu như Apple, Microsoft, Amazon, Alphabet, Facebook… lần lượt tụt giá trong mấy tháng rồi không ngóc đầu lên được, thì tất cả mọi người phải lo lắng. Những xí nghiệp thành công nhất cùng xuống thì cả nền kinh tế không hy vọng đứng vững. Ở Trung Quốc thì khác. Tập Cận Bình đã đánh phủ đầu các công ty Alibaba, Ant, Tencent, Didi, vân vân, những công ty kỹ thuật phát triển mạnh nhất nước và đang bành trướng thị trường ra khắp thế giới. Ai cũng thấy Đảng Cộng sản đang chặt chân chặt tay nền kinh tế Trung Quốc. Nhưng Tập Cận Bình không quan tâm. Vì mối lo số một của Tập là bảo vệ địa vị độc quyền thống trị của Đảng. Kể từ tháng 11 năm 2020, Bắc Kinh đã đánh các công ty kỹ thuật sử dụng internet trong thương mại 50 lần. Cuối năm ngoái Tập bắt đầu ra tay, nhắm vào Ant Group, một chi nhánh của Alibaba. Alibaba do Mã Vân (Jack Ma) thành lập năm 1999, sau chuyến đi Mỹ, lần đầu tiên chứng kiến hiện tượng internet năm 1995. Alibaba đứng đầu về mua bán trên mạng (e-commerce), đã bành trướng sang các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, châu Phi, qua Mỹ và Âu châu. Ant Group (Mã Nghĩ Tập Đoàn 螞蟻集團) cung cấp các dịch vụ cho thị trường mua bán trên mạng, đặc biệt là việc trả tiền, thanh toán giữa các ngân hàng qua hệ thống tin học. Tháng 11, Ant chuẩn bị phát hành cổ phần lần đầu tiên (IPO) trên các thị trường chứng khoán Singapore, Hồng Kông và Thượng Hải, dự trù sẽ thâu $37 tỷ mỹ kim tiền vốn quốc tế. Bỗng nhiên, Bắc Kinh ra lệnh ngưng; rồi bắt buộc phải thay đổi cơ cấu và hoạt động để được Ngân Hàng Nhân Dân kiểm soát chặt chẽ hơn, như kiểm sóat các ngân hàng. Sau phát súng mở đầu trên, các công ty bị nhắm tiếp là Alibaba và Tencent, bị tra hỏi vì độc quyền quá mạnh. Mã Vân, bộ mặt của Alibaba phải lánh mặt trong ba tháng trời không ra trước công chúng, sau khi công ty bị phạt $2.8 tỷ mỹ kim. Trị giá sáu công ty kỹ thuật đứng hàng đầu ở Trung Quốc đã giảm 40%, mất $1,100 tỷ đô la. Giống như một công ty Apple tự nhiên biến mất! Tencent (Đằng Tấn, 腾讯) bị tố cáo là “đầu độc” giới trẻ bằng những trò chơi điện tử. Thành lập năm 1998, đây là công ty kỹ thuật đầu tiên ở Trung Quốc đã đạt được trị giá $500 tỷ mỹ kim, vào năm 2018. Tencent, được đánh giá là có “óc sáng tạo” bậc nhất thế giới, bao trùm nhiều lãnh vực, có gần 600 công ty nhỏ, ngoài trò chơi điện tử. Sau khi tờ báo Tin Kinh tế Hàng ngày của Tân Hoa Xã gán tội là bán “thuốc phiện tin học” để làm giầu, trị giá của Tencent giảm mất $100 tỷ đô la trong vòng 48 giờ. Gần đây nhất là vụ tấn công vào Didi Global, Tích Tích Xuất Hành (滴滴出行) (tích tích bắt chước tiếng xe chạy). Công ty này lúc ra đời năm 2012 lấy tên Tích Tích Đả Xa (Didi Dache - 嘀嘀打车) làm công việc đón khách thay taxi như Uber bên Mỹ. Trong một năm Tích Tích đã chiếm 55% thị trường gọi xe bằng điện thoại di động. Năm 2016 đã đánh bại và mua luôn công ty Uber ở Trung Quốc. Hơn một ngày sau khi Didi phát hành cổ phần lần đầu ở New York, thu vào $4.4 tỷ đô la vốn mới, Bắc Kinh tuyên bố mở cuộc điều tra. Vấn đề nêu ra là các dữ kiện cá nhân của 377 triệu hành khách được công ty dùng ra sao. Trị giá cổ phiếu giảm ngay 5%. Hai ngày sau, chính quyền ra lệnh các hãng điện thoại di động không cho phép Didi dùng để gọi xe nữa. Giá trị thị trường Didi mất thêm $22 tỷ, tụt 20 phần trăm. Nhưng nhân vụ này các công ty kỹ thuật cao đều bị vạ lây; vì giới đầu tư không biết ông Tập Cận Bình sẽ còn đánh ai khác! Trong cùng ngày, bốn công ty, Tencent, Alibaba, Meituan (Mỹ Đoàn, 美团) và Kuaishou (Khoái Thủ, 快手) đã bị mất tổng cộng $60 tỷ đô la! Trong năm nay, các công ty Trung Quốc bán cổ phần ở Mỹ đã thâu được $15 tỷ mỹ kim. Nhiều nhà đầu tư đã mất tiền. Ngoài ra, các công ty giao hàng qua điện thoại, giao thức ăn khách hàng đặt ở tiệm, đến ngành địa ốc hoạt động trên mạng, đều bị nhà nước hỏi thăm! Ngày 24 tháng Bảy, Tập Cận Bình tấn công đến các công ty “dạy học trên mạng” (online-education) đang phát triển nhanh nhất thế giới. nhắm vào các học sinh trung, tiểu học nhiều nhất. Từ nay, họ không được”kèm trẻ” với mục đích kinh doanh nữa, phải đóng vai giáo dục “bất vụ lợi.” Những công ty bên Trung Quốc bị tấn công đều nằm trong lãnh vực tin học, mạng lưới, theo gót các sáng kiến đã được thương mại hóa thành công ở Âu, Mỹ. Họ nằm trong nền kinh tế dịch vụ, không thuộc ngành sản xuất. Dịch vụ là một ngành mở cửa cho tương lai. Và họ đều là các cơ sở kinh doanh tư nhân. Đó là lý do chính khiến họ “lãnh búa” của đảng Cộng sản. Năm ngoái Tập Cận Bình đã đăng một bài trên tạp chí Cầu Thị (Qiushi, 求是) của đảng Cộng sản, cho biết ông đặt ưu tiên cho các ngành sản xuất, chế tạo, đại đa số là các doanh nghiệp nhà nước. Ông công nhận Trung Quốc sẽ “mã hóa” với tin học và trí khôn nhân tạo, nhưng “Chúng ta không quên rằng nền kinh tế thực, với các công nghiệp chế hóa, là căn bản không thể bỏ qua được.” Trung Cộng đang hỗ trợ các ngành chế tạo chất bán dẫn, pin điện dùng trong xe hơi, khí cụ viễn thông và máy bay, mong duổi kịp Mỹ, Nhật Bản, Nam Hàn. Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế hai thế kỷ qua, các nước đều theo ba giai đoạn. Trước hết là kinh tế nông nghiệp, đốn rừng và khai mỏ phải nhường chỗ cho các nghề chế tạo hàng hóa bằng máy móc. Tiếp theo, các ngành dịch vụ sẽ càng ngày càng quan trọng, các công nghiệp chế tạo giảm bớt phần quan trọng. Các nước Âu Mỹ và Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, vân vân, đã trải qua kinh nghiệm phát triển như vậy. Những công ty tin học không cần nhiều máy móc nặng nề và sử dụng nhiều công nhân như các công ty chế tạo, nhưng kiếm lời gấp bội. Công ty Facebook trị giá gấp 11 lần công ty Micron, mà chỉ dùng số nhân viên bằng một nửa. Công ty Ant Group giá trị gấp 20 lần công ty SMIC của chính phủ Trung Quốc, chuyên làm chất bán dẫn. Trung Cộng chỉ rút kinh nghiệm phát triển của chính họ. Khi kinh tế còn chỉ dựa vào nông nghiệp, nhà nước trợ cấp các xí nghiệp quốc doanh để mở mang công nghiệp. Một nền kinh tế vươn lên từ mức độ rất thấp thì người ta chứng kiến cảnh tiến bộ nhanh rất ngoạn mục. Nhưng Trung Cộng vẫn tiếp tục đổ tiền vào các công nghiệp chế tạo mặc dù hiệu quả giảm dần dân. Cho nên đã gây ra cảnh đầu tư thừa, vô ích, với các cơ xưởng, đường xá, phi trường không cần thiết và trong thực tế không dùng tới. Cứ tiếp tục chính sách này, Trung Cộng sẽ tiếp tục sản xuất trong khi trong nước không tiêu thụ hết, càng lệ thuộc vào thị trường quốc tế. Mà số tiền nợ của các công ty chất đống ngày càng cao, đe dọa cả hệ thống ngân hàng. Nhưng Tập Cận Bình suy nghĩ khác. Nền thương mại trên mạng càng phát triển, từ việc mua bán hàng đến việc gọi xe taxi, các hoạt động giải trí trên mạng, cho tới thanh toán tiền bạc trên mạng, vân vân, thì lãnh vực tư doanh này càng mạnh hơn. Họ sẽ ảnh hưởng trên người dân nhiều hơn. Phải làm cách nào chặn bớt thế lực của tư doanh thì mới bảo vệ được vai trò “lãnh đạo” của đảng Cộng sản! Những trận đánh vào Alibaba, Tencent, Ant Group, Didi, là những đòn phủ đầu để nhắc cho các doanh nhân nhớ rằng trên đầu họ còn có đảng Cộng sản. Ngay một đảng viên lâu đời như Mã Vân, đã lập chi bộ khắp công ty, cũng cần được nhắc nhở! Và cũng nhắc nhở luôn cả dân chúng Trung Quốc đừng quên lúc nào cũng có Đảng ngồi trên đầu mình! Trong lúc đánh tới tấp những doanh nghiệp kỹ thuật cao nhất nước, Tập Cận Bình vẫn tiếp tục bao cấp các doanh nghiệp nhà nước bằng tiền bạc, các ưu quyền và các biện pháp bảo vệ thị trường ngăn chặn hàng ngoại quốc. Mục tiêu vẫn là bảo vệ quyền lợi của các cán bộ, đảng viên Một điều hài hước là trong khi lo chống lại sự bành trướng của Trung Cộng trên thế giới, nhiều người lãnh đạo Mỹ cũng bỏ mất các quy tắc của nền kinh tế tư bản, tự do, bắt đầu áp dụng một số chính sách kinh tế chỉ huy! Ba bốn năm trước, chính phủ Mỹ đã đánh thuế nặng trên hàng nhập cảng, kể cả hàng từ các nước đồng minh, tính toán rằng sẽ nhờ thế giảm bớt thâm thủng mậu dịch. Kết quả là bây giờ số thâm thủng càng cao hơn! Chính phủ bây giờ sẽ trợ cấp các nhà sản xuất trong nước, từ chất bán dẫn tới pin điện cho xe hơi, lấy lý do cần bớt lệ thuộc vào hàng nước ngoài, một mối lo phát sinh vì bệnh dịch Covid-19! Chưa biết hậu quả của chính sách này ra sao. Có điều may mắn, là việc phân bố tài nguyên trong nền kinh tế Mỹ vẫn còn nằm trong tay tư nhân, qua các thị trường chứng khoán và hệ thống tài chánh tư. Trung Cộng thì ngược lại, đảng Cộng sản nắm tất cả các nguồn vốn, lại còn ngăn cản tư nhân khi họ gây vốn từ nước ngoài. Tương lai kinh tế Trung Quốc sẽ lãnh hậu quả!
......

Afghanistan sẽ không ‘rụng’ như Việt Nam Cộng Hòa

Một người đứng ở biên giới trên phần đất Afghanistan, cầm cờ Taliban. Ngô Nhân Dụng Mỹ rút quân khỏi Afghanistan sẽ để lại một khoảng trống lớn; có thể tạo cơ hội cho Cộng sản Trung Quốc lấp vào. Afghanistan nằm giữa nhiều khúc chiến lược trong kế hoạch “Một Vòng Đai, Một Con Đường” của Tập Cận Bình. Trên “Vòng Đai” phía Bắc Hy Mã Lạp Sơn, năm 2019 Trung Cộng đã tổ chức thao diễn quân sự với ba nước Trung Á, Kyrgyzstan, Uzbekistan, và Tajikistan. Afghanistan có 1,356 km biên giới với Tajikistan, nơi Trung Cộng đang chiếm ảnh hưởng thay Nga; đã bán các loại vụ khí cho Tajikistan, và được đóng quân ở nhiều nơi. Trung Cộng đã lập ra Cơ cấu Hợp tác Bốn Nước Chống Khủng Bố (QCCM) với Afghanistan, Pakistan và Tajikistan –không có Nga. Phía Nam, trên “Con Đường Tơ Lụa trên Biển,” Trung Cộng đang xây dựng hải cảng Gwadar trong tỉnh Balochistan, Pakistan, để nối liền với Sri Lanka, nơi một hải cảng đã được nhường cho Bắc Kinh làm chủ. Chính phủ Sri Lanka mới phát hành một đồng tiền kim loại đánh dấu 100 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc! Gwadar có xa lộ, đầu tư hơn $60 tỷ mỹ kim, nối liền đến thành phố Kashgar (Khách Thập 喀什) trong tỉnh Tân Cương; nằm trong “Hành lang Kinh tế” liên kết Trung Quốc và Pakistan. Nếu vào Afghanistan thay thế Mỹ, Trung Cộng không những nối liền Con Đường với Vòng Đai mà còn dựng nên một liên minh bao vây phía Bắc và phía Nam nước Ấn Độ, đối nghịch từ 1960 đến nay. Nhưng Trung Cộng không tỏ ra vui mừng với vụ Mỹ rút quân khỏi Afghanistan, mà còn than phiền sao Mỹ ra đi nhanh quá! Phát ngôn viên ngoại giao Triệu Lập Kiên (Zhao Lijian, 赵立坚) mới nói rằng chính phủ Mỹ chịu trách nhiệm về hòa bình ở Afghanistan, và phải ngăn không cho khủng bố lan rộng! Tại sao Trung Cộng than phiền? Vì sau khi phe Taliban có thể lật đổ chính phủ của Tổng thống Ashraf Ghani do Mỹ ủng hộ trong vòng một năm, nhóm Taliban toàn thắng, các phong trào Hồi Giáo khác trong khắp cả vùng Trung Á sẽ phấn khởi. Dân Uyghurs ở Tân Cương sẽ quyết tâm hơn trong công cuộc chống “chính sách diệt chủng” của Trung Cộng. Taliban không thể trực tiếp tiếp tế vũ khí và huấn luyện dân Uyghurs vì Afghanistan và tỉnh Tân Cương Trung Quốc chỉ có một biên giới dài 90km nằm trong Hành Lang Walkan, một vùng núi hiểm trở với độ cao trung bình 5000 mét. Nhưng trong cả vùng chung quanh, một phong trào Hồi Giáo đang bùng lên; họ sẽ dùng Afghanistan làm cứ điểm tập trung các lực lượng và hoạt động hỗ trợ người Uyghurs. Trung Cộng không muốn quân Taliban toàn thắng. Nhưng nếu nội chiến bùng trở lại ở Afghanistan thì những lực lượng Hồi Giáo Cực đoan khác, từ al Qaeda đến IS (Quốc gia Hồi Giáo) sẽ có cơ hội hoạt động mạnh hơn. Cả hai đều hoạt động ngoài cương thổ các quốc gia. Trong 20 năm qua từ khi quân Mỹ lật đổ chính quyền Taliban, Trung Cộng vẫn tuyên bố không đứng về phe nào tại Afghanistan; đã tổ chức những cuộc gặp gỡ hòa giải giữa hai phe. Trung Cộng vẫn viện trợ quân sự cho chính phủ ở thủ đô Kabul, $90 triệu đô la; lại vừa đề cử một đặc sứ mới. Trong tuần trước Ngoại trưởng Vương Nghị đã gặp Ngoại trưởng Mohammad Haneef Atmar tại thủ đô Tajikistan. Trung Cộng còn một nước cờ khác là vận động chính phủ Pakistan gây ảnh hưởng trên chính quyền Taliban nếu nhóm này toàn thắng. Trung Cộng với Pakistan vẫn là đồng minh lâu đời trong cuộc đối đầu với Ấn Độ. Tình báo quân đội Pakistan đỡ đầu thành lập nhóm Taliban từ năm 1994. Quân Taliban vẫn mua vũ khí qua biên giới Pakistan và chạy sang đó dưỡng sức khi bị quân chính phủ đánh đuổi. Nhưng quân Mỹ rút đi sẽ thay đổi cả bàn cờ, ảnh hưởng trên Pakistan. Trong nước Pakistan cũng có một lực lượng mang cùng tên Taliban, Tehreek-e-Taliban Pakistan (TTP), giúp đỡ nhau qua liên hệ bộ lạc. Năm 2015 nhóm TTP đã chạy qua Afghanistan khi bị quân đội Pakistan tấn công. Hiện nay có khoảng 5,000 quân TTP đang ở Afghanistan; từ năm 2018 đã thống nhất dưới quyền chỉ huy của lãnh tụ Noor Wali Mehsud. Họ đã tổ chức các cuộc tấn công vào vùng Waziristan của Pakistan, tống tiền các thương gia, bắt cóc người đòi tiền chuộc. Gần đây quân TTP còn tiến về phía Nam Waziristan, đi tuần tiễu và thu thuế, coi thường quân chính phủ. TTP còn tiến xa hơn đến cả tỉnh Balochistan, nơi có hải cảng Gwadar nằm trên bở Biển Á Rập mà Trung Cộng đang xây dựng. Trong tỉnh Balochistan, một phong trào đòi ly khai đang nổi dậy chống chính quyền Pakistan do TTP huấn luyện. Họ đang tấn công các đơn vị quân đội bằng mìn và bom do nhóm TTP cung cấp. Bốn nhóm quân nổi dậy ở Balochistan đang hợp nhất lực lượng và tất cả đều chống đối các công trường xây cất của Trung Cộng ở cảng Gwadar cũng như các nơi khác trong tỉnh này. Nếu Taliban cướp được chính quyền ở Afghanistan, nhóm TTP, cùng mang tên Taliban, sẽ có nơi trú ẩn an toàn, càng hăng hái tăng cường các hoạt động chống chính phủ Pakistan. Các nhóm nổi dậy ở Balochistan sẽ được tiếp sức mạnh hơn. Pakistan đang lo lắng, không muốn nhóm Taliban chiếm trọn chính quyền ở Kabul! Họ sẽ thấy khó sống giữa hai quốc gia đều không thân thiện, Ấn Độ và Afghanistan. Các sử gia đã gọi Afghanistan là mồ chôn các đế quốc. Ba Tư, Ấn Độ, Mông Cổ, Anh, Liên Xô đã tới xứ này rồi cũng ra đi hết. Nước Mỹ tấn công Afghanistan năm 2001 để truy lùng Osama bin Laden, lãnh tụ al Qaeda chủ mưu trong vụ 9-11 làm chết gần ba ngàn người Mỹ ở New York. Nhóm al Qaeda chạy thoát, Mỹ chưa bắt được bin Laden lúc đó, lưu quân ở lại và giúp lập nên một chế độ dân chủ. Sau 20 năm, tiêu tốn $2 ngàn tỷ đô la và 2,448 người Mỹ tử nạn, quân Taliban không tan rã mà ngày càng mạnh hơn. Trong mấy năm gần đây, quân Mỹ ở Afghanistan giảm xuống mức tối thiểu, số binh sĩ thương vong không đáng kể. Khác với thời chiến tranh Việt Nam, không có một phong trào phản chiến ở Mỹ đòi rút quân về nước. Tổng thống Donald Trump, với chủ trương rút bớt quân Mỹ ở khắp thế giới, đã bắt đầu cuộc thương thuyết với Taliban. Tổng thống Joe Biden tiếp tục chính sách đó, sẽ đưa hết quân Mỹ về đúng 20 năm sau vụ khủng bố ở New York. Sau khi tuyên bố rút quân, ông Joe Biden tiếp Tổng thống Afghanistan ở Tòa Bạch Ốc vẫn hứa hẹn sẽ tiếp tục hỗ trợ chính phủ Kabul. Nhưng nước Mỹ sẽ hỗ trợ bằng cách nào? Hiện chưa có tín hiệu nào rõ rệt. Quân Mỹ rút rất nhanh, giữa tháng Bảy đã hoàn tất 95%, chỉ còn 650 binh sĩ bảo vệ tòa đại sứ. Ngày Chủ Nhật vừa qua Tướng Frank McKenzie, chỉ huy quân đội Mỹ trong cả vùng Trung Đông và Nam Á châu, đã gặp Tổng thống Ashraf Ghani ở Kabul. Ông tuyên bố Không quân Mỹ sẽ giúp Không quân Afghanistan, như họ mới đánh bom để bảo vệ Kandahar, thành phố lớn thứ nhì trong nước với 600 ngàn dân, và là nơi thành lập nên nhóm Taliban. Mỹ sẽ giúp huấn luyện phi công Afghanistan, các máy bay của họ sẽ được đưa qua các nước khác để bảo trì. Công tác này sẽ tiếp tục sau khi quân Mỹ triệt thoái. Tướng Frank McKenzie còn nói máy bay Mỹ cất cánh từ các nước chung quanh sẽ tiếp tục đánh bom các địa điểm tập trung quân khủng bố ở Afghanistan, ông nêu tên al Qaeda và ISIS, và “những nhóm khác.” Chính sách này khá linh động, đủ cho Không quân Mỹ được can thiệp vào Afghanistan sau này. Đây có thể là một thỏa hiệp giữa ông Biden và các tướng lãnh mà phần lớn không muốn Mỹ rút hoàn toàn ra khỏi Afghanistan. Việc hỗ trợ có giới hạn đó có thể giúp chính phủ Ashraf Ghani đứng vững được lâu hơn. Nhưng một yếu tố quan trọng nhất là người dân và xã hội Afghanistan đã thay đổi trong 20 năm qua. Họ có thể tạo nên một sức đề kháng chống chế độ độc tài cực đoan của Taliban. Nhiều phim video cho thấy cảnh quân Taliban chiếm được các thành phố đã hành quyết những tù binh hoặc người tình nghi cộng tác với chính phủ. Trong khi đó Trung Cộng và Pakistan đều không muốn quân Taliban toàn thắng. Iran, một nước theo phái Shi A Hồi Giáo cũng không muốn thấy một chính phủ phái Sun Ni cực đoan làm chủ nước láng giềng. Thổ Nhĩ Kỳ cũng gửi quân sang lo phòng thủ phi trường Kabul thay cho quân Mỹ. Các mặt trận quân sự, ngoại giao còn tiếp diễn. Afghanistan sẽ không “rụng” một cách đơn giản như Việt Nam Cộng Hòa sau khi quân Mỹ rút và cắt hết viện trợ! Ngô Nhân Dụng  
......

Mỹ: Chủ quyền ‘lưỡi bò’ của Trung Quốc ở Biển Đông vô căn cứ

Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Lloyd Austin phát biểu tại Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến Lược (IISS) ở Singapore ngày 27 Tháng Bảy, 2021. (Hình: Roslan Rahman/AFP/Getty Images) Người Việt| SINGAPORE (NV) – Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phát biểu hôm Thứ Ba 27/7 là tuyên bố chủ quyền “Lưỡi bò” của Trung Quốc ở biển Đông là vô căn cứ theo luật quốc tế. “Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền hầu hết Biển Đông là vô căn cứ theo luật quốc tế. Sự cả quyết đó chà đạp chủ quyền của các nước ở khu vực.” Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin phát biểu tại Viện nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (IISS) tại Singapore hôm Thứ Ba 27 Tháng Bảy trên chặng đầu tiên thăm viếng Singapore, Việt Nam và Phi Luật Tân. Trước tham vọng bá quyền bành trướng của Bắc Kinh mà các nước nhỏ ở khu vực ASEAN không thể đối phó, ông Austin nói rằng “Chúng tôi tiếp tục hậu thuẫn cho các nước ven Biển Đông duy trì quyền của họ theo luật lệ quốc tế. Đồng thời chúng tôi vẫn tôn trọng các cam kết đã ký với Nhật Bản liên quan đến quần đảo Senkaku và với Phi Luật Tân đối với Biển Đông.” Theo nhận định của thông tấn AFP, chính quyền của Tổng thống Joe Biden gửi Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tới khu vực ASEAN động viên đồng minh đang là bức tường thành ngăn chặn Trung Quốc. Hãng tin này cho rằng chính sách thời Tổng thống Trump nhiều bất định, khó lường (các nước khu vực có thái độ dè dặt với Mỹ) nên ông Biden muốn nối lại mối quan hệ. Dịp này, ông Austin cảnh cáo nước Mỹ “không nao núng khi lợi ích của mình bị đe dọa.” Dù vậy, ông cho hay nước Mỹ “không muốn đối đầu” với Trung Quốc. “Tôi cam đoan theo đuổi một mối quan hệ xây dựng, ổn định với Trung Quốc, gồm cả việc trao đổi thông tin chặt chẽ hơn về quản lý khủng hoảng với quân đội Trung Quốc,” ông nói. Bắc Kinh đã ngang ngược bồi đắp các bãi đá ngầm ở Trường Sa thành các đảo nhân tạo khồng lồ rồi đưa đến đó các trang bị quân sự tối tân, bất chấp họ đã cam kết với các nước ASEAN giữ nguyên trạng các tranh chấp. Bắc Kinh tập trận liền liền trên Biển Đông, phô trương sức mạnh quân sự, vừa đe dọa các nước nhỏ phía Nam, vừa biểu diễn cho Mỹ thấy họ cũng dữ tợn, chứ không sợ gì cường quốc nào. Trên tài khoản Twitter, ông Austin viết giải thích về chiến lược mới của Mỹ “răn đe tổng hợp” (Integrated deterrence) mà ông đề cập trong buổi nói chuyện ở viện nghiên cứu IISS rằng ông sẽ “hợp tác với các đối tác để chống lại các sự chèn ép và đe dọa qua mọi hình thái xung đột khác nhau, gồm cả “vùng xám” (tức khó phân biệt) làm cho các quyền và đời sống của người dân Đông Nam Á bị đè nén. Hai hàng không mẫu hạm USS Nimitz và USS Roosevelt tập trận trên Biển Đông ngày 9/2/2021. Ảnh: US Navy  Lời tuyên bố của ông Austin ở Singapore lập lại những gì Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Mike Pompeo của chính phủ tiền nhiệm Donald Trump từng xác định năm ngoái. Ngày 14 Tháng Bảy 2020, ông Pompeo viết trong bản tuyên bố “Đường Lưỡi bò của Trung Quốc là vô giá trị” và “Thế giới không cho phép Trung Quốc coi Biển Đông như một phần của đế quốc Trung Hoa… Chúng tôi đứng cùng với các đồng minh và đối tác Đông Nam Á bảo vệ chủ quyền đối với các tài nguyên thiên nhiên theo đúng luật lệ quốc tế. Chúng tôi hợp cùng với cộng đồng quốc tế bảo vệ quyền tự do trên biển, tôn trọng chủ quyền cũng như bác bỏ bất cứ áp đặt nào ‘sức mạnh tạo ra quyền’ trên Biển Đông…” Khi nói chuyện ở Singapore hôm Thứ Ba 27 Tháng Bảy 2021, ông Austin nói rằng “Chúng tôi đang hành động để bảo đảm rằng các đồng minh và đối tác của chúng tôi có khả năng và sức mạnh cũng như các thông tin họ cần thiết.” Bình luận về chuyến thăm 3 nước ASEAN đang diễn ra của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Bắc Kinh cho tờ Hoàn Cầu thời báo dẫn lời một phân tích gia ở Viện Nghiên cứu Biển Đông phỏng định Ngũ Giác Đài muốn vận động cả Hà Nội và Manila để Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự và các cơ sở hải quân liên quan đến Biển Đông. Nguồn: Người Việt  
......

Học thuyết Trung Quốc mới của Biden

The Economist, Lời bình luận về bài viết trên The Economist của TS. Vũ Quang Việt: Dù Mỹ muốn hay không muốn, TQ sẽ có nền kinh tế lớn nhất thế giới và nó đã là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của gần gấp đôi số quốc gia so với Mỹ. Hiện nay GDP của TQ là 16,6 ngàn tỷ so với Mỹ là 21,5 tỷ, đứng thứ hai thế giới. Mà tỷ lệ để dành của TQ là 50% GDP, nhưng đầu tư chiếm 43% GDP, tức là nhà nước TQ có thể sử dụng một khối lượng khá lớn tiền dư thừa hơn 1 ngàn tỷ này để cho vay hàng năm. Tính đến 2017, TQ cho các nước vay 5 ngàn tỷ USD (trong đó có hơn 1 ngàn tỷ cho Mỹ vay qua việc mua công trái). Còn World Bank cho các nước đang phát triển vay tính đến 2019 là 1,6 ngàn tỷ USD. Trừ trường hợp TQ bị khủng hoảng kinh tế tài chính mạnh hoặc xã hội rối loạn, TQ sẽ tiếp tục là một lực lượng đáng kể về mọi mặt và là một lực lượng đi lên so với Mỹ, một lực lượng mà nhiều nước kể cả ở châu Âu coi là đi xuống, đặc biệt là mất đoàn kết quốc gia. Mỹ càng mất đoàn kết quốc gia thì các nước khác càng tránh cam kết với Mỹ. Tập Cận Binh biết rõ điều này, nên anh ta sẽ mua chuộc (qua cho vay), hoặc đe dọa và và có những hành động áp đặt các nước nhưng tránh chiến tranh. Đây là vấn đề làm chúng ta suy nghĩ, nhất là VN. VN không thể tránh đối phó với TQ, nhưng đối phó thế nào? ***** Học thuyết Trung Quốc mới của Biden Chủ nghĩa bảo hộ và luận điệu kiểu “Ta hoặc Họ” sẽ gây tổn thương cho nước Mỹ và làm mất lòng các đồng minh Kẻ lạc quan từ lâu đã hy vọng việc đón nhận Trung Quốc vào kinh tế toàn cầu sẽ khiến nước này trở thành một “bên liên quan có trách nhiệm,” và tiến tới cải cách chính trị. Trên cương vị tổng thống, Donald Trump chê bai đường hướng đó là yếu kém. Giờ đây, Joe Biden đang chuyển đổi cuộc ném bom kiểu Trumpian thành một học thuyết mới nhằm đẩy Hoa kỳ chống lại Trung Quốc, một cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống chính trị đối nghịch, mà theo Biden, chỉ có thể có một bên chiến thắng. Trump và Biden, cả hai đã nối nhau phá vỡ tan tành chính sách đối ngoại của Mỹ từ 5 thập kỷ, kể từ lúc Richard Nixon tới Trung Quốc. Học thuyết của Biden và phe nhóm đã dựa trên tin tưởng là: “Trung Quốc ít quan tâm đến chung sống, và chỉ chú tâm nhiều tới thống trị.” Từ đó, chính sách của Mỹ là phải dập tắt mọi tham vọng của nước Tầu. Hoa kỳ sẽ làm việc với Trung Quốc trong các lĩnh vực có lợi ích chung, như biến đổi khí hậu, nhưng chống lại tham vọng của Tầu ở mọi nơi khác. Điều đó có nghĩa là Hoa kỳ phải xây dựng sức mạnh nội địa, và hợp tác với đồng minh bên ngoài, để tăng cường sức mạnh kinh tế, công nghệ, ngoại giao, quân sự và đạo đức. Nhiều điều trong học thuyết mới của Biden có ý nghĩa. Nhưng sự lạc quan về đụng độ đấu tranh, thực tế đã sụp đổ dưới sức mạnh của Trung Quốc. Dưới lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã lập trại đóng quân ở Biển Đông, áp chế đảng trị trên Hồng Kông, đe dọa Đài Loan, giao tranh với Ấn Độ và cố gắng loại trừ mọi giá trị phương Tây khỏi các định chế quốc tế. Nhiều nước tỏ ra lo lắng trước chính sách ngoại giao kiểu cách “chiến binh sói” (wolf warrior) của nước Tầu. Nhưng nội dung của học thuyết Biden còn nhiều điều thật đáng lo ngại, sợ nhất là sẽ không hữu hiệu. Vấn đề đầu tiên, là kiểu cách xác định hiểm họa của Biden. Vì chính trị ở Washington đang vỡ lở, Biden như cảm thấy cần phải có hỗ trợ của tinh thần Trân Châu Cảng để khơi dậy ý thức về mục tiêu quốc gia. Đó là một tính toán nhầm lẫn. Quả thật là đảng Cộng hòa nhảy vào tấn công bất cứ điều gì mà họ cho là mềm mỏng với Trung Quốc (mặc dù mỗi lần nói bầu cử tổng thống bị đánh cắp là họ đã xử dụng kiểu cách tuyên truyền của người Tầu.) Song, không chắc đảng Cộng hòa sẽ bắt đầu ủng hộ chương trình nghị sự nội địa của Biden, chỉ vì nó được khắc dấu hai chữ “Trung Quốc” trên trang bìa. Tệ hơn nữa, càng sử dụng những lời lẽ cứng rắn để kích động dân Mỹ, thì Biden càng khó thực hiện được mục tiêu khích lệ các đồng minh, và các cường quốc mới nổi như Ấn Độ và Indonesia. Bằng cách đóng khung mối quan hệ như một cuộc thi có tổng số bằng không, Biden đang giới thiệu cho mọi người, một cuộc đấu tranh phân biệt đen trắng kiểu Manichean giữa dân chủ và độc tài chuyên quyền, thay vì tìm kiếm sự tương đồng để cùng tồn tại. Trời đất hỡi, về điểm này, Biden đang đánh giá quá cao ảnh hưởng của Hoa kỳ, và lượng định thật thấp mức độ mà các đồng minh sẽ chịu thua thiệt khi quay lưng lại với Trung Quốc. Bằng nhiều phương cách đo lường kinh tế, Trung Quốc sẽ trở thành một thế lực thống trị, bất chấp Hoa kỳ có làm gì đi chăng nữa. Trung quốc sẽ có nền kinh tế lớn nhất thế giới, và nước Tầu đã là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của nhiều quốc gia, gần gấp đôi so với Mỹ. Đức và những cường quốc xuất khẩu của châu Âu đều nhắm duy trì các liên kết thương mại với Trung Quốc ngay cả khi các liên kết chính trị bị khóa chặt. Ở Đông Nam Á, nhiều quốc gia trông cậy vào Mỹ vì an ninh quốc gia và dựa dẫm vào Trung Quốc vì sự thịnh vượng của chính đất nước họ. Và nếu buộc phải lựa chọn giữa một trong hai siêu cường, một số nước có thể chọn Trung Quốc. Thay vì áp đặt một quyết định trên các quốc gia khác như hiện nay, Joe Biden cần phải học cách thu phục họ. Và cơ hội tốt nhất cho đương kim Tổng thống Mỹ là chứng minh Hoa kỳ có thể phát triển mạnh ở nội địa, và là đầu tàu của một nền kinh tế mở và thành công ở thế giới. Đây là những chi tiết chứng tỏ lịch trình của Biden đang tạo ra nhiều vấn đề rắm rối. Thay vì xây dựng thế mạnh của Mỹ trong tư cách nhà vô địch của qui chuẩn toàn cầu, chính quyền Biden lại sử dụng mối đe dọa Trung Quốc để hỗ trợ chương trình nghị sự nội địa của chính mình. Học thuyết Biden toàn là chính sách công nghiệp, sự can thiệp của chính phủ, thiết chế và kiểm soát. Nó không tạo được hào hứng như sự phân tách đường hướng mà Trung Quốc đang theo đuổi. Để hiểu rõ sự thể này sẽ dẫn đến hậu quả gì, hãy xem báo cáo của chính quyền về bốn chuỗi cung ứng quan trọng cho chất bán dẫn, pin, đất hiếm, và các thành phần dược phẩm quan trọng đã được công bố tháng trước. Báo cáo không những chỉ viện dẫn an ninh quốc gia cho sự can thiệp của chính phủ vào các ngành này, mà còn bao gồm những vấn đề đại diện công đoàn, công bằng xã hội, và khá nhiều thứ khác. Nhiều báo cáo tương tự sẽ được phổ biến tiếp kế. Nếu đây là một hướng dẫn, Joe Biden đang đề xuất sử dụng mọi khoản trợ cấp và quy định, để đảm bảo cho công ăn việc làm và sản xuất được nằm chặt trong biên giới của Hoa kỳ. Tất nhiên, kế hoạch của Biden cần có sự hoán đổi. Mục tiêu của cuộc tấn công của Tổng thống Hoa kỳ vào Trung Quốc là việc nước này lạm dụng nhân quyền, đặc biệt là đối với người Duy Ngô Nhĩ, phải bị bắt giữ và cưỡng bức lao động ở Tân Cương. Trọng tâm trong chính sách của Biden về biến đổi khí hậu là chuyển sang năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, cả hai đều vướng mắc, ít nhất là trong ngắn hạn. Bởi lẽ Tân Cương là nguồn gốc của 45% silicon được sử dụng để sản xuất điện mặt trời. Vấn đề cơ bản hơn là chủ nghĩa bảo hộ mềm của học thuyết Trung Quốc. Điều này có lợi cho các công ty đương nhiệm so với các đối thủ cạnh tranh, và nhiều khả năng làm suy giảm hơn là làm tăng giá trị của nền kinh tế. Chương trình thám hiểm mặt trăng mới được ủng hộ, được phổ biến, phần lớn là một cách để chứng tỏ Hoa kỳ có thế ưu việt hơn Trung Quốc. Tuy nhiên, nó sôi động tới mức độ cho phép cả loạt cạnh tranh mà trong đó các công ty tư nhân như SpaceX và Blue Origin có thể tỏa sáng. Vấn đề thứ ba là học thuyết của Biden sẽ khiến các đồng minh của Mỹ cảnh giác hơn nữa. Nếu mục đích của việc cắt đứt quan hệ với Trung Quốc chỉ là cách để kiến tạo công ăn việc làm tốt cho công đoàn Mỹ, các đồng minh sẽ tự hỏi: thế mình sẽ được gì trong chính sách đó. Kế sách của Joe Biden là một cơ hội bị bỏ lỡ. Nếu muốn ngăn chặn Trung Quốc xây dựng một trật tự toàn cầu theo hình ảnh của họ, thì Hoa kỳ nên tích cực bảo vệ đường hướng toàn cầu hóa luôn phục vụ tốt cho nước Mỹ. Trọng tâm chính của cung cách tiếp cận đó là thương mại và hệ thống đa phương, thể hiện tin tưởng sự cởi mở và ý tưởng tự do sẽ tạo ra lợi thế trong đổi mới. Nếu thực sự muốn chống lại Trung Quốc ở châu Á, Hoa kỳ sẽ phải tham gia thỏa thuận thương mại toàn châu Á đã ký vào năm 2016. Điều đó hiện rất khó xảy ra, nhưng Hoa thạnh Đốn vẫn có thể tìm kiếm các thỏa thuận mới về môi trường và thương mại kỹ thuật số. Nước Mỹ cũng nên bỏ tiền, và tạo ra những ý tưởng mới để củng cố trật tự phương Tây, chẳng hạn như chương trình vắc-xin cho các đại dịch trong tương lai, hệ thống thanh toán kỹ thuật số, an ninh mạng, và một kế hoạch cơ sở hạ tầng để cạnh tranh với Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của Bắc kinh. Thay vì sao chép chủ nghĩa công nghệ-dân tộc của Trung Quốc, một nước Mỹ tự tin hơn nên xác quyết những gì đã khiến phương Tây trở nên mạnh mẽ. The Economist, Jul 17th 2021 Bản gốc: https://www.economist.com/…/17/bidens-new-china-doctrine Vũ Văn Lê dịch Nguồn: https://m.facebook.com/usvietnamcenter/posts/536715804444727  
......

Biểu tình bùng nổ ở Cuba: Tại sao người dân giận dữ?

The Economist - Phan Nguyên biên dịch/ Nghiên Cứu Quốc Tế Nguồn: “The Cuban government cracks down on protesters” – The Economist, 13/07/2021. Biên dịch: Phan Nguyên Vào ngày 11/7, hàng nghìn người biểu tình tự phát đã xuống đường tại hơn 50 thị xã và thành phố của Cuba. Họ mang theo một danh sách dài những nỗi bất bình: Tình trạng mất điện liên tục, các cửa hàng tạp hóa trống rỗng, nền kinh tế thất bại, một chính phủ đàn áp, và tình hình ngày càng tuyệt vọng liên quan đến Covid-19. Trong một màn thể hiện sự bất mãn chưa từng thấy trên hòn đảo cộng sản, có lẽ trong suốt sáu thập niên qua, người dân ở mọi lứa tuổi vừa hô vang vừa diễu hành, một số người trong số họ hô theo nhịp điệu của những chiếc thìa khua vào chảo rán. “Patria y Vida” (Quê hương và Cuộc sống) – một câu nhại theo khẩu hiệu cách mạng “Patria o Muerte (Tổ quốc hay là chết), đồng thời cũng là tên của một bài hát phổ biến chỉ trích chính phủ – chính là khẩu hiệu kêu gọi tập hợp lực lượng của họ, cùng với những khẩu hiệu như “Tự do” và “Đả đảo chế độ độc tài.” Đến ngày hôm sau, đường phố yên tĩnh hơn khi cảnh sát đi từng nhà, vây bắt những người biểu tình. Cảnh sát chống bạo động tỏa ra khắp các thành phố, các sĩ quan mặc thường phục xuống đường và những đám đông ủng hộ chính phủ mang theo hình ảnh của Fidel Castro được huy động để hô vang các khẩu hiệu ủng hộ cách mạng và vẫy cờ Cuba. Miguel Díaz-Canel, chủ tịch nước và bí thư thứ nhất của Đảng Cộng Sản, xuất hiện trên truyền hình tuyên bố rằng, “Cuba thuộc về những người cách mạng.” Ít nhất 150 người đã mất tích. Có tin đồn các thanh niên trẻ đang bị ép phải nhập ngũ. Câu hỏi lớn hiện nay là các cuộc biểu tình có thể duy trì được bao lâu. Những ngày tới sẽ cho thấy liệu nỗ lực của chế độ nhằm dập tắt bất kỳ dấu hiệu bất đồng chính kiến ​​nào có tiếp tục hiệu quả hay không. Chính phủ có rất ít vốn liếng để mua được sự ổn định xã hội. Cuba đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19 và sự sụt giảm nghiêm trọng của ngành du lịch, vốn là ngành mà nước này phụ thuộc rất nhiều. Việc thiếu ngoại tệ để mua hàng nhập khẩu đã dẫn đến tình trạng thiếu lương thực và mất điện trầm trọng. Dưới thời chính quyền Donald Trump, Hoa Kỳ đã thắt chặt các biện pháp trừng phạt chống Cuba. Những điều này đã làm gia tăng các rắc rối kinh tế cho hòn đảo. Sự miễn cưỡng của Cuba trong việc mua vắc xin nước ngoài, vừa do tư duy tự cung tự cấp, vừa do thiếu ngoại tệ, khiến chỉ có 16% dân số được tiêm chủng đầy đủ. Các loại vắc xin trong nước đang được phát triển nhưng vẫn chưa được triển khai trên toàn quốc (trong khi đó, các hiệu thuốc còn thiếu cả những thứ cơ bản như aspirin). Trong khi du lịch đã hoạt động trở lại ở các quốc gia lân cận nơi Covid đã lắng xuống, chẳng hạn như Jamaica và Cộng hòa Dominica, làn sóng ca nhiễm và tử vong vẫn tăng ở Cuba. Trong một video được đăng lên Facebook, Lisveilys Echenique, sống ở thành phố Ciego de Ávila, mô tả cách anh trai cô trải qua 11 ngày chiến đấu với bệnh Covid-19 mà không được điều trị gì vì không có giường bệnh và thuốc men. Sau khi chết, thi hài của anh vẫn nằm ở nhà cô trong 7 giờ trước khi xe cấp cứu đến. Nền kinh tế Cuba gần như sụp đổ vào đầu những năm 1990, sau khi Liên Xô tan rã khiến viện trợ nước ngoài đột ngột chấm dứt. Lúc đó cũng nổ ra những cuộc biểu tình của người dân nhưng nhanh chóng bị giải tán. Nhưng người dân Cuba hiện đã có quyền truy cập Internet và rất thành thạo trong việc sử dụng nó để tập hợp cùng nhau. Các video về bạo lực cảnh sát và việc bắt giữ tùy tiện đã được lan truyền nhanh chóng trong những ngày gần đây. Vào một thời điểm trong chiều ngày 11 tháng 7, khi các cuộc biểu tình lên đến đỉnh điểm, các nhà chức trách đã ra lệnh chặn Internet. Nhưng trong khi chính phủ muốn tắt Internet, họ cũng không thể thực hiện được nó lâu bởi phí truy cập Internet cắt cổ do một công ty viễn thông nhà nước độc quyền là một nguồn thu ngoại tệ chính yếu. Internet cũng là kênh quan trọng để người Cuba ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Emilio Morales làm việc tại Tập đoàn Tư vấn Havana ở Miami ước tính kiều hối mang lại cho chính phủ 80 triệu đô la mỗi tháng. José Jasán Nieves Cárdenas, biên tập viên của tờ El Toque, một tạp chí Cuba độc lập, nói: “Chính phủ đã tự đóng cửa như một con hàu. Thay vì thừa nhận rằng là họ phải bước ra ngoài và thiết lập đối thoại với người dân, họ đã chọn sự đàn áp.” Hơi cay và đạn cao su đã được sử dụng để chống lại đám đông, mặc dù trong một số trường hợp, các nhân viên an ninh bị áp đảo bởi người biểu tình, khiến họ phải rút lui. Khi tình hình leo thang, xe cảnh sát bị lật và một số cửa hàng kinh doanh ngoại hối đã bị cướp phá. Trong một bài phát biểu vào ngày 12 tháng 7, ông Díaz-Canel [chủ tịch nước và bí thư thứ nhất của Đảng Cộng Sản Cuba – BBT] đã đổ những rắc rối của Cuba là do lệnh cấm vận mà Hoa Kỳ áp đặt, như chính phủ đã luôn làm lâu nay. Ông phớt lờ những lời phàn nàn của người biểu tình, thay vào đó nói rằng họ là lính đánh thuê. Ông đưa ra nhiều lời bào chữa hơn các kế hoạch cải cách. Sau bài phát biểu của vị chủ tịch nước, thêm nhiều người biểu tình đã tập trung bên ngoài tòa nhà quốc hội ở Havana. Tại thời điểm này, ông ấy không thể làm được gì nhiều ngoài việc từ chức để có thể xoa dịu người dân, chủ một doanh nghiệp nhỏ cho biết. Cô nói: “Bạn không thể che mặt trời bằng một ngón tay. Hiện nay có quá nhiều vấn đề khiến chế độ không thể che đậy qua loa được.” Alfred Martinez Ramirez, một thành viên của 27N, một nhóm các nhà hoạt động, nghệ sĩ và trí thức vận động cho quyền tự do ngôn luận lớn hơn, đã tham gia một cuộc biểu tình bên ngoài Bộ Văn hóa hồi tháng 11. Khoảng 300 người đã có mặt, vào thời điểm đó dường như là một con số khổng lồ. Người dân Cuba hiếm khi đi biểu tình, đặc biệt là vì các cuộc tụ tập công khai không giấy phép là bất hợp pháp. Chứng kiến hàng nghìn người trên đường phố Havana ngày hôm qua đã cho anh hy vọng rằng nhóm của anh không đơn độc, và rằng họ thậm chí có thể đã giúp nhiều người Cuba khác vượt qua nỗi sợ hãi về bất đồng chính kiến. “Đã có một sự thức tỉnh,” anh nói. Nguồn: Nghiên Cứu Quốc Tế XEM THÊM: Biểu tình lớn tại Cuba đòi tự do, thực phẩm, vaccine và dẹp bỏ chế độ CS Phạm Minh Hoàng: Chính phủ yếu kém trong đối phó đại dịch khiến dân Cuba xuống đường  
......

Quan hệ với Nga và Trung Quốc: Hai thất bại của thủ tướng Đức Angela Merkel

Trọng Nghĩa -RFI   Theo thông báo chính thức của Nhà Trắng, ngày 15/07/2021 diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh giữa tổng thống Mỹ Joe Biden với thủ tướng Đức Angela Merkel. Đây có lẽ là sự kiện quan trọng cuối cùng của người được mệnh danh là phụ nữ quyền lực nhất thế giới hiện nay, vì vào tháng 9 tới đây, bà Merkel sẽ không còn lãnh đạo cường quốc kinh tế thứ tư của hành tinh, sau 16 năm cầm quyền liên tục. Trong những ngày gần đây, đã xuất hiện rất nhiều bài phân tích về đóng góp, phải nói là rất to lớn, của bà Merkel cho nước Đức nói riêng, và Liên Hiệp Châu Âu nói chung. Bên cạnh đó, cũng có một số bài nêu bật những thiếu sót hay thất bại mà nữ thủ tướng Đức đã vướng phải. Trong số này, rất đáng chú ý là hai phân tích trên nhật báo Pháp Le Monde ngày 30/06 và tạp chí Mỹ Foreign Policy ngày 09/07 vừa qua. Le Monde: Hai thất bại sau cùng đều liên quan đến Nga và Trung Quốc Dưới một tựa đề không một chút mơ hồ, Le Monde nhận định: “Angela Merkel rời chính trường châu Âu trên hai thất bại”. Tờ báo Pháp giải thích ngay trong tựa: “Chi tiết đáng lưu ý: Cả hai đều liên quan đến Trung Quốc và Nga”. Theo nhà bình luận Sylvie Kauffmann của Le Monde, cục diện châu Âu và thế giới ngày nay đã thay đổi rất lớn so với thời kỳ đầu của Liên Hiệp Châu Âu. Vào đầu những năm 1990, khi có một ý tưởng nào đó về châu Âu, thì thủ tướng Đức - lúc bấy giờ là Helmut Kohl - và tổng thống Pháp - thời đó là François Mitterrand - chỉ cần đồng ý với nhau, rồi sau đó gửi một lá thư kèm theo đề xuất của họ tới chủ tịch Hội Đồng Châu Âu, yêu cầu ông “vui lòng chuyển thông điệp này đến các thành viên khác của Hội Đồng Châu Âu”... Và như thế là xong. Ví dụ điển hình được Le Monde nêu bật là trường hợp bức thư mà hai nhà lãnh đạo gửi vào ngày 27 tháng 10 năm 1993, trước thềm thượng đỉnh bất thường của Liên Âu về việc thực hiện Hiệp Định Maastricht, tức là hiệp ước thành lập Liên Hiệp Châu Âu và đồng Euro, đồng tiền chung châu Âu. Mọi sự vào thời điểm đó, theo Le Monde, thật đơn giản. Liên Âu mới chỉ có 12 thành viên, còn tương đối thuần nhất và tất cả hầu như đều công nhận vai trò đầu tầu của cặp Pháp-Đức. Tình hình giờ đây đã khác, số thành viên đã tăng hơn gấp đôi, và quan trọng hơn cả là tính chất thiếu thuần nhất của các nước trong khối. Điều này khiến cho ảnh hưởng của cặp bài trùng Pháp-Đức không còn được như xưa. Không áp đặt được một thượng đỉnh EU-Nga Tại Thượng Đỉnh Liên Hiệp Châu Âu hai ngày 24-25/06 vừa qua, bản thân thủ tướng Merkel đã thấm thía được điều đó sau nhiều tiếng đồng hồ tranh luận căng thẳng về vấn đề Hungary và Nga, và đã thất bại nặng nề trong việc đề xuất một hội nghị thượng đỉnh giữa 27 lãnh đạo Liên Âu với tổng thống Nga Vladimir Putin. Về hồ sơ Nga, Le Monde ghi nhận rằng ý tưởng tổ chức một hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Châu Âu-Nga là sáng kiến của chính bà Merkel, đã được bà bàn bạc với tổng thống Pháp hôm 18/06 nhân dịp tiếp ông Emmanuel Macron tại Berlin. Theo dự định ban đầu của thủ tướng Đức, Berlin và Paris có thể đề nghị khởi động lại đối thoại Liên Âu-Nga, vốn bị đình chỉ kể từ khi Nga xâm lược Ukraina vào năm 2014, với một cuộc gặp thượng đỉnh của  nguyên thủ quốc gia và thủ tướng chính phủ của 27 thành viên Liên Âu với tổng thống Nga. Paris đồng ý với sáng kiến của Berlin, nhưng nhận thấy rằng giải pháp thượng đỉnh 27+1 quá hào phóng đối với một Putin đã không thay đổi gì kể từ năm 2014. Pháp cho rằng chỉ cần một hội nghị giữa chủ tịch của các định chế châu Âu với tổng thống Nga là đủ. Bà Angela Merkel cũng gọi điện cho Vladimir Putin và cả tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelensky. Đến ngày 22 tháng 6, tổng thống Nga đã ký tên vào một bài viết rất hòa hoãn trên báo Đức Die Zeit, kêu gọi "tái lập quan hệ đối tác toàn diện với châu Âu". Vấn đề được Le Monde nêu bật là bà Merkel đã quên nói về “dự án Pháp-Đức” này với các lãnh đạo châu Âu khác, khiến nhiều nước rất tức giận khi phát hiện ra đề xuất chỉ một ngày trước thượng đỉnh EU.  Cuộc thảo luận vào buổi tối đầu tiên của hội nghị rất sôi động và các quốc gia Baltic, Ba Lan và Thụy Điển đã từ chối đề nghị này. Đối với Le Monde, việc bà Merkel lao đầu vào sáng kiến tổ chức thượng đỉnh Nga-EU mà không có chuẩn bị gì rất đáng ngạc nhiên vì trái với bản tính thận trọng của bà. Câu hỏi đặt ra là phải chăng thủ tướng Đức mơ đến một bộ ba địa chính trị lịch sử trước ngày rời chính trường? Sau cuộc họp thượng đỉnh Châu Âu - Trung Quốc với Tập Cận Bình vào tháng 12/2020, rồi cuộc họp với Joe Biden vào ngày mai, 15/07, có lẽ bà muốn kết thúc đẹp đẽ với thượng đỉnh châu Âu-Nga với  Putin vào tháng 9. Thỏa thuận đầu tư EU-Trung Quốc bị đình chỉ Đối với Le Monde, thất bại trên hồ sơ Nga của thủ tướng Merkel tại Thượng Đỉnh Liên Âu cuối tháng 6 vừa qua đã tiếp nối theo một thất bại khác: Đó là việc Thỏa Thuận Đầu Tư EU-Trung Quốc mà bà đã áp đặt được vào cuối năm ngoái 2020, hiện vấp phải nhiều phản ứng chống đối và tiến trình phê chuẩn đang gặp bế tắc. Theo Le Monde, trên hồ sơ Trung Quốc, Angela Merkel đã tận dụng lợi thế của vai trò chủ tịch Liên Hiệp Châu Âu của nước Đức cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2020, để buộc toàn khối ký kết thỏa thuận đầu tư toàn diện với Trung Quốc, được đúc kết vào ngày 30 tháng 12 sau một hội nghị thượng đỉnh qua cầu truyền hình với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Tuy nhiên, văn kiện này đã bị Nghị Viện Châu Âu phản đối gay gắt, và việc phê chuẩn vẫn bị đình chỉ cho đến ngày nay trong bối cảnh quan hệ với Bắc Kinh ngày càng xấu đi. Foreign Policy: Merkel “đặt lợi nhuận lên trên nguyên tắc” Quan điểm hòa hoãn rõ nét của thủ tướng Đức đối với Nga và Trung Quốc đã bị hai nhà nghiên cứu Mỹ cực lực phê phán trong một bài phân tích đăng trên trang mạng tạp chí Foreign Policy ngày 09/07 vừa qua, nói về “Khía cạnh khác của Angela Merkel”, tức là những sắc thái tiêu cực trong viêc làm của thủ tướng Đức. Theo hai giáo sư Matthias Matthijs, thuộc trường School of Advanced International Studies tại Đại Học Mỹ Johns Hopkins, và R. Daniel Kelemen, Đại Học Rutgers bang New Jersey (Hoa Kỳ), thì trong quan hệ với các đối thủ địa chiến lược của Châu Âu là Nga và Trung Quốc, bà Merkel đã đặt “lợi nhuận lên trên nguyên tắc”, tức là quan tâm đến quyền lợi của nước Đức hơn là những giá trị khác. Về Nga, ví dụ rõ nét nhất là việc bà khăng khăng bảo về đường ống dẫn khí Nord Stream 2 từ Nga sang Đức bất chấp phản đối của Mỹ và nhiều đồng minh Liên Âu. Nord Stream 2 sẽ cung cấp khí đốt trực tiếp từ Nga đến Đức qua Biển Baltic, do đó phá vỡ tuyến đường ống hiện có đi qua Ukraina và các nước khác ở Đông Trung Âu. Đường ống sẽ cho phép Nga cắt nguồn cung cấp khí đốt cho Ukraina và các nước khác trong khu vực trong khi vẫn bán khí đốt cho Đức và Tây Âu. Dự án sẽ làm tăng nguy cơ Nga xâm lược Ukraina, đe dọa an ninh năng lượng của các nước thành viên EU như Ba Lan và làm suy yếu các nỗ lực chung của EU nhằm giảm sự phụ thuộc năng lượng vào Nga. Vậy tại sao bà Merkel vẫn tiếp tục ủng hộ việc hoàn thành Nord Stream 2. Câu trả lời là dự án này hứa hẹn cung cấp năng lượng dồi dào với chi phí thấp cho ngành công nghiệp và người tiêu dùng Đức. Với quyết định đột ngột loại bỏ điện hạt nhân của bà Merkel để đối phó với thảm họa Fukushima năm 2011 ở Nhật Bản, Đức đã trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào dầu và khí đốt tự nhiên mà tập đoàn Nga Gazprom là nguồn cung cấp với chi phí thấp nhất. Dĩ nhiên là bà Merkel không hề đồng cảm với thế giới quan của nhà độc tài Nga, nhưng rõ ràng bà sẵn sàng bỏ qua những vi phạm liên tục và trắng trợn đối với luật pháp quốc tế và các chuẩn mực nhân quyền nếu việc nhắm mắt làm ngơ cho phép bà cung cấp năng lượng rẻ hơn cho các nhà máy và gia đình ở Đức. Merkel cũng đã theo đuổi cách tiếp cận “lợi nhuận trên nguyên tắc” tương tự khi đối phó với Trung Quốc của Tập Cận Bình. Dĩ nhiên, bà cũng có những động thái cho thấy thái độ quan ngại đến tình hình nhân quyền tại Trung Quốc, nhưng chỉ ở mức tối thiểu: Bày tỏ lo ngại về việc Bắc Kinh tấn công những người biểu tình đòi dân chủ ở Hồng Kông và gián tiếp nhắc đến các trại giam người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, kêu gọi nối lại đối thoại về nhân quyền và yêu cầu Bắc Kinh tôn trọng các chuẩn mực quốc tế về lao động cưỡng bức. Mùa xuân này, chính phủ của bà cũng ủng hộ các lệnh cấm đi lại của EU và đóng băng tài sản đối với một số quan chức Trung Quốc để phản ứng với những diễn biến mới ở Tân Cương. Tuy nhiên, cùng lúc với việc bà Merkel phát tín hiệu về nhân quyền, chính phủ của bà đã sử dụng chức chủ tịch luân phiên của EU vào cuối năm ngoái để gấp rút thông qua một thỏa thuận đầu tư giữa EU và Trung Quốc mà các nhà phê bình coi là một món quà lớn đối với Bắc Kinh. Nghị Viện Châu Âu kể từ đó đã đóng băng việc phê chuẩn thỏa thuận trong bối cảnh căng thẳng leo thang giữa EU và Trung Quốc về Hồng Kông và chiến dịch đàn áp người Duy Ngô Nhĩ. Thế nhưng bà Merkel - vì lợi ích của các tập đoàn Đức muốn theo đuổi các cơ hội phát triển tại thị trường Trung Quốc - vẫn tiếp tục ủng hộ thỏa thuận này./.  
......

Covid-19, ngòi nổ cho các cuộc biểu tình chưa từng có ở Cuba

Người dân Cuba biểu tình chống chính phủ tại thủ đô La Habana, ngày Chủ Nhật 11/07/2021. YAMIL LAGE AFP Thanh Phương - RFI   “Người dân bỗng nhìn thấy những hình ảnh đó và điều này đã thúc đẩy họ xuống đường ở các thành phố khác.” Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, khoảng 40 cuộc biểu tình đã nổ ra khắp Cuba và cũng được truyền trực tiếp trên mạng xã hội…   Nếu như ngòi nổ của các cuộc biểu tình chưa từng có làm rung chuyển Cuba hôm Chủ Nhật 11/07/2021 chính là đại dịch Covid-19, thì phong trào phản kháng của người dân hòn đảo này bùng phát còn là do khủng hoảng kinh tế và tác động của Internet di động.  Khủng hoảng kinh tế Cuba đã lâm vào khủng hoảng kinh tế từ lâu trước khi virus corona lan đến nước này vào tháng 03/2020. Có hai lý do chính: sự sụp đổ kinh tế của Venezuela, nguồn hỗ trợ chủ yếu của Cuba, và việc chính quyền Donald Trump tăng cường lệnh cấm vận. Người tiền nhiệm của tổng thống Joe Biden đã ban hành thêm 243 biện pháp trừng phạt Cuba, đặc biệt là đình chỉ dịch vụ chuyển tiền Western Union, dịch vụ được người dân Cuba sử dụng nhiều nhất để nhận tiền của người thân từ nước ngoài gửi về. Ngành du lịch Cuba thì bị thất thu khá nhiều do lệnh cấm các du thuyền của Mỹ ghé qua hòn đảo này. Trong khi đó, nhiều nhà đầu tư và ngân hàng của Hoa Kỳ không còn dám đầu tư vào Cuba, vì chính quyền Trump áp dụng trở lại điều 3 trong đạo luật Helms-Burton. Đó là điều luật cho phép các công dân Mỹ gốc Cuba kiện đòi bồi thường đối với các cá nhân hay tổ chức của Cuba và nước ngoài sử dụng các tài sản của họ trước đây.  Cho tới nay, tổng thống thuộc đảng Dân Chủ Joe Biden vẫn chưa hủy bỏ hay sửa đổi chính sách của người tiền nhiệm đối với Cuba. Vốn đã gặp khó khăn do nhịp độ cải tổ quá chậm chạp và bộ máy quan liêu nặng nề, kinh tế Cuba càng bị khủng hoảng trầm trọng do lệnh cấm vận của Mỹ, nên đã bị sụt giảm đến 10,9% trong năm 2020, mức tệ hại nhất kể từ năm 1993.    Khủng hoảng dịch tễ Sau một năm Cuba có số ca nhiễm và ca tử vong thấp hơn nhiều so với các nước khác ở châu Mỹ La tinh, tình hình dịch Covid-19 tại hòn đảo này trong những tháng gần đây lại diễn biến xấu, và đặc biệt từ mấy tuần nay, số ca nhiễm và ca tử vong đã tăng vọt. Hiện nay, Cuba đã có gần 250.000 ca nhiễm, trong đó có gần 1.600 ca tử vong, trên tổng số 11,2 triệu dân. Nhưng cái chính là đại dịch Covid-19 đã khiến đời sống thêm khó khăn, đặc biệt là do nạn khan hiếm lương thực và thuốc men, khiến dân chúng càng bất mãn. Ấy là chưa kể hiện nay, do khủng hoảng kinh tế, chính quyền buộc phải cúp điện mỗi ngày nhiều tiếng đồng hồ.  Tác động của Internet di động Nhưng những yếu tố nói trên sẽ chưa đủ để giải thích tầm mức của các cuộc biểu tình hôm Chủ Nhật, mà còn phải tính đến tác động của Internet di động. Có thể nói là trong vòng chưa tới 3 năm, mạng Internet di động đã làm đảo lộn xã hội Cuba và đã trở thành một “đồng minh” tích cực của những người biểu tình hôm Chủ Nhật, cho nên không có gì đáng ngạc nhiên khi mạng thông tin này đã bị chính quyền nhanh chóng cắt đứt.  Trong nhiều năm vẫn là một quốc gia ít kết nối mạng nhất thế giới, Cuba chỉ cho mở Internet di động kể từ tháng 12/2018. Số người sử dụng đã tăng nhanh đến chóng mặt. Tính đến cuối năm 2020, trên tổng dân số 11,2 triệu dân Cuba, đã có đến 4,4 triệu người sử dụng Internet trên điện thoại di động. Theo nhận định của nhà xã hội học người Mỹ Ted Henken, tác giả cuốn sách “Cách mạng số ở Cuba”, đây chính là cánh cửa mở ra thế giới bên ngoài cho người dân Cuba và góp phần vào việc hình thành một loạt các cuộc huy động, phản kháng và yêu sách trong những tháng gần đây.   Cho đến tuần trước, hashtag #SOSCuba đã nhanh chóng lan truyền trên các mạng xã hội để xin cứu trợ nhân đạo cho hòn đảo mà nay phải gánh chịu cả hai cuộc khủng hoảng kinh tế và dịch tễ. Đối với một số cư dân mạng, đây chính là ngòi nổ cho các cuộc biểu tình lịch sử hôm Chủ Nhật vừa qua.   Hôm đó, khi người dân của thành phố nhỏ San Antonio de los Baños, cách La Habana khoảng 30 km, bắt đầu xuống đường với những tiếng hô “Đả đảo độc tài”, những hình ảnh của cuộc biểu tình đã được truyền trực tiếp trên mạng Facebook.   Một nhà báo kể với hãng tin AFP: “Người dân bỗng nhìn thấy những hình ảnh đó và điều này đã thúc đẩy họ xuống đường ở các thành phố khác.” Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, khoảng 40 cuộc biểu tình đã nổ ra khắp Cuba và cũng được truyền trực tiếp trên mạng xã hội.     Nhìn xa hơn, theo hãng tin AFP, ngày càng có nhiều người dân Cuba đòi chính quyền của chủ tịch Miguel Diaz-Canel phải cho phép hình thành một không gian để họ có thể tự do bày tỏ những ý kiến “trái chiều” mà không bị trừng phạt. Họ cũng đòi cải thiện đời sống và thêm một số quyền tự do về kinh tế tại một quốc gia đang dè dặt mở cửa cho khu vực tư nhân. Thanh Phương Nguồn: https://www.rfi.fr/vi/ph%C3%A2n-t%C3%ADch/20210713-covid-19-ng%C3%B2i-n1%BB%-cuba  
......

Campuchia phong tỏa biên giới Việt Nam

Timothy Trinh Nhà nước Campuchia đã phong tỏa biên giới Việt Nam, ban bố lệnh cấm một tháng đối với việc đi lại qua biên giới nhằm ngăn chặn sự lây lan của COVID-19. Bộ Ngoại giao Campuchia cho biết để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh COVID-19 từ Việt Nam sang Campuchia, nhà nước đã quyết định ban hành lệnh cấm tạm thời đi lại giữa hai nước đối với tất cả công nhân và nhân viên Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 18 tháng 7. Đối với người lao động và nhân viên Việt Nam đã nhập cảnh vào Campuchia, cả người đang trong diện kiểm dịch và người đã hoàn thành 14 ngày kiểm dịch đều không được phép trở lại Việt Nam trong thời gian phong tỏa biên giới. Tuy nhiên, Campuchia vẫn tiếp tục cho phép các nhà ngoại giao và công chức làm nhiệm vụ do cả hai nước mời qua biên giới, cũng như trao đổi hàng hóa xuyên biên giới. Cảnh sát di trú tại cửa khẩu Bavet International của Campuchia, đối diện với cửa khẩu Mộc Bài của Việt Nam, cho biết các nhà chức trách biên giới đã sẵn sàng triển khai các biện pháp. Nhem Sam Oeun, phó Chủ tịch tỉnh Ratanakiri, cho biết hàng hóa được vận chuyển đến Việt Nam qua ngõ Ratanakiri bao gồm thực phẩm và vật liệu xây dựng, lưu ý rằng có một công ty nông nghiệp rất lớn của Việt Nam, Hoàng Anh Andong Meas, sở hữu 1.000 ha trồng chuối tại đây. “Trước đây, nhà nước chỉ cho phép những người đã tiêm vắc xin qua biên giới, nhưng bây giờ nó sẽ hoàn toàn bị cấm”, Sam Oeun nói. Trên thực tế, tình trạng dịch bệnh tại Campuchia cũng không lấy gì làm tốt đẹp hơn Việt Nam. Cho đến nay, Campuchia đã nhận được 17 triệu liều vắc xin do Trung Quốc sản xuất, hầu hết đã được nhà nước Campuchia mua và sử dụng để tiêm chủng cho hơn 5 triệu dân. Hậu quả cho thấy Campuchia đã ghi nhận 915 ca nhiễm COVID-19 mới vào thứ Tư và 33 tử vong, nâng tổng số lên 63.615 ca nhiễm và 986 trường hợp tử vong./. Người Đà Lạt Xưa    
......

Cuba thức!

Nguyễn Thông   Hồi xưa ở miền Bắc, đám chúng tôi được nhà chức việc khuyên răn (đồng thời cũng là cảnh cáo, kiểu như mày mà không làm theo thì chết với chúng ông), khuyên rằng: "Nghe đài đọc báo của ta/Đừng nghe đài địch bàn ra tán vào/Tin đài tin báo của ta/Đừng tin đài địch, ba hoa nói xằng". Nghe phong thanh ở Cuba, nơi canh giữ hòa bình thế giới, thức cho VN ngủ, đang nhiều biến động dữ dội, dân chúng hôm qua xuống đường khởi đầu cuộc "đấu tranh này là trận cuối cùng", nhà cháu đâm tò mò, tìm báo đài ta nhưng không có lấy một nửa chữ. Muốn tin mà chả có chỗ để tin. Còn báo "địch" thì nhan nhản. Mừng cho người Cuba đã ngủ dậy. Hơn 60 năm sống "tự do" nhưng bị nghèo đói đè nén áp bức dưới bộ máy chuyên chế độc tài, giờ mới thức tỉnh, như thế là quá chậm, quá chậm. Thử hỏi, tự do độc lập để làm gì khi không có hạnh phúc./.   Cuba thức! Phạm Minh Vũ   “Chúng tôi muốn Tự Do! Đả đảo chế độ cộng sản !” “Đả đảo chế độ độc tài" và "Đả đảo Díaz-Canel", là Những khẩu hiệu được hàng ngàn người dân Cuba hô vang ngày hôm qua, chủ nhật, 11/07/2021. Đã có hàng ngàn người dân Cuba đã đồng loạt xuống đường ở thủ đô Havana và một số thành phố, thị trấn khác ở Cuba, để kêu gọi chấm dứt chế độ độc tài kéo dài hơn nửa thế kỷ. Người biểu tình đòi chính phủ cung cấp thực phẩm, Vac.cine và đòi chính phủ phải “chấm dứt nạn đói” đang hoành hành. Díaz-Canel nhà lãnh đạo Cuba đang sử dụng các biện pháp đàn áp mạnh tay với người biểu tình và đã ngắt kết nối Internet trên quốc đảo này. Hiện nay Cuba đã thức để canh gác thế giới, VN tranh thủ ngủ vì chính phủ ra chỉ thị 16 bắt dân phải ở trong nhà (chú Triết said)./.  
......

Vaccine Sinovac không có hiệu quả chống lại biến chủng Delta

Lưu Thủy Hương Lauterbach, chuyên gia y tế số 1 của chính phủ Đức vừa cho biết: Vaccine Sinovac không có hiệu quả chống lại biến chủng Delta.   Đang có rất nhiều thông tin về việc Sinovac không có khả năng chống biến chủng, và đó sẽ là thảm họa cho các nước nghèo (mà cũng là cho cả thế giới). Nếu không có gì thay đổi, tối mai tôi mới dịch được.   Ở Indonesia, khoảng 400 nhân viên y tế bị nhiễm bệnh dù đã được tiêm đầy đủ mũi 2 mũi vaccine của Sinovac. Ở Chile, gần 17 triệu liều Sinovac tiêm cho dân, dịch vẫn bùng phát dữ dội. Chính quyền Chile đang dự định phải tiêm bổ sung liều thứ ba BioNTech cho dân.   Việt Nam đang bùng chủng Delta, chính quyền tệ mạt phải ăn xin tiền của dân mà nhập Sinovac về là cố ý hại dân, lừa dân. Tiền của người dân thì phải để họ quyết định!   Tôi kiên quyết phản đối chuyện tiêm vaccine Trung Quốc cho người Việt Nam. Ngoài hiệu quả không ra gì của nó, các mối nguy hại của vaccine này vẫn không được nghiên cứu minh bạch.   KHÔNG vaccine Trung Quốc. https://www.berliner-zeitung.de/.../lauterbach-sinovac...   Theo Lauterbach, Indonesia đang bị đe dọa trước làn sóng dữ. Ở đó người dân được chủng ngừa bằng vaccine Trung Quốc Sinovac.   Lauterbach viết trên Twitter, biến chủng delta của virus đã đến Indonesia mà vaccine Trung Quốc Sinovac được sử dụng ở đó rõ ràng không đủ mạnh để ngăn chặn sự bùng phát của biến chủng này.   “Tin xấu, nhiều người tiêm Sinovac. Trong khi đại dịch đang dần kết thúc đối với châu Âu và Mỹ, nó lại bắt đầu ở các nước nghèo.“   Tại Indonesia, hàng trăm bác sĩ và nhân viên y tế bị nhiễm coronavirus dù đã được tiêm phòng đầy đủ.   (ND: Trong khi đó, chính phủ Indonesia vẫn cố chấp đưa tin.) Siti Nadia Tarmizi, phát ngôn viên của chương trình tiêm chủng Indonesia, cho biết những người bị ảnh hưởng đều làm việc ở vùng Kudu ở miền trung Java và đã được tiêm vaccine Sinovac. Tuy nhiên, tất cả chúng đều chỉ xuất hiện các triệu chứng nhẹ. Ông Tarmizi nhấn mạnh: “Sinovac có hiệu quả chống lại các biến chủng mới“.   Đảo quốc ở Đông Nam Á đã ghi nhận số lượng gia tăng trở lại trong vài ngày qua. Hôm thứ Năm, nhà chức trách đã báo cáo hơn 12.600 ca nhiễm mới - nhiều hơn số ca từ tháng Giêng. Đặc biệt là ở Kudus, các bệnh viện hầu như không có chỗ cho bệnh nhân mới.   Với 270 triệu dân, Indonesia là quốc gia đông dân thứ tư trên trái đất. Nhà chức trách hy vọng sẽ tiêm phòng cho khoảng 181 triệu công dân vào đầu năm 2023 để đạt được khả năng miễn dịch cộng đồng. Cho đến nay, chỉ có 22 triệu người được tiêm chủng ít nhất một lần. Tổng cộng 1,9 triệu ca nhiễm corona đã được ghi nhận cho đến nay, và hơn 53.000 ca tử vong đã được ghi nhận liên quan đến Covid-19./.  
......

Đức bắt giam một chuyên gia Đức về châu Á làm gián điệp cho Trung Quốc

Nhà chức trách Đức bắt giam và truy tố một nhà khoa học chính trị người Đức được cho là làm gián điệp hai mang, vừa là điệp viên của Cơ quan Tình báo Đức (BND) vừa làm gián điệp cho Trung Quốc.   Hôm 6.7.2021, Công tố viện Liên bang Đức cho biết, một chuyên gia về chính trị châu Á (75 tuổi) đã nghỉ hưu, tên là Klaus Lange, đã bị bắt giam và bị truy tố với cáo buộc làm gián điệp cho mật vụ Trung Quốc trong gần một thập niên từ năm 2010 đến năm 2019. Ông ta tận dụng các mối liên lạc chính trị gây dựng được trong lúc làm việc từ những năm 1980 cho một viện nghiên cứu của Đức, đó là Quỹ Hanns Seidel của đảng CSU (đảng liên kết với đảng CDU của bà Thủ tướng Merkel). Tại viện nghiên cứu này, ông trở thành người đứng đầu bộ phận chính sách an ninh quốc tế, ông thường xuyên đi công tác thuyết trình ở Liên Xô và sau đó là ở Nga, Nam Phi và Nam Á.   "Những hành vi sai trái có thể xảy ra thông qua các hoạt động tình báo là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với chúng tôi", phát ngôn viên của Quỹ Hanns Seidel nói và cho biết thêm rằng ông Klaus Lange đã nghỉ hưu cách đây 10 năm và không có bất kỳ liên hệ nào với tổ chức kể từ đó.   Ông Klaus Lange được mật vụ Trung Quốc tuyển mộ trong một chuyến đến Thượng Hải thuyết trình tại trường Đại học Tongji hồi năm 2010. Mật vụ Trung Quốc muốn biết đánh giá của ông về các hoạt động của người Duy Ngô Nhĩ lưu vong, mà Đại hội Thế giới của họ được tổ chức ở Munich - Đức. Một năm trước đó (2009), ông được cho là đã tổ chức một cuộc họp với các bộ trưởng và đại diện của Quốc hội Tây Tạng lưu vong ở Dharamsala, Ấn Độ. Phái đoàn của ông cũng đã được tiếp đón bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma. Các bài thuyết trình mà Klaus Lange sau đó đã trình bày tại các hội nghị ở nhiều nước khác nhau như Singapore, Israel hay Nam Phi chủ yếu là về chính sách an ninh, chống khủng bố - và luôn luôn liên quan đến Trung Quốc.   Và sau đó, Klaus Lange đã thường xuyên cung cấp thông tin cho mật vụ Trung Quốc cho đến tháng 11 năm 2019. Nhà khoa học chính trị người Đức này đã được trả thù lao cho hoạt động gián điệp của mình và được chi trả cho các chuyến đi Trung Quốc.   Đài truyền hình lớn nhất nước Đức ARD tiết lộ, ông Klaus Lange cũng làm gián điệp cho Cơ quan Tình báo Nước ngoài của Đức (BND) trong 50 năm. Ông là một trong những người thân tín của trưởng phòng BND lâu năm Volker Foertsch, ông Klaus Lange ủng hộ hoạt động gián điệp của BND chống lại Trung Quốc.   Đài ARD dẫn các nguồn tin cho hay, ông Klaus Lange thoạt đầu có thông báo với BND về ý định của mật vụ Trung Quốc muốn tuyển mộ ông và đã nhận được sự đồng ý cơ bản từ trụ sở BND: Trước hết ông nên tham gia làm việc với mật vụ Trung Quốc và tìm hiểu những gì họ muốn. Đây là cách Klaus Lange được cho là đã nắm được thiết bị kỹ thuật - công cụ để liên lạc bí mật với Bắc Kinh. Như vậy ông được cho là làm gián điệp hai mang, vừa là điệp viên của Cơ quan Tình báo Đức (BND) vừa làm gián điệp cho mật vụ Trung Quốc.   Trong khi Klaus Lange ban đầu thảo luận về mọi bước với BND, nhưng dần dần ngày càng ít đi, ông đã không báo cáo đầy đủ về các mối liên lạc sau đó.  Ngoài ra, nhà chức trách Đức cũng đang điều tra người vợ Ý của ông, Klara Knapp. Người phụ nữ 64 tuổi đến từ Gais (nước Ý) được cho là cũng có liên quan đến hoạt động gián điệp,   Sau khi nghỉ hưu, không còn làm việc cho Quỹ Hanns Seidel, Klaus Lange được cho là đã tiếp tục công việc này - với tư cách là giám đốc tổ chức tư vấn do ông thành lập với tên gọi "Viện Nghiên cứu Xuyên quốc gia (ITS)". Vợ ông, giáo viên tiếng Anh 64 tuổi, Klara Knapp, cũng là một thành viên của viện. Theo trang web hiện đã khóa, các thành viên ban cố vấn của viện gồm có giám đốc trung tâm Học viện Khoa học Nga, đại sứ Pakistan và chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ISSA của Mỹ, nơi xuất bản tạp chí Defense & Foreign Affairs.   Việc bắt giữ Klaus Lange diễn ra sau các cuộc điều tra kéo dài của nhà chức trách Đức. Hai năm trước, hồi tháng 11 năm 2019, các nhân viên điều tra Đức được cho là đã khám xét nhà của vợ chồng Langes và Knapp ở Landshut (Đức). Đài ARD tiết lộ rằng vào thời điểm đó Klaus Lange và vợ của ông ta đã bị chặn lại khi họ đang trên đường đến sân bay với hành lý - được cho là để gặp các sĩ quan chỉ huy mật vụ Trung Quốc ở Macau trên bờ biển phía nam Trung Quốc.   Sau cùng, Klaus Lange bị bắt và bị truy tố với cáo buộc đã chuyển thông tin mà ông ta nhận được từ các chính trị gia hàng đầu cho Trung Quốc. Với tội danh này, ông có thể bị kết án tới 5 năm tù.   Cựu giám đốc cơ quan tình báo Đức Gerhard Schindler đã cảnh báo trong một cuốn sách phát hành năm ngoái rằng mối đe dọa từ hoạt động gián điệp của Trung Quốc ở châu Âu đang gia tăng.   Theo ông Schindler, chính quyền của Thủ tướng Merkel cần phải giảm "sự phụ thuộc chiến lược" vào Trung Quốc và nên cấm tập đoàn viễn thông Trung Quốc Huawei không cho tham gia vào cơ sở hạ tầng mạng di động 5G.   Hiếu Bá Linh (Tổng hợp)   Nguồn:   https://www.tagesschau.de/investigativ/bnd-spion-china-103.html   https://www.sueddeutsche.de/politik/china-bnd-1.5344205!amp   https://www.rainews.it/dl/rai24/assets/template/amp.html?/dl/rai24/tgr/amp/articoli/2021/07/ContentItem-a2320fa1-766a-499b-a1e9-6f7abf205704.html  
......

Pages