Buổi dã ngoại thảo luận quyền con người ở Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nhà Trang

  Tại Sài Gòn: Từ 7g30, công viên trước dinh Thống Nhất đã bố trí đầy nhân viên trật tự và an chìm nổi Tuy vậy các bạn trẻ vẫn thực hiện việc phân phát tài liệu về quyền con người cho mọi người tham dự buổi dã ngoại   Các bạn trẻ dã ngoại trao đổi để hiểu biết về quyền con người Theo thông báo của nhà thơ Phan Đắc Lữ, blogger Nguyễn Hoàng Vi vừa bị bắt. Nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà thơ Phan Đắc Lữ, nhà báo Kha Lương Ngãi và nhiều nhân sĩ khác đang có mặt tại khu công viên để hỗ trợ các bạn trẻ. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho biết: Từ sáng sớm anh đã bị canh cửa và anh bị ngăn chặn không được ra ngoài. Công ty cây xanh(?) cho xịt nước khắp nơi để không ai có thể tập trung trên bãi cỏ công viên Tin mới nhất: Hành Nhân và August Anh cũng vừa bị bắt Tại Hà Nội: lúc 9 giờ đoàn người đã đi vòng quanh công viên Tài liệu về quyền con người được phân phát đến tay mọi người   Trần Thúy Nga và hai con, đêm trước bị đuổi ra khỏi nhà trọ phải ngủ vệ đường thế nhưng sáng nay vẫn có mặt vì quyền con người Tại Hải Phòng: Blogger Phan Thanh Nghiên cùng mẹ thực hiện dã ngoại vì nhân quyền trước cửa nhà Tại Nha Trang:  Blogger Mẹ Nấm đang nói về quyền con người, sau khi bị CA ép buộc vào quán cafe nhằm ngăn chặn không cho đến điểm hẹn tham dự buổi dã ngoại. Trong khi đó, tại điểm hẹn công viên Bạch Đằng - Nha Trang, rất đông công an và đoàn viên xuất hiện để 'dã ngoại' với dàn loa công suất lớn. Đây cũng là lực lượng được chuẩn bị trước nhằm phá rối cuộc hẹn trao đổi về quyền con người của các Công dân Tự do. http://huynhngocchenh.blogspot.de/2013/05/tuong-thuat-buoi-da-ngoai-thao...
......

Kháng thư của Mục sư Nguyễn Trung Tôn

Kháng thư lần thứ 1 V/v Ông Hoàng Doãn Đức, Phó Chánh án Tòa Hình sựTòa án Nhân dân Tối cao trả lời đơn khiếu nại của tôi.             Kính gửi: - UBTV Quốc hội nước CHXHCNVN. - Tòa án NDTC nước CHXHCNVN. - Viện KSNDTC nước CHXHCNVN.             Tên tôi: Nguyễn Trung Tôn  - Sinh năm 1971             Sinh trú quán tại: Thôn Yên Cổ, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.             Nghề nghiệp: Nguyên là mục sư nhiệm chức của Hội Thánh Phúc Âm Toàn Vẹn Việt Nam.             Hiện tại: Đang bị quản chế tại địa phương, thôn Yên Cổ, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.             Kính thưa quý cơ quan: Ngày 15-1-2011 tôi bị công an huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ra lệnh bắt khẩn cấp tại Nghệ An. Ngày 17-1-2011 công an huyện Nam Đàn thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của tôi tại thôn Yên Cổ, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 22-1-2011 Cơ quan ANĐT tỉnh Nghệ An ra quyết định khởi tố tôi về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN” theo điểm c khoản 1 điều 88 BLHS. Ngày 29-12-2011 TAND tỉnh Nghệ An mở phiên tòa sơ thẩm xét xử tôi với tội danh trên và kết án tôi 2 năm tù giam và 2 năm quản chế.             Khẳng định việc làm của mình là không có tội, và quá trình tố tụng các cơ quan tố tụng đã làm không đúng quy định của pháp luật trong việc bắt, khám xét chỗ ở, khởi tố và truy tố xét xử tôi, nên tôi đã làm đơn kháng án lên tòa án tối cao. Ngày 30-5-2012, TATC đã mở phiên tòa phúc thẩm và tiếp tục tuyên y án. Tôi khẳng rằng mình vô tội, nên đã làm đơn khiếu nại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 21-11-2012 tôi nhận được thư trả lời “Tòa án nhân dân tối cao – Số 635/TA-HS v/v trả lời đơn” do ông Hoàng Doãn Đức ký. Trong thư trả lời có đoạn viết “Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét khách quan, toàn diện các tình tiết vụ án để kết án anh về tội “Tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là đúng pháp luật, không oan; không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án nếu trên”.             Kính thưa quý vị: Tôi thấy có rất nhiều phi lý bất công trong vụ án của tôi mà cả 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đưa ra xét xử và buộc tội tôi.            I - Những phi lý trong việc bắt giữ và khởi tố:             1- Về việc công an huyện Nam Đàn ra lệnh bắt khẩn cấp tôi tại nhà chị Hồ Thị Bích Khương là hoàn toàn không đúng với quy định của pháp luật.             “Điều 81 Bộ Luật TTHS. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp.             1-Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp: A- Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; B- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xãy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; C- Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trôn hoặc tiêu hủy chứng cứ.”              Khi công an vào nhà chị Hồ Thị Bích Khương, tôi vẫn còn đang ngủ cùng cháu Đức con chị Khương. Tôi không thuộc trường hợp nào trong các trường hợp trên; vì vậy không ai được phép ra lệnh bắt khẩn cấp tôi!             (Tôi xin hỏi ông Hoàng Doãn Đức: như vậy đã có khách quan trong qua trình bắt giam, truy tố và xét xử tôi chưa?). Tại sao tôi lại bị bắt khẩn cấp?                        2- Về việc cơ quan CSĐT công an huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An tiến hành điều tra đối với tôi là hoàn toàn vi phạm Khoản 4 điều 110 Bộ Luật TTHS 2003 quy định:             “Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xãy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xãy ra tội phạm, thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.”             (Tôi xin hỏi ông: Tôi không phải người có nhân khẩu tại Nghệ An, không phạm tội gì tại Nghệ An, không viết bài tại Nghệ An, việc bắt giữ tôi tại Nghệ An không có cơ sở, vậy tại sao CQCSĐT công an tỉnh huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An lại tiến hành khám xét nơi ở của tôi tại thôn Yên Cổ trước cả khi ra quyết định khởi tố và sau đó chuyển cơ quan ANĐT công an tỉnh Nghệ An tiến hành điều tra đối với tôi?)                     II- Việc làm của tôi không thể bị xem là “Hành vi phạm tội”.             1- Làm ra: Việc tôi viết ra ba bài viết trên là thể hiện quyền tự do bày tỏ quan điểm, và thái độ của mình trước những bất công trong xã hội. Trong tất cả nội dung bài viết không có một từ nào đề cập tới nhà nước CHXHCNVN. Những tài liệu tôi làm ra hoàn toàn nói lên những sự kiện có thật và tôi đưa ra quan điểm của mình trước những sự kiện đó, đồng thời có những nhận định và lời cảnh báo, cho những người cầm quyền của đảng cộng sản về những hậu quả có thể xảy ra. Việc tôi làm như trên không thể xem là phủ nhận thành quả của đảng cộng sản hay phỉ báng chính quyền nhân dân, hay xuyên tạc; lại càng không thể nói là chống nhà nước CHXHCNVN.             2- Tàng trữ: Cất giữ với số lượng lớn (Đại từ điển tiếng Việt. Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB ĐHQG TPHồ Chí Minh năm 2010, trang 1426). Tôi bị đưa ra truy tố với 3 bài viết mà cơ quan điều tra in ra từ máy tính của họ, trên email của tôi. Như vậy không thể khép tôi có hành vi tàng trữ! Vì tôi không cất giữ trong người, trong nhà, trong máy tính. Những bài viết kia là trong hộp thư điện tử, do nhà mạng lưu giữ! Đây là lãnh vực thư tín hoàn toàn được luật pháp bảo vệ. Hơn nữa tôi khẳng định những bài viết của tôi không có nội dung chống nhà nước CHXHCNVN nên không thể gọi đây là hành vi phạm tội.             3- Lưu hành: Đưa ra xử dụng rộng rãi (Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB ĐHQG TPHồ Chí Minh năm 2010, trang 988). Việc tôi dùng email để gửi thư điện tử cho một vài người quen có cùng quan điểm là việc trao đổi thư tín hết sức bình thường, nội dung bài viết cũng hết sức bình thường, không thể xem là hành vi lưu hành phạm pháp!             · Nội dung cả ba bài viết của tôi được trích trong bản cáo trạng của VKSND :             1. Bài: “Đảng Cộng sản Việt Nam và các sự kiện sai trái, tội lỗi được gọi là những cuộc cải cách lớn”             Có trích đoạn: “… Chủ nghĩa cộng sản chủ trương thần thánh hóa chính họ nên từ khi mới xuất hiện ở Việt Nam nó đã gây ra những tội ác tầy trời như tôi đã nói ở trên nhằm tiêu diệt đối thủ, dùng bạo lực cùng chính sách ngu dân, để thuần hóa nhân dân cả hai miền đất nước sau năm 1975….. Cho đến nay đảng cộng sản Việt Nam không còn là một đảng theo đúng nghĩa của nó nữa, mà đã và đang lột xác thể hiện rõ nguyên hình là bầy Sa tan ác quỷ” Theo cáo trạng của VKSND tỉnh Nghệ An thì bài này có nội dung“Xuyên tạc vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam”            Xin thưa quý vị! Không thể nói những gì tôi nói trong bài viết này là “xuyên tạc” Vì những gì tôi nói là có thật! Và đây cũng là quyền tự do tư tưởng và quan điểm chính trị của tôi! Tại sao tòa án không đưa toàn bộ nội dung ra để tranh luận? Nội dung này không thể xem là “Chống nhà nước CHXHCNVN”             2. Bài: “Thêm một thương binh cựu chiến binh Việt Nam tham gia Khối 8406.” Theo cáo trạng của VKSND tỉnh Nghệ An, bài này có nội dung “xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam”. Trích đoạn viết “Thật đáng buồn cho dân tộc Việt Nam, khi bị rơi vào tay cộng sản, họ sẵn sàng vắt chanh bỏ vỏ… Trong quá trình chịu đựng bất công và chứng kiến những bất công của chế độ này, anh Nguyễn Hữu Hoàng đã nhận thấy con đường đúng đắn để bước đi trong phần đời còn lại. Cần xóa bỏ chế độ độc tài toàn trị của đảng cộng sản Việt Nam trên đất nước này. (Thực tế anh là Hồ Hữu Hoàng, có thể VKS lầm khi đánh máy). Nội dung của bài viết này tôi có đề cập tới trường hợp của một cựu chiến binh, thương binh bị ngược đãi, cắt chế độ… Sự việc này có thật! Sao tòa án không chất vấn anh Hồ Hữu Hoàng về những gì tôi đã đưa ra? Và như vậy không thể xem đây là “nội dung chống nhà nước CHXHCNVN”             3. Bài: “Chuyện buồn muôn thủa của người dân Việt dưới chế độ cộng sản” Theo cáo trạng của VKSND tỉnh Nghệ An bài này có nội dung “đòi xóa bỏ đảng cộng sản”. Trích đoạn viết “Tôi thẳng thắn cảnh báo với nhà cầm quyền cộng sản rằng: Nếu quý vị tiếp tục lừa dối nhân dân, thì một thời gian không xa cả dân tộc Việt Nam sẽ đứng lên lật đổ chế độ lừa dân phản nước mà quý vị đang bám vào duy trì chúng để đào bới, ăn cướp của nhân dân” Đây là nội dung sự việc có thật xãy ra tại quê tôi. Tôi chỉ nhân chuyện này cảnh báo cho đảng cộng sản Việt Nam biệt và tỉnh ngộ! Không thể coi đây là có “nội dung tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN”             4- Việc tôi giúp chị Hồ Thị Bích Khương lập địa chỉ email, sửa lỗi chính tả một số bài viết của chị hay cho chị mượn email của tôi để gửi thư thì hoàn toàn không thể xem là hành vi phạm tội. Vì giữa tôi và chị Hồ Thị Bích Khương có mối quan hệ (mục sư và tín đồ), việc thầy trò giúp đỡ nhau trong cuộc sống là hoàn toàn trong sáng, đây là một hành động dân sự bình thường được luật pháp bảo vệ.             Ấy vậy nhưng trong phần kết luận của bản cáo trang ghi: “Trong thời gian từ năm 2009 đến đầu năm 2011, Hồ Thị Bích Khương và Nguyễn Trung Tôn đã có nhiều bài viết có nội dung chống nhà nước CHXHCNVN, phỉ báng chính quyền nhân dân và chế độ chính trị, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam để thành lập một nên chính trị mới đa nguyên đa đảng. Như vậy có đủ cơ sở xác định bị can Hồ Thị Bích Khương và Nguyễn Trung Tôn có lý lịch dượi đây đã phạm tội” Tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.”             Kính thưa các quý cơ quan: Bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng lời bất hủ về quyền con được trích trong Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Nội dung này đã được cụ thể hóa trong hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như nước CHXHCNVN ngày nay.             Vậy việc làm của tôi chỉ là thể hiện quyền mưu cầu hạnh phúc trên ngay đất nước mà chính tổ tiên cha ông tôi và nhiều người dân khác đã hy sinh để gây dựng nên.             Hơn nữa cho tới ngày hôm nay chưa có một văn bản pháp quy nào có khái niệm cụ thể về một nhà nước XHCN là gì? Ngay cả nhà nước cộng sản Trung Hoa là đàn anh của cộng sản Việt Nam mà còn chưa dám xưng là nhà nước XHCN. Họ cho rằng phải mất khoảng 300 năm nữa nhà nước Trung Hoa mới có thể xây dựng thành công nhà nước XHCN. Vậy thì ở Việt Nam chưa thể nào có một nhà nước XHCN thì làm sao lại quy chụp cho chúng tôi chống lại một chế độ không thực hữu? Việc cảnh tỉnh đảng cộng sản Việt Nam để đảng có thể nhận thấy những sai phạm mà chuyển mình, thay đổi cho phù hợp với lòng dân là một việc làm và thái độ tốt. Không thể coi đây là hành vi chống phá nhà nước CHXHCNVN. Hơn nữa Theo điều 2 của Hiến pháp thì “Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước của dân do dân và vì dân.” Đảng cộng sản Việt Nam chỉ là một thiểu số trong đại gia đình nhân dân Việt Nam, vì vậy việc làm của tôi chỉ là nhắc nhở đảng cộng sản cần làm tốt hơn trong vai trò làm đầy tớ phục vụ nhân dân. Việc tôi cổ súy đa nguyên đa đảng không thể xem là hành vi phạm tội, vì nhà nước VNDCCH nay là CHXHCNVN vốn dĩ là nhà nước đa đảng.             Ý kiến của tôi chỉ bày tỏ thái độ và tâm nguyện của một người dân trong một quốc gia, để đảm bảo tự do và mưu cầu hạnh phúc. Đúng với tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Đúng với quy định của khoản 2 điều 19 Công ước quốc tế về những Quyền dân sự và chính trị năm 1966, Việt Nam tham gia năm 1982: “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền nay bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.” Chẳng lẽ khi xét xử chúng tôi, tòa án đã không nghiên cứu các quy định của pháp luật và công ước quốc tế? Tự lấy quan điểm của riêng một nhóm người nào đó để áp đặt tội danh cho tôi, bất chấp những quy định của pháp luật và công ước quốc tế như vậy, thế mà ông Hoàng Doãn Đức, phó chánh tòa lại cho là khách quan, chính xác, công bằng sao? Nếu những việc làm trên của tôi là “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN” thì Ông Trương Tấn Sang nói: “Tham nhũng đang là một vấn nạn nghiêm trọng, ban đầu chỉ là một bộ phận, sau đó là một bộ phận không nhỏ, bây giờ có đồng chí nói là một tập đoàn!?”             Ông Trương Tấn Sang dùng lối nói ẩn dụ giàu hình ảnh, tạo ấn tượng rất mạnh: “Trước đây chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh, nay thì có nhiều con sâu lắm! Nghe mà thấy xấu hổ! Không nhẽ cứ để hoài như vậy? Mai kia người ta nói bầy sâu, tất cả là sâu hết thì đâu có được? Một con sâu đã nguy, một bầy sâu là chết cái đất nước này!” (Phát biểu với cử tri thành phố Hồ Chí Minh 7-5-2012). Nội dung này được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng toàn quốc. Chẳng lẽ cũng “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN” sao?             III- Những phi lý trong một phiên tòa được gọi là : “Khách quan”.             1- Tòa án không có tính độc lập trong xét xử.             Thưa các quý cơ quan: Theo bản cáo trạng của VKSND tỉnh Nghệ An thì tôi bị truy tố về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN”             Vậy tôi xin hỏi: như vậy có phải tôi là bị cáo còn bị hại chính là “Nhà nước CHXHCNVN” Vậy sao trong cả hai phiên xử đều không có ai đại diện cho bị hại tới dự phiên tòa với tư cách bị hại? Mức độ thiệt hại do tôi gây ra cho bị hại là bao nhiêu? Bằng chứng của những thiệt hại ấy là gì? Khi xét xử Chủ tọa phiên tòa đã nhân danh “nhà nước CHXHCNVN” để xét xử và tuyên án. Như vậy có phải các ông chủ tọa của cả hai phiên xử đều đã nhân danh bị hại để tuyên xử bị cáo không? Khi mà bị hại nắm trong tay tất cả quyền lực, các thành phần tiến hành tố tụng toàn là đảng viên đảng cộng sản, họ thuộc nhóm đối tượng bị tôi phê phán trong các bài viết của mình, thì làm sao gọi là khách quan? Phiên tòa được thông báo xử công khai nhưng khi xét xử lại không cho dân chúng vào tham dự.             Đây không thể gọi là một phiên tòa khách quan được! Vì quyền lực, số đông đều nằm trong tay “Bị hại”!             2- Tiêu hủy bất hợp pháp những tài sản không phải là vật chứng.             Cơ quan công an huyện Nam Đàn khi khám xét chỗ ở của gia đình tôi, đã thu giữ của gia đình: 10 đầu tài liệu, 223 đĩa DVD, VCD, CD các loại, một bộ máy vi tính, một máy in. Khi bắt tôi tại Nam Đàn, thu của tôi 1 máy ảnh, một USB và 1 DCom 3G. Qua quá trình điều tra không chứng minh được những tài sản trên là vật chứng. Cả 3 bài viết mà tòa đưa ra kết án tôi đều lấy xuống từ email, mở bằng máy tính của cơ quan điều tra. Như vậy theo đúng nguyên tắc, Tòa phải trả lại số tài sản trên cho tôi và gia đình. Nhưng đằng này tòa ngang nhiên tuyên bố tiêu hủy. Tại sao ông Hoàng Doãn Đức lại nói là khách quan?             Cái khách quan mà ông Đức nói tới ở đây là loại khách quan nào? Có phải quyền lực nằm trong tay ai thì sức mạnh và lẽ phải nằm trong tay kẻ đó không?             Kính thưa các quý cơ quan: Nay tôi đã ra khỏi nhà tù nhỏ để bước vào nhà tù lớn tại Việt Nam. Vì tình hình sức khỏe không được tốt nên cho tới hôm nay tôi mới viết thư này gửi tới quý các cơ quan đề nghị xem xét lại nội dung thư trả lời của ông Hoàng Doãn Đức, Phó chánh tòa tối cao đối với tôi. Đề nghị các quy cơ quan trả lời kháng thư này của tôi và sớm tuyên bố tôi vô tội. Vì ngay từ đầu, tiến trình bắt giữ và truy tố tôi đã hoàn toàn sai trái. Giờ đây tiếp tục áp dụng quản chế tôi tại địa phương chỉ vì quan điểm chính kiến. Một chính quyền tự mệnh danh là “của dân do dân và vì dân” lại có những hành xử như vậy, làm sao xứng đáng ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp quốc?             Đảng và nhà nước Việt Nam luôn khẳng định trước quốc tế và người dân rằng ở Việt Nam không có ai bị bắt giữ vì lý do chính trị; trên thực tế thì lại có rất nhiều người phải ở tù trong trường hợp tương tự như tôi. Vào ngày 3-3-2013 Trong lá đơn của tôi xin đi thăm gặp chị Hồ Thị Bích Khương, trưởng công an xã Quảng Yên, người trực tiếp được giao nhiệm vụ quản chế tôi đã khẳng định tôi từng là một tù nhân chính trị khi xác nhận vào đơn như sau : “Xác nhận: Anh Nguyễn Trung Tôn SN 1971 hiện đang thực hiện thời gian quản chế tại địa phương (nhân thân bị phạt tù chính trị). Tại địa phương anh Tôn chấp hành bình thường”. Ông Lê Quang Kỳ ký tên đóng dấu khảng khái khẳng định tôi là một tù nhân chính trị. Là một công an xã bình thường ông Lê Quang Kỳ còn nhận ra điều này, vậy mà ở vị trí một phó chánh tòa ông Hoàng Doãn Đức lại không biết sao?             Cuối cùng một lần nữa tôi đề nghị UBTV quốc hội, VKSND tối cao, TAND tối cao có hình thức giải quyết trả lời rõ ràng cho tôi về những những vi phạm của các cơ quan đã tham gia trong quá trình tố tụng và xét xử tôi, trả lại sự công bằng cho tôi. Để đảm bảo uy tín của nhà nước Việt Nam trước cộng đồng quốc tế.             Xin cảm ơn!             Thanh Hóa ngày 22 tháng  04 năm 2013             Nguyễn Trung Tôn  
......

Một Số Thiển Ý Cần Chia Xẻ

Có lẽ tôi dành quá nhiều sự quan tâm và giấy mực cho cuộc chuyển hóa Dân chủ ở Miến Điện. Nhưng rõ ràng đó là một hình mẫu mà những người Việt Nam tranh đấu cho Dân chủ phải lưu tâm. Bởi, nếu thành công của họ sẽ cổ vũ chúng ta, thì những khó khăn hiện tại sẽ làm nản lòng không ít người quan tâm. Ngày 14 tháng 3 vừa qua, bà Aung San Suu Kyi đã xuất hiện tại mỏ đồng Monywa và đã phải đối diện với sự giận dữ của người dân địa phương, khi bà đến khuyên họ chấm dứt biểu tình chống dự án khai thác đồng liên doanh với Trung Quốc này, vì theo bà, điều đó sẽ làm tổn hại nền kinh tế quốc gia. Thứ nữa, đến nay, mâu thuẫn giữa người Phật giáo đa số và người Hồi giáo thiểu số vẫn chưa có cách giải quyết, những nhóm sắc tộc ở vùng biên giới- thân Trung cộng vẫn giữ lập trường chống đối chính quyền Miến Điện và cũng không có quan hệ tốt với bà Suu Kyi. Những khó khăn đó khiến không ít người kỳ vọng vào bà Suky, vào cuộc chuyển hóa ở Miến Điện cảm thấy hụt hẫng. Có nhiều nguồn dư luận cho là bà có xu hướng đi gần lại với giới quân phiệt, thiếu khả năng chính trị, thiếu kinh nghiệm nghị trường… Nhiều người còn cho là giải pháp kinh tế nên đi trước giải pháp chính trị để đảm bảo thành công cho nền dân chủ, rằng Dân chủ quá sớm cũng không phải là tốt. Tôi e rằng, một số người còn lấy những khó khăn trong bối cảnh chính trị tại Miến Điện hiện nay để chứng minh rằng: những người dân chủ đối kháng với chính quyền độc tài cũng không thể giải quyết khó khăn cho quốc gia, đứng một phía để chỉ trích luôn dễ dàng hơn làm người trong cuộc… Đứng trước những phân tích có lợi cho các chính quyền độc tài đó, cá nhân tôi có một vài thiển ý sau: 1. Thứ nhất, liên quan đến câu chuyện thỏa hiệp. Mong muốn một cuộc chuyển hóa ôn hòa, không đổ máu luôn là một điều đáng trân trọng; nhưng một sự thỏa hiệp với chính quyền độc tài bỏ qua Công lý (vẫn đảm bảo địa vị lãnh đạo, tài sản, cũng như không truy tố các lãnh đạo độc tài) luôn là một quyết định đầy thách thức, sẽ gây chia rẽ lớn trong hàng ngũ những người đấu tranh đòi Dân chủ và làm tổn thương niềm tin vào lẽ Công bằng. Những tội ác của các chính quyền độc tài có thể được một phe nhóm thỏa hiệp bỏ qua, nhưng điều đó không có nghĩa là nó cũng được những nạn nhân và dư luận dân chúng nói chung khoan thứ. Những bất công đã ăn sâu trong xã hội không thể nói gạt sang một bên là được. Trong trường hợp Miến Điện, khi chấp nhận đối thoại với chính quyền độc tài và thỏa hiệp để trở thành Nghị sĩ, bà Suu Kyi và đảng của bà đã tự đẩy mình ra xa khỏi những nhóm đấu tranh đối lập khác và những nạn nhân của chế độ. Ở đó, chỉ có nhóm của bà từ vị trí đối kháng trở nên những người đồng sự với chính quyền, còn nhiều phe phái và nhiều người dân thường khác vẫn chưa tìm thấy lý do để tin tưởng và hợp tác với chính quyền. Hơn nữa, sau nhiều năm bị quản thúc và đàn áp, thiếu trải nghiệm trên nghị trường, bà và đảng NLD sẽ phải xoay xở khó khăn trong môi trường chính trị ngột ngạt vì ưu thế nghiêng về tập đoàn quân phiệt. Bà đã trao cho họ thứ mà họ cần, đó là tính chính đáng; họ trao lại cho đảng của bà những chiếc ghế nghị sĩ bị siết chặt bởi sức ép tương quan lực lượng. Càng đi gần với chính quyền, bà càng xa lòng dân – thứ quý giá mà không phải lãnh đạo chính trị nào cũng có được. Đó là một cái giá không rẻ và người Việt chúng ta phải coi chừng! 2. Thứ hai, liên quan đến những chỉ trích về biểu hiện của bà Suu Kyi. Nền kinh tế và cả xã hội Miến Điện lụn bại và chưa thoát ra khỏi sự kềm tỏa của Trung Quốc, sau nhiều năm dưới chế độ độc tài. Họ đã và sẽ còn vô số nan đề cần giải quyết. Những vấn đề đó, hoặc do đặc thù của xã hội Miến Điện, hoặc do chính quyền độc tài tạo ra từ lâu, nay họ trao lại cho bà. Họ giải quyết không được, không sao, nhưng nếu bà vướng vào những rắc rối ấy, thì phe quân sự đã thành công trong việc làm giảm uy tín của bà. Bà trở thành bia đỡ đạn thay cho họ. Họ có thể vô hiệu hóa bà một cách rất… lịch sự. Qua câu chuyện này, trước khi có những nản lòng không cần thiết, chúng ta nên cùng nhau suy nghiệm lại. Thực ra, Dân chủ là một quá trình, không phải là một phép mầu có khả năng tháo gỡ mọi vấn nạn trong một sớm một chiều. Chúng ta nên tự hỏi, chúng ta đòi hỏi Tự do Dân chủ vì điều gì? Tất nhiên không phải là nhằm thủ đắc một cỗ máy sản xuất ra những chính trị gia kiệt xuất. Chúng ta đấu tranh vì một niềm tin rằng, chế độ dân chủ là chế độ khả dĩ nhất cho đến nay, giải quyết các vấn đề quốc gia dựa trên giá trị tự do, sự đồng thuận và lòng khoan dung. Chế độ Dân chủ không nhất thiết tạo nên những anh hùng trong chính trị, mà tạo ra cơ hội vận động nguồn năng lực trí tuệ quốc gia một cách sâu rộng nhất. Vì thế, dẫu cho quả thực bà Suu Kyi hay các chính trị gia dân chủ trong tương lai của Việt Nam thiếu một số kỹ năng chính trị cần thiết, điều đó cũng không làm thối chuyển niềm tin của chúng ta vào Dân chủ. Thí dụ, những năm dưới thời Lech Walesa và nhiều năm sau đó, Ba Lan đã gặp phải nhiều khó khăn kinh tế- chính trị, nhưng hãy nhìn Ba Lan ngày nay xem! Dân chủ có thể không ngay tức khắc đưa một nhóm lãnh đạo tài giỏi lên nắm quyền, nhưng nó sẽ mở ra cánh cửa lớn để con cháu chúng ta chọn được những nhà lãnh đạo như thế lên điều hành đất nước trong tự do và thượng tôn pháp luật. Đó mới là phép mầu thực sự của Dân chủ. Mọi khởi đầu luôn khó khăn, nhưng không bắt đầu, chúng ta sẽ không có cơ hội nào cả. 3. Thứ ba, liên quan đến các mối bất ổn xã hội. Các sắc tộc thiểu số ở vùng rừng núi Miến Điện giáp giới Trung Quốc đến nay vẫn mâu thuẫn với chính quyền Miến Điện, cũng không muốn có mối giao hảo với NLD và gần đây xung đột đã leo thang. Có ai dám đảm bảo, ở đây không có “bàn tay đen” của Trung Quốc nhúng vào? Và sẽ rất chủ quan nếu chúng ta nghĩ rằng, Việt Nam sẽ không vướng vào tình trạng tương tự. Cũng như Miến Điện, Việt Nam có đường biên giới dài với Trung Quốc. Trung Cộng không chỉ khống chế, mua chuộc lãnh đạo độc tài ở Trung ương, họ còn cài cắm người ở những khu vực biên giới và mua chuộc các sắc dân vùng biên giới. Dưới chế độ độc tài, mâu thuẫn giữa các sắc dân thiểu số với chính quyền đa số được kiềm chế với sắp xếp ngầm từ Trung Nam Hải, các mâu thuẫn chỉ hiện diện đủ để được dùng như lá bài cho Trung Quốc gây sức ép, tạo sự lệ thuộc lên các chính quyền Trung ương tay sai. Nhưng khi quá trình chuyển tiếp dân chủ xảy ra, các mâu thuẫn đó sẽ được khuếch trương và được bật đèn xanh cho bùng đổ nhằm phá hoại nỗ lực xây dựng Dân chủ. Trung Quốc luôn tỏ ra là bậc thầy trong việc vận dụng chiêu bài này trong quan hệ quốc tế, mà sự điên cuồng của Bắc Triều Tiên là một ví dụ đặc sắc. Bởi vậy, sẽ không mấy ngạc nhiên nếu xã hội Việt Nam im ỉm dưới chế độ độc tài, nhưng sẽ nổi dậy sùng sục từ mọi phía khi quá trình chuyển tiếp bắt đầu. Đó là vận mệnh của các tiểu quốc nằm cạnh gã hàng xóm khổng lồ bất hảo. 4. Thứ tư, liên quan đến chỉ trích rằng bà Suu Kyi đi gần lại với giới quân phiệt. Như một ai đó đã nói đại loại: không có nền Dân chủ không đảng phái. Điều đó cho thấy vai trò của các đảng phái chính trị trong việc tạo ra một không gian cạnh tranh cầu thị trong chính trị dân chủ. Nhưng chỉ có đảng phái chính trị thôi chưa đủ, bởi nếu xã hội dân sự (XHDS) không trưởng thành, chính trường sẽ chỉ là nơi ngã giá, chia phần của các đảng phái, và tự do của người dân chỉ là bargaining chip giữa họ. Người ta sẽ rất khó khăn để tập hợp lại, chia sẻ và cùng làm việc trong tinh thần vô vị lợi như trong các NGOs, nhưng họ rất dễ kết hợp lại thành phe phái để giành quyền lãnh đạo chính trị. Vì thế, người Việt không sợ Việt Nam tương lai thiếu đảng phái, chỉ sợ xã hội dân sự không đủ mạnh để giám sát các chính trị gia. Nhìn vào trường hợp Miến Điện, với khát khao và sự đấu tranh cho dân chủ, họ đã có một cuộc chuyển hóa ôn hòa. Nhưng với cuộc chuyển hóa đó, nhà lãnh đạo đấu tranh dân chủ nay đã trở thành chính trị gia. Nếu trước đó, bà Suu Kyi đại diện cho lực lượng đối lập và các thành phần xã hội phản đối chính quyền; thì nay khi đã trở thành một chính trị gia, theo logic dân chủ, chính bà cũng cần bị áp lực và giám sát. Nếu chỉ có đảng phái đối lập mà không có XHDS thì khi quá trình chuyển tiếp xảy ra, một khoảng trống lớn sẽ xuất hiện, sẽ không còn lực lượng nào đối trọng với quyền lực chính trị. Bởi vậy, có thể nói, không có XHDS sẽ không có dân chủ thực sự, cho dù có đa đảng và bầu cử tự do. Miến Điện đang trong quá trình chuyển tiếp, người Miến Điện phải nỗ lực xây dựng khối dân sự để tiến tới một nền dân chủ đúng nghĩa, vì chính trị luôn tiềm ẩn nguy cơ phản bội. Và đó cũng là bài học cho Việt Nam. Thiển nghĩ, sự độc lập nhất định của các nhà vận động dân sự khỏi sự khuynh loát của các phe phái chính trị là cực kỳ cần thiết trong tình hình Việt Nam hiện nay. Tôi không tin rằng giải pháp kinh tế đi trước cải cách chính trị (trong một thời gian không xác định) là tốt. Hãy nhìn vào một thí dụ điển hình: Trung Quốc. Là một quốc gia thành công (?!) trong giải pháp kinh tế của mình, Trung Quốc vẫn chưa cho thấy một triển vọng dân chủ khả quan nào cả. Bỏ qua mọi ngụy biện có lợi cho các chính quyền độc tài, Dân chủ không mang tới bất ổn mà mang tới khả năng giải quyết bất ổn một cách hài hòa, dù trước mắt nó không thể ngay lập tức xóa bỏ mọi di sản tồi dở chồng chất từ lịch sử và từ chế độ độc tài. Dân chủ cũng không phải là việc trao quyền lực từ tay nhóm người này sang nhóm người khác mà là sự vận hành một cơ chế thông minh, nhân bản, tự do và khoan dung nhất trong lịch sử nhân loại. Những rắc rối đang xảy ra ở Miến Điện càng khiến chúng ta thận trọng hơn khi nghĩ đến giải pháp thỏa hiệp và chúng ta càng nỗ lực hơn để có những chuẩn bị thích hợp cho công cuộc dân chủ hóa của mình. Một sự khởi động về phía dân chủ càng sớm, khả năng tận dụng cơ hội của đất nước sẽ càng lớn. Huỳnh Thục Vy Tam Kỳ tháng 4 năm 2013  http://chuacuuthenews.wordpress.com/2013/04/21/mot-so-thien-y-can-chia-se/#more-24643
......

ĐƠN GỬI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ VÀ THÔNG BÁO ĐẾN TOÀN THỂ CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI YÊU CHUỘNG HÒA BÌNH

Việt Nam Ngày 11-4-2013 Kính gửi: Hội đồng nhân quyền (Liên Hợp Quốc)  Đồng kính gửi:  -Uỷ ban liên chính phủ về nhân quyền (Asian)  -Chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ  -Chính phủ và quốc hội cộng đồng Châu Âu  -Chính phủ và quốc hội Anh Quốc  -Chính phủ và quốc hội Uc Đại Lợi  -Chính phủ và Quốc Hội Gia -Nã- Đại  -Chính phủ và quốc hội Tân Tây Lan  -Human Ringhts watch ( Hoa Kỳ )  -Hiệp Hội Quốc Tế Nhân Quyền Đức quốc  -Uỷ ban Nhân Quyền Việt Nam  -Các tổ chức Quốc Tế khác quan tâm và liên quan đến Nhân Quyền tại Việt Nam  Trích yếu về việc công an Việt Nam tấn công- hành hung- Bắt cóc- cưỡng đoạt cướp tài sản riêng của công dân Việt Nam  Tên tôi là: Bùi Thị Minh Hằng Giới tính: Nữ  Sinh ngày 20-07-1964  Quốc Tịch Việt Nam  Số điện thoại:+84 913 784 415  Địa chỉ email: linhhonchunhat@gmail.com  Kính thưa các quý vị!  Việt Nam là một thành viên của liên hợp quốc , do đó nếu nhà nước Việt Nam không đảm bảo an toàn cho công dân Việt Nam thì chúng tôi cần thiết phải lên tiếng thông báo và kêu gọi đến liên hợp quốc. Đề nghị các quý vị cần tiến hành các biện pháp nhằm buộc nhà nước cọng sản Việt Nam phải thực thi trách nhiệm đó . Trong trường hợp Việt Nam từ chối hay lẩn tránh trách nhiệm thì thiết nghĩ Liên hợp Quốc cần thiết phải đưa Việt Nam ra cộng đồng Quốc tế và thực thi áp dụng các biện pháp chế tài. Liên tiếp trong thời gian dài gần 2 năm qua. Sau một loạt hành vi bắt cóc giam cầm trái luật không đưa ra xét xử đối với tôi : Bùi Thị Minh Hằng.  Trả tôi về dưới sức ép đấu tranh của đồng bào trong nước và cộng đồng quốc tế. Nhưng công an Việt Nam liên tục gây sức ép, khủng bố tinh thần. Thậm chí bắt cóc và cưỡng chiếm tài sản của tôi. Điển hình là vụ bắt cóc tôi lúc 5h sáng ngày 1-7-2012 tại Ga Sài Gòn. Họ cưỡng bức tôi lên xe của họ, trong đó có ông Thường an ninh Vũng Tàu và 4 công an thường phục khác...chở tôi đi lung tung trên đường 6 tiếng đồng hồ sau đó thả tôi xuống trước cửa nhà trong tình cảnh xộc xệch vì bị xô đẩy. Họ tổ chức quay phim chụp hình tôi không rõ với mục đích gì. Trong khi đó họ gọi điện chỉ đạo một nhóm người khác trên Sài Gòn vào khách sạn tôi thuê ở để đi khám chữa bệnh đã 3 ngày tại địa chỉ :  Nhà số 27 đường G phường 4 - Quận 4. Và tại đó họ tự tiện lục lọi lấy đi toàn bộ tài sản của tôi gồm máy tính laptop và rất nhiều tài sản cá nhân khác có giá trị , cùng hộ chiếu, giấy tờ tùy thân của tôi và các con tôi. Cho đến nay tôi đã đi đòi khắp nơi nhưng họ không trả lại những thứ họ cưỡng chiếm bất hợp pháp ấy  Tiếp đến ngày 24-9-2012 khi tôi lên Sài Gòn để tham dự phiên tòa xử những nhà báo tự do thì tiếp tục bị công an Sài Gòn đàn áp, tấn công, sau đó lại vẫn là ông Thường an ninh Vũng Tàu đẩy tôi lên xe và bắt tôi về ngược Vũng Tàu. Tại Vũng Tàu từ khi tôi được trả tự do nhưng tôi liên tục bị người của lực lượng công an , an ninh Việt Nam khủng bố, theo dõi, có hiện tượng người lạ mặt đổ xăng giữa đêm khuya vào nhà tôi. Đổ chất thải dơ bẩn nhiều lần . Xong dù tôi làm đơn trình baó và đề nghị điều tra nhưng công an đã không làm. Có nhiều bằng chứng cho thấy chính an ninh , công an, thực hiện những việc này và đó là lý do tôi cho rằng họ cố tình không điều tra những tố cáo của tôi. Gần đây tôi trở ra Hà Nội để thực hiện thúc đẩy việc thưa kiện của tôi đối với quan chức chính quyền Hà Nội mà cụ thể là vụ kiện chủ tịch thành phố Hà Nội Nguyễn thế Thảo vì đã ký quyết định oan sai bỏ tù tôi 5 tháng không qua xét xử . Gây nhiều hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống gia đình tôi. Cụ thể là căn nhà , tài sản duy nhất có giá trị của mẹ con tôi sau gần hết một đời gầy dựng đang có nguy cơ bị ngân hàng tịch thu vì công việc làm ăn bị gián đoạn , thất thoát trong thời gian nhà cầm quyền giam cầm tôi trái phép. Nhưng đã 1 năm qua tôi nộp đơn và thúc giục mà tòa án Hà nội mới đây ngày 8-4-2013 mới thông báo tôi đến để nọp án phí xét xử, Cũng trong ngày này tôi bị 1 nhóm người lạ mặt theo dõi, tấn công và chỉ sau khi tôi hô Cướp, 1 người trong bọn họ bị vây bắt và khi đó họ mới xác nhận với những người dân bắt họ rằng họ là an ninh Việt Nam. Ngay ngày hôm sau 9-4-2013 thì họ tiếp tục cho người đến tận cơ quan Nguyễn Chí Đức, một người quen biết từng đi biểu tình chống Trung Quốc cùng tôi từ 2011. Người thanh niên từng bị đại úy công an tên Minh đạp vào mặt khi anh này bị đàn áp, bắt bớ. Và tại cổng cơ quan , người trong bọn họ trình thẻ cho bảo vệ biết anh ta là công an Hà Nội. Sau đó nhóm người này đã tấn công Nguyễn Chí Đức khiến anh ta mang thương tích rất nặng hiện đang còn nằm điều trị (Thông tin và hình ảnh tại các trang mạng và nhiều hãng thông tấn đã đưa). Theo tuyên bố Quốc Tế về nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về dân sự 1966 mà Việt Nam cam kết tham gia về các quyền con người thì ở Việt Nam hoàn toàn họ không tôn trọng những cam kết này với ngay chính công dân của họ. Nhà cầm quyền ngang nhiên chà đạp lên những quyền con người cơ bản nhất của người dân. Lãnh đạo có quyền hành thì cố tình làm sai luật pháp, bắt người tùy tiện và riêng trường hợp công an ,an ninh lạm quyền tấn công người dân , thậm chí gây chết người không còn là chuyện cá biệt mà càng ngày càng phổ biến, gia tăng một cách bất chấp luật pháp. Khắp nơi công an vi phạm pháp luật khi thực thi nhiệm vụ và thậm chí họ trở thành những kẻ cướp , côn đồ như những gì họ đã và đang làm với tôi và rất nhiều người. Việc họ nhằm vào tôi chắc chắn không dừng lại tại đây. Vì theo tôi nghĩ rằng họ có thể cướp đi tính mạng và an ninh thân thể tôi khi tôi vẫn quyết tâm theo đuổi vụ kiện để đòi công lý và đưa mọi việc ra ánh sáng. Lúc này tôi thật sự lo ngại cho tính mạng tôi trước tình hình khủng bố trắng trợn của lực lượng công an của nhà cầm quyền sai phạm vì muốn bưng bít những điều đó họ có thể ra tay trừ khử tôi.  Thưa các Qúy vị!  Công dân của một nước là thành viên liên hợp quốc thì đương nhiên ngoài việc được hưởng quyền của nước sở tại chúng tôi cũng được hưởng sự bảo vệ của chính các tổ chức thuộc liên hợp quốc. Vì vậy tôi viết đơn này kêu cứu và tha thiết đề nghị các cơ quan chức năng thuộc liên hợp quốc cần có biện pháp cấp thiết ngăn chặn mọi hành động chống lại công dân, chống lại nhân loại của nhà cầm quyền Việt Nam. Nhà cầm quyền Việt Nam phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cộng đồng Quốc Tế về việc không có biện pháp bảo vệ cho chính công dân của mình. Kinh nghiệm và bài học xương máu trên thế giới cho thấy. Các vụ bạo động đẫm máu bắt nguồn từ những sự việc bất công trong xã hội  Đây cũng là lời cảnh báo cho những nhà lãnh đạo tại Việt Nam. Trân trọng khẩn báo và kính chào!  Công dân Việt Nam:  Bùi Thị Minh Hằng *************************** Letter to all international organizations and to all international communities that support peace. Vietnam, April 11, 2013. To: The Human Rights Committee of The United Nations. In regards to the acts of the Vietnamese police in attacking, beating, kidnapping, illegally seizing properties of the Vietnamese citizen. My name: Bui Thi Minh Hang Sex: Female DOB: 07/20/1964 . Country of citizenship: Vietnam . Phone: :+84 913 784 415  Email: linhhonchunhat@gmail.com  Dear Sir/Madam, Vietnam is a member of the United Nations . If Vietnam government cannot provide safety to its citizens, then it is necessary for us to notify and call on the United Nations. We urge you to use all necessary means to pressure the Vietnamese communist government to carry out their responsibilities. In case Vietnam government refuses or avoids to do so, then perhaps the United Nations can bring Vietnam government in front of international communities and apply all necessary sanctions against it. The harassment has been continuously the past two years, a sequel after a series of arresting, kidnapping, and putting me, Bui Thi Minh Hang, in jail without trial. Under the pressure of the Vietnamese people inside the country and the international communities, they were forced to release me. However, the Vietnamese police continued to harass and terrorize me mentally, even kidnapped me and seized my personal belongings. For example, they kidnapped me at 5 AM on July 1st, 2012 at Saigon Train Station. They physically forced me into their vehicle, guarded by a Vung Tau security agent named Thuong and four other plain clothed policemen. They drove me around and around on the streets for six hours, then dropped me off in front of my house; my clothes were messed up due to the struggles. They videotapped and took pictures of me with unknown intentions. Meanwhiles, they called on the phone to command a group of other people in Saigon (I overheard their phone conversation) to to break into my hotel room (at 27, G Street, Area 4, District 4, Saigon) where I’d spent three days for medical treatment. I later found out that they had stolen nearly all of my valuables including a laptop, a passport, personal IDs (mine and my children’s). I have asked these to be returned but to no avail.  On September 24th, 2012, I went to Saigon to attend the trials of the freelance journalists. Again, I was attacked by security people – one of whom was Mr Thuong mentioned above. They took me by force and released me in Vung Tau. Since then, they continuously monitored and terrorized me. Unknown men have thrown petrol and foul toxic wastes at my house in the middle of the night. I have formally reported these incidents to the local police but they did nothing. I have lots of proofs to show that the state security agents committed these appalling acts. Recently I returned to Hanoi to press for actions on my appeal against the government officials – one of whom is chairman of Hanoi, Mr Nguyen The Thao, who ordered my 5-month detention without trial. This detention has affected me and my family tremendously. It interrupted my job so I could not keep up with mortgage payments. Now my family home, which we had spent our whole life to build it, is facing the danger of being reposessed by the bank. After having waited for the whole year, finally, on April 8th, 2013, Hanoi Court asked me to come and pay a fee so that the trial may proceed. On the trip to get there, I was followed and attacked by unknown men. Upon hearing me screaming ‘robbers, help!’ people came to my aid and caught one of the men who then identified himself as a state security agent. A friend of mine, Mr Nguyen Chi Duc, had participated in some anti-China-invasion-scheme demonstrations with me since 2011. In one of those events, he was kicked in the face by a police captain named Minh. Recently, the security men went to Duc’s office and showed their ID cards to the guards to gain entry. They then attacked Duc and caused him to suffer severe injuries. Duc is still being treated in hospital. This incident has been widely reported by international press. The current Vietnamese government does not respect the International Declaration of Human Rights (1948) and the International Covenant on Civil and Political Rights (1966) of which Vietnam is a signatory. Vietnam government is trampling on the basic rights of the Vietnamese citizens. Officials deliberately abuse their power; police and security agents attack and arrest people at will. Deaths at the hand of these people are becoming more common as the state of lawlessness prevails. Police are violating the laws everywhere. Their actions are becoming more criminal as they have shown in actions against me and many others. I am sure that their acts will not stop here. I fear that they will hurt and even kill me if I keep requesting justice and publicize my case. I am very concerned for my own safety while they are so blatant in their attempt to terrorize me. They may try to kill me to silence me. I believe that as a citizen of a member nation of the UN, I am entitled to UN’s protection. I hereby request that protection and call on the UN and international human rights organization to pressure the government of Vietnam to stop acting against its citizens.  I hold the government of Vietnam totally responsible for the failure to protect Vietnamese citizens, and for that, it must face the judgement of the international community.  Humanity has learned a bitter lesson from history: all bloody revolutions were ignited by social injustice. Let this be a warning to the political leaders in Vietnam.  Your sincerely,  Bui Thi Minh Hang    
......

Bình Dương có nghĩa trang dành cho người Trung Quốc

Nghĩa trang nằm trên quốc lộ 13, gần khu dân cư 434 của tỉnh Bình Dương, cách khu công nghiệp Việt Nam-Singapore chừng 6km, diện tích gần 400 hecta (rộng tương đương 50% diện tích khu dân cư 434 với hơn 50 ngàn người). Có thể nói, đây là khu nghĩa trang rộng thoáng, đẹp và yên tĩnh thuộc vào bậc nhất nhì của quốc gia. Nó nằm cách khu nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa chừng 30km theo đường chim bay. Nhưng, nghĩa trang Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tàn tạ bao nhiêu thì nó khang trang bấy nhiêu. Với hàng chục ngàn ngôi mộ nằm thẳng thớm, cỏ cây được tỉa tót sạch sẽ, tưới mát mỗi ngày, nghĩa trang được chăm sóc hết mức. Có riêng đội bảo vệ và ban quản trang cho khu nghĩa trang này. Người lạ tuyệt đối không được bước vào nghĩa trang. Nếu không có người thân (hay nói cách khác, không phải là con cháu của người Hoa) thì không được bước vào bên trong cổng nghĩa trang dù chỉ ba bước. Bên trong có quán cà phê phục vụ ban quản trang, bảo vệ, có sân tenis và có cả một đài tưởng niệm nằm bên cạnh ngôi chùa lợp mái ngói xanh kiểu Tàu để hằng ngày tụng niệm cầu siêu cho các vong hồn... Ông H., nhân viên bảo vệ nghĩa trang cho biết: “Nghĩa trang này rất rộng, theo chỗ tôi thấy, nó trên 470 hecta chứ không phải là 400 như con số được biết. Mộ trong này rất khang trang, nó dành riêng cho cộng đồng người Hoa, không có bất kỳ ngôi mộ nào của người Việt ở trong này, bạn có thể ví von đây là lãnh sự quán cõi âm Trung Quốc tại Việt Nam.” Ðài tưởng niệm trong nghĩa trang. (Hình: Hoàng Hạc/Người Việt) “Tôi dám đoan chắc rằng không có cái nghĩa trang nào rộng và thoáng mát hơn nghĩa trang này, nó tồn tại được hơn trăm năm nay, càng lúc càng mở rộng, có nhiều cổ thụ xà cừ đã hơn một trăm năm nay. Ban quản trang ở đây đã làm qua mấy đời, tiếp tục cha truyền con nối vào đây làm việc, mức lương cũng hậu hĩ, mỗi tháng kiếm được cả chục triệu đồng mỗi người...” Một ông khác tên T., làm trong ban quản trang cho biết thêm: “An ninh ở đây được bảo vệ tuyệt đối, kín cổng cao tường, từ lúc tôi làm việc đến giờ, chưa có vụ mất trộm nào...” Chúng tôi hỏi ông T. thử trong nghĩa trang toàn mồ mả, lấy gì để trộm mà phải nói là không có vụ mất trộm nào, ông T. cười sảng khoái: “Mấy ông không biết đó thôi, ở đây rất nhiều tài sản quí, người chết toàn là nhà giàu, người Hoa nữa, nên người ta chôn cất theo nhiều thứ, không ngoại trừ vàng bạc, đá quí, chỉ cần bỏ lơ một đêm, tụi trộm nó vào đây đào sạch.” “Chính vì thế, chúng tôi ở đây, từ ban quản trang cho đến bảo vệ đều là người Hoa, chỉ có người Hoa mới tự bảo vệ nhau mà thôi!” Câu nói của ông T. làm chúng tôi hơi lạnh người, vì giữa xứ sở toàn là người Việt, dù sao ông và những người cùng làm việc trong nghĩa trang cũng chưa phải là người bản xứ, nhưng cách nói chuyện của ông cho thấy ông rất đề cao người Hoa và tỏ ra khinh thị người bản xứ, đây là vấn đề cực kỳ nhạy cảm và cũng có thể nguy hiểm cho bản thân ông cũng như nhóm làm việc ở nghĩa trang nếu như người chung quanh đây nổi giận vì cách nói chuyện có tính báng bổ của ông... Cổng vào nghĩa trang, sau lưng nó là bốt gác. (Hình: Hoàng Hạc/Người Việt) Bà L., bán cà phê trong nghĩa trang cho biết: “Trong khu nghĩa trang này có chừng hai chục ngàn ngôi mộ, trong đó có chừng một nửa là mộ rất khang trang, có giá xây dựng không dưới một trăm triệu đồng, trong đó chưa kể đến đồ vật quí giá chôn kèm theo. Ðây là khu mộ vĩnh cửu của người Hoa trên đất Việt, còn dư nhiều đất lắm!” Cách nói chuyện tự tin của ba L. về “khu mộ vĩnh cửu” của người Hoa ngay tại Việt Nam khiến chúng tôi nghĩ đến vấn đề biên giới, lãnh thổ và dân tộc. Trên một nghĩa nào đó, dường như người Hoa đã có chỗ đứng quá vững trên đất Việt Nam, họ tuy không nói ra nhưng đã tự khẳng định với nhau về chủ quyền đất đai ở nơi này. Khác với những nghĩa trang của chính người anh em trong gia đình Việt Nam như hàng nhiều nghĩa trang Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị đập phá, bứng bia, đạp tượng đài và bỏ cỏ cây mọc um tùm, rễ cây lấn vào âm phần chiến sĩ...! Ngồi một lúc nữa, chúng tôi rời quán cà phê nghĩa trang, cũng xin nói thêm, để vào bên trong nghĩa trang này ngồi nói chuyện, chúng tôi tốn cả buổi tìm hiểu và làm quen với mấy bảo vệ nghĩa trang, sau đó, nhờ một người lượm ve chai, tên Hùng, người Việt, trước đây là thầy dạy võ của đội bảo vệ này dắt vào quán cà phê bên trong ngồi uống. Nhìn những người Trung Quốc ngồi rất ung dung, tự tại trong khu nghĩa trang rộng lớn của họ ngay trên đất Việt Nam, tự dưng gợi lên trong chúng tôi một mối cảm hoài về những nông dân Văn Giang, gia đình anh Ðoàn Văn Vươn và nhiều người dân nghèo Việt Nam không có đủ tiền mua đất xây mộ cũng như hàng nhiều nghĩa trang Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị đối xử rất tệ, bị mất dấu trên quê hương. Ðó có phải vì họ không phải là người Trung Quốc? Vì sao người Trung Quốc lại được biệt đãi, người chết cũng có được không gian rộng rãi, có chủ quyền hẳn hoi, trong khi người Việt với nhau lại bỗng chốc trở thành dân oan mất đất, ăn bờ ngủ bụi để vác đơn đi kiện, đến chỗ ngủ ngoài công viên cũng không được yên ổn. Thật là tội nghiệp cho người Việt Nam! Thế mới hiểu cái câu nói của ông T., bảo vệ nghĩa trang có ý nghĩa chừng nào: “Vì đây là tổng lãnh sự quán cõi âm Trung Quốc ở Việt Nam, nên nó được bảo vệ rất nghiêm ngặt!” http://www.nguoiviet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=164674&zoneid=310#.UW2-BUof6YY  
......

Phiên tòa phúc thẩm sắp tới xét xử tám nhà đấu tranh nhân quyền

Ngày 24 tháng 4 năm 2013 vào 7 giờ sáng, phiên tòa phúc thẩm sẽ diễn ra để xử các ông Hồ Đức Hòa, Thái Văn Dung, Paulus Lê Sơn, Nguyễn Xuân Anh, Trần Minh Nhật, Nguyễn Đình Cương, Hồ Văn Oanh và Nguyễn Văn Duyệt tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Các nhà đấu tranh nhân quyền nêu trên thuộc nhóm 17 nhà tranh đấu nhân quyền bị bắt trong thời gian 30 tháng 7 đến ngày 16 tháng 8  năm 2011. Họ đều là thành viên của Dòng Chúa Cứu Thế, và là những người tham gia tích cực trong việc vận động và bảo vệ những quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa tại Việt Nam. Trong số người bị bắt đã có 14 người bị tuyên những bản án từ 3 đến 13 năm tù trong một phiên tòa diễn ra vào tháng Giêng vừa qua. Họ đã bị giam giữ và bị đem ra xử theo Điều 79 và 88 Bộ luật hình sự về tội 'lật đổ chính quyền' và 'tuyên truyền chống phá nhà nước'. Ông Đặng Xuân Diệu, một trong những người bị tuyên án vào tháng Giêng năm 2013 với bản án 13 năm tù giam đã không được kháng án. Ông đã viết đơn yêu cầu điều tra lại và mở phiên xử mới, tuy nhiên ông đã bị từ chối vì đơn được nộp sau thời hạn quy định là 15 ngày. Nhà đấu tranh nhân quyền này đã bị từ khước quyền thăm viếng và không được tham khảo với luật sư, và vì vậy mà có thể ông đã không kịp nộp đơn kháng án.    Các luật sư của tám nhà đấu tranh nhân quyền cho biết các thân chủ của họ đã phải đối diện với những hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt. Các ông Paulus Lê Sơn, Trần Minh Nhật, Nguyễn Đình Cương và Hồ Văn Oanh đã bị giữ trong những phòng giam không có điện. Họ cũng chỉ được cung cấp thức ăn và nước uống giới hạn, đôi khi thực phẩm cũ thấy rõ. Paulus Lê Sơn không được uống thuốc và không có sách báo, giấy viết. Ông chỉ được có quyển Kinh Thánh sau ba ngày tuyệt thực để phản đối. Trần Minh Nhật được tin là bị một tù nhân khác hành hung cách đây hai tháng. Front Line Defenders một lần nữa kêu gọi các nhà chức trách Việt Nam hủy bỏ những bản án đối với các nhà đấu tranh nêu trên và thả họ ngay lập tức và vô điều kiện. Hồ Văn Oanh, Nguyễn Đình Cương,  Nguyễn Văn Duyệt, Nguyễn Xuân Anh, Paulus Lê Sơn, Thái Văn Dung, Hồ Đức Hòa, Trần Minh Nhật, Để biết thêm chi tiết, xin vui lòng xem bản thông cáo báo chí ngày 24 tháng 9 năm 2012, lá thư chung của Front Line Defenders và nhiều tổ chức NGO quốc tế khác đề ngày 27 tháng 8 năm 2012, và lời kêu gọi khẩn cấp của Front Line Defender ngày 14 tháng 11 năm 2011.
......

Ý thức chủ quyền: Sự sai sót lẻ lẻ tình cờ hay sự cố ý có hệ thống ?

Trên báo Pháp Luật online số ra ngày 31.3.2013 có bài viết với nhan đề: „Ý thức chủ quyền có vấn đề „ của tác giả Phạm Chu Sa đã đưa ra nhiều sự kiện được phía nhà nước CSVN cho là những sai sót lẻ tẻ trong việc in ấn một số sách tham khảo của học sinh in bản đồ Việt Nam không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc sách tập đánh vần cho học sinh chuẩn bị vào lớp 1 có in cờ Trung Quốc trước cổng trường!... Mới đây, các phóng viên văn hóa lại phát hiện hàng loạt sách dạy tiếng Anh hướng dẫn du lịch xuất bản từ năm 2005 đến nay, như: “360 độ tiếng Anh dành cho hướng dẫn viên du lịch”,“Thực hành đàm thoại tiếng Anh ngành du lịch”,“Đàm thoại tiếng Anh thực dụng cho ngành du lịch”; “Giao tiếp tiếng Anh trong dịch vụ văn hóa bảo tàng”… Mặc dù đây là những sách dạy tiếng Anh về du lịch nhưng hầu hết chỉ toàn giới thiệu đất nước, con người, lịch sử, văn hóa Trung Quốc! Câu hỏi đặt ra là tại sao sách dạy đánh vần cho học sinh lớp 1, sách dạy tiếng Anh về du lịch lại phải nhập từ Trung Quốc? Tại sao tại Hội chợ Du lịch quốc tế tại Đức vừa qua, gian hàng Việt Nam lại giới thiệu danh thắng Lạc Sơn Đại Phật của Trung Quốc? Rồi các sự kiện một resort ở Đà Nẵng ghi biển Đông là “South China Sea”… Không chỉ trong lĩnh vực văn hóa, du lịch mà sự việc còn lấn sang nhiều lĩnh vực khác, như mới đây nhất, hệ thống siêu thị Big C bán nho Việt Nam nhưng gắn cờ Trung Quốc! Nên nhớ, trước đó ít lâu, hệ thống Big C cũng đã từng bán áo phông in hình bản đồ Việt Nam không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những câu hỏi tại sao đã xâu chuỗi nhiều sự kiện khiến dư luận cho rằng đây không chỉ là sự sai sót lẻ lẻ tình cờ, mà là sự cố ý có hệ thống.
......

Trí thức lỏng

Thế hệ trên dưới 60 được xem như thế hệ bắt đầu của một nền giáo dục dưới chính thể mới. Dạo đó không ít các nhà quản lý giáo dục hể hả tuyên bố một câu xanh rờn” chúng ta tự hào khi có thể giảng dậy tiếng Việt trên bục trường đại học”. Hậu quả của sự tự mãn quá lớn này đã để lại hậu quả là hầu hết các trí thức của ta được đào tạo trong nứoc từ năm 1954 đổ lại đây đều không xử dụng thành thạo nổi một ngoại ngữ. Điều này làm ta chạnh lòng khi nghĩ đến thế hệ cha ông ta thời Pháp chỉ mới ở trình độ sơ học yếu lựơc – tương đương lớp 5 hiện nay đã có thể nói và đọc tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ. Nhưng thôi, tạm coi hiện trạng mù ngoại ngữ này như một tồn tại lịch sử của một thời ấu trĩ trong giáo dục. Còn hiện nay trong xu thế người ta thích tự hào, kiêu hãnh, thích lập kỉ lục ởnhiều lĩnh vực nên Việt nam ta trong một vài năm gần đây thường oang oang những danh từ tự phong như “cường quốc thế giới về đóng tàu” khi Vinasin chưa bị đổ bể. Rồi gần đây các nhà quản lý văn nghệ lại hào phóng hô to” Việt nam ta là cường quốc thơ “khi phong trào nhà nhà, phố phố, ngưòi ngưòi làm thơ dẫn đến tình trạng lạm phát thơ.  Trở lại lĩnh vực giáo dục. Gần đây các nhà quản lý ngành này lại kiêu hãnh khoe “Việt nam là quốc gia đứng đầu Đông nam Á về số lưộng giáo sư, tiến sĩ”. Tinh sơ sơ Việt nam ta hiện nay với gần 90 triệu dân thì đã có tới 24000 tiến sĩ , 9000 giáo sư. Nếu chia bình quân số ngưòi có học vị này so với thế giới thì quả là đáng tự hào. Nhưng đáng buồn thay sau con số hoành tráng các nhà trí thức có học vị này là cả một thực tế thê thảm về trình độ học vấn của Việt nam ta cũng như trình độ thực của các nhà trí thức nứơc ta.  Theo con số được công bố thì Việt nam có tới gần 400 trường đại học, cao đẳng thuộc các ngành nghề , các viện tương đương …nhưng tệ hại thay không có trường nào lọt vào danh sách 500 trường đại học nghiêm chỉnh và danh giá trên thế giới. Đã gọi là các nhà trí thức có học vị cỡ tiến sĩ, giáo sư thì tiêu chuẩn đầu tiên là bài báo, công trình công trình nghiên cứu khoa học hàng năm và qui chuẩn nhất là các nghiên cức này được đăng kí bằng sáng chế tại Mỹ. Tình hình nay ở Việt nam ta ra sao?. Với 33 nghìn vị trí thức có học vị giáo sư, tiến sĩ đó nhưng giai đoạn từ 2000 đến 2006 nứơc ta vẻn vẹn có 19 bằng sáng chế. Giai đoạn từ 2007 đến 2010 Việt nam chỉ còn 5 bằng sáng chế. Năm 2011 với xấp xỉ 90 triệu dân, 33000 giáo sư, tiến sĩ thì số bằng sáng chế của Việt nam ta  đăng kí tại Mỹ lại là còn số không tròn trĩnh. Cũng trong năm 2011 này chưa nói đến các nứơc có trình độ kinh tế hiện đại, trí thức tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc… Mà chỉ so sánh với các quốc gia trong khu vực thì Đài Loan với 23 triệu dân có tới 8781 bằng sáng chế, Israel vẻn vẹn 7,3 triệu dân đã đăng kí 1981 bằng sáng chế. Còn các nứơc vùng Đông Nam Á thì năm 2011 cũng là năm bội thu về số lượng bằng sáng chế đăng kí tại Mỹ. Singapo với 4,8 triệu dân có tới 647 bằng. Malaixia với 27,9 triệu dân có 161 bằng, Thái Lan với 68,1 triệu dân có 53 bằng….  Nguyên nhân của thực trạng đáng buồn này do đâu ? Nứơc ta hiện nay ra ngõ không chỉ gặp nhà thơ mà còn gặp một vị tiến sĩ hay giáo sư. Nhưng trong 33000 giáo sư tiến sĩ đó thì có đến hơn 70 % không dính dáng gì đến nghiên cứu khoa học, thậm chí cả đời không viết một bài báo nào có tính khoa học. Đa số các vị có bằng cấp này đều làm chức vụ hành chính. Ông Phạm Bích San Tổng thư kí Các hội khoa học, kĩ thuật Việt nam đã ngao ngán nhận xét”chúng ta gần như không có ai có nghiệp khoa học…quên mình vì khoa học được ghi nhận bằng các giải thưởng quốc tế tầm cỡ”. Hình như sau hàng loạt nghị quyết khuyến khích hình thức về bằng cấp đã khiến cho thị trường bằng cấp thật giả càng có đà phát triển. Người ta tìm mọi cách để có được tấm bằng học vị làm điểm tựa tiến thân thay vì xả thân cho sự đào tạo, rèn luyện nghiêm chỉnh. Trên danh thiếp, trong lời giới thiệu người ta xính và coi như mốt thời thượng giới thiệu học vị đi liền với chức sắc. Những vụ phát giác ông thứ trưởng, ông giám đốc sở, ông vụ trưởng nọ kia dùng bằng giả… đã trở thành phổ biến ở nứơc ta. Phải chăng chính sự yếu kém của các nhà trí thức Việt nam như vậy nên chẳng những nền giáo dục nứơc ta đang là một nền giáo dục yếu kém, nhiều bất cập nhất mà Việt Nam cũng là một quốc gia có vị trí thấp trong thang bậc trí tuệ toàn cầu ( hạng 76 trên 141 quốc gia được đưa vào xếp hạng).   Nghĩ lại một thời không xa trí thức thế giới nghiêng mình khâm phục  trí tuệ và công trình của những nhà trí thức lớn của Việt nam như Giáo sư Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng .. Chúng ta càng lo lắng khi căn bệnh trí thức lỏng của nứơc ta vẫn ngày càng phát triển và chưa có biện pháp nào hữu hiệu ngăn chặn.  Nguyễn Hiếu http://trannhuong.com/tin-tuc-15296/tri-thuc-long-.vhtm          
......

Vai trò và bổn phận của giáo dân trong việc góp ý sửa đổi Hiến pháp

Tối 27/3/2013, Cha Bề trên tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội Mát-thêu Vũ Khởi Phụng đã có buổi nói chuyện với các giáo dân tại nhà thờ Thái Hà về bổn phận và vai trò của người giáo dân trong việc góp ý sửa đổi Hiến pháp. Theo ngài, vì là những giáo dân công dân, nên mọi tín hữu Công giáo vừa có bổn phận và trách nhiệm đối với xã hội và đối với Giáo hội. Trong việc tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp, các giáo dân phải lấy tất cả lương tâm và trách nhiệm của mình, tìm hiểu cách kỹ lưỡng những gì cần góp ý và góp ý một cách thẳng thắn, không được đặt bút ký vội vã khi được các cơ quan nhà nước yêu cầu. Hội đồng Giám mục Việt Nam, đại diện cho tất cả mọi tín hữu Công giáo Việt Nam, đã chính thức lên tiếng góp ý trong bản “Nhận định và Góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992”. Vì thế, mọi góp ý của các giáo dân phải tham chiếu bản nhận định này của Hội đồng Giám mục Việt Nam để không đi ngược lại với tiếng nói chính thức của toàn thể Giáo hội. Những ngày này, nhà cầm quyền Việt Nam đang ráo riết, bằng nhiều cách thức khác nhau như dùng hệ thống truyền thông tivi, báo, đài, cho người tới các khu phố, thôn, ấp, làng xã, tuyên truyền cho cái “trò hề” gọi là “nhân dân góp ý sửa đổi Hiến pháp” nhằm cố tình hợp pháp hóa “vai trò lãnh đạo của đảng”, phủ nhận những đóng góp đầy tâm huyết của các nhân sĩ trí thức, của các Giám mục đại diện Giáo hội Công giáo Việt Nam. Không chỉ có vậy, Đài Truyền hình Việt Nam trong chương trình thời sự tối 26/3/2013 đã bất chấp cả đạo lý và sự thánh thiêng của niềm tin Tôn giáo, dựng lên một “linh mục giả”, hòng làm giảm uy tín và tiếng nói trung thực của Giáo hội Công giáo Việt Nam mà đại diện tối cao là các Giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.Linh mục giả Chắc chắn, những việc làm bất chấp lương tâm và đạo lý của Đài truyền hình Việt Nam – kênh truyền hình phủ sóng toàn quốc, ít nhiều đã có những tác động tiêu cực đến quảng đại quần chúng, cách riêng đối với những tín hữu Công giáo, khiến mọi người, ngay cả một số tín hữu vì thiếu thông tin, có thể hiểu sai về Giáo hội Công giáo, cách riêng các vị lãnh đạo tối cao của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Do đó, thiết nghĩ, sau những gì truyền thông nhà nước đang cố tình dùng mọi kỹ xảo để bóp méo tiếng nói trung thực, thẳng thắn, đầy tâm huyết và có tính xây dựng của các Đức Giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, mọi tín hữu Việt Nam đều có bổn phận và trách nhiệm phổ biến bản “nhận định và góp ý Hiến pháp của Hội đồng Giám mục” tới mọi người, đặc biệt mọi thành phần dân Chúa tại Việt Nam. Việc làm này thực sự cần thiết và không khó, chỉ cần mỗi người giáo dân nhận trách nhiệm phổ biến cho một người, thì không bao lâu mọi người đều biết được tiếng nói chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Thư chung của Hội Đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 gửi cộng đồng Dân Chúa Việt Nam đã nói rõ về sứ mạng của người tín hữu Chúa Kitô ở Việt Nam: “Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước. Công đồng dạy rằng “Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới” (MV 40,2). Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa” (số 9). Đức Thánh cha Benedict 16 cũng đã nhiều lần nhắc nhở các tín hữu Việt Nam “Công dân tốt là giáo dân tốt”. Vì thế, trong thời khắc hết sức quan trọng này của tổ quốc và dân tộc, người công giáo tốt không thể bàng quan, ẩn mình trong những tháp ngà của sợ hãi, hèn nhát, vô cảm. Trái lại, họ phải chứng tỏ mình là người can đảm, lên tiếng tố cáo những bất công, ra sức bảo vệ Tổ quốc, Giáo hội và những quyền cơ bản của người dân, cách đặc biệt trong lần sửa đổi Hiến Pháp này. 29/3/2013  
......

Thử tìm hiểu những mắt xích bị đứt trong trận Trường Sa 14/3/1988

Trận Trường Sa ngày 14/3/1988 đã xẩy ra cách đây một phần tư thế kỷ, nhưng cho đến nay, để tìm hiểu thêm về trận đánh này người ta vẫn thấy có những khoảng trống khó hiểu. Quân sự của CSVN có ghi chép một số sự kiện về biến cố này, tuy nhiên với thói quen cố hữu cạo sửa, uốn nắn lịch sử cho mục tiêu tuyên truyền và nắm quyền của đảng, những ghi chép này có thể không hoàn toàn trung thực theo như nghĩa “sử” của nó. Còn đảng CSVN vẫn khoe rằng họ lãnh đạo đất nước đi “từ chiến thắng này sang chiến thắng khác” nhưng hai biến cố lớn và quan trọng là Trường Sa 1988 và trận biên giới phía bắc trước đó lại không được khoe ra và hoàn toàn không được một sử sách nào của họ đề cập đến. Có lẽ hình ảnh rõ rệt và duy nhất về trận đánh Trường Sa là video tuyên truyền của Trung Cộng được tung trên mạng internet từ năm 2008. Qua đó, người ta thấy những người lính Việt Nam đang lom khom dưới biển, nước ngập tới lưng. Sau mấy tiếng “tả, tả, tả!....” (đánh, tấn công), các súng lớn súng nhỏ trên tàu chiến Trung Cộng thi nhau xả đạn vào những người lính và ba con tàu của Việt Nam. Tường thuật của 9 chiến sĩ VN sống sót trở về đi vào chi tiết và cận cảnh hơn, làm nổi rõ thêm sự tàn bạo của lính Trung Cộng được ghi lại trong video kể trên. Trên một số diễn đàn Anh ngữ thảo luận về biến cố Trường Sa, người ta đã không khỏi ngạc nhiên về những gì họ thấy được trong video của Trung Cộng. Không ít người gọi đây là “cuộc tàn sát” chứ không thể nào coi là một trận hải chiến theo đúng nghĩa của nó. Từ đó câu hỏi được đặt ra là: “Tại sao phía VN (lãnh đạo VN) lại để những người lính của mình phải chiến đấu trong hoàn cảnh như vậy? Và ai phải chịu trách nhiệm về việc này?” Đây cũng là câu hỏi được nhiều người VN đặt ra, nhất là vào thời điểm cận kề ngày giỗ của các tử sĩ Trường Sa. Trước khi thử đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vừa kể, thiết tưởng cũng nên biết qua một vài đặc điểm liên quan đến các trận đánh trên biển. 1/ Trên mặt biển mênh mông, ngoại trừ trường hợp thời tiết xấu cản trở tầm nhìn, tầm quan sát trên mặt biển rất xa. Độ xa này tuỳ thuộc theo độ cao của đài chỉ huy chiến hạm. Trong trường hợp thời tiết tốt, tầm quan sát chỉ bị giới hạn bởi độ cong của quả đất (tức là có thể thấy tàu bè khác ở tận chân trời). Ngay cả trường hợp thời tiết xấu hay trong đêm tối thì qua phương tiện radar và bảng “vận chuyển chiến thuật” có sẵn trên các chiến hạm (ra đời sau thế chứ hai), người ta dễ dàng tính toán được chính xác hướng đi và vận tốc tàu địch. Vì vậy, các trận đánh trên mặt biển (không có tàu ngầm tham chiến) thường thì cả hai bên đều thấy và theo dõi nhau từ rất xa, và vì vậy có nhiều thời gian thay đổi vận chuyển (hướng, vận tốc,v.v....), đội hình và chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho việc nổ súng khi tàu địch trong tầm tác xạ. 2/ Các khẩu hải pháo của chiến hạm phần lớn là súng phòng không, sơ tốc lớn (sơ tốc: Vận tốc đầu đạn khi ra khỏi nòng súng) nên có sức công phá mạnh và đạn đạo tương đối thẳng (dễ trúng đích), có nhịp bắn nhanh và tương đối chính xác trong tầm sát hại. Các loại pháo 37 ly, 40 ly được đề cập đến trong trận Trường Sa thuộc loại này. Vì vậy, súng cá nhân với tầm bắn trên 1 cây số và tầm sát thương 200m trở lại không đóng vai trò quan trọng trong một trận chiến trên biển. 3/ Các ổ hải pháo trên chiến hạm không xoay tròn 360 độ được, mà bị giới hạn ở một góc độ nào đó để không hướng và bắn vào đài chỉ huy của chiến hạm mình khi lâm chiến. Do đó, khi tàu neo (hoặc đậu) tùy theo hướng gió và giòng nước, con tàu gần như nằm ở một hướng độ nhất định nào đó. Vì không xoay tròn 360 độ được, khi tàu neo, một vài ụ súng có thể không hướng về phía chiến hạm địch được. 4/ Do đặc tính về không gian và tầm hoạt động rộng lớn và chiến trường trên biển cũng thường ở rất xa căn cứ, đòi hỏi thời gian di chuyển; vì vậy các chiến hạm thường thực hiện những công tác dài ngày theo kế hoạch đã định trước với loại chiến hạm và các khí tài phù hợp cho nhiệm vụ. 5/ Ngoại trừ đang ở trong cuộc chiến với nước thù địch, mọi quyết định lâm trận với một lực lượng ngoại quốc thường đến từ giới chức cao nhất của quốc gia với một số mục tiêu cụ thể. Thí dụ như tổng thống Mỹ quyết định mở các trận chiến ở Trung Đông, thủ tướng Anh với trận Falkland (1982); hoặc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu với thủ bút ra lệnh hai điểm cho trận chiến Hoàng Sa a/ Kìm chế và đuổi tàu Trung Cộng ra khỏi lãnh hải Việt Nam, b/ Trong tường hợp bất khả kháng thì toàn quyền hành động để bảo vệ chủ quyền đất nước. Với các điểm khá phổ quát liên quan đến trận chiến trên biển vừa liệt kê ở trên, kiểm điểm lại những gì đã diễn ra ở trận Trường Sa thì dường như tất cả đều có sự bất thường nào đó. ’Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không?’ Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời không rõ ràng. Trong một bài viết mới đây trên trạng mạng Việt Study (1), tác giả Lê Ngọc Thống đã rất chính xác khi đặt vấn đề: “Trước một kẻ thù to lớn, hung hăng, hiếu chiến, điều quyết định đầu tiên là Hải quân Việt Nam có dám đánh lại chúng hay không? Vì chỉ khi dám đánh mới nghĩ ra cách đánh để thắng.” Ở trận Trường Sa 1988 tiền đề này gần như không ai đặt ra. Mắt xích lãnh đạo chỉ huy bị đứt ở cấp cao nhất. Trong hồi ức về trận chiến này, dưới bút danh Phạm Trung Trực, một sĩ quan hải quân trong chiến dịch CQ 88 bảo vệ Trường Sa lúc đó đã thuật lại rằng: “Cuối tháng 2-1988 Hải quân Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa.Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Bộ Tư Lệnh hải quân liên tục báo cáo lên trên xin ý kiến chỉ đạo. Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay: Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không? Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời không rõ ràng.” Với thái độ vô trách niệm này của hàng lãnh đạo (tức Bộ Chính Trị), các cấp kế tiếp chẳng ai thấy cần thiết phải làm gì thêm, chưa nói đến việc “phải nghĩ ra cách đánh để thắng”. Lãnh đạo như vậy là đã tệ rồi, nhưng thực tế thì còn tệ hơn nhiều. Trên trang mạng AnhBaSam gần đây có đăng vài giòng tin ngắn về lệnh của cấp bộ chỉ huy kế tiếp (tức bộ quốc phòng) trong trận Trường Sa như sau: “Bộ trưởng Quốc Phòng lúc đó là Lê Đức Anh đã ra lệnh cho các chiến sĩ của ta không được nổ súng bắn vào quân TQ tấn công chiếm đảo vì sợ ’bị khiêu khích’. Chỉ một nhóm chiến sỹ đã cưỡng lệnh này và bắn vào kẻ xâm lược.” Với mệnh lệnh rất rõ ràng và cụ thể như vậy, có lẽ bộ tư lệnh hải quân bị ở vào thế mắc kẹt. Vì vậy, tuy có quyết tâm cao như thành lập bộ chỉ huy tiền phương để giải quyết mọi tình huống, chuyển các phương án chiến đấu phù hợp với tình hình từ “sẵn sàng chiến đấu” vào cuối tháng 10/1987 sang sẵn sàng “chiến đấu cao” vào đầu tháng 3/1988, đưa người và phương tiện ra đảo xây dựng công sự, nhận định xác đáng về vị trí chiến lược của đảo Gạc Ma, v.v... nhưng lại hoàn toàn không có một lực lượng nào để ngăn chặn sự lấn chiếm trong khi Trung Cộng này càng gia tăng cường độ gây hấn; cũng như để yểm trợ và bảo vệ cho các chiến sĩ của mình đang làm nhiệm vụ xác lập chủ quyền đất nước. Cuối cùng, để đối đầu với lực lượng thật hùng hậu của địch, phía hải quân VN chỉ đưa đến chiến trường 3 tàu vận tải với lệnh: ngăn chặn sự lấn chiếm của Trung Quốc bằng cách nhanh chóng xây dựng các cơ sở vật chất trên một số đảo. Điều này cho thấy mệnh lệnh ở trên đã giới hạn quan niệm hành quân của hải quân rất nhiều, dù rằng các cấp chỉ huy hải quân chắc chắn đều biết rõ những đặc điểm chiến đấu trên biển như đã nêu ở trên để có thể thực hiện một phương án tối ưu nào đó, vừa bảo vệ được tối đa các hòn đảo, vừa hạn chế thiệt hại đến mức tối thiểu. Cũng có thể là do nhân sự và phương tiện chiến đấu hạn chế, nhưng nhiều phần đây có lẽ là cách để các chiến sĩ của ta không có cách nào bắn vào quân Trung cộng tấn công chiếm đảo, để không trái lệnh của bộ trưởng quốc phòng. Bắn vào quân Trung Quốc là điều rất dễ xẩy ra nếu hải quân có một lực lượng chiến đấu đúng nghĩa ở trên mặt biển, vì dù ở thế yếu hơn các chiến sĩ hải quân chắc chắn không cam chịu nhục nhã trước sự gây hấn và lấn chiếm của quân xâm lược. Cũng vì những mệnh lệnh như trên mà các chiến sĩ ở chiến trường đã hoàn toàn bị bất ngờ khi bị địch bắn xối xả vào lúc tàu đang neo đậu và một phần binh sĩ đang ở dưới biển. Cần nêu ra một vài chi tiết ở đây để có thể thể nhận thấy rằng các chiến sĩ hải quân có khả năng rất cao trong tình thế nguy nan lúc đó. Với quân số tổng cộng tại chỗ của cả HQ 604, 605, và 505 là khoảng hơn 80 người; nhân số này thực ra chưa đủ, hoặc chỉ tròm trèm với cấp số nhân sự cho một dương vận hạm như HQ 505 hoạt động bình thường. Khi súng nổ một số lớn binh sĩ đang ở dưới nước, nhân số còn lại trên tàu hẳn là rất ít ỏi; thế nhưng trong tình huống đó họ đã thực hiện cùng một lúc 3 nhiệm sở trong vòng 28 phút của trận chiến: Nhiệm sở neo (nhổ neo), nhiệm sở tác chiến (chống trả sự tấn công của Trung Quốc), nhiệm sở vận chuyển và ủi bãi. Chính báo cáo của Trung Quốc cho biết họ có 6 người bị tử thương, 21 bị thương, nên có thể tin rằng những thiệt hại này do HQ 505 gây ra cho địch, vì tại chiến trường lúc đó chỉ có chiến hạm này có loại pháo 40 ly và 20 ly, là loại súng có nhịp bắn nhanh, chính xác và tầm sát hại lớn. Với những phân tích vừa kể, không còn nghi ngờ gì nữa, chính thái độ vô trách nhiệm của cấp lãnh đạo cao nhất, rồi sau đó mệnh lệnh không được bắn vào quân xâm lược là nguyên nhân dẫn đến việc không có một phương án hành quân để bảo vệ các chiến sĩ VN và chống trả lại địch hữu hiệu. Đồng thời cũng đặt các chiến sĩ tại mặt trận vào một tình thế hoàn toàn bất ngờ trước sự hiếu chiến và tàn bạo của kẻ thù. Với những mệnh lệnh không rõ ràng đó của cấp trên, có thể khiến các chiến sĩ tại mặt trận cho rằng tuy xẩy ra sự giành giật các hòn đảo qua lại, nhưng sẽ không có nổ súng (vì mình không được phép bắn vào địch). Như vậy, đã rất rõ ràng ai là người chôn vùi các chiến sĩ Trường Sa. Thái độ này của giới lãnh đạo CSVN càng thể hiện rõ sau này qua việc bỏ trống sự kiện Trường Sa trong sử sách, cấm các phương tiện truyền thông nhắc nhở, cấm các buổi tổ chức tưởng niệm, thậm chí chữ “anh hùng” trên bia một anh hùng Trần Văn Phương cũng bị đục bỏ. Năm ngoái blogger Mai Thanh Hải đã nghẹn ngào vì khóc cho các chiến sĩ Trường Sa mà cũng bị cấm, còn giáo sư Hà Văn Thịnh thì uất nghẹn: “Tháng baSao tôi chẳng được quyền kể về các anh?Lỡ gọi tên có thể là tù tộiAnh dũng hiên ngang bị vùi trong bóng tốiViệt Nam ơi, nhức mỏi đến bao giờ?’(Trích bài thơ ’Tháng 3, ngày 14, Việt Nam ơi’ ) - - - (1) Lê Ngọc Thống http://www.viet-studies.info/kinhte/LeNgocThong_DamDanhBietDanh.htm
......

Đúng hết thì đóng góp ý kiến làm gì?

Mấy hôm nay bữa cơm nào cũng nhức đầu vì các ông tiến sĩ, giáo sư lý luận học viện HCM, các ông cựu chiến binh, các đoàn viên thi nhau được VTV mời lên để ủng hộ điều 4 hiến pháp, ủng hộ đất đai sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý đằng sau là Đảng lãnh đạo, rồi quân đội trung thành với Đảng là đúng hơn so với trung với nước.   Có ông ý kiến thế này, người ta đa đảng nên cần tam quyền phân lập, chúng ta một đảng nên không cần phải tam quyền phân lập.   Trước ý kiến đòi hỏi đa đảng như người ta thì các ông lại trả lời kiểu chúng ta một đảng vẫn lãnh đạo được cần gì phải đa đảng. Đòi đa đảng là chống phá chế độ, doạ thế bố ai còn dám góp ý. Về đất đai có ông bảo dân đi biểu tình khiếu nại chỉ nói về việc cụ thể, có ai giương biểu ngữ đòi sở hữu tư nhân đâu. Từ đó suy ra dân không có nhu cầu này. Híc (lỡ mai dân oan giăng biểu ngữ đòi quyền sử dụng đất tư nhân thì ông nói sao ?)   Có ông cứ lôi HCM ra làm căn cứ như kiểu chứng minh mệnh đề toán học, HCM đã nói thế này, HCM đã nói thế kia, rồi ông lôi đâu ra câu HCM từng nói là quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân. Quân đội ta của Bác Hồ phải theo con đường của bác Hồ. Chứng minh lý luận kiểu chỉ cần lôi HCM ra bảo từng nói thế là xong, thằng nào cãi lại HCM là bôi nhọ lãnh tụ, khép tội luôn.   Chưa ai nghĩ rằng HCM có nói đúng như thế không. (hay bọn này bịa) đến nghi vấn đấy cũng chả ai dám nghĩ, nói gì đến chuyện HCM có nói như thế, nhưng nói như thế có đúng hay không thì càng chả ai dám. Cái này của Cộng Sản cũng y hệt như tôn giáo, Chúa đã nói vậy, Thánh A La đã nói vậy, Đức Phật Thích Ca đã răn vậy. Nhưng các đỉnh cao của tôn giáo thì khác với đỉnh cao của CS ở chỗ họ nói về tâm linh, về điều thiện trong con người, chứ không nói hay dạy về cách tranh giành quyền lực của thế quyền. Mà từ tâm linh con người đến nhu cầu dục vọng thực tế thì rõ là khác nhau nhiều.    Trở lại với các lý luận của bên truyền thông nhà nước , được diễn ra tốn kém trên truyền hình độc quyền phổ cập đại chúng thì tự chung các lý luận này là chế độ đang diễn ra ổn đinh, cần gi đa đảng mà loại điều 4, nhân dân đòi tiền đền bù chứ đâu có đòi quyền sở hữu tư nhân mà phải bỏ sở hữu toàn dân, quân đội họ trung thành với Đảng là tự nguyện họ có ai bắt đâu mà đòi phia chính trị hoá quân đội.   Nói thế cũng đúng, nhưng mà đúng thì cái việc lấy ý kiến sửa đổi hiến pháp là trò hề à.?   Có ai đòi sửa đổi hiến pháp đâu, hiến pháp vẫn đang thế, chính trị đang thế, xã hội vẫn thế, quân đội vẫn thế và nhân dân vẫn thế. Bày ra trò lấy ý kiến sửa đổi làm mẹ gì cho tốn thời gian, tốn công sức, giờ phản bác phân bua điếc cả tai trên ti vi. Tự dưng ông bày ra  thì người ta có ý kiến, bao giờ thống nhất thời hạn các ý kiến xong thì tập hợp công bố, sau đó mới phân trần, giải thích. Đằng này ý kiến còn đang lấy mà các ông đã lợi dụng truyền thông để đe doạ là đóng góp phải thế này, không được thế kia, như thế kia là phạm tội chống phá chính quyền.    Lấy ý kiến mà kiểu vừa đang lấy vừa đe thế, hỏi có khách quan không ?    Cái nơi tồn tại bằng tiền dân thì giờ phục vụ mục đích cho Đảng cầm quyền. Thời lượng phát sóng phục vụ nhân dân tin tức làm ăn, y tế, giáo dục bỗng nhiên nửa tháng nay chỉ phục vụ việc hiến pháp bảo vệ vai trò Đảng cầm quyền là đúng.   Thôi đã cầm quyền, và đã thấy đúng hết thì chấm dứt luôn cái trò lấy ý kiến. Tuyên bố chấm dứt việc lấy ý kiến ở đây và huỷ bỏ những ý kiến đóng góp trước đó, lý do vì giai cấp cầm quyền đã thấy đúng hết rồi không phải đóng góp là gì nữa cho mất thời gian tiền bạc, công sức. Nếu ai thắc mắc việc không lấy ý kiến thì cứ trả lời đơn giản.   Đúng hết thì còn lấy ý kiến làm gì.?   Nguồn: FB Người Buôn Gió  
......

Thông báo về trường hợp một nữ thanh niên đề nghị được ra khỏi Đảng

Lời giới thiệu của ĐHLV: Tôi vừa nhận được một lá đơn của một đảng viên dự bị tên là Nguyễn Ngọc Diễm Phượng về việc đề nghị được ra khỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam. Xét thấy nội dung lá đơn không chỉ đề cập đến việc cá nhân của chị Phượng mà còn có mục đích sâu xa cảnh tỉnh giới chức là đảng viên của Đảng cầm quyền hiện nay đối với các vấn đề xã hội-chính trị. Được sự cho phép của tác giả, tôi xin được đăng toàn văn lá đơn này để cộng đồng mạng được tỏ tường vấn đề mà chị Phượng muốn trình bày. Quyết định kết nạp đảng viên của chị Phượng không đưa lên mạng nhằm tránh phiền phức cho những người và tổ chức liên quan sau sự việc này. Được biết chị Phượng là người thứ 219 kí tên ủng hộ việc KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 Biểu thị sự tự do. Ảnh được sự đồng ý của tác giả ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐƠN ĐỀ NGHỊ ĐƯỢC RA KHỎI ĐẢNG Kính gửi : Đảng bộ XXX, Chi bộ XXX Tôi tên : Nguyễn Ngọc Diễm Phượng ; sinh ngày 16.10.1982 Quê quán : xã Bình Chánh huyện Bình Chánh, TP.HCM Nơi công tác : Ủy ban nhân dân XXX Ngày kết nạp Đảng : + Dự bị : 18.08.2012 ; + Chính thức : Nơi kết nạp : Chi bộ XXX Trước khi trở thành đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCS), tôi được tổ chức quan tâm giáo dục và bồi dưỡng về tư tưởng chính trị và tôi cũng tự nhận thức được rằng ĐCSVN là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, lấy dân làm gốc. Đảng Cộng Sản Việt Nam là 1 tổ chức chặt chẽ, thống nhất giữa ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thương yêu, đoàn kết với nhau. Cương lĩnh chính trị và đường lối cách mạng đều phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Thế nhưng, thực tế hiện nay, qua các sự việc diễn ra ngoài xã hội làm tôi phải suy nghĩ và nhận thấy rằng ĐCSVN hiện nay không còn thể hiện đúng giá trị và bản chất của mình nữa. Đảng ngày mất đi sự tín nhiệm của nhân dân, Đảng chưa phát huy hết quyền làm chủ của nhân dân, quyền lợi chính đáng của nhân dân chưa được Đảng bảo về và tôn trọng. Điển hình như quyền được phát biểu chính kiến của mình, quyền được cung cấp thông tin (đặc biệt là các thông tin trái chiều) đều bị hạn chế. Kể cả việc biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm, thể hiện tinh thần yêu nước cũng bị cho là làm trái pháp luật và bị hạn chế. Đảng chưa thể hiện hết vai trò lãnh đạo của mình, lời nói và hành động của Đảng chưa nhất quán với nhau, sự yếu kém trong quản lý gây ra biết bao hậu quả cho nhân dân gánh chịu, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, đời sống nhân dân chưa được nâng cao (đặc biệt là các dân tộc miền núi), các công trình dự án ngày càng xuống cấp trầm trọng. Trong nội bộ Đảng lại có sự tranh giành quyền lực với nhau, và những vấn đề khác đang diễn ra ngoài xã hội khiến tôi phải nghi ngờ và phân vân về con đường cách mạng và lý tưởng của Đảng. Đó là nhận định khách quan của tôi về xã hội. Còn về tổ chức, 06 tháng là đảng viên dự bị của Đảng Cộng Sản Việt Nam, với tình hình hiện nay, tôi cảm thấy rằng tôi không còn nhiệt huyết, cũng như lý tưởng để phấn đấu trở thành đảng viên chính thức của Đảng Cộng Sản vì: 1- Khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, tôi nghĩ tôi sẽ có nhiều cơ hội để đóng góp nhiều hơn cho Đảng, cho nhân dân, góp phần xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh hơn, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Nhưng đến nay, tôi cũng chỉ làm tròn nhiệm vụ tối thiểu của 1 đảng viên là sinh hoạt và đóng Đảng phí đầy đủ. Chưa đóng góp được gì nhiều và vẫn chưa thể hiện hết vai trò của 1 đảng viên đối với nhân dân. 2- Sau sự việc đánh giá cán bộ đảng viên theo Nghị quyết TW4, và đánh giá chất lượng đảng viên hàng năm, tôi nhận thấy hầu như việc đánh giá chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ, theo khuôn mẫu định sẵn. Hầu như cán bộ đảng viên chỉ đánh giá 1 cách chung chúng, công tác phê và tự phê diễn ra xuề xòa, sợ mất lòng nhau. Tôi cho rằng đó cũng chính là căn nguyên giảm tính chiến đấu trong Đảng, góp phần cho những đảng viên thoái hóa, biến chất len lỏi tới những vị trí trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước, gây xói mòn niềm tin trậm trọng trong nhân dân. 3- Lý do cuối cùng để tôi quyết định viết đơn ra khỏi Đảng chỉ vì tôi muốn thể hiện tấm lòng yêu nước của mình, yêu đồng bào của mình. Tôi đã có những lời bình luận trên mạng xã hội đối với 1 trường hợp của thể liên quan đến việc lên tiếng bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước như nhiều thành viên của cộng đồng mạng. Tuy những lời bình đó có khó nghe nhưng đó cũng là những suy nghĩ thành tâm của 1 người Việt Nam nhỏ bé lo âu đến vận mệnh dân tộc, cốt yêu cũng muốn Đảng tốt hơn, đảng viên bớt tha hóa hơn. Tôi chưa từng nghĩ những lời bình đó sẽ tạo điều kiện thêm cho thế lực thù định chống phá Đảng, chống phá Nhà nước. Khi có quần chúng báo cáo về sự việc của tôi, đáng lẽ tổ chức Đảng ở cơ sở phải tìm hiểu và xem xét thấu đáo. Thế nhưng tổ chức đã không lưu tâm, còn qui chụp cho tôi mất quan điểm chính trị, tư tưởng không vững vàng, tạo điều kiện cho thế lực thù địch dòm ngó. Do đó, để không làm ảnh hưởng và làm mất uy tín của Đảng, cũng như làm tổn thương danh dự của 1 người Việt yêu nước Việt, tôi tự nguyện làm đơn đề nghị được ra khỏi Đảng. Tôi cũng xin thành thật cám ơn tổ chức và những đảng viên đã giới thiệu tôi vào Đảng trong thời gian qua đã quan tâm, giáo dục và tạo điều kiện cho tôi được trở thành đảng viên của Đảng Cộng Sản trong thời gian rất ngắn. Đồng thời, thông qua đơn đề nghị này, tôi thành tâm mong mỏi tổ chức Đảng ở cơ sở nói riêng và các đảng viên trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung hãy xem như 1 lời chia sẻ chân tình của tôi đối với Đảng, đối với những vấn đề xã hội. Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của người dân bình thường nhất, của những người không đảng phái để thấu hiểu, từ đó có những cách hành xử vị tha, nhân bản hơn đối với người khác quan điểm vì họ cũng là đồng bào, là anh em cùng chung sống trên đất mẹ Việt Nam. Rất mong Chi bộ và Đảng bộ xem xét đơn đề nghị của tôi./. XXX, ngày 04 tháng 3 năm 2013 Người làm đơn NGUYỄN NGỌC DIỄM PHƯỢNG http://donghailongvuong.wordpress.com/2013/03/04/thong-bao-ve-truong-hop-mot-nu-thanh-nien-de-nghi-duoc-ra-khoi-dang/
......

BÁO ĐỘNG! BÁO ĐỘNG! LŨ THÚ PHÁT CUỒNG! ĐỒNG BÀO CẨN THẬN

Kể từ ngày Đảng trưởng nổ phát súng lệnh xử lý những ai góp ý mà lại trái với những gì đảng của họ muốn góp, nghĩa là vi phạm vào những “tử huyệt” của đảng họ thì đồng đảng phải lập tức nổ súng tấn công vào bất cứ ai. Một vài thằng trẻ con nhãi nhép, vô học lưu manh bỗng được mỗi tháng vài chục triệu theo lương giáo sư, tiến sỹ, đại tá, trung, thiếu tướng... vênh váo chửi các bậc tiền bối chúng là đồ “phản động, cần phải xử lý cả đến đời con, cháu” họ! Nguyễn sinh Hùng còn hỗn láo tuyên bố thẳng với nhóm 72 nhân sỹ trí thức: ”Đã lợi dụng góp ý kiến để chống phá đảng (của nó): Góp ý sai với yêu cầu của bọn nó muốn là “tô son trát phấn cho cái đảng “thối hoăng, lúc nhúc những sâu bọ thoái hóa”...là phạm pháp!? Và như một đàn thú dữ được chủ mở cửa chuồng, các loại hùm, beo, hổ sói nhao nhao lên tiếng gầm gừ như muốn xé xác tất cả những ai quyết phen này nói lên SỰ THẬT: Cái đảng mà các anh khoác lên tấm bia “Cộng Sản” đầy tội lỗi mà cả thế giới nguyền rủa đã bị các anh mang ra đánh đĩ với thiên hạ nên mắc đủ thứ bệnh tim la cù đinh thiên pháo HIV giai đoạn cuối rồi! Hãy lo mà cuốn gói mang theo những gì kiếm chác được ở cái đất Việt này về Tầu cho sớm đi! Nhưng vì…chưa có lệnh, bọn dốt nát nhất, hèn hạ nhất, tham lam và ác độc nhất trong các triều đại của lịch sử Viêt vẫn không chịu thua. Chúng đang vênh váo vỗ ngực hô lớn: ĐẢNG CHÚNG TAO CÔNG LAO NHƯ TRỜI BỂ Đà ĐẺ RA CÁI NƯỚC VIỆT NAM NÀY NÊN TAO PHẢI CẦM QUYỀN–QUÂN ĐỘI –CÔNG AN CŨNG DO CHÚNG TAO THÀNH LẬP NÊN. TUÂN LỆNH BẮN AI, GIẾT AI, ĐẦU HÀNG AI... ĐỀU PHẢI THEO LỆNH CỦA CHÚNG TAO LÀ ĐIỀU TẤT NHIÊN CẤM BÀN CÃI! Kẻ nào nói ngược lại hay khác đi đều là …phản động tuốt! Bất cứ ai, dù là bậc cha ông, tiền bối chúng, đều có thể là mục tiêu cho bọn chúng nhai sống nuốt tươi khi có lệnh!   Đã đến lúc: ĐỒNG BÀO HÃY ĐỨNG LÊN! AI CÓ GẬY DÙNG GẬY! AI CÓ DAO DÙNG DAO! CÓ GẠCH ĐÁ DÙNG GẠCH ĐÁ CHỐNG LẠI KHI BỌN CHÚNG RA TAY KHỦNG BỐ ĐỒNG BÀO! Hãy đọc vài lời chúng tuyên bố sau phát súng lệnh ra tay xử lý của Đầu Đảng NGUYỄN TRỌNG GIẦU tức PHÚ TRỌNG! (chứ chúng đâu có trọng Nghèo!) TRÍCH NHỮNG LỜI DỌA NẠT CÔNG KHAI TRÊN MẠNG CỦA BỌN CHÓ ĐIÊN Đảng cảnh cáo việc góp ý Hiến pháp (BBC, thứ tư, 27 tháng 2, 2013). – Video (từ phút thứ 8): Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng cảnh cáo việc “lợi dụng” việc lấy ý kiến sửa đổi hiến pháp. “Lợi dụng việc lấy ý kiến góp ý hiến pháp để tuyên truyền, vận động nhân dân chống lại đảng, chống lại chính quyền… phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn. Thứ hai, pháp luật quy định, nghị quyết quốc hội quy định, bản lấy ý kiến là bản của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp công bố, trên cơ sở tiếp thu ý kiến thảo luận của QH, thực ra là chúng ta cũng đã trình bày trong các cơ quan của Trung ương, của đảng, đã được QH nhất trí, tổ chức lấy ý kiến, thì đó là cái bản duy nhất. Tự tổ chức lấy ý kiến khác của anh là không được. Đó là cách làm không đúng quy định, tôi chưa nói là vi phạm pháp luật-!!?? Một tên tay sai hung hăn khát máu khác thì viết trên Anhbasam: “Đảng và chính quyền đã có cở sở tiêu diệt và đánh dập đầu mấy con “rắn chiêu hồi” như tên Nguyễn Đình Lộc, Nguyễn Quang A, Chu Hảo, Tương Lai, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Trung v.v….Những con “rắn chiêu hồi” vì kèn cựa, bất mãn, trâu buộc ghét trâu ăn, khi giao việc cho thì làm như cứt, khi mất chức thì phản bội chiêu hồi...Bọn “ăn cháo đái bát” phải bị trừng trị nghiêm khắc để làm gương:- Cấm không cho xuất ngoại.- Tìm chứng cứ, thậm chí là tạo chứng cứ để bắt, đưa vào tù.- Không cho con cái lũ chó này ngóc đầu dậy.- Cắt các mối quan hệ thu nhập.- Làm cho chúng lúc nào cũng căng thẳng mệt mỏi.- Cắt các mối liên hệ với bên ngoài. Để khi chúng hối hận thì cho quay về với lương thiện, với tư cách một người dân bình thương…” Những cái tên như Nguyễn đình Lộc, Chu Hảo, Tương Lai, Nguyễn quang A, Nguyễn Trung… mà chúng còn đe dọa “đánh dập đầu”, ”không cho con cái lũ chó này ngóc đầu dậy” thì thấy càng rõ: Cái thời điểm mà bọn chủ chúng nuôi để đem ra xử dụng lũ chó sói mặt người này đã bắt đầu. Hãy kịp thời phổ biến tất cả những lời đe dọa này cho toàn thế giới biết và yêu cầu góp sức ngăn chặn!!! ĐỒNG BÀO HÃY CẢNH GIÁC!!! NS. Tô Hải
......

Ông nguyễn Phú Trọng rất hàm hồ

Chương trình truyền hình tối 25 tháng 02 vừa qua đã phát đi những ý kiến sau đây của ông Nguyễn Phú Trọng: “Các đồng chí phải lãnh đạo cái việc góp ý kiến sửa đổi dự thảo hiến pháp. Cái này quan trọng lắm đấy.Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chứ gì nữa. Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’ không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’ không? Người ta đang có những quan điểm đấy!  Đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng nữa. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa, chỉ ở đâu nữa nào? Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể… thì nó là cái gì?! Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”.   Vừa nghe xong, như một phản xạ vô điều kiện, tôi bỗng buột miệng: “Trời ơi, cái cậu này ăn nói hàm hồ quá nhỉ!”. Sao lại có thể quy chụp những người yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, yêu cầu đa nguyên đa đảng, yêu cầu “tam quyền phân lập”; những người tham gia khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể …” là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Nguyễn Phú Trọng có biết những ai đã và đang tích cực tham gia những hoạt động trên không? Đó là cụ Nguyễn Trọng Vĩnh 96 tuổi – nguyên Bí thư tỉnh ủy Thanh hóa, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, nhà văn kỳ cựu khả kính Nguyên Ngọc, Bộ trưởng, ủy viên TW Đảng Nguyễn Đình Lộc, cố vấn Thủ tướng Nguyễn Trung, phó chủ tịch Quốc hội, giáo sư tiến sỹ Phan Đình Diệu, giáo sư-thứ trưởng Chu Hảo, tiến sỹ-thứ trưởng Trần Nhơn, luật gia – phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận, luật gia – phó chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Lê Hiếu Đằng , viện trưởng- giáo sưTương Lai, viện trưởng-tiến sỹ Nguyễn Quang A ….   Trong số đó, về tuổi tác: có người bậc cha chú, có người bậc đàn anh của ông; về trình độ: bậc thầy của ông; về quá trình cách mạng: bậc tiền bối so với ông.Vậy mà Nguyễn Phú Trọng dám thóa mạ họ là những kẻ suy thoái mọi mặt. Dưới con mắt Nguyễn Phú Trọng, họ là những kẻ không còn tư tưởng chính trị đúng đắn, lối sống suy đồi, đạo đức kém cỏi …. Thật là nghênh ngang, trâng tráo, và hỗn xược.   Không có tự do trưng cầu dân ý để có thể nói tuyệt đại đa số nhưng chắc chắn nhiều người Việt Nam đồng tình với các vị nêu trên. Bản kiến nghị của 72 vị ký tên gần đây chỉ trong vài ngày đã lấy được hàng ngàn chữ ký. Nếu công khai trên mọi phương tiện thông tấn báo chí thì rất có thể sẽ có sự biểu đồng tình của hàng triệu người.   Vậy là ông Nguyễn Phú Trọng không những xấc xược với bề trên mà còn thất lễ với cả bộ phận lớn dân tôc! Không kinh qua chiến trường, không được thực tế cuộc sống nhào luyện, vận may cứ thế thổi ông lên tận mây nên ông dễ dàng chơi vơi xa rời thực tế, không còn cảm nhận được hơi thở của nhân dân (tôi từng gọi ông là cậu ấm hiện đại). Có người vì nể cái bằng giáo sư-tiến sỹ của ông nhưng những người từng “lều chõng” thì thừa biết rằng nếu được Đảng giới thiệu sang Liên Xô lúc ấy để bảo vê cái luận án “Bảo vệ Đảng” thì nó “khó khăn” đến mức nào? Chưa đỗ lớp mười cũng có thể bảo vệ được một luận văn như thế.   Ông hãnh tiến, ông quá sung sướng, vậy mà, sao ông nỡ chỉ thị đuổi việc nhà báo Nguyễn Đắc Kiên khỏi báo Gia đình&Xã hội! (Ngày 28/12/2012, chính ông chỉ thị giao nhiệm vụ cho lực lượng công an và quân đội phải “ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước”. Hôm 25/2/2013, tại Vĩnh Phú, chính ông lại ra lệnh “Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”. ). Thật là dã man, độc ác. Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên không có lỗi gì. Qua bài viết “Vài lời với TBT ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng”, thấy anh là người có tài, có tâm và rất khảng khái, trung thực. Một bạn đọc với nick Sinh Viên Cũ của thôn Danlambao đã viết về anh: “Anh không ở trong làng báo nô lệ, nhưng anh mãi mãi ở trong lòng những người dân chân chính, anh là người dám dũng cảm nói lên sự thật, dũng cảm đứng thẳng lưng, anh đã nghe lời mẹ dặn, anh là Phùng Quán thứ 2 của dân tộc này.” Tác giả Trần Quốc Việt thì cho rằng“anh Nguyễn Đắc Kiên đã cứu danh dự chung cho các nhà báo Việt Nam dưới chế độ toàn trị dù cái giá anh trả là bị đuổi việc, là tương lai bấp bênh đang chờ anh và gia đình.” .   Tôi yêu cầu ông Nguyễn Phú Trọng: 1 – Chỉ thị báo Gia đình&Xã hội thu hồi ngay quyết định đuổi việc nhà báo Nguyễn Đắc Kiên. 2 – Xin lỗi toàn Đảng, toàn dân về lời phát biểu hàm hồ tỏ sự khinh thị, dọa nạt, trấn áp đồng bào. Tôi kêu gọi: 1 – Hãy cùng lên tiếng phản đối và phân tích rõ sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng, tư cách, đạo đức của ông Nguyễn Phú Trọng. 2 -  Hãy vận động các nhà báo trong và ngoài nước cùng Tổ chức Ký Giả Không Biên Giới hỗ trợ nhà báo Nguyễn Đắc Kiên về cả tinh thần và vật chất Hà Nội ngày 27 tháng 02 năm 2013 © Nguyễn Thanh Giang Số nhà 6 Tập thể Địa Vật lý Máy bayTrung Văn – Từ Liêm – Hà NộiMobi:  0984 724 165 nguồn: http://www.danchimviet.info/archives/73489/ong-nguyen-phu-trong-rat-ham-ho/2013/02#sthash.Zsui2IZU.dpuf
......

Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do (Erklärung der freien Bürger)

Chúng tôi, những người khởi đầu ký tên sau đây, kêu gọi những công dân khác cùng với chúng tôi đồng tuyên bố. Wir, die Unterzeichner, appellieren an alle Bürgerinnen und Bürger, sich unserem Aufruf anzuschließen 1. Chúng tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện hành, mà chúng tôi muốn tổ chức một Hội nghị lập hiến, lập một Hiến pháp mới thực sự là ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến pháp hiện hành. Wir wollen nicht nur Artikel  4 der Verfassung abschaffen, sondern im Rahmen eines Nationalen Kongresses eine neue Verfassung erarbeiten, die den Willen des Volkes wieder spiegelt und nicht den der kommunistischen Partei, wie es in der jetzigen Verfassung noch ist. 2. Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước. Wir unterstützen ein pluralistisches Mehrparteiensystem und alle politische Parteien, die im fairen Wettbewerb für die Entwicklung der Freiheit und des Friedens sowie zum Wohl des Volkes arbeiten. Keine Partei hat das Recht, die Nation zu kontrollieren und zu tyrannisieren.   3. Chúng tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc. Wir unterstützen nicht nur ein demokratisches System, in dem die Unabhängigkeit der Exekutive, der Legislative und der Judikative gewahrt wird, sondern auch eine Regierung, die ihre Macht dezentralisiert, in dem sie die Behörden auf der lokalen Ebene  stärkt und die vom Staat geförderten Konsortien sowie alle Staatsbetriebe, die das Staatsbudget missbrauchen, Korruption fördern, das Vertrauen des Volkes zerstören und die Einheit der Nation vernichten, abschafft. 4. Chúng tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào. Wir unterstützen ein Militär, das unparteiisch und ohne Parteizugehörigkeit ist. Das Militär soll das Volk und das Land schützen, die nationale Souveränität verteidigen und keiner Partei dienen. 5. Chúng tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Chúng tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản ban cho, nên đảng cộng sản không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, chúng tôi có thể xem những lời phán xét nào nếu có hướng đến chúng tôi là một sự phỉ báng chúng tôi. Và chúng tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại. Wir nehmen uns das Recht, das Obengenannte zu deklarieren und zu sagen, dass alle vietnamesischen Mitbürger das gleiche Recht haben. Wir erklären, dass wir unser fundamentales Menschenrecht ausüben, das das Recht auf Meinungs- und Redefreiheit beinhaltet. Diese sind natürliche Rechte, die jedem Menschen inhärent sind. Das vietnamesische Volk anerkennt und respektiert diese universalen Rechte. Diese Rechte wurden uns nicht von der kommunistischen Partei erteilt. Die kommunistische Partei hat nicht das Recht, sie uns weg zunehmen oder uns daran zu hindern, sie in Anspruch zu nehmen,. Wir erachten jedes Urteil oder jede Anschuldigung gegen uns als einen Akt der Diffamierung. Wir glauben, dass jeder, der diese Menschenrechte ablehnt auch gegen das nationale Interesse und die menschliche Zivilisation ist. Wir reichen uns die Hände und verwandeln diese Deklaration der freien Bürgerinnen und Bürger in ein untrennbares Band, das Millionen von vietnamesischen Herzen verbindet. Erheben wir unsere Stimmen in dem wir unsere Namen in der folgenden email  eintragen tuyenbocongdantudo@gmail.com (Bản Đức ngữ do: „Forum Vietnam 21“ chuyển dịch) ****************** Danh sách những người ký tên:      1. Blogger Nguyễn Hoàng Vi, Sài Gòn 2. Phạm Thanh Nghiên, Hải Phòng 3. Blogger Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nha Trang 4. Blogger Gió Lang Thang - Trịnh Anh Tuấn, Đak Lak 5. Blogger Hành Nhân - Vũ Sỹ Hoàng, Sài Gòn 6. Blogger Binh Nhì - Nguyễn Tiến Nam, Yên Bái 7. Ts Hà Sĩ Phu, Đà Lạt 8. Bs Nguyễn Đan Quế, Sài Gòn 9. Linh Mục Giuse Đinh Hữu Thoại - Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn 10. Blogger Trịnh Kim Tiến, Sài Gòn 11. Blogger Paulo Thành Nguyễn - Nguyễn Hồ Nhật Thành , Sài Gòn 12. Blogger Nguyễn Chí Tuyến, Hà Nội 13. Nhà thơ Bùi Chát, Sài Gòn 14. Blogger Huỳnh Công Thuận, Sài Gòn 15. Nhà thơ Phan Bá Thọ, Sài Gòn 16. Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, Sài Gòn 17. Blogger Phạm Bá Hải - Human Right Defender, Sài Gòn 18. Doanh nhân Lê Quốc Quyết, Sài Gòn 19. Hoàng Dũng - Phong trào Con Đường Việt Nam, Sài Gòn 20. Blogger Lê Thiện Nhân, Hà Nội 21. Đặng Sinh - Phóng viên tự do, Sài Gòn 22. Facebooker Lê Công Vinh, Vũng Tàu 23. Facebooker Võ Trường Thiện, Nha Trang 24. Sinh viên Nguyễn Vũ Hiệp, Hà Nội 25. Facebooker Lâm Mạnh Di, Vũng Tàu 26. Blogger SeaFree - Phạm Văn Hải, Nha Trang 27. Blogger Bùi Thị Minh Hằng, Vũng Tàu 28. Facebooker Miu Mạnh Mẽ - Nguyễn Nữ Phương Dung - Sinh viên, Sài Gòn 29. Facebooker Văn Ngọc Trà - Mai Văn Tuất, Sài Gòn 30. Sinh viên Nguyễn Thành Tiến, Hải Phòng 31. Nhiếp ảnh gia Lê Hải, Đà Nẵng 32. Nhà thơ Đỗ Trung Quân, Sài Gòn 33. Facebooker Trầm Tử - Lê Khánh Duy, Buôn Hồ, Đăk Lăk 34. Blogger Huỳnh Thục Vy, Buôn Hồ, Đăk Lăk 35. Facebooker Kaiz Az - Trần Xuân Huyền, Nghệ An 36. Facebooker Sao Biển - Đặng Ngọc Sao, Hà Tĩnh 37. Facebooker Michael Ngo - Ngô Tuấn, Sài Gòn 38. Facebooker Dung Dang - Đặng Huy Dung, Sài Gòn 39. Nhà thơ Phan Đắc Lữ, Sài Gòn 40. Facebooker Yêu Nước Việt - Châu Văn Thi, Sài Gòn 41. Facebooker Tran Hien - Trần Hiền, Sài Gòn 42. Blogger / Nhạc sỹ Tô Hải, Sài Gòn 43. Lê Thăng Long - Phong trào Con đường Việt Nam, Sài Gòn 44. Nhà báo Hồ Trung Tú, Đà Nẵng 45. Trần Khuê, người sáng lập Đảng Dân Chủ Thế Kỷ XXI, Sài Gòn 46. Blogger Phạm Văn Điệp, Sầm sơn - Thanh Hóa 47. Blogger Nguyễn Lân Thắng - Kỹ sư Xây Dựng, Hà Nội 48. Blogger Uyên Vũ, Sài Gòn 49. Facebooker Huỳnh Thái Học, Nha Trang 50. Blogger Khoai Lang - Nguyễn Tấn Dung, Lộc Thủy - Lệ Thủy, Quảng Bình 51. Cựu phóng viên Hoàng Thanh Trúc, Đà Lạt 52. Facebooker Hiếu NTH - Nguyễn Trung Hiếu, Sài Gòn 53. Phạm Phương Nam - Kỹ sư xây dựng, Đà Nẵng 54. Trần Tiến Đức - Nhà báo, đạo diễn truyền hình (đã nghỉ hưu), Hà Nội 55. Ngô Kim Hoa - Nhà báo tự do, Sài Gòn 56. Lương Văn Bình - Sinh viên Đại học Luật, Hà Nội. 57. Nguyễn Văn Ý - Sinh viên năm 2, Trường ĐH Đà Lạt 58. Nguyễn Tiến Dũng - kinh doanh, Vinh, Nghệ An 59. Nguyễn Hoàng Long, Saigon 60. Nguyễn Trúc Sơn, Hiệp Hoà, Đức Hoà, Long An 61. Nguyễn Đức Phổ - Nông dân, F. Đông Hưng Thuận, Q. 12 Sài Gòn 62. Facebooker Bahung Vo - Võ Bá Hùng, Sài Gòn 63. Đào Tấn Phần, giáo viên THPT Trần Quốc Tuấn, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên 64. Nguyễn Trường Sơn - Sinh viên, Bắc Ninh 65. Trịnh Hoàng Thanh, Z176, Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội 66. Đặng Vũ Lượng, Hà Nội 67. Facebooker Nguyễn Tiến Hưng, Biên Hoà 68. Blogger Aduku - Nguyễn Văn Dũng, Việt Trì - Phú Thọ 69. Blogger Nguyễn Việt Hùng , Hà Nội 70. Facebooker Anton Lê, Lê Thanh Tùng, Sài Gòn 71. Facebooker Lê Văn Tuynh, Phan Thiết, Bình Thuận 72. Kiến trúc sư Đào Tăng Lực, Sài Gòn 73. Nguyễn Minh Chính, Hà Nội 74. Nguyễn Đức Giang, Hà Nội 75. Kỹ sư Doãn Kiều Anh, Sài Gòn 76. Phạm Tiến Quốc, Sài Gòn 77. Nguyễn Công Thanh, Sài Gòn 78. Facebooker Vũ Ngọc Thắng, Hải Phòng 79. Dương Hoài Châu, Sài Gòn 80. Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Thanh Hóa 81. Kỹ sư Nguyễn Văn Phúc, Bình Định 82. Ngô Văn Hòa, Đà Nẵng 83. Nguyễn Thị Kim Hoa, Đà Nẵng 84. Kỹ sư Trần Quang Hưng, Sài Gòn 85. Nguyễn Hữu Sơn, Cần Thơ 86. Kỹ sư Nguyễn Dương, Sài Gòn 87. Blogger Nguyễn Ngọc Già, 88. Facebooker Canh Le, Lê Cảnh, Sài Gòn 89. Facebooker Từ Anh Tú, Bắc Giang 90. Nguyễn Hùng Cường, Hà Nội 91. Facebooker Bùi Chí Tâm, Quảng Ngãi 92. Nguyễn Hùng Anh, Sài Gòn 93. Facebooker Kbebui - Bùi Duy Diễn, Bình Định 94. Họa sĩ Nguyễn Hùng Sơn, Hà Nội 95. Nguyễn Bắc Truyển - cựu tù nhân lương tâm, Sài Gòn. 96. Đặng Hữu Ngọc, Long Khánh, Đồng Nai. 97. Nguyễn Thanh Trúc - tín đồ PGHH, Chợ Mới, An Giang 98. Nguyễn Văn Bông - tín đồ PGHH, Lấp Vò, Đồng Tháp. 99. Võ Thị Hồng, Sa-đéc, Đồng Tháp 100. Trần Văn Đức, - cựu tù nhân chính trị, Xuân Lộc, Đồng Nai 101. Huỳnh Trí Đức - tín đồ PGHH, Phú Tân, An Giang. 102. Nguyễn Ngọc Phương - cựu tù nhân chính trị, Nam Vang, Campuchia 103. Kỹ sư Hồ Văn Tích, Sài Gòn 104. Nguyễn Tiến Tuyền, Hà Nội 105. Blogger Lê Dũng, Hà Nội 106. Facebooker Nghiêm Việt Anh, Hà Nội 107. Sinh viên Cao Văn Khánh, Lai Châu 108. Blogger Trần Bùi Trung, Vũng Tàu 109. Trần Văn Tuấn - Chủ tịch UBND xã An Thạch, Tuy An, Phú Yên 110. Trần Xuân Sơn, Hà Nội 111. Kỹ sư Vi Nhân Nghĩa, Quảng Ninh 112. Nguyễn Xuân Liên - Giám đốc bảo tàng Chiến tranh Ngoài trời, Vực Quành, Đồng Hới, Quảng Bình 113. Nguyễn Hùng Cường, Sài Gòn 114. Nguyễn Đức Cang, Sài Gòn 115. Phan Văn Phong, Hà Nội 116. Lê Gia Khánh, Hà Nội 117. Phùng Thị Châm, Hà Nội 118. Trần Thúy Nga, Hà Nội 119. Trần Dân, Đà Nẵng 120. Lê Xuân Quang, Sài Gòn 121. Hồ Đức Thanh, Hà Nội 122. Trần Văn Nam, Hải Dương 123. Nguyễn Tiến Phong, Sài Gòn 124. Phan Trọng Khang, Tây Hồ, Hà Nội 125. Facebooker Đoàn Khôi Nguyên, Đà Nẵng 126. Đỗ Văn Đông, Nam Định 127. Linh mục Phê-rô Nguyễn Hữu Giải, Tổng giáo phận Huế, Khối 8406 128. Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi, Giáo phận Bắc Ninh, Khối 8406 129. Kiến trúc sư Đoàn Trần Trung, Hà Nội 130. Facebooker Jiraiya Saima - Vũ Quang Huy, Sài Gòn 131. Kỹ sư Dương Văn Minh, Biên Hòa, Đồng Nai 132. Lê Đức Huy - Học sinh, Hà Nội 133. Trương Minh Đức - Nhà báo tự do, Bình Dương 134. Nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh, Đà Lạt 135. Huỳnh Nhật Hải - cựu đảng viên, Đà Lạt 136. Huỳnh Nhật Tấn - cựu đảng viên, Đà Lạt 137. Sinh viên Nguyễn Quý Hiếu, Bắc Ninh 138. Trần Quốc Hùng, Sài Gòn 139. Hoàng Đức Trọng, Sài Gòn 140. Dương Sanh - Nhà giáo nghỉ hưu, Vạn Ninh, Khánh Hòa 141. Facebooker Trần Lý Phước Lợi, Bà Rịa – Vũng Tàu 142. Biện Xuân Bộ, Bắc Ninh 143. Trương Đình Tôn, Sài Gòn 144. Lê Hồng Quang, Hà Nội 145. Bùi Tiến Hưng, Long Biên, Hà Nội 146. Kỹ sư Nguyễn Hữu Trung, Hà Nội 147. Nguyễn Văn Sĩ, Bảo Lộc 148. Kỹ sư Nguyễn Phương Anh, Hà Nội 149. Kỹ sư Nguyễn Trung Lĩnh, Hà Nội 150. Lê Hồng Thủy - Giảng viên ĐH, Quận Tân Bình - Sài Gòn 151. Phạm Lê Hà Ly - Học sinh Trung học, Quận Tân Bình - Sài Gòn 152. Facebooker Doxu Nguyen - Nguyễn Thành Trung, Bình Dương 153. Nguyễn Dương Thành, Hà Nội 154. Bác Sỹ Trịnh Ngọc Tiến, Hà Nội 155. Hoàng Cường, Quận Ba Đình - Hà Nội 156. Facebooker Nguyễn Công Chính, Tân Bình - Sài Gòn 157. Facebooker Khổng Hy Thiêm -Kỹ sư điện, Cam Lâm, Khánh Hòa 158. Blogger Hoa Xương Rồng - Trần Khánh Dương, Phường Bình Trưng Tây Q2, Sài Gòn 159. Trần Khôi Nguyễn, Kỳ Hợp, Kỳ Anh, Hà Tĩnh 160. Phạm Trung Kiên, Tây Hồ, Hà Nội 161. Phạm Văn Biên, Hải Dương 162. Trần Hoài Nam, Bến Tre 163. Facebooker Lê Tường Vi, Tân Bình, Sài Gòn 164. Đinh Văn Nam, Hà Tĩnh 165. Trần Minh Tân, Research Scientist II ở Georgia, US 166. Lê Trọng Nghi - Kỹ Sư Điện Tử, Boston, Massachusetts, USA 167. Nguyễn Quang Minh, San Diego, CA - USA 168. Nguyễn Quốc Nam, Paris -FRANCE 169. Đinh Nhật Uy - Kỹ Sư CNTT, Long An 170. Đinh Văn Chuộn - Thợ Điện 7/7, Long An 171. Nguyễn Thị Kim Liên - Nội trợ, Long An 172. Hà Sĩ Phú - Tài Xế, Long An 173. Nguyễn Hồng Thái - IT, Long An 174. Hồ Trung Vĩnh - NV Ngân Hàng, Long An 175. Hoa Thanh Nguyen, New Oleans, Louisiana, USA 176. Nguyễn Quốc Hùng, Kiểm toán viên, Denmark 177. Nguyễn Huế, Fort Worth, Texas USA 178. Lê Văn Tám, Toronto, Canada 179. Dạ Thảo Phương, Hà Nội, Việt Nam 180. Facebooker AnhhùngChưanổidanh - Trương Xuân Trường, Thái Bình 181. Nguyễn Hoàng Hùng, 17a Leeds St, Footscray Victoria 3011 Australia 182. Nguyễn Lương Thịnh - Chuyên viên tư vấn đầu tư, Bình Thạnh, Sài Gòn 183. Bùi Quang Trung - Kĩ sư xây dựng, 3 Charles Péguy 77500 Chelles France 184. Nguyễn Quang, Houston, Texas, USA 185. Bác sĩ Nguyễn Thường Kính, 44 Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội 186. Nguyễn Văn Hùng, Philadelphia, PA, USA 187. Blogger Quỳnh Trâm Việt Nam, Bình Dương 188. Terry Lee, Sydney, Australia 189. Đỗ Đình Thọ - Làm nghề tự do, Koblenz, Germany 190. Huỳnh Hà Hoàng, 3401 Belair rd, Baltimore, Maryland 21213, USA 191. Nguyễn Hoàng Việt - Kinh doanh, Tân Bình, Sài Gòn 192. Phạm Ngọc Minh - Kiến trúc sư, Hành nghề tự do, Hà Nội 193. Trần Viết Dung, Kỹ sư, Fairfeld, Úc 194. Trần Viết Phúc, Sinh viên, Fairfield, Úc 195. Nguyễn Duy An, Sài Gòn 196. Facebooker Gatre Caolanh - Võ Thanh Hùng, Họa sĩ làm nghề tự do, Sài Gòn 197. Ngô Thị Hồng Lâm - Nghiên cứu lịch sử đảng (đã nghỉ hưu), Phường Rạch Dừa, Vũng Tàu. 198. Facebooker Hoangbui - Vũ Huy Hoàng - Kỹ sư, Tân Bình, Sài Gòn 199. Blogger Nguyễn Văn Thạnh - Kỹ sư, Đà Nẵng 200. Lê Thị Hồng Hạnh, Hà Nội 201. Lâm Thị Ngọc - Giáo viên THPT, Huyện Ngọc Lặc, Tỉnh Thanh Hóa 202. Blogger Nguyễn Công Huân - trang web Dân Luận, Aalborg, Đan Mạch 203. Hồ Trung Thạnh - Thợ điện, Ia grai, Gia Lai 204. Gs. Lưu Trung Khảo, Newport Beach, California, USA 205. Đinh Trí Nhật Huy, Sài Gòn 206. Vũ Quang Thông - Công nhân, Gia tân1, Thống nhất, Đồng Nai. 207. Blogger Mai Đây Hòa Bình - Nguyễn Huỳnh Mai, Quận 10, Sài Gòn 208. Nguyễn Thái Hùng - Kỹ sư, Vinh, Nghệ An 209. Facebooker Bee - Nguyễn Anh Nguyên, Sài Gòn 210. Blogger Dã Quỳ - Nguyễn Kim Du Hạ, Houston, Texas, Hoa Kỳ 211. Nguyễn Văn Nhiên, Nashville, Tennessee, USA 212. Nguyên Cao Sơn, Cầu Giấy, Hà Nội 213. Nguyễn Đông Phương - cựu cán bộ biên tập sách văn hóa, bộ VHTTDL, Hà Nội 214. Nguyễn Duy Hòa, Sài Gòn 215. La Kim Thi, Nashville, Tennessee, USA 216. Đinh Vạn Vĩnh Phát, Cử nhân CNTT, Sài Gòn 217. Vũ Mạnh Hùng – Nguyên giảng viên khoa Quản trị kinh doanh trường Cao Đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương Mại Hà Nội. Hiện là cán bộ quản lý khu nội trú của trường, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Hà Nội. 218. Hoàng Văn Trung, Yên Ninh, Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội 219. Trương Minh Đức, Warsaw, BaLan 220. Blogger Ký Tế - Nguyễn Phúc Bảo Long, Huế 221. Uông Minh Phương, Sài Gòn 222. Bác sỹ Trần Công Thắng, Kristiansand, Na Uy 223. Nguyễn Thanh Hải, Québec, Canada 224. Vương Quốc Tuấn - Kỹ sư công nghệ thông tin, Bình Quới, P27, Bình Thạnh, Sài Gòn 225. Nguyễn Duy Hòa, Sài Gòn 226. Võ Quốc Đạt - Tài xế, Cần Thơ 227. Mai Phúc Anh - Nhạc công, Cần Thơ 228. Trần Trung Nghĩa - Giáo viên, Cần Thơ 229. Lê Hoàng Phúc - thợ vẽ, Cần Thơ 230. Vũ Huy, Toronto, Canada 231. Trương Đông Sơn, 5245 East Main Street, Stockton, CA 95215, USA 232. Hoàng Văn Khởi, Hà Nội 233. Long Nguyen - Accenture, Consulting, Germany 234. Trương Tấn Phát, Kinh doanh, Melbourne, Australia 235. Họa sĩ Bùi Lộc, Munich, Germany 236. Phạm Hùng Vỹ - Doanh nhân, Sài Gòn 237. Hồ Tấn Vinh, Melbourne, Úc 238. Hồ Hồng Diễm, An Hải, Lý Sơn, Quảng Ngãi. 239. Tăng Trọng Thức, Sài Gòn 240. Đỗ Như Phương - Phiên dịch, Budapest, Hungary 241. Lò Đình Vũ, thôn Lâm Nghĩa, xã Phi Tô, huyện Lâm Hà , tỉnh Lâm Đồng 242. Blogger YTDCVN - Dovan, Nam Úc Australia 243. Nguyễn Văn Dũng - Du học sinh tại Nhật, Tokyo, Japan 244. Trần Thị Hiền Chi - Học sinh cấp 3, Hà Nội 245. Phạm Ðức Dũng - Kỹ Sư, Euless Texas, USA 246. Trần Văn Toàn - Sinh viên, Đà Nẵng 247. Nguyễn Thế Anh - Sinh viên, Hà Nội. 248. Lê Như, Sydney - Australia 249. Bùi Minh Thắng, Quảng Ngãi 250. Facebooker Võ Lâm Viễn, Đà Nẵng 251. Peter Pham, 1460 Contra Costa, Pleasant Hill, CA 94523, USA 252. Nguyễn Hữu Đức, Mount Pleasant ,Texas, USA 253. Nguyễn Ngọc Anh - Cử nhân Công nghệ thông tin, Quảng Nam 254. Nguyễn Vinh Hiển, Portland, Oregon USA 255. Phạm Hoàn Vũ - Doanh nhân, Sài Gòn 256. Blogger Đỗ Minh Tuyến, Bangkok, Thái Lan 257. Nguyễn Minh Châu - Thợ mộc, Sài Gòn 258. Trầm Minh, Paris, Pháp 259. Cao Thị Nhung, Sài Gòn 260. Phùng Thị Ly, Sài Gòn 261. Phạm Hac Tùng; 2 Broad St West Fotscray Vic 3012 Australia 262. Lâm Phước Đông, Boston, Massachusetts USA 263. Cao Minh Đức, Loeningen, Germany 264. Nguyễn Thị Diễn, Loeningen, Germany 265. Nguyễn Tấn Tài - Sinh viên, Boston, Massachusetts, USA 266. Ts Trần Diệu Chân, Sacramento, California, USA 267. Trần Nhân Tâm, München, Bayern, Germany 268. Trần Xuân Chính - Kỹ sư, Garden Grove, California, USAUSA 269. Nhà thơ Trúc-Ty, Facebook: Truc Ty, Đồng Nai 270. Linh Mục Peter Nguyễn Văn Hùng, Đài Loan 271. Lê Trần Vinh - Kỹ sư Công nghệ sinh học, Facebook Vinh Lê Trần, Hà Nội 272. Đặng Đình Tấn Trương - FB Trái Tim Băng Giá, Sinh Viên Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên, Sài Gòn 273. Trần Ngọc Thành, Thành phố Warszawa, CH Balan 274. Trần Mạnh Thắng - Kỹ sư vi tính, Hildesheim, Đức 275. Nguyễn Thị Thu Liên - Chủ tiệm cắt tóc, Hildesheim, Đức 276. BS Đinh Xuân Dũng - Cựu Dân Biểu Việt Nam Cộng Hòa, San Jose, CA, USA 277. Nguyễn Tuấn, San Jose, California, USA 278. Oanh Nguyen - Orange County, California, USA 279. Luật sư Vũ Đức Khanh, Ottawa, Canada 280. Nguyễn Hồ Nguyễn - Công dân, Sài Gòn 281. Nguyễn Quốc Bảo - Sinh Viên, Quảng Ngãi 282. Sơn Nguyễn, Grand Prairie, hạt Tarrant, Tiểu bang Texas, USA 283. Nguyễn Ngọc Hùng, Boston, Massachusetts, USA 284. Ts Nguyễn Quang A, Hà Nội 285. Vũ Thư Hiên - Nhà văn, Paris, Pháp 286. Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt, Los Angeles, California, USA 287. Vũ Thế Phan - Chuyên viên vi tính, viết báo tự do, Paris, Pháp 288. Blogger Nguyễn Chí Phương, Hà Nội 289. Facebooker Hư Vô - Đào Trang Loan, Hà Nội 290. Nguyễn Gia Kiểng - Hoạt động dân chủ và nhân quyền, Paris, Pháp 291. Nguyễn Chí Hiếu - Kiến trúc sư, Facebook: Heonardo Hieu, Phú Nhuận, Sài Gòn 292. Trần Phong, Ing. Robert Dunz Str. 1/2, 2640 Gloggnitz, Austria 293. Trang Trầm, Fort Smith, Arkansas, USA 294. Facebooker Nguyễn Văn Thanh, Yên Thế, Bắc Giang 295. Hoàng Triết - Phong Trào Con Đường Việt Nam, San Jose, California, USA 296. Lê Công Minh, Norristown, PA, USA 297. Blogger Vọng Ngày Xanh - Đỗ Văn, Villers La Ville, 1495, Belgique. 298. Nhat Vo, Toronto, Canada 299. Anh Le - Kỹ sư CNTT, Boston, Massachusetts, USA 300. Lê Quốc Anh - Sinh viên, Lâm Đồng 301. Nghiêm Sĩ Cường - Kinh doanh, cử nhân, Quan Thổ 1, Tôn Đức Thắng, Hà Nội. 302. Vinh Hoang, Brampton, ON, Canada 303. Lê Đ. Quang - Doanh nhân, Seattle, Washington, USA 304. Phạm Duy Thọ, Sinh viên, Thanh Hóa - Ms-Ph.D Student, Sungkyunkwan University, Suwon, 440-746, Korea 305. Nguyễn Xuân Việt, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh 306. Mike Nguyen - Engineer, Westminster, California, USA 307. Vũ Chí Dũng - Kỹ sư cơ khí, Hà Nội 308. Le Mai Linh - Thi Sĩ, Nhà Văn, Pittsburgh, Pennsylvania, USA 309. Nguyễn Kim Tuấn, Sài Gòn 310. Tin Nguyen - Công nhân, CH- 4665 Oftringen Switzerland 311. Nguyen Thi Bao Hue, Viet Tri 312. Hà Hữu Dũng, Regensburg, Bayern, Đức Quốc 313. Hoàng Quế Trân, Vancouver, Canada 314. Nhà thơ Huyền Lâm, Lawrenceville, Georgia, USA 315. Nguyễn Hòa - Cao học hành chánh, 1703 24 th Ave, Oakland , CA 94601, USA 316. Nguyễn Xuân Bảo - Sinh viên trường Kokusaiyohokeizaisenmon, Saitama, Nhật Bản 317. Chinh Dung Ho - IT, Fountain Valley, California, USATai Nguyen, Bern, Switzerland 318. Trần Văn Terry - Công nhân, Irvine, CA USA 319. Nguyễn Thành An - Mechanical Engineer, Covington, Georgia 30014, USA 320. Nguyễn Sỹ Tuấn - Hoạ sỹ, Sài Gòn 321. Nguyen Minh Quang, Austin, Texas, USA 322. Văn Công Quang, 10882 Cedar St, Stanton, California, 90680, USA 323. Tan Le, 3 Westcombe Pk, W. Henrietta, NY 14586, USA 324. Trần Lê Vân, Calgary-Alberta, Canada 325. Nguyễn Nam Quan, Austin, Texas, USA 326. Phụng Hoàng Tuyết Victoria, Australia 327. Tống Ngọc Phan An - Dược sĩ, Temple, Texas, USA 328. Đỗ Minh Tiến, Bergen- Norway 329. Khuyen Do, South Dakota, USA 330. Nguyễn Võ Thanh Hùng - Cử nhân Vi Tính, Dortmund, Germany 331. Hoàng Sơn Long, San Jose, California, USA 332. Phạm Đức Hoài, quận Ba Đình, Hà Nội 333. Nguyễn Trung Hải - Buôn bán, Praha, Czech 334. Nguyễn Quỳnh Anh, Ban Mê Thuột 335. Peter Le, Glen Waverey, Vic 3150, Australia 336. Facebooker Lạc Việt, Santa Ana, California, Hoa Kỳ 337. Blogger Hồ Gươm - Trần Minh Trường, BTV Dân Luận, Nürnberg, Germany 338. Lại Hải Hà, Hà Nội 339. Ls Đoàn Thanh Liêm, Costa Mesa, California, USA 340. Nguyễn Chính Kết - Thành viên Ban Điều hành Khối 8406, Houston, Texas, USA 341. Lê Nguyên Long, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 342. Đinh Thị Thanh Dung, 6 Carnation Crescent, Sittingbourne, Kent, England 343. Blogger Nguyễn Hùng, Sydney Australia 344. Nguyễn Quang Duy - nhà báo, Melbourne, Úc Đại Lợi 345 Bùi Tín - Nhà báo tự do, Paris, Pháp 346. Blogger Truyền Tấn - Raymond Trần Tiếng, San Diego, California 347. Kiều Việt Hùng, Thiên Tôn, Hoa lư, Ninh Bình 348. Anh-Thy Huynh, MS, OD - Bác sĩ Nhãn khoa, San Jose, California, USA 349. Ngô Duy Quyền - Kỹ sư cơ khí, Khu tập thể Phương Mai, Ngõ 4, phố Phương Mai, Hà Nội 350. Lê Thị Công Nhân - Luật sư, Khu tập thể Phương Mai, Ngõ 4, phố Phương Mai, Hà Nội 351. Nguyễn Anh Tâm - Giám đốc công trình, project manager, Canada 352. Phạm Văn Thành - Cụu tù chính trị A20 VN / Lưu vong, Paris, Pháp 353. Lê Tấn Tài, Montréal, Canada 354. Lê Tấn Phú, Montréal, Canada 355. Nguyen Dung Khanh, Sacramento, California, USA 356. Nguyễn Đức Long, Regensburg, CHLB Đức 357. Nguyễn Hồng Lĩnh, Orange County, California, USA 358. Tôn Văn Niên, 100 West 1st Street, Los Angeles, California, USA 359. Hong Nguyen, University of Florida, Florida, USA 360. Nguyễn Quang Tuyến, San Francisco, California, USA 361. Vũ Khánh Thành, cựu Nghị Viên thành Phố Hackney London (2002 -2006), Giám Đốc hội An Việt tại Vương Quốc Anh. 362. Nguyển Lân, Houston, Texas USA 363. Nguyễn Đình Hà - Cử nhân luật, Hà Nội 364. Lâm Trọng Hiếu, San Jose, California, USA 365. Huỳnh Hùng, 4333 Old Meadow Clay NY 1404, USA 366. Facebooker Duymacat Pham - Phạm Đăng Nghi, Programmer, Seattle, Washington, USA 367. Ben Phan, Ontario, Canada 368. Hien Nguyen, Houston, Texas, USA 369. Ngô Cao Chi - Kỹ sư điện (BSEE), nguyên giáo viên cấp 3 môn Lí tại VN, Florida, Hoa Kỳ. 370. Vũ Đình Kh - Nhà văn, Vancouver, BC, Canada 371. Facebooker Đặng Tiến Quân - Facebook: Dang Tien Quan, Vũng Tàu 372. Nguyễn Thị Mỹ, Hawaii, USA 373. Trần Văn Thuật, Hawaii USA 374. Blogger David Thiên Ngọc, Chicago, Illinois, USA 375. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng, Arizona, Hoa Kỳ 376. Lý Trung Tín - Chủ Nhiệm Tạp Chí Dân Văn, Postfach, Bochum, Germany 377. Trần Đức, Nhân viên Vi tính, Paris, Pháp Quốc 378. Dinh Vu, Garden Grove, California, USA 379. Phạm Quang Tuấn, Lakeside, Garden Grove, California, USA 380. Blogger Chấn Minh, Rockville, Maryland, USA 381. Nguyễn Sơn Nam - Tiến sỹ kinh tế, Sacramento, California, USA 382. Van Do, Fremont, California USA 383. Nguyễn Ngọc Trác, San Jose, California, USA 384. Huỳnh Dũng - Công nhân, 29 Bayberry NY, USA 385. Khoa Trần, Tiến Sĩ Hóa Học, Calgary, AB, Canada 386. Jimmy Phạm, Houston, Texas, 77077, USA 387. Dang Heidi, 7987 Leary Way, Redmond, Washington 98052, USA 388. Đàm Quang Minh, Chung cư Phú Thọ, Quận 11, Sài Gòn 389. Trương Ngọc Thu, Anaheim, California, USA 390. Dương Thị Minh Hồng, Regensburg, CHLB Đức 391. Nghiêm Hữu Hùng, Albany, California 94706, USA 392. Richard Lam, Chicago, Illinois, USA 393. Lê Vũ Anh Quốc Kỹ sư cơ khí, San Jose, California, USA 394. Thuấn Trần - Công nhân xưởng in, Aalborg, Đan Mạch 395. Trần Xuân Chương, Belmore, NSW 2192 Australia 396. Lê Bình Minh, Q. Long Biên, Hà Nội 397. Bs Nguyễn Kính, Asthabula, Ohio, USA 398. Đỗ Long - Hưu trí, Philadelphia, PA, USA 399. Mya Hoang, Santa Monica, California, USA 400. Nguyễn Nam Việt, Kansas City, KS 66111, USA 401. Blogger Tran-Square1, Charles Town, WV, USA 402. Nguyễn Quốc Tuấn - Engineer, Palm Bay, Florida, USA 403. Mike Nguyễn - Engineering Manager, Grand River, Novi, Michigan 48375, USA 404. Nguyễn Hữu Phước, San Jose, California, USA 405. Nguyễn Minh Khang - Nhân viên vi tính, Sài Gòn 406. Nguyễn Duy Khoi San Jose, USANguyễn Thị Yến San Jose, California, USA 407. Nguyễn Duy Kiên San Jose, California, USA 408. Nguyễn Thục Sa San Jose, California, USA 409. Nguyễn Anh Trúc San Jose, California, USA 410. Phạm Minh Tuấn - Nhân viên văn phòng, Phường Hội Phú, Pleiku, Gia Lai 411. Nguyễn Văn Quang, Erfurt CHLB Đức 412. Blogger Lee Tiến Huy - Kế toán, San Diego, California, USA 413. Nguyễn Công Đức - Kỹ sư điện tử, Irving, Texas, USA 414. Nguyễn Anh Vinh - Kỹ Sư Điện Toán, Fort Collins, Colorado, USA 415. Facebooker Minhhieubui - Bùi Minh Hiếu, Sài Gòn 416. Michael Trần - Electrical Engineering, Bronx, New York, USA 417. Van Luan Dang, Eislingen, Tây Đức 418. Trần Tiến Hưng - Kinh doanh, Plzen, Cộng hòa Czech 419. Lương Lê Thị Lương, Kinh doanh, Plzen, Cộng hòa Czech 420. Trần Ngọc Vân - Lập trình viên Microsoft, Plzen, Cộng hòa Czech 421. Trần Thu Trang - Bác sỹ nhi khoa, Praha, Cộng hòa Czech 422. Vaclav Trần - Học sinh, Plzen, Cộng hòa Czech 423. Trần Phúc Châu, Thanh Xuân, Hà Nội. 424. Nguyễn Hiêm, Bronx, New York USA 425. Thomas Nguyen - Contractor, Sacramento, CA, USA 426. Nguyễn Công Sơn - Du học Sinh, Helsinki, Phần Lan 427. Trần Thanh Trác - Kinh doanh, Sài Gòn 428. Ngô Lê Bảo Anh - Kế toán, Sài Gòn 429. Nguyễn Văn Bửu, Pasadena, Texas, USA 430. Ts Lê Văn Điền, Kraków, phố ul, Józefińska 7/3, Balan 431. Peter Nguyen - Private Detective, Atlanta Georgia, USA 432. Huỳnh Văn Tuấn, Cần Thơ 433. Kevin Nguyễn, San Antonio, Texas, USA 434. Nguyễn Thanh Quan - Nội trợ, Quận 3, Sài Gòn 435. Cuong Pham, San Diego, CA 92115, USA 436. Đỗ Thanh Long - Sửa xe, Bến Vân Đồn P. 5 Quận 4, Sài Gòn 437. Nguyễn Thăng Long - Làm nấu bếp, Birnauer.18,80809, Munich, CHLB Đức 438. Đoàn Dũng - Chuyên viên Địa ốc, San Diego , California, USA 439. Nguyễn Anh Vinh - Kỹ Sư Điện Toán, Fort Collins, Colorado, USA 440. Lê Đoàn Thể, Ngõ 252 phố Minh Khai, Hà Nội 441. Bloger William Trương, Houston, Texas, USA 442. Bùi Thị Hiền - Accountant, New York, USA 443. Thinh Lam, Ecchappe Ln, Louisville, Ky 40118, USA 444. Lương Tất Đạt - FB blogger, Pittsburg, CA 94565, USA 445. Trần Đức Minh, 2713 N 115th Dr, AZ 85392, USA 446. Trịnh Vân Hạc, Clichy, Pháp Quốc 447. Lan Pham - Tài Chánh kế toán, Lawrence, MA 01843, USA 448. Tiến Văn Miếu - Họa sĩ Nguyễn Văn Tiến, Hà Nội + Sài Gòn 449. Võ Minh Tâm, Boise, ID, USA 450. Facebooker Trần Xuân Bách - Nhân viên văn phòng, biên dịch viên, Quận Đống Đa, Hà Nội. 451. Phạm Trung Vinh - Facebooker Anh Sau Kien Giang, California, USA 452. Nguyễn Ngọc Bảo - Kỹ sư, Paris, France 453. Thanh Lan Đặng, Anaheim, California, USA 454. Vũ Vân Sơn - Nguyên hội trưởng Hội người Việt Nam Berlin & Brandenburg, Germany 455. Nguyen Vu - Programmer Analyst, Atlanta, Georgia, USA 456. Canh Pham, Sydney, Australia 457. Nguyễn Hữu Dõng - Hưu trí, Koeln, Germany 458. Nguyễn Tuấn Anh - Blogger Triệu Bàn Tay, Tây Ninh 459. Bùi Lý Sơn, Lý Sơn, Quảng Ngãi. 460. Phạm Toàn Thắng, Kmentova 85/II, Jindřichův Hradec, CH Czech 461. Lê Cường - Webmaster Tự Do Ngôn Luận - Khối 8406, San Jose, California, USA 462. Facebooker Trương Đường, Praha, Cộng Hòa Czech 463. Thomas Tran, Pasadena, California, USA 464. Đinh Nguyen, Houston, Texas, USA 465. Đặng Văn Ngọc, Calgary, AB Canada 466. Trần Nguyệt Nga - Nhân viên Văn phòng, Cà Mau 467. Hưng Lê - cựu giáo viên THPT 1979, Hộ Phòng, Minh Hải 468. Phan Quang Sự, Forest Hill, Vic 3131, Australia 469. Phạm Minh Khang - Sinh viên, Sài Gòn 470. Đinh Nguyễn Thanh Hùng, Sài Gòn 471. Vũ Anh - Cử nhân Luật, Hà Nội 472. Nguyễn Thị Thanh Hoa - Giáo viên, Sài Gòn 473. Huỳnh Công Can - Sinh Viên, Sài Gòn 474. Nhà thơ Thu Lan - Facebook / Thu Lan Nguyen, Tuscaloosa, Alabama, USA 475. Nguyễn Quế Hương, Kỹ sư Xây dựng, Sài Gòn 476. Hung Phan, Dallas, Texas, USA 477. Vo Tru, Virginia Beach, VA USA 478. Ha Nguyen - Mechanical Engineer, Houston, TX 77082, USA 479. Do Long, Philadelphia, PA, USA 480. Vu Huy - B.S of Health Science, University of Western Canada, Toronto Canada 481. Hương Trần - Bác sĩ, New York, USA 482. Hanh Nguyen, Springfield, Virgina, USA 483. Trần Văn Long, Huyện Bù Đăng, Tỉnh Bình Phước 484. Nguyễn Văn Hiến - Về hưu, Melbourne, Australia 485. Tô Quang Vinh, Hà Nội 486. Chi Nguyen - GGUSD, Garden Grove, California, USA 487. Hồ Đắc Tâm, Anaheim, California, USA 488. Tuan Ha, Washington DC, USA 489. Nguyễn Toàn Thắng, Miếu Hai Xã, Dư Hàng, Lê Chân, Hải Phòng 490. Le Phu Hung - Machinist, Toronto, Ont, Canada 491. Trần Thúc Lân - Họa sĩ, Paris, Pháp quốc 492. Lan Trần, Paris, Pháp quốc 493. Peter Việt Nguyễn, New Orleans, Lousiana, USA 494. Nguyễn Thị Hoa, New Orleans, Lousiana, USA 495. Nguyễn Độc-Lập, New Orleans, Lousiana, USA 496. Nguyễn Tự-Do, New Orleans, Lousiana, USA 497. Nguyễn Nhân-Quyền, New Orleans, Lousiana, USA 498. Nguyễn Ngọc Hạnh, New Orleans, Lousiana, USA 499. John Nguyen, Old Bridge, NJ 08857, USA 500. Sơn Hoàng, Sydney, Australia 501. Blogger Nguyễn Chí Đức, Hà Nội 502. Nguyễn Thị Thanh Bình - Nhà văn / nhà thơ, Washington D.C, USA 503. Huỳnh Văn Quân, Seattle WA, 98146, USA 504. Huỳnh Cảnh Luân, Paris, Pháp 505. Nguyễn Bích Thủy, Melbourne, Australia 506. Nguyễn Bích Loan, Melbourne, Australia 507. Huỳnh Thanh Tuấn, Melbourne, Australia 508. Trần Ngoc Hảo, Melbourne, Australia 509. Nguyễn Ngọc Diễm, Melbourne, Australia 510. Lisa Nguyễn, Melbourne, Australia 511. Ken Le, Melbourne, Australia 512. Kevin Le, Melbourne, Australia 513. Nguyễn Bích Vân, Melbourne, Australia 514. vNguyễn Văn Vinh, Regina, Canada 515. Lê Đinh Hồng - Kế toán, 2481E 28th, Vancouver B.C, Canada 516. Lê Thị Nhàn - Nội trợ, 2481E 28th, Vancouver B.C, Canada 517. Huỳnh Văn An, Quận 1, Sài Gòn 518. Lê Thị Xuân, Quận 1, Sài Gòn 519. Huỳnh Văn Lạc, Quận 3, Sài Gòn 520. Huỳnh Văn Lành, Thủ Đức 521. Huỳnh Thị Mỹ Anh, Thủ Đức 522. Ts Nguyễn T. A. Hiệp Hòa - Giám đốc, Pasadena, California, USA 523. Nguyễn Thị Minh Phước - Social worker và cô giáo dạy học, Orlando, Florida USA. 524. Vĩnh Liêm - Poet, Washington DC, USA 525. Trần Trung, Roxbury, New Jersey, USA 526. Đặng Văn Nam, Orange County, California, USA 527. Trần Văn Huấn - Công nhân, Sài gòn 528. Bui Thuy Hoa, Maple, Vaughan, Ontario, Canada 529. Ha Thanh, Maple, Vaughan, Ontario, Canada 530. Nguyễn Trần Huân, Atlanta, GA, USA 531. Phạm Hoàng Sơn, Kemp Forest, Houston Texas 77080, USA 532. Nguyễn Ngọc, Camden, NSW, Australia 533. Nguyễn Kim, Camden, NSW, Australia 534. Nguyễn Công, Camden, NSW, Australia 535. Denver Nguyen - Realtor, Garden Grove, California, USA 536. Đoàn Công Nghị - công dân tự do, Nha Trang 537. Phi Vũ - Công nhân, Orange County, California, USA 538. Huỳnh Kim Ngọc, Louisville, Kentucky, USA 539. Hon Do - Kỹ sư cơ khí, Mont Albert North, Victoria 3129, Australia. 540. Lan Pham, San Jose, California, USA 541. Phạm Tường Lân - Software Engineer, Toronto, Canada 542. Hồ Tấn Vinh, Melbourne, Australia 543. Trương Minh Tịnh - Thương gia, 32 Stoddart Rd., Prospect 2148, Australia 544. Nguyễn thị Thanh Vân, Paris, Pháp quốc545. Minh Trình Nguyễn - Cựu chiến binh, nguyên Cán bộ nghiên cứu Viện Mác-Lênin Hà Nội, Emser Str.27, 56076, Koblenz, Germany 546. Tô Đỗ Khắc Huy - Software Engineer, 5755 Andover Way, Tucker, GA, USA 547. Nguyễn Thị Bích Hằng, Emser Str.27 - 56076, Koblenz, Germany 548. Lưu Quốc Chiêu, 18246 Blythe St. Reseda, CA 91335, USA 549. Nguyễn T. Mỹ Linh - Sinh viên, 13830 Hoover street, Westminster, CA 92683, USA 550. Nguyễn Bá Phúc - Ks Thủy lợi, Cần Thơ 551. Cai Trong Phung - Kế toán, TAS Taxation & Accounting Solutions, Sydney, Australia 552. Nguyễn Ngọc Sơn - Cựu tù nhân chính trị, Atlanta, Georgia, USA 553. Dinh Vu, Houston, Texas, USA 554. Nguyễn Hữu Phước - Công nhân, Etten-Leur, Hòa Lan. 555. Trương Thị Tường Anh - Nội trợ, Etten-Leur, Hòa Lan. 556. Nguyễn Phước Anh Quang - Học sinh, Etten-Leur, Hòa Lan. 557. Nguyễn Vân Anh - Học sinh, Etten-Leur, Hòa Lan. 558. Tyler Tiến Lê, Alabama, USA 559. Anna Kim Nguyễn, Alabama, USA 560. Facebooker Nguyễn-Việt Phúc-Lộc, Bern, Switzerland 561. Tha Nhân - Trần Chương Lương, Westminster, California, USA 562. Phương Duy, Melbourne, Australia 563. Nguyễn Christine, Tempe City, California, USA 564. Tiểu Ngọc Nguyễn - Victoria - Australia 565. Đăng Cao Hoàng - Kỹ sư dầu khí, về hưu, Fairfax Station, Virginia, USA 566. Đặng Sơn Minh, Seattle, WA - USA 567. Hoài Duy Phương, Charlotte, NC, USA 568. Lý Thường - Công Nhân, Perth, Australia 569. Nguyen Hien Quan, Alberta, Canada 570. Nguyễn Thái Trúc, San Diego, CA, USA 571. Jo Vu - Broker, 12288 Westheimer Rd Ste 390, Houston, TX 77077, USA 572. Lê Lão Trượng - Công dân, Sài Gòn 573. Nguyễn Xuân Thọ - Kỹ sư truyền thông, 50933 Köln, CHLB Đức 574. Lê Minh - Stormwater Engineer, Sydney, Úc 575. Trương Thế Minh, 17522 57th Ave. W. Lynnwood, WA 98037, USA 576. Nguyễn Thanh Phong - Thợ hàn, Québec, Canada 577. Nguyễn Xuân Long, Đại học Michigan, USA 578. Đặng Hoàng Phúc, Melbourne Australia 579. Lý Thy Dân - Hưu trí, Fairfax, Virginia, USA 580. Lê Hồng Phong, 6 O'Briens Road, Figtree NSW 2525 581. Nguyễn Mạnh Cường, Praha, Cộng hòa Czech 582. Phùng Mai - Voice Engineer, Victoria Australia 583. Nguyễn An, Florida, USA 584. Tj Nguyễn Houston, Texas 77072, USA 585. Tan Nguyen, Manchester, New Hampshire, USA 586. Nguyễn Viết Lý, San Jose, California, USA 587. Nguyễn Phương Đằng - Kỹ Sư, Adelaide, Úc Đại Lợi. 588. Vũ Quốc Hùng - Kỹ sư Hạt Nhân Cty Areva GmbH, Erlangen, CHLB Đức 589. Nguyễn Chiêu Anh, San Jose, California, USA 590. Blogger Pham Hanh - Quảng Nam 591. Phan Lê Vũ, Queensland, Australia 592. Phan Quang Nhi, Nguyễn Trải, Cần Thơ 593. Nguyễn Giao, San Diego, California, USA 594. Huynh Loi, Medford, MA, 02155, USA 595. Nguyễn Van Xoang - Doanh nhân, Leipzig, CHLB Đức 596. Thi Chanh Do, Atlanta, GA, USA 597. Hoàng Văn Dũng, Hải phòng 598. Long Điền - Nhà văn, Tampa, Florida, USA 599. Nguyễn Tiến Luận, Long Khánh, Đồng Nai 600. Nguyễn Hòa Bình, B3 Tập thể Thanh Xuân Bắc, Hà Nội601. Blogger Osin, Nhà báo Huy Đức, Sài Gòn 602. Bác sĩ Lê Đình Phương - Blogger, Sài Gòn 603. Cao Minh Đạo - Công Dân, Sài Gòn 604. Facebooker Tiến Văn Miếu - họa sĩ Nguyễn Văn Tiến, Sài Gòn 605. Phan Thanh Minh, Quảng Nam 606. Phạm Văn Trội, Hà Nội 607. Bùi Phi Hùng - Facebook phi.hung.92 - Cán bộ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội 608. Võ Thanh Ân - Kỹ sư Tin Học, Xã Phước Mỹ Trung, Mỏ Cày Bắc, Bến Tre. 609. Đào Minh Châu - Cơ quan Hợp tác Phát triển Thuỵ Sỹ tại VN, 44B Lý Thường Kiệt, Hà Nội 610. NguyễnThanh Hải - Kỹ sư, Huế 611. Nguyễn Thị Quỳnh Như, Biên Hoà, Đồng Nai 612. Trần Đại Sơn, Kỹ sư CNTT, Nghệ An 613. Lê Thanh Trường - Phóng viên, Đà Nẵng 614. Trần Văn Công - kỹ sư, Hải Dương, hiện đang làm việc tại Cầu giấy, Hà Nội 615. Trần Nam Thiên - Doanh nhân, Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Sài Gòn 616. Nguyễn Xuân Tùng, Cát Bi, Hải An, Hải Phòng 617. Lê Văn Ái - Cử Nhân Kinh tế, Tân Thới nhất, Q12, Sài Gòn 618. Hoàng Việt Đăng, Hà Tĩnh 619. Nguyễn Văn Mẫn - Nhân viên văn phòng, Sài Gòn 620. Nguyễn Văn Lý - Cử nhân Sư phạm Tin học, Hà Tĩnh. 621. Bùi Ngọc Mai - Thợ sửa xe, Duy Tân, P.15, PN, Sài Gòn 622. Lê Đoàn Thể, Ngõ 250 Minh Khai, Hà Nội 623. Nguyễn Việt Anh, Kyoto, Nhật Bản 624. Nguyễn Anh Quân, Manila, Philippine 625. Trần Hiệp, Boston, Massachusetts, USA 626. Lê Dũng, Sugar Land, Texas, USA 627. Trần Trinh, Sugar Land, Texas, USA 628. Võ Phú - Kỹ Sư, Louisiana, USA 629. Tina Phạm,Huntington Beach,CA, USA 630. Nguyễn Quốc Trung và 4 thành viên gia đình, Công nhân hãng chep pallet, Melbourne, Australia 631. Bobby Nguyen, Garden Grove City, California, USAUSA 632. Henry Hien Pham - Sr. Telecommunication Engineer, Dallas, Texas, USA 633. Trịnh Bích Thủy - Kỹ sư môi trường, Saint Cloud, Pháp 634. Trịnh Trung Hiếu - Kỹ sư thống Kê, Clichy, Pháp 635. Trịnh Anh Dũng Phap, Clichy, Pháp 636. Nguyễn Thị Hà Quyên, Ottawa, Ontario, Canada 637. Hoàng Tuấn, Allentown, PA, USA 638. Nguyễn Thị Nhật Tân, Slidell, Louisiana, USA 639. Nguyễn Thiện Thanh, Fountain Valley, California, USA 640. Nguyễn Minh Quang, 1221 Delta ave, Burnaby, BC, Canada 641. Mã Thành Long, Rosmead, California, USA 642. Đỗ Văn Phúc, Nhà văn, cựu Tù nhân Chính trị, Austin, Texas, USA 643. Ngô Khoa Bá, Houston, Texas, USA 644. Vũ Lưu Linh, Montreal, Canada 645. Vũ Hùng - Kỹ sư điện, Melbourne, Victoria, Australia 646. Nguyễn Hữu Việt, Slidell, Louisiana, USA 647. Trần Tuấn, Vancouver, Canada 648. Andy Vu, San Diego, CA 92126, USA 649. Dương Tràng, Los Angeles, CA 90017, USA 650. Nguyễn Văn Hường - Công dân tự do, Connecticut, USA 651. Hòang Văn Sơn - nhân viên chuyển phát thư bưu điện, Canley Vale NSW 2166, Australia 652. Nguyễn Anh - Cựu sĩ quan QLVNCH, Charlotte NC, USA 653. Hùng Nguyễn - blogger and facebooker, Sydney, Australia 654. Trương Kim - Care worker, 17 Scott Avenue, ST Albans VIC 3021, Australia 655. Ngô Thuỳ Linh - Công dân, San Jose, CA , USA 656. Nguyễn Hùng Phi, South Australia, Australia 657. Hạnh Đào, Cincinnati USA 658. Phạm Thu - công dân Việt Nam tự do, Fairfield, NSW Australia 659. Facebooker Lữ Thứ, blog www.vietwebradio.net, Washington DC, Hoa Kỳ 660. Nguyen Hoa, 5412 Queensberry Ave, Springfield, VA 22151, USA 661. Vu Quach, Melbourne, Australia 662. Trương Việt Hoàng - Kỹ sư, Anaheim, California, USA 663. Tuấn Trương, University of Texas, Austin, TX, USA 664. Lê Viết Hà- Kỹ sư điện, Đà Nẵng 665. Võ Kim Lộc - Facebook: Louis Vo, Quảng Nam 666. Bach Long Giang, Hà Nội 667. Hà Nguyễn Bình - Chuyên viên kỹ thuật, Toronto, Canada. 668. Lê Thế Bình Phương, Ottawa, Ontario, Canada 669. Trần Thị Xuyến, Ottawa, Ontario, Canada 670. Therese Do, Ottawa, Ontario, Canada 671. Lê Thế Quốc Việt, Ottawa, Ontario, Canada 672. Lê Thế Quốc Nam, Ottawa, Ontario, Canada 673. Lê Phương Thảo Trần, Ottawa, Ontario, Canada 674. Lộc Phạm, Melbourne, Australia 675. Bích Thủy Trần, Melbourne, Australia 676. Nhật Thảo Phạm, Melbourne, Australia 677. Khôi Nguyên Phạm , Melbourne, Australia 678. Minh Khôi Phạm, Melbourne, Australia 679. Nguyễn Quang Bân, Tampa City, Florida, Hoa kỳ 680. Steve Phan, Houston, TX 77064, USA 681. Phạm Văn Hải, Alberta, Canada 682. Nguyễn Đức Hạnh - Kỹ sư điện, Hà nội 683. Huỳnh Tấn - Cựu học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử Saigon, Sài Gòn 684. Nguyễn Thành Trung, Biên hòa 685. Trần Quốc Hải - Tiến sĩ, Ngõ 36 Đào Tấn, Hà Nội 686. Blogger Lê Anh Hùng, Hà Nội 687. Đinh Tấn Lực, Blogger, Pờ Y, Sài Gòn 688. Blogger Trịnh Hùng - CPA, Melbourne, Australia 689. Hoàng Sơn, Thái Bình 690. Trần Thị Kiều Liên, Sài gòn 691. Nguyễn Thị Thu Trang, Montreal, Canada 692. Nguyễn Ngọc Thương, nông dân bần cùng mạt hạng - Facebook Giuse Nguyễn Ngọc Thương, Thôn Phước Thọ, Xã Tân Phước, Thị xã La Gi, Tỉnh Bình Thuận 693. Đinh Hạ Hùng - Công Dân, Sài Gòn 694. Nguyễn Minh Mẫn, Misissauga, Ontario, Canada 695. Nguyễn Thị Nguyệt Nga, Misissauga, Ontario, Canada 696. Phạm Hồng Hải, Cô Bắc, P. Cô Giang, Q1, Sài Gòn 697. Huỳnh Đan Châu, Houston, Texas, USA 698. Huỳnh Nam Khoa, Houston, Texas, USA 699. Huỳnh Ngọc Phước, Houston, Texas, USA 700. Facebooker Chuan Vu - Vũ đình Chuẩn, Sài Gòn 701. Nguyễn Tường Thụy - Blogger, Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội 702. Kỹ sư Đỗ Nam Hải, Khối 8406, Sài Gòn 703. Lư Thị Thu Trang, Khối 8406, Sài Gòn 704. Lư Thị Thu Duyên, Khối 8406, Boston, MA, USA 705. Ca sỹ Nguyệt Ánh, tuần báo Phố Nhỏ, Virginia, USA 706. Đào Trường Phúc, tuần báo Phố Nhỏ, Virginia, USA 707. Trương Sĩ Lương, tạp chí Thế Giới Mới, Texas, USA 708. Huỳnh Lương Thiện, tuần báo Mõ San Francisco, California, USA 709. Phạm Thành - Nhà báo (nghỉ hưu), blogger blog Bà đầm xòe, Hà Nội 710. Blogger Le Nguyen - cộng tác viên Danlambao, Vĩnh Long 711. Lê Đình Lượng - Công dân tự do, Hợp Thành, Yên Thành, Nghệ An 712. Hoàng Minh Hiếu, Sài Gòn 713. Nguyễn Hữu Trường, Bình Dương 714. Lê Hoàng Tân - Kỹ sư điện - Facebook Lehoangtan, Đường 11, P.11, Q. Gò Vấp, Sài Gòn 715. Bùi Quang Thắng - Thạc sỹ QTKD, Hà Nội 716. Nguyễn Thị Từ Nhơn, Bình Thạnh, Sài Gòn 717. Đỗ Khánh Duy An, Sài Gòn 718. Mai Huy Thăng, Ba Đình, Hà Nội 719. Trần Thanh Trúc (FACEBOOK: Trần Thanh Trúc), Bà Rịa-Vũng Tàu 720. Đoàn Tuấn, Hải Phòng 721. Phạm Thị Lâm - Cán bộ hưu trí, Cầu Giấy Hà Nội 722. Trương Ngọc Chương - Nhà báo, Nguyễn Tư Giản, TP Đà Nẵng 723. Trương Đăng - Kỹ sư, Sài Gòn 724. Lê Thanh Tùng, Facebook: Lê Thanh Tùng, Thị trấn Phổ Yên, H. Phổ Yên Thái Nguyên 725. Nguyễn Thànhh Long, Sài Gòn 726. Nguyễn Dương - Giáo viên hưu trí, Đồng Nai 727. Hoàng Quốc Bảo - Điện công nghiệp, Thanh Đa, Bình Thạnh, Sài Gòn 728. Lê Trọng Hoàng Dương, Phường Trần Phú, Hà Tĩnh 729. Vũ Thanh Bình, Quận Gò Vấp, Sài GònNguyễn Hải An, Đà Nẵng 730. Nguyễn Văn Tiến, Ba Đình, Hà Nội 731. Trần Hoàng Yến, Sài Gòn 732. Hoàng Bá Phước, Hà Đông 733. Nguyễn Trí Dũng - Dịch thuật tự do, Hà Nội 734. Hà Chí Hải - Bán hàng tự do, Tập thể Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội. 735. Hồ Văn Tích - Kỹ Sư, Sài Gòn 736. Phan Phúc Hưng - Dược sĩ, Phường Thạnh Lộc, Quận 12, Sài Gòn 737. Châu Quang Dũng, Sài Gòn 738. Nguyễn Mạnh Hùng - Kiến trúc sư, Hà Nội 739. Nguyễn Đang Lập, Kỹ sư Kinh tế, Bà Rịa Vũng Tàu 740. Vũ Tuấn Anh - Facebooker: haccolong, Quận 12, Sài Gòn 741. Lê Văn Thưởng, Đà Nẵng 742. Nguyễn Huy Dũng - Dân thường, Phước Thành, phường 11, TP Vũng Tàu. 743. Ngô Đức Hoàng - Sinh viên, Đà Nẵng 744. Ngô Đức Hào - Học sinh, Đà Nẵng 745. Lý Đông Hoàng, Tây Hồ, Hà NộiNội 746. Nguyễn Văn Vinh - Hưu trí, ngõ 144 Quan Nhân, Thanh Xuân, Hà Nội 747. Trần Thị Huyền Anh, Ba Đình, Hà Nội 748. Nguyễn Thanh Xuân - Kỹ Sư Vi Tính, Kỳ Đồng P9 - Q3, Sài Gòn 749. Hoàng Nguyên Bảo - Facebook: baohoangvn, Sài Gòn 750. Anh Bảo - Facebook Bảo Demo, Cần Thơ 751. Bùi Đợi, Quảng Ngãi 752. Lê Đức Bình, Quận 1, Sài Gòn 753. Hồ Phước Đại, Q. Bình Thạnh, Sài Gòn 754. Võ Linh Đan, Sài Gòn 755. Nguyễn Ngọc Hiếu, Pleiku-Gialai 756. Trần Thị Thuý Vân - Sinh Viên cao học ở trường ĐH Sungkyunkwan, khu vực Suwon, Hàn Quốc 757. Vu Huy - Sinh viên University of Houston tại Houston, Texa, USA 758. Lê Ngọc Năng, Boston, Massachusetts, USA 759. Nguyễn Chiêu Anh, San José, California, USA 760. Dinh Van Toan, San Francisco, California, USA 761. Dương Thanh Phong - Nhà thơ, Lake Forest city, CA 92630, USA 762. Phạm Thị Nho, Lake Forest city, CA 92630, USA 763. Bùi Thị Cát Vân, Victoria, Australia 764. Henry Hoàng, Sunnyvale, California, USA 765. Doanh Chau - Equity Investment Manager, FB: Doanh Chau, W. Covina, California, USA 766. Vinh Lê, Calgary, Alberta, Canada 767. Tam Mavroudis - Facebooker, Marin, USA 768. Kiến trúc sư Đào Đông Nhựt, Florida, USA 769. Hoàng Nguyên, San Pablo, CA 94806, USA 770. Phan Ngọc Huề, San Jose, California, USA 771. Diệp Thanh Lan - Engineer, San Diego, California, USAUSA 772. Ts. Ngô Anh Văn, Đại Học Nam California, 954 S. Carondelet St. #10 Los Angles, CA, USA 773. Nguyễn Thái - Chuyên viên điện toán, 820 Pinto Dr, San Jose, California, USA 774. Khai Dang, Montreal, Canada 775. Phạm Minh Hoa, 22862 Larkin Street, Lake Forest, California, USA 776. Nguyễn Đăng Vũ - Kỹ sư Cơ Khí, Anaheim, California, USA. 777. Sy Nguyen, sStudent, Garden Grove 92844, CA, USA 778. Too Bryan Nguyen, 1777 Timber Creek Rd., Flower Mound TX 75028, USA 779. Nguyễn Thị Thanh Vân - Cán bộ Tài chính, Hợp đồng, Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam 780. Timothy Le - IT engineer in Silicon Valley of California, USA. 781. Mai Phuong Tran, Vancouver, Canada 782. Danny Le, Worcester, MA, USA 783. Thanh Quang, Westminster, California, USA 784. Nguyễn Liên, Philadelphia, PA, USA 785. Nguyễn Lơi, Sydney, Australia 786. Phạm Tấn Vũ, Kentucky, USA 787. Lê Việt Quốc - Chuyên viên tin học, Hawaii, USA 788. Lê Thuận, Annandale, VA, USA 789. Nhan Luu, Florida, USA 790. Lê An Hảo Calgar, Alberta, Canada 791. Vương Chu - Công chức, Sydney, Australia 792. Mai Cau San Jose CA, USA 793. Tran Sen, San Jose, CA, USA 794. Mai Duc, Lincoln, NE, USA 795. Ha Hai, Lincoln. NE, USA 796. Ha Su, Lincoln, NE, USA 797. Nguyen Hanh, Lincoln, NE, USA 798. Ha Son, Lincoln, NE, USA 799. Ha Huan, Lincoln, NE, USA 800. Patrick Vũ Hùng, Midway City California, USA 801. Agnes Loan Vu, Midway City California, USA 802. Hà Công Hồng - Nha Sĩ, Sydney, Australia 803. Lynn Loan Nguyen, Santa Ana California, USA 804. Eric Ha Vu, Corona California, USA 805. Theresa Huong Vu, San Ana California, USA 806. Therese Huyen Vu, Fountain Valley California, USA 807. John Luan Bui, Midway City California, USA 808. Sean Hung Tran, Midway City California, USA 809. Goretty Nguyen, Fountain Valley California, USA 810. Nguyễn Thanh Vân, Toronto, Canada 811. Hoàng Kim Ngân, Los Angeles, California, USA 812. Đinh Thị Ngọc Tuyết, Kentucky, USA 813. Vinh An Vu - Công nhân, Sydney, NSW, Australia 814. Bùi Bình, PE, N. Carolina, USA 815. Hoàng Diệu, Melbourne, Australia 816. Hy Nguyen, Saint Paul, Minnesota, USA 817. Huỳnh Anh, Sài Gòn 818. Nguyễn Mai - Nguyên giáo viên trường PTDL Nguyễn Siêu-Hà Nội, Worcester, MA 01602, USA 819. Tạ Thị Mai Trâm, Houston TX, USA 820. Nguyễn Thị Thanh Hương - Cựu thuyền nhân ThaiLan, Sài Gòn 821. Phan Thị Duong Thi, 9414 Lerin Lane, Sugar Land, TX 77498 822. Alpha Linh - Kỹ Sư Điện Tử, Chicago IL, USA 823. Huỳnh Nguyên Phúc - Công nhân, Baltimore, Maryland, USA 824. Don Nguyen, San Francisco, California, USA 825. Facebooker Nguyễn Quang Duy, Sài Gòn 826. Van Nguyễn, Melbourne, Vic, Australia 827. Thi Nguyễn, Melbourne, Vic, Australia 828. Lợi Nguyễn, Springvale, Melbourne, Australia 829. Xuyến Ngô, Sydney, NSW, Australia 830. Lý Nhơn, Công nhân, 11771 Shetland, Garden Grove, CA, USA 831. Huỳnh Bá Nhẫn, 3030 Trethewey, Abostford, BC, Canada 832. Phi Trương Lê - Công nhân, Cecil Hills, Australia 833. Cao Thị Thanh Hương, Melbourne, Australia 834. Nguyễn Tiến Cường - Thương gia, Houston, Texas, USA 835. Huỳnh Thị Bích Hiền - Sinh viên Luật, Houston, Texas, USA 836. Ken Hoang - Kỹ sư vi tính, Phoenix, Arizona, USA 837. Pham Minh Tung, Melbourne, Australia 838. Đào Quang - CFISD, Houston, Texas, USAUSA 839. Liêu Huỳnh - Hưu trí, New York, USA 840. Johny Nguyen, Seattle WA 98026, USA 841. Đặng Văn Hưng, 33 Winthrop Dr Winthrop 6150, West Australia 842. Thận Nhiên, Nhà thơ, Freelance writer, Allen, TX, USA 843. Hoàng Ngọc Diêu - Sydney/Australia - Nha Trang / Việt Nam 844. Vũ Quốc Ngữ, Hà Nội 845. Nguyễn Ngọc Thùy Linh - Sinh viên Luật, Blogger, Thủ Đức, Sài Gòn 846. Nguyễn Ngọc Phong - cựu giáo viên, Đà Lạt 847. Ngô Minh Danh - Chuyên viên công nghệ thông tin, Đồng Nai 848. Nguyễn Đình Trung, Sài Gòn 849. Cao Thị Hải Hiền, Sài Gòn 850. Cao Bá Nhật - Nhân viên quản lý, Sài Gòn 851. Trần Văn Nghiệp - Quản trị Mạng, Quận 2, Sài Gòn 852. Vũ Hội, Như Xuân, Thanh Hóa 853. Y Thoạt - Knul - Bangkok - Thailand 854. Dr Nguyễn Thị Lan – Blogger, California, USA 855. Long Nguyen, Fountain Valley, CA92708, USA 856. Anthony Nguyễn Đức Duy, Vermont, Australia 857. Phan Ngọc Huề, San Jose, California, USA 858. Ký giả Hùng Sơn, San Jose, California, USA 859. Linh mục Phê-rô Nguyễn Văn Khải – Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, Roma, Italy 860. Họa sỹ Chiêu Anh Hải, Cựu TNXP Chiến trường Tây Nam 1979, Facebook Ruoi Trau, Sài Gòn 861. Raymond C Vu, Melbourne, Australia 862. Đỗ Chiến Thắng, Hà Nội 863. Bửu Nguyễn, Darwin, Australia 864. Nga Phạm, Darwin, Australia 865. Mai Văn Hải, Quận 7, Sài Gòn 866. Hung Nguyen, Fort Mill, South Carolina, USA 867. Minh Tran Tracy Nguyen, Fort Mill, South Carolina, USA 868. Michelle Tran, Fort Mill, South Carolina, USA 869. Kevin Tran, Fort Mill, South Carolina, USA 870. Bryan Tran, Fort Mill, South Carolina, USA 871. Kỹ sư Phạm Văn Tiến, Hải Phòng 872. Phạm Tuấn, California, USA 873. Ngô Quang Khải, xã Xuân Kiên, Xuân Trường, Nam Định 874. Nguyễn Văn Dương, Hà Nội 875. Nguyễn Văn Triển, Escondido, California 92025, USA 876. Trần Đạt, San Jose, USA 877. Trần Phong Vũ, California , USA 878. Trần Thị Phước, California, USA 879. Lê Thị Bé Tư, Hồng Ngự, Đồng Tháp 880. Nguyễn Ngọc Hưng, Nam Định 881. Phạm Thị Ngọc Tuyền, Cần Thơ 882. Cuong Nguyen, Santana CA 92703, USA 883. Trieu Ca, Perth, Australia 884. Nguyễn Thế Hùng, Brisbane, Queensland, Australia 885. Nhà văn Nguyễn Nguyên An, Huế 886. Trần Côn Giang, Minnesota, USA 887. Vũ Trần, Kế toán, Nam Định 888. Lý Quốc Tuấn, Franfurt, Germany 889. Nguyễn Xuân Thông, San Diego, California, USA 890. Đinh Thị Việt Nữ, San Diego, California, USA 891. Nguyễn Thị Xuân Khang, San Diego, California, USA 892. Kiến trúc sư Nguyễn Quốc Thiều, Thái Lan 893. Nguyễn Mạnh Hùng, Hà Nội 894. Trần Văn Thường, Bà Rịa, Vũng Tàu 895. Nguyễn Văn Trí, Oceanside, California, USA 896. Ngô Điều, Cựu đảng viên, Hà Nội 897. Trần Thiên Bình, Sài Gòn 898. Lê Sinh Mẫn, Facebook Lê Sinh Mẫn, Sài Gòn 899. Facebooker Huỳnh Quốc Huy, Aarhus, Đan Mạch 900. Lê Văn Chương, Cần Thơ 901. Trần Xuân Tự, Cán bộ Hội nông dân xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh 902. Nguyễn Văn Thọ, nguyên thôn trưởng Kỳ Anh, Hà Tĩnh 903. Đào Văn Thông, Hà Nội 904. Nguyễn Mai Hương, Hà Nội 905. Vũ Thúy Lan, Facebook ThuyLan Vu, Canberra, Australia 906. Trần Quang, San Diego, California, USA 907. Đặng Thế Hải, Hà Nội 908. Họa sĩ Phùng Chí Kiên, Hai Bà Trưng, Hà Nội 909. Trần Kim Long, Elk Grove, California, USA 910. Trần Đức Tường, Irvine, California, USA 911. Phạm Thanh Hiền, Biên Hòa, Đồng Nai 912. Lê Hùng Dũng, Na Belidle 17 Praha 5, Cộng hòa Séc 913. Kỹ sư Vũ Ngọc Anh, Hà Nội 914. Thuy Nguyen, Westminster, California, USA 915. Lê Thị Thanh Ngọc, Tân Phú, Quận 7, Sài Gòn 916. Võ Tấn, Tân Sơn, Ninh Thuận 917. Nguyễn Anh Việt, Lafayette, Los Angeles, USA 918. Nguyễn Tammy, Lafayette, Los Angeles, USA 919. Nguyễn Quang Hà, Lafayette, Los Angeles, USA 920. Lê Thị Xuân Chi, Lafayette, Los Angeles, USA 921. Nguyễn Mỹ Linh, Lafayette, Los Angeles, USA 922. Nguyễn Mỹ An, Lafayette, Los Angeles, USA 923. Nguyễn Mỹ Tiên, Lafayette, Los Angeles, USA 924. Nguyễn Thiên Kim, Lafayette, Los Angeles, USA 925. Nguyễn Luân, Lafayette, Los Angeles, USA 926. Nguyễn Phú, Melbourne, Australia 927. Đặng Văn Lượng, Nam Định 928. Nguyễn Quốc Huy, Facebook Huy Nguyen, Sài Gòn 929. Linh mục Nguyễn Hùng Cường, Đài Loan 930. Nguyễn Thái An, Facebook Nguyễn Thái An, Sài Gòn 931. Kỹ sư Trần Đình Tuấn, Olso, Na Uy 932. Nhiếp ảnh gia Cao Xuân Vinh, Quận 11, Sài Gòn 933. Hồ Thị Hòa, Sài Gòn 934. Nguyễn Thị Ngân, Thanh Hóa 935. Blogger Việt Hoàng, Doanh nhân, Nga 936. Đỗ Vân Anh, Giáo viên, Hà Nội 937. Nguyễn Hoàng Vũ, Nghiên cứu viên Viện Vật lý Hà Nôi, Tây Hồ, Hà Nội 938. Lê Hồng Phong, Ba Đình, Hà Nội 939. Nghi Le Duc, Sinh viên trường Paris- Est, Paris, Pháp 940. Đoàn Thanh Tùng, Liege, Bỉ 941. Phạm Văn Hoàn, Sinh viên, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa 942. Sùng Hữu Anh Túc, Facebook Airies Mahalo, Lào Cai 943. Kỹ sư Trần Văn Thao, Sài Gòn 944. Đậu Văn Bảy, Bình Dương 945. Dang Nguyen, Orange County, California, USA 946. Kỹ sư Lưu Hà Sĩ Tâm, Quỳnh Phụ, Thái Bình 947. Hồ Trung Nguyễn, Brisbane, Australia 948. Rita Huynh, Fletcher St., Chicago, USA 949. Nguyễn Thiện Quang, Chuyên viên thiết kế nội thất, WA, USA 950. Stephen Nguyễn Thế Phan, Boxhill, Australia 951. Phạm Bảo Hoàng, San Bernardino, California, USA 952. Nguyễn Thanh Quang, Houston, Texas, USA 953. Nguyễn Như Ngọc Lâm, Gò Vấp, Sài Gòn 954. Camelias Tran, New South Wave, Australia 955. Nguyễn Thị Liên, Washington, USA 956. Tăng Khắc Tân, Port Coquitlam, BC, Canada 957. Trần Tuấn, Colorado, USA 958. Đặng Tuấn Kiệt, San Diego, California, USA 959. Bùi Thị Ngọc, Sài Gòn 960. Phạm Trung Dũng, Westminster, California, USA 961. Ngo Thanh, Richmond BC, Canada 962. Nguyễn Văn Hải, Paris, Pháp 963. Bùi Anh Tuấn, Hàng Vôi, Hà Nội 964. Sandy Vo, Vancouver, Canada 965. Vo Quan, Vancouver, Canada 966. Kỹ sư Phạm Tất Đồng, Phú Nhuận, Sài Gòn 967. Nguyễn Anh Tài, Sài Gòn 968. Nguyễn Thị Minh Tâm, Leipzig, Đức 969. Bùi Minh Vũ, Thuận An, Bình Dương 970. Nguyễn Huy Đức, Hương Khê, Hà Tĩnh 971. Hoàng Anh Vũ, Quận 3, Sài Gòn 972. Lê Trọng Kế, Gailes, Queensland, Australia 973. Lê Thị Lan, Gailes, Queensland, Australia 974. Nguyễn Anh Hùng, Hà Nội 975. Tony Nguyen, Milpitas, CA 95035, USA 976. Nguyễn Kim, Brusseles, Bỉ 977. Huỳnh Xuân Thiệp, Nhà giáo hưu trí, Ngô Mây, Phù Cát, Bình Định 978. Facebooker Hà Hồng Sơn, Sài Gòn 979. Truong Tung-Son, San Jose, California, USA 980. Dr. Nguyễn Thị Lan, blogger, Anaheim, California, USA 981. Nguyễn Việt Đức, Antioch, California, USA 982. Đoàn Hòa, Jihlava, Cộng Hòa Czech 983. Lê Bá Thuần, Melbourne, Victoria, Australia 984. Minh Tiên Võ, Melbourne, Victoria, Australia 985. Nguyễn Viên, Nam Định 986. Kỹ sư Trần Anh Vương, Tuy Phước, Bình Định 987. Nguyễn Quang Nhàn, Đà Lạt 988. Trần Tuấn Tú, Giảng viên Khoa Môi trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Sài Gòn 989. Kiến trúc sư Võ Nguyên Thạch, Nhà Bè, Sài Gòn 990. Vũ Hoàng Tùng, Hamburg, Đức 991. Phạm Hữu Uyển, Praha 5, CH Czech 992. Kỹ sư Lê Trọng Kiên, Sài Gòn 993. Lưu Thị Hoàng Phượng, Nha Trang, Khánh Hòa 994. Đặng Tiến Dũng, Hordaland, Na Uy 995. Nguyễn Quang Ngọc, Hà Nội 996. Nguyễn Ngọc Tâm, Nghi Lộc, Nghệ An 997. Vinh Mai, Melbourne, Australia 998. Nguyễn Hồ Ái Thanh, Sài Gòn 999. Nguyễn Duy Thanh, Facebook Annie Thanh, Sài Gòn1000. Bác sĩ Thạch Nguyễn, Trưởng khoa Tim mạch BV St Mary, Hobart, Indiana, Hoa Kỳ - GS thỉnh giảng ĐH Y khoa Nam Kinh, Trung Quốc - Giáo sư Danh dự Đại học Y Hà Nội.   Danh sách sẽ được tiếp tục cập nhật. Đã có trên 1000 người ký tên Theo ý kiến của anh Nguyễn Đắc Kiên: "Cụm từ “sát cánh bên nhà báo Nguyễn Đắc Kiên”, khiến tôi ngại ngùng khi ký vào bản “Tuyên bố Công dân Tự do”. Tôi sẽ gửi thư đề nghị các bạn khởi xướng bỏ cụm từ đó đi, để tôi được ký tên mình, cùng với hàng nghìn, triệu đồng bào. Tôi nghĩ rằng, mỗi người chúng ta không sát cánh cùng anh Kiên hay bất cứ người nào khác, chúng ta ký tên vì chính chúng ta, vì tổ tiên ngàn đời, vì con cháu tương lai. Vì thế tôi kêu gọi tất cả, không phân biệt trong hay ngoài nước, còn hay không còn quốc tịch Việt Nam, miễn là mang trong mình dòng máu Việt, ký tên vào bản tuyên bố công dân này.", nhóm khởi xướng xin phép quý vị đã ký cũng như sẽ ký vào bản tuyên bố, được đổi câu mở đầu: Chúng tôi, những người khởi đầu ký tên sau đây, sát cánh bên Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên và kêu gọi những công dân khác cùng với chúng tôi đồng tuyên bố... thành:
......

BÓNG TỐI NÀO ?

Những ngày này ở Việt Nam hầu như ai mở lời chào hỏi hay bắt đầu làm việc gì cũng thường rào đón trước bằng câu “Đầu xuân năm mới …” rồi mới nói điều gì gì đó. Riết rồi thành quen! Nhiều người nhất là những người trẻ tuổi hơn, những người nghèo hơn hoặc nhân viên cấp dưới còn có thêm điệu bộ khúm núm, lưng khom khom, mặt mũi cười giả lả, hai tay ra cái điệu hơi xoắn quẩy một tí, xuýt xuýt xoa xoa vào nhau để luôn sẵn sàng bắt tay người khác mà họ đã có chủ ý muốn bắt từ trước. Để ý điều này từ bé, thấy quá nhiều người làm vậy, ban đầu thấy hình dáng điệu bộ ấy chẳng có gì là đẹp đẽ, trông còn hèn hèn đúng kiểu xu nịnh, nghĩ đây đúng là dáng dấp tiểu nhân, cứ y như trông phim, kịch Tàu và cả Việt, khi miêu tả kẻ tiểu nhân nịnh bợ thì cái điệu bộ, dáng vẻ ấy đã trở thành hình mẫu mang tính ước lệ. Ấy vậy mà phần lớn nhiều người lại cho rằng cái điệu ấy, cái cung cách ấy là thể hiện sự khiêm tốn, khiêm nhường, lễ độ, lễ phép của con người. Vì thế mà thi nhau học, dạy, và bắt chước ngay từ khi còn nhỏ.  Đã bao giờ người ta đặt câu hỏi nếu đó là điều hay thì tại sao chỉ có một bên trong giao tế phải làm vậy. Có phải tận sâu trong lòng người dân Việt Nam từ xa xưa đến giờ vốn chẳng thích sự bình đẳng hay thậm chí cũng không có khái niệm bình đẳng. Nên đôi khi đây đó, lúc này lúc kia xuất hiện vài ông vua tỏ ý bình đẳng cũng được ghi lại trong sử sách nhưng rồi cũng thành thiểu số tuyệt đối khi mà phần lớn quan lại và cả dân thường đều không truyền bá thực hành được cái phong cách và lề lối tốt đẹp ấy. Phải chăng vì họ không thích và cũng chẳng mấy quan tâm?  Cái cung cách khúm núm xun xoe ấy làm sao mà tốt đẹp cho được khi nó mang đến một cảm giác thấp kém hơn, mất cân xứng hơn khi người ta nhìn vào, và bản thân người có điệu bộ ấy cũng mất đi phần nào sự tự tin và độc lập của mình! Nếu quan sát hành vi và thái độ giao tiếp của người phương Tây sẽ thấy một điều hoàn toàn khác. Họ vẫn có sự khiêm nhường, lễ độ, lễ phép thậm chí là quá lịch sự là đằng khác, nhưng tuyệt nhiên cực kỳ hiếm khi người ta có thái độ tự hạ thấp mình một cách xấu xí và thô thiển như người Việt khi giao tiếp như vậy.  Điều đặc biệt là thái độ giao tiếp đáng xấu hổ này của người Việt lại phổ biến nhất và thể hiện đặc sắc nhất trong giới quan chức cán bộ với nhau, và trong tầng lớp … nông dân ở nông thôn !? Nhưng không có gì phải ngạc nhiên khi nhớ lại lịch sử dân tộc Việt Nam sau năm 1954, khi đoàn quân cách mạng từ chiến khu Việt Bắc tràn về thủ đô Hà Nội và công cuộc Cải cách Ruộng đất lên tới đỉnh điểm thành công chói lọi thì ôi thôi tất cả những điều tốt đẹp nhỏ nhoi trong văn hóa ứng xử của người Việt từ những dấu ấn phong kiến cho đến những nét ứng xử mới du nhập từ phương Tây (chủ yếu là từ nước Pháp thực dân) đều tan biến hoàn toàn. Thay vào đó là những điều xấu xí, và thậm chí là xấu xa trong tính cách vốn đã thâm căn cố đế mọc rễ trong lòng người Việt được lên ngôi tôn vinh chói lọi. Những tính cách này 99% là cách sống của người nông dân tùy tiện và nông cạn chỉ thấy cái lợi trước mắt, + lề lối ấu trĩ ngạo mạn của tầng lớp được coi là khoa bảng của giới Nho học mà chủ yếu là hủ Nho. Nói theo Phan Chu Trinh là “cái phần người dốt nát trong nước thì chiếm 80 phần trong một trăm. Còn cái gọi là người thượng lưu, trung lưu chẳng qua là bọn bát cổ (khoa bảng) đã chiếm hai phần ba. Thật, chẳng biết cái Nho học là gì mà cũng nhắm mắt lại chê càn cái văn minh (vu cho) là mọi rợ.”  Thảo nào Phan Chu Trinh thất bại !  Tôi rùng mình khi đọc những dòng chữ này trong bài Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa của ông luận về thế nào là quân chủ, thế nào là dân chủ mà ông đã đọc ở Hội Thanh niên Sài gòn cuối năm 1925 sau khi ông từ Pháp trở về Việt nam và khởi xướng, chủ trương một cuộc cách mạng dân chủ bất bạo động bằng cách nâng cao dân trí và xây dựng một thể chế dân chủ Pháp trị. Cảm giác rùng mình đó đến từ niềm thích thú của một người đã lâu nay vẫn thấy quá nhiều và quá rõ những nét tính cách xấu xí và xấu xa của người Việt nhưng vì tài hèn sức mọn, tuổi đời ít, trải nghiệm sống đơn điệu nên cũng hèn mà không nói ra nổi. Nay được thấy một người đã dám nói ra điều ấy trước hàng ngàn người, nói một cách công khai mạnh mẽ đầy tự tin, thì trong lòng cảm thấy thú vị và đồng cảm vô cùng !  Nếu Phan Chu Trinh sống lại vào thời này ông sẽ thất bại một lần nữa !  Tại sao ư ? Câu trả lời thật đơn giản. Vì người Việt Nam vẫn vậy. Thậm chí mức độ tồi tệ còn nặng nề hơn gấp bội. Cái bản tính vừa tự ti về sự dốt nát của mình nhưng lại cũng rất sỹ diện, kiêu ngạo, nhất định, dứt khoát không bao giờ thừa nhận là mình dốt, mình kèm.  Đây là hai mặt tất yếu trong tính cách con người dốt nát vậy. Cái này bổ sung cho cái nọ. Cái nọ nuôi dưỡng cho cái này. Tử huyệt của người Việt có lẽ đã được đào khoét qua hàng mấy ngàn năm văn hiến (thì ít) và hủ hóa (thì nhiều) dưới sự cai trị của hàng trăm triều đại với hàng chục dòng họ gia tộc vương quyền. Thời đại phong kiến dài dằng dặc ấy đã để lại cho chúng ta niềm tự hào thì ít, đã thế lại còn nhỏ. Nhưng cái tính cách xấu của người Việt thì lại ngày càng lớn như cái hố khổng lồ, đen ngòm mà ai cũng được khuyến khích cứ nhắm mắt mà nhảy tõm vào đó để nghe các âm vang nịnh bợ thấp kém nhất, đáng hổ thẹn nhất cứ lặp lại mãi, rằng họ là “anh hùng của thế kỷ, lương tâm của thời đại”.  Trong lịch sử, sự thẳng thắn, ngay thẳng, chính trực, khẳng khái của người Việt đều dẫn đến hậu quả thê thảm kinh hoàng, là tuyệt đại đa số hậu quả của những người chọn phong cách sống và làm việc này. Thử điểm lại sử sách có mấy trường hợp mà người sống ngay thẳng chính trực lại được vinh danh và ưu đãi bởi giới vua quan, và thậm chí ngay trong dân chúng thì tình hình cũng chẳng hề tươi sáng hơn cho những người sống ngay thẳng. Đến nỗi có cả một thành ngữ rất phổ biến và có lẽ cũng là thành ngữ nổi tiếng nhất, tiêu biểu nhất cho tính cách người Việt, là “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Thành  ngữ này không chỉ đơn thuần là đúc kết một lề, thói nào đó của con người mà nó được thành lập theo cú pháp là một câu cầu khiến, dạy bảo xúi bẩy người ta làm theo.  Thật đáng sợ, lẽ ra phải là nói thật, nói đúng, nói một cách nhân từ vì lý do nhân đạo ..v..v.. thì lại thành “nói cho vừa lòng”. Vậy vừa lòng là thế nào? Là lấy lòng, được lòng người nghe. Mà người nghe thì thích nghe cái gì? Người nghe thì thích nghe bất kỳ điều gì, trừ cái điều chê trách họ, rằng họ đã không đúng, đã sai, đã lầm, đã ác độc, đã tham lam, đã ngu dại ..v..v..  Đó cũng chính là con đường làm cách mạng của đảng Cộng sản Việt nam. Nói những điều mà tuyệt đại đa số người dân Việt nam thích nghe, bằng những bài, những chiêu trò tuyên truyền với tần suất phát hành khủng bố áp đảo tuyệt đối. Biến tuyên truyền thành một cuộc chiến thật sự đánh vào tâm hồn, tình cảm và ý thức của con người khiến con người ta mê muội, lẫn lộn sai thành đúng, cái cần tránh thì cứ đâm đầu vào,  cái không được làm thành cái nên làm, phải làm với phương châm binh pháp Tôn Tử bất chấp tất cả để đạt hiệu quả. Cộng sản đã lấp đầy cái hố tự ti, trống rỗng của người dân Việt bằng những niềm tự hào (nguồn gốc bần cố nông) và giấc mơ quái đản và hão huyền (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu). Trong niềm tự hào và giấc mơ đó từng góc tối nhất trong tâm hồn và văn hóa người Việt đều được đem ra khoe khoang, thi thố và tôn vinh với những chiến lợi phẩm cụ thể để đổi đời gọi là “chia quả thực”. Nỗi ghê sợ và tởm lợm của tên gọi này quả là tương xứng với cách thức mà những người cộng sản và cả những người đi theo họ đã làm để có được “quả thực” mà chia.  Lẽ ra Phan Chu Trinh phải nói rằng người dân Việt Nam cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay, cái gì cũng đẹp, cái gì cũng giỏi. Nếu cuộc đời, xã hội hay đất nước có điều gì đó còn đau khổ không vừa ý thì tất cả đều là do bị áp bức, bị bóc lột, bị cướp mà ra. Cách tiếp cận của cộng sản thật đắc địa. Họ đã thành công vì đánh trúng vào tâm lý ưa xu nịnh, đố kỵ, thù ghét sự thẳng thắn, ưa ăn vạ, ưa đổ vạ cho người  khác của người Việt. Trên mảnh đất tối tăm ấy của tâm hồn người Việt, chủ nghĩa cộng sản đã sinh sôi nảy nở tốt tươi biết bao với những thành tựu vu khống, giết chóc, phá phách, tàn hại chất cao như núi. Hậu quả kinh khủng nhất của cộng sản gây ra cho Việt nam là làm cho người dân Việt nam vong bản, mất gốc vì đi theo và tôn thờ một thứ chủ nghĩa ngoại lai, một tư tưởng bạo lực chuyên chính và thù địch. Những nét tính cách đơn sơ, hồn nhiên, đáng mến ít ỏi của người Việt đâu cả rồi?  Ngay cả những người dân chủ đã từng đi theo cộng sản đến giờ vẫn tiếp tục cho rằng cộng sản có cái sai, có cái đúng. Nhiều người cho rằng cộng sản gần như hoàn toàn sai lầm, độc ác tuyệt đối. Ấy thế, nhưng cái phần của họ tham gia trong ấy vẫn là đúng, vẫn là đáng kể đến, vẫn có cái gì đó có thể biện minh. Danh hiệu vẫn khoe ra, thành tích vẫn tự hào. Đến giờ ở Việt Nam có lẽ chỉ có một mình ông nhạc sỹ già Tô Hải dám tự nhận là mình đã sai toàn diện, đã hèn toàn cục. Cả sự nghiệp của mình ông cũng vứt bỏ, thậm chí là tự phỉ nhổ, vì tuy (phần lớn) nó đã được tạo nên bằng những cảm xúc có thật trong lòng nhưng là trên nền tảng bị kẻ khác dối đảo, và rồi mình cũng đi lừa dối người khác. Nên suy cho cùng đấy cũng chỉ là đống rác rưởi. Tổng kết sự nghiệp cả cuộc đời mình ông chỉ thừa nhận một tác phẩm duy nhất là nhạc phẩm Nụ cười Sơn cước.  Tôi hiểu cảm xúc và suy nghĩ của ông khi vứt bỏ tất cả những thứ còn lại. Sự can đảm của ông là phi thường và tôi nghiêng mình trước điều ấy. Bởi vì những thứ mà ông vứt bỏ cũng là công sức lao động, là mồ hôi tim óc của ông cố gắng để phục tùng đảng cộng sản, chiều theo bóng tối hèn nhát, dối trá và những ham hố đáng khinh trong tâm hồn mình. Cuối đời, ông đã may mắn nhận được ơn cứu độ là sự giác ngộ và can đảm vứt bỏ chính mình, không phải là tất cả bản thân mà là tất cả những gì đáng hổ thẹn của bản thân để ngẩng cao đầu trong miền mênh mông vô cùng của niềm vui sướng được giải thoát khỏi những xiềng xích nặng nề, xấu xa mà chính mình đã tạo nên cho cuộc đời mình. Điều này chỉ có ông và những người như ông mới hiểu hết được mà thôi.  Suy cho cùng, ta cũng nên cá cược chút ít với cuộc đời!  Tôi rất thích hai câu châm ngôn “Trên đời, chẳng có gì như ý mình (hoàn toàn)” và “Nếu cái gì mình cũng đúng mà đời mình lại như thế này àh !?”. Ngay trong gia đình và bạn bè của tôi cũng có nhiều người có nỗi niềm đau khổ, buồn bã. Nhưng mặc kệ tất cả, đau khổ cứ đau khổ, u sầu cứ u sầu, đố có khi nào thấy họ có thái độ ăn năn về những tội lỗi của họ. Một thái độ nhẹ nhàng, hài hước thừa nhận mình đã sai lầm chuyện gì đó nhỏ nhoi còn là điều hiếm hoi đến lạ lùng. Một chút ngượng ngùng, xấu hổ vì mình đã sai trái ngớ ngẩn điều gì đó cũng hiếm khi được thể hiện. Ai đó nói rằng người Việt nam là như vậy. Tất nhiên đó là một cách nói và họ có quyền nói như thế, tôi không hề phản đối thậm chí còn bảo vệ họ nói ra điều đó theo cách nói vo như thế. Không sao cả nếu bạn không phải vậy, đúng không ?! Nếu chọn cách nói chính xác thì người Việt nam vốn là một dân nhược tiểu, có những tính tốt và nhiều tính xấu. Cái tốt thì cũng chẳng tốt hơn ai. Cái hay thì cũng chẳng hay hơn ai. Nhưng cái xấu thì lại xấu hơn người. Xấu đặc sắc, xấu tràn lan, xấu thâm căn cố đế. Bởi vì nếu cái gì người Việt cũng tốt, cũng hay, cũng đẹp mà nước Việt nam mình lại thế này àh ?!  Đấy, lại dựng ngược lên rồi!  Tôi biết nhiều độc giả đang dựng ngược lên vì khó chịu thậm chí là nổi giận. Không sao! Mục đích của tôi là chọc giận người đọc vì đối với tôi biết nổi giận cũng là một phẩm giá, một tính cách tốt đẹp của con người, miễn là nổi giận đúng việc, đúng nguyên cớ!  Gần đây có bài viết của ông giáo sư nổi tiếng Joel Brinkley của trường đại học danh tiếng hàng đầu thế giới Stanford-Hoa Kỳ, tạo nên phong trào ném đá lớn chưa từng thấy của người Việt trên khắp thế giới. Báo chí trong nước đăng tin rầm rộ vụ ném đá tơi tả này. Tôi, LTCN, đến thời điểm viết bài này, hoàn toàn ủng hộ, cùng phe, đồng tình ..v..v.. (thích dùng từ nào cũng được) với ông giáo sư Joel Brinkley. -          Trước hết là tôi hoàn toàn ủng hộ phần ông ta nói về thói ẩm thực đặc trưng của người Việt là quá thích ăn thịt và ăn tất cả các loại thịt có thể ăn được, với quan điểm rõ ràng đây là một thói ăn uống xấu, không đẹp, man rợ, ô nhiễm môi trường, độc hại, trưởng giả và ngu ngốc (ví dụ như ăn mà không biết lợi ích thế nào, ăn vì sỹ diện, ăn để khoe lắm tiền, ăn để thể hiện khác người, hơn người …) -          Thứ hai tôi hoàn toàn ủng hộ và khâm phục sự thông minh và can đảm của ông giáo sư Brinkley khi ông thừa nhận sai lầm và tuyên bố sửa chữa phần nội dung liên hệ thói quen ăn uống với tính hung hăng của người Việt. -          Thứ ba, ngay cả khi ông Joel Brinkley không thừa nhận sai lầm và cũng không sửa chữa gì thì tôi vẫn ủng hộ và thậm chí là bảo vệ quyền của ông ta được nói ra điều mà ông ta suy nghĩ một cách công khai như vậy. Vì suy cho cùng đây không phải là một hành động vu khống, mà chính xác nó là một nhận định, một quan điểm cá nhân mà thôi. Vấn đề trở nên phức tạp vì ông ta là người nổi tiếng và tờ báo cũng nổi tiếng, nhưng không vì thế mà quên đi rằng cá nhân ông ta hoàn toàn có quyền nói lên quan điểm của riêng mình cách thoải mái và được an toàn. (Báo Tuổi trẻ, Chủ nhật 17.02.2013, page 19 bài Giáo sư Mỹ xin lỗi về bài viết sai sót về Việt Nam) Đọc những bài, những còm (comment) ném đá ông này thấy buồn cười quá! Ô hay, mình không thế thì thôi chứ. Nào ai có quyền bắt một người phải ngồi đếm có mấy người trong bao nhiêu người đã làm gì như thế nào thì mới được phép có phát biểu quan điểm, suy nghĩ. Chính vì cách suy nghĩ chỉ thấy cái lợi trước mắt, không có và cố ý không chịu tư duy logic thống nhất nên người Việt nam luôn rơi vào những cái bẫy do mình tự tạo ra.  Thế giới chống mắt lên mà nhìn người Việt nam nhé ! Dù nghèo, dù đói, dù xấu, dù ô nhiễm, dù oan ức ngút trời nhưng đố ai dám động vào những tính xấu của người Việt. Người nước ngoài nói xấu bị ném đá tơi bời đã rõ, người Việt mà nêu lên cái xấu của người Việt thì còn được nếm đòn kinh hồn táng đởm hơn. Vì cùng là người Việt, là đồng bào, đồng hương nên sẽ có thêm cái tiết mục “phản động, phản bội dân tộc, Việt gian, sính ngoại, ngửi đít tây ..v..v..” Tóm lại là một vụ ném đá tập thể tưng bừng. Bất chấp tất cả, ờ đấy, tao nợ như chúa Chổm, con dân tao nghèo mạt hạng, đến giờ bữa cơm chỉ mong được ăn bát cơm trắng có thêm miếng thịt mỡ bằng ngón tay út, thanh niên nước tao nhìn đểu cũng đủ đâm nhau chết tươi, chồng giận vợ sẵn sàng đổ xăng thiêu con cháy đùng đùng như pháo hoa ngày Tết, tham nhũng thành quốc nạn mà không một ai chịu trách nhiệm hết, nhưng tao vẫn luôn luôn đúng bởi vì tao có súng, nhớ chưa?!  Quả thật là hoàn toàn nhờ vào bạo lực và dối trá mà đảng cộng sản độc tài cai trị dân Việt nam cho đến tận bây giờ. Nhưng cũng phải đau đớn mà thừa nhận rằng bạo lực và dối trá của cộng sản đã được người Việt nam tiếp nhận một cách không thể nói là không hào hứng vì nó đánh trúng và làm đầy những bóng tối trống rỗng trong tâm hồn người Việt. Trong đó, nơi tối nhất chính là tính cách tuy bé mà lại ưa xu nịnh và thích được xu nịnh của người Việt, thể hiện ở sự căm thù tính thẳng thắn trong khi lại rất công khai trắng trợn thể hiện tính hung hăng côn đồ tàn ác.  Quả vậy, người Việt nam từ cổ chí kim luôn nổi tiếng ở những cơ hội hòa bình, ngưng bắn, đình chiến bị đánh mất, bị vứt bỏ, bị nhổ toẹt và ở những cuộc chiến tranh thắng lợi, hơn là ở những công cuộc kiến tạo hòa bình và hòa giải. Dù nói thế nào đi chăng nữa thì số lượng các cuộc chiến tranh và thời gian chiến tranh ở Việt nam là quá nhiều so với chiều dài lịch sử, dân số và tầm vóc lãnh thổ. Và đặc biệt là người Việt lại luôn tự hào vì chiến tranh, dù đó là chiến tranh gì. Đến nỗi lịch sử Việt nam bị đánh đồng luôn với lịch sử các cuộc chiến tranh Việt nam. Đến nỗi những thành tựu văn hóa, nghệ thuật, khoa học phục vụ nhân sinh còn lại với thời gian của người Việt thì phải nghĩ mãi mới ra được. Vậy thì có gì phải dựng ngược lên với ông giáo sư Joel Brinkley này!? Chính thái độ đó của người Việt chúng ta biết đâu lại mang đến niềm vui thầm kín nào đó cho ông ta. Vì rõ ràng chúng ta đang thể hiện một sự hung hăng ghê ghớm đối với một sự kiện chả có gì to tát. Chỉ tổ góp phần chứng minh rằng ông ta, dù sao và ở một mức độ nào đấy, đã đúng mà thôi.  Xin quý độc giả hãy search trên Internet “ăn, mua, bán, thịt thú rừng, Việt nam” ngay bây giờ. Tôi tin chắc quý vị sẽ hạ hỏa và bớt đi ý định ném đá ông Joel và tôi vì bài viết này.  Ôi, người Việt nam! Ôi, Chùa Hương! Ôi, thịt! Hà Nội, 20.02.2013 tức 11 tháng Giêng năm Quý Tỵ Lê Thị Công Nhân http://viet-luan.com/220213/Bongtoinao.html
......

Bọn bành trướng Bắc Kinh xuyên tạc & kỷ niệm ngày xâm lược 6 tỉnh Biên giới của Việt Nam

Đôi lời: Có lẽ đây là cái tát, là câu trả lời rõ nhất, vạch mặt những kẻ vẫn tìm mọi lý lẽ để biện minh rằng phải giữ hòa bình ổn định, tình “hữu hảo”, “16 chữ vàng, 4 tốt” hòng lấp liếm cho ý đồ rắp tâm bán nước, làm tay sai cho Trung Cộng qua hành động đàn áp, ngăn cấm những người yêu nước khi họ tự tổ chức lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Việt Nam đã hy sinh trong Chiến tranh Biên giới 1979 chống quân Trung Quốc xâm lược, cũng như những quyết định ngấm ngầm bịt miệng, tự bịt miệng báo chí không được đưa tin, bài mỗi khi tới ngày 17-2 hàng năm. Bài 1: Phượng Hoàng NGÀY 17.2.1979 NỔ SÚNG MỞ MÀN CUỘC CHIẾN PHẢN KÍCH TỰ VỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 17.2.2013 Nguồn:  Nhân Dân Nhật báo (của Trung Quốc) Ngày 17.2.1979, theo lệnh của Quân ủy trung ương, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã buộc phải phát động cuộc chiến phản kích tự vệ với quân xâm lược Việt Nam ở vùng biên giới Quảng Tây, Vân Nam. Sau khi tập đoàn Lê Duẩn lên cầm quyền, xuất phát từ dã tâm xâm lược của chủ nghĩa bá quyền, theo sự xúi giục và hỗ trợ của những kẻ khác, đã bội phản tín nghĩa, điên cuồng xua đuổi, cướp đoạt, bức hại Hoa kiều ở Việt Nam và người Việt Nam là người Hoa, liên tục tiến hành các hành động xâm phạm và khiêu khích vũ trang, đồng thời đưa quân đi xâm chiếm thủ đô Campuchia, gây nguy hại và phá hoại nghiêm trọng nền hiện đại hóa của nước ta và an ninh biên giới. Trước tình hình không thể chịu đựng thêm được nữa, chính phủ Trung Quốc quyết định tiến hành cuộc chiến đấu phản kích tự vệ, bảo vệ biên giới. Cuộc chiến phản kích tự vệ bắt đầu từ 17.2 đến ngày 16.3 thì kết thúc, bộ đội biên phòng của ta đã khống chế được 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao bằng, Lào Cai và 17 huyện thị, làm 4 sư đoàn và 10 trung đoàn chính quy thiệt hại nặng nề, tiêu diệt 3, 7 vạn quân Việt Nam, tịch thu rất nhiều trang bị vũ khí và vật tư tác chiến, cho kẻ xâm lược Việt Nam một bài học và sự trừng phạt nặng nề. Ảnh : Trong cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam, các chiến sĩ đang ký tên trên lá cờ đỏ có dán dòng chữ “Tổ quốc trong chúng ta” tự làm —- Bài 2: hxcy1965.blog.163.com KHẮP NƠI TRONG CẢ NƯỚC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG KỶ NIỆM 34 NĂM THẮNG LỢI CUỘC CHIẾN PHẢN KÍCH TỰ VỆ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 20.2.2013 Ngày mồng 8 tháng Giêng [âm] tức ngày 17.2.2013 lại trúng vào ngày kỷ niệm lần thứ 34 cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam, khắp nơi trong cả nước tổ chức các hoạt động kỷ niệm 34 năm thắng lợi cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam. Đại diện cựu chiến binh tham chiến tham gia vào hoạt động đã nói chuyện ôn lại lịch sử trận tác chiến với Việt Nam, tổng kết ý nghĩa của trận tác chiến với Việt Nam, lắng nghe hoài niệm của các cựu chiến binh may mắn sống sót về những chiến hữu đã hi sinh, kể lại tình cảnh chiến đấu nơi chiến trường cùng các chiến hữu anh hùng liệt sĩ, bày tỏ lòng yêu nước của các cựu chiến binh tham chiến, ca ngợi những chiến tích to lớn của các anh hùng liệt sĩ, đả thẳng vào hiện tượng xấu lãng quên các anh hùng của xã hội ngày nay, kêu gọi xã hội tăng cường giáo dục lòng yêu nước, yêu quý các anh hùng, tôn trọng các anh hùng, không quên lịch sử, luôn nhớ các anh hùng liệt sĩ! * Xem thêm hình ảnh tại link: http://anhbasam.wordpress.com/2013/02/22/1631-bon-banh-truong-bac-kinh-x...
......

Cá không nghe muối cá ươn

Đọc bài Bài toán bauxite sai tày hoày (tại đây) mà cười ra nước mắt: “Nhà máy alumin Tân Rai sắp đi vào hoạt động chính thức, mà Tập đoàn than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) vẫn chưa lên được phương án tối ưu cho con đường vận chuyển bauxite, trong khi hiệu quả kinh tế gần như là không có.” Ông Nguyễn Thành Sơn, giám đốc ban Quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng cho biết:“Giá thành alumin xuất xưởng tại Tân Rai nếu đạt 100% công suất cũng phải xấp xỉ 375 USD/tấn… chủ yếu dành cho xuất khẩu sang Trung Quốc, Malaysia. Nhưng do giá xuất khẩu theo đàm phán chỉ đạt 340 USD/tấn nên dù xuất khẩu vẫn lỗ.” Bà Phạm Chi Lan đã chi ra sự tào lao của dự án này: “Vinacomin đã không trung thực trong bài toán kinh tế bằng cách gạt một số hạng mục đầu tư ra ngoài để khẳng định, nếu làm sẽ có lãi. Nhưng lúc bắt tay vào triển khai, Vinacomin lại đòi hỏi nhà nước phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng đường sá để vận chuyển sản phẩm ra cảng phục vụ xuất khẩu. Đó là cách tính toán rất “cùn” trong kinh doanh, bởi khi đầu tư dự án, nhà đầu tư phải tính cả chi phí vận chuyển chứ không thể bỏ ra ngoài như Vinacomin.Chưa nói xuất khẩu sản phẩm của dự án lại phụ thuộc vào một thị trường, thì hiệu quả kinh tế cũng rất bấp bênh. Tóm lại, dự án không thể đem lại hiệu quả kinh tế…” Tóm lại như cảng Kê Gà thì dự án Bauxite ở Tân Rai cũng cần phải đình chỉ ngay, càng đâm lao theo lao càng lún sâu vào nợ nần không thể thoát ra được. Một dự án gây bất bình trong dân chúng, chẳng ai thèm nghe. Đại tướng hai lần gửi thư can gián, chẳng ai thèm nghe. Kiến nghị của 2746 nhân sĩ trí thức (tại đây) yêu cầu đình chỉ dự án này, cũng chẳng ai thèm nghe. Thậm chí các trí thức đã lập ra một trang mạng Bauxite Việt Nam chuyên đề phản đối về dự án này, cũng chẳng ai thèm nghe. Đã không nghe lại còn vu cho nó là trang mạng phản động của ” bọn cơ hội”. Bây giờ đã trắng mắt ra chưa? Câu hỏi đặt ra là: Ai chịu trách nhiệm về dự án này? Tập đoàn than – khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) thì rõ rồi. Thế còn Chính phủ thì sao? Quốc hội thì sao? Ai đỡ đầu cho dự án này đều phải chịu trách nhiệm, trước hết người đứng đầu Chính phủ đó là thủ tướng. Tới đây nhất định Thủ tướng phải giải trình vấn đề này trước Quốc hội. Tất nhiên Thủ tướng sẽ nhận trách nhiệm về Bauxite Tây Nguyên, không nhận không xong với dân chúng. Nhưng cũng như Vinashin, tất nhiên Thủ tướng cũng sẽ nói:”Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai”. Rứa đo rứa đo Có khi mô Thủ tướng ân hận về việc giải thể Ban nghiên cứu và Tổ Nghiên cứu về kinh tế đối ngoại của Thủ tướng không hè?  Chắc không! Vậy nên có câu ca rằng: Cá không nghe muối cá ươn/ Thủ tướng không nghe trí thức  trăm đường Thủ tướng hư. Rứa đo rứa đo. NQL http://quechoa.vn/2013/02/21/ca-khong-nghe-muoi-ca-uon/#more-33014
......

Tưởng niệm người chết để nhắc nhở người sống và sống sao cho nhân bản với nhau trong tương lai

Nguyễn Chí Đức - Bỗng nhiên tôi chạnh lòng nghĩ đến những người yêu nước của các đảng phái quốc gia thời kỳ chống Pháp bị Cộng Sản dẫn dụ và cuối cùng bị thủ tiêu chẳng qua do muốn độc bá, độc quyền yêu nước. Tôi cũng suy tư tới những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Nói chung cùng là người Việt trong sâu thẳm ai chẳng có tình yêu gia đình, gắn bó với quê hương, tình tự dân tộc. Có ai muốn bỏ mạng, mất một phần máu xương nơi chiến trường nhưng rồi cuối cùng do thua trận mà bị tuyên truyền là ngụy, con cháu bị ghi lý lịch đen tới ba đời đâu cơ chứ? Tàn dư phong kiến vẫn được áp dụng trong chế độ Cộng Sản. Vậy phải chăng chế độ hiện nay là một chế độ phong kiến trá hình trong khi lúc nào cũng ra rả tuyên truyền về cách mạng, về dân chủ?... *****  Dạo trước ở cty tôi có hay nói chuyện phiếm với một anh đồng nghiệp là công an chuyển ngạch về các vấn đề xã hội. Có lần tôi nói với anh này rằng chuyện tôn vinh ngày thương binh liệt sỹ 27-7 của chế độ Cộng Sản chủ yếu để giáo dục cho thanh niên, các sỹ quan quân đội đang cắm chốt tại biên giới, hải đảo chắc tay súng, vững ý chí chiến đấu bảo vệ tổ quốc mà thôi. Chứ còn đối với những người đã mất họ chẳng bao giờ mong và nghĩ đến một ngày nào đó được vinh danh ở các tượng đài, nghĩa trang liệt sĩ. Những người ngã xuống vì tiếng gọi non sông, tình yêu quê hương đất nước mà nhập ngũ hay xung phong khi có lệnh tổng động viên chứ không phải vì chủ thuyết nào mỹ miều hay bả danh lợi gì đó. Tuy nhiên đạo lý tốt đẹp của người Việt nhằm tôn vinh những người vị quốc vong thân trong môi trường Cộng Sản cũng bị méo mó, bị toan tính nhằm mục đích chính trị cho các thành phần lãnh đạo hơn là cho đại cuộc của quốc gia-dân tộc.  Chẳng nói đâu xa, những năm gần đây chính quyền Cộng Sản có chiều hướng chỉ ca ngợi, tôn vinh những người trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Pháp trong khi đối với những thương binh, liệt sĩ chống Tàu trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc rất hiếm khi được phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng và sách giao khoa dạy cho con trẻ. Nếu chẳng đặng đừng phải đề cập thì họ không dám nhắc đến 2 từ “Trung Quốc”.    Còn đối với người sống ở miền Nam hay Hải ngoại thì thực tế hiện nay phân nửa là những người có liên quan dù ít hay nhiều đến chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì chính quyền Cộng Sản ca ngợi thái quá về tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, đại thắng mùa xuân 1975 khiến cho cuộc chiến tranh này vẫn tiếp tục gây ra dư luận cho đến ngày hôm nay. Tôi cho rằng họ cố tình gây chia rẽ khiến cho bên thua trận bị tổn thương nhưng bên thắng trận cũng không lấy làm vẻ vang và tự hào gì khi sự thật đã được bạch hóa nhan nhản trên Internet. Ở đây tôi nhấn mạnh là thua trận và thắng trận, chứ còn về đường lối chính trị theo xu hướng thế giới có khi phải nói ngược lại: bên thua trận thì thắng chung cuộc, còn bên thắng trận thì thua chung cuộc. Những người yêu nước đặt vòng hoa tưởng niệm tại tượng đài vua Quang Trung. Ảnh : JB Nguyễn Hữu Vinh Hôm nay tại Hà Nội, tôi có may mắn hòa cùng mọi người đứng trước tượng đài vua Quang Trung tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc trước Trung Quốc xâm lược. Nguyên nhân phải đến đây vì lực lượng bảo vệ của quân đội tại đài tưởng niệm liệt sĩ trên đường Bắc Sơn gây khó dễ khiến cho buổi dâng hoa, thắp hương không được diễn ra. Có ý kiến kéo nhau ra Gò Đống Đa để thành kính mong hồn thiêng sông núi, vua Quang Trung, các vị anh hùng dân tộc phù hộ độ trì nhằm bảo vệ đất nước thoát khỏi sự ác hiểm của ngoại bang cũng như nội thù.   Bỗng nhiên tôi chạnh lòng nghĩ đến những người yêu nước của các đảng phái quốc gia thời kỳ chống Pháp bị Cộng Sản dẫn dụ và cuối cùng bị thủ tiêu chẳng qua do muốn độc bá, độc quyền yêu nước. Tôi cũng suy tư tới những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Nói chung cùng là người Việt trong sâu thẳm ai chẳng có tình yêu gia đình, gắn bó với quê hương, tình tự dân tộc. Có ai muốn bỏ mạng, mất một phần máu xương nơi chiến trường nhưng rồi cuối cùng do thua trận mà bị tuyên truyền là ngụy, con cháu bị ghi lý lịch đen tới ba đời đâu cơ chứ? Tàn dư phong kiến vẫn được áp dụng trong chế độ Cộng Sản. Vậy phải chăng chế độ hiện nay là một chế độ phong kiến trá hình trong khi lúc nào cũng ra rả tuyên truyền về cách mạng, về dân chủ?    Tôi cũng liên tưởng đến cuộc nội chiến giữa nhà Tây Sơn – nhà Nguyễn, trớ trêu làm sao ông Tổ gần (nhánh đi vào Nghệ An) của tôi hận Tây Sơn đến mức ghi hẳn vào gia phả. Có lẽ bối cảnh thời đó loạn lạc khiến cho các anh tài khắp các vùng miền nổi lên tập hợp lực lượng và chuyện người thắng, kẻ thua là lẽ dĩ nhiên. Nhưng rõ ràng ở bối cảnh bây giờ, lí trí bình thường nhất cũng hiểu Quang Trung là anh hùng dân tộc có công đánh đuổi quân Thanh xâm lược. Ngược lại mới vài năm gần đây khi chưa từ bỏ ĐCSVN, tôi vẫn đủ lý trí để phân tích không phải cứ cái gì Cộng Sản tuyên truyền là giặc, là phản nước hại dân có nghĩa là đúng mà có khi phải hiểu ngược lại chẳng qua muốn độc bá nên họ có ý đồ bôi nhọ người ta.    Thực ra bài viết này tôi muốn gửi gắm cho những vị lãnh đạo Cộng Sản đang cầm quyền hơn là bạn đọc thường quan tâm đến các vấn đề chính trị vì tôi cam đoan là họ thừa hiểu lịch sử, thừa hiểu mọi vấn đề hơn tôi do họ từng là người trong cuộc có điều kiện tiếp cận thông tin. Nhưng theo xu thế thời đại họ không thể ham hố quyền lực mãi được. Càng rắp tâm có ý định đó, càng dùng công an để đàn áp dân lành, bịt miệng những tiếng nói tự do thì chế độ Cộng Sản càng mất dần đi những tình cảm còn sót lại của những người dân đen vốn không bị những áp bức bất công gây nên, còn phần lớn xã hội thì ai ai cũng chán nản lắm rồi. Hơn nữa, những người là cựu chiến binh, lão thành Cộng Sản chân chính cũng không thể ôm khư khư, hoài niệm về quá khứ trong khi xã hội thì đã thay đổi khác xa với thời của họ dấn thân. Đó là những người có lương tri, nhân phẩm của người Việt. Họ chẳng dại gì làm bình phong cho các ông lãnh đạo dùng người này, người kia có uy tín để trấn an dư luận. Theo suy nghĩ của tôi thì họ thay vì có danh là nhân sĩ, trí thức của chế độ chỉ có tiếng vang nhất thời do Cộng Sản ca tụng mà phải là Nhân sĩ-Trí thức dấn thân của dân tộc thì tiếng thơm muôn thở và được các tầng lớp nhân dân kính trọng.    Chúng ta tưởng niệm cho người chết dù là anh hùng liệt sĩ, bỏ mạng nơi biển cả đi tìm tự do, oan hồn tức tưởi trong Cải Cách Ruộng Đất... nhưng chính là nhắc nhở cho người sống để mà yêu thương, để mà hàn gắn, để mà tha thứ cho nhau. Vì xét chung cuộc chúng ta không đủ mạnh về tư tưởng, đủ tự lực-tự cường và đủ yêu thương lẫn nhau khiến cho các nước lớn chi phối và áp đặt. Từ đó dẫn đến việc chúng ta bị chia rẽ theo bên này hoặc bên kia, cuối cùng là chém giết lẫn nhau và hệ lụy đó còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. http://donghailongvuong.wordpress.com/2013/02/17/tuong-niem-nguoi-chet-de-nhac-nho-nguoi-song/
......

Chủ tịch Trương Tấn Sang khẳng định hệ thống chính trị của chúng ta ” Không dám nói lên sự thật”

“Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Lời Kinh Thánh) Trên báo Sài Gòn giải phóng online ngày 13-02-2013, trong bài : “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Vũ khí của chúng ta là dám nói lên sự thật” có đoạn viết như sau: “Khi nghe bà Phan Thị Tươi giới thiệu chồng mình – ông Hoàng Thái Lai, đã nghỉ hưu nhiều năm nay, hiện là Bí thư Chi bộ khu phố 2, phường Thảo Điền (quận 2), Chủ tịch nước hỏi: “Đồng chí có gửi gắm gì không?”. “Tôi mong mỗi cán bộ lãnh đạo hãy làm đúng những gì đã nói”. “Đúng, làm đúng những gì đã nói đang là thách thức rất lớn đối với chúng ta hiện nay” – Chủ tịch nước chia sẻ. “Sau khi lắng nghe những phát biểu nói lên kỳ vọng của các thành viên trong gia đình GS-TS Phan Thị Tươi, Chủ tịch nước nói: “Từ trước đến nay, chúng ta có “cái bệnh” rất lớn là không dám nói lên sự thật. Hôm nay nghe đồng chí bí thư chi bộ khu phố nói, tôi thấy đấy là sự thật, một sự thật ở ngay trong dân. Chắc chắn người dân đã gửi gắm rất nhiều vào đồng chí bí thư, nên hôm nay tôi mới nghe được gửi gắm của dân mong muốn mỗi cán bộ, đảng viên phải làm đúng những gì đã nói. Đây là tiếng nói của lòng dân, Đảng hiểu dân nói mới là thước đo niềm tin chính xác nhất. Nhiều cán bộ không muốn nghe sự thật và không dũng cảm nói lên sự thật là vì lợi ích…” ( hết trích – chữ in đậm do TMH nhấn mạnh). Có lẽ, từ ngày Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) nhảy ra cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim ngày 19-8-1945, chưa từng có một vị lãnh tụ nào dũng cảm đứng ra nói với toàn thể đồng bào trong ngoài nước về CÁI BỆNH RẤT LỚN của những người cộng sản là CĂN BỆNH DỐI TRÁ (tức: “ không dám nói lên sự thật”) như ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang trong dịp tết Quý Tị này như vừa dẫn: “CHÚNG TA CÓ “CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT” Xin xem định nghĩa đại từ CHÚNG TA trong từ điển: “Chúng ta: Bản thân mình cùng với người đối thoại: Chúng ta đi đâu bây giờ, vì tương lai con em chúng ta” (Đại từ điển tiếng Việt –NXB Văn hóa – Thông tin- 1999, trang 400) Như vậy, hàm nghĩa từ CHÚNG TA nơi câu nói của chủ tịch nước Trương Tấn Sang bao gồm chính ông và vợ chồng người đảng viên ông đến thăm, nói rộng ra là chính chủ tịch nước và tất cả mọi người Việt Nam đọc báo đều cùng mắc cái  bệnh rất lớn là bệnh dối trá này. Nhưng đa số nhân dân đâu có cơ hội để mắc bệnh này, vì họ, tức nhân dân, tức người dân thường, tức tư nhân không có quyền ngôn luận, tức không có quyền ra báo. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, người tự xưng là đày tớ của nhân dân mới có quyền phát ngôn trên 700 tờ báo nói, báo viết, báo hình mà thôi. Cho nên từ “chúng ta” trong nội hàm của câu nói trứ danh này của ông Trương Tấn Sang chính là nhằm nói rằng: hệ thống cầm quyền, hệ thống chính trị tức Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang mắc CÁI BỆNH RẤT LỚN LÀ KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT. Mà không dám nói lên sự thật chính là “cái bệnh rất lớn” là nói dối vậy. Nếu câu nói này (chúng ta có cái bệnh rất lớn là không dám nói lên sự thật) phát ra từ một người bất đồng chính kiến thì chắc sẽ bị công an bắt giam vì điều 88: tuyên truyền nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng khi câu nói RẤT CHÍNH XÁC này phát ra từ miệng vị chủ tịch nước Trương Tấn Sang lại là một vấn đề không nhỏ, không phải nói để chơi. Đó là nhận thức quan trọng nhất mà một lãnh tụ Đảng Cộng sản Việt Nam – ông Trương Tấn Sang – đã dũng cảm nói lên sự thật rất đáng buồn rằng: hệ thống cầm quyền của những người cộng sản là một hệ thống thiếu trung thực, lấy sự dối trá làm bản chất. Ai ai trong thế kỷ thứ 21 này cũng đều biết chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của C.Marx và F. Engel bắt nguồn từ chủ nghĩa xã hội không tưởng của các nhà triết học tiền Mác-xít: Saint Simon, Charles Fourier, Robert Owen… là những hệ thống xã hội không tưởng, ảo tưởng, không có thật, bịa đặt… Một xã hội xã hội chủ nghĩa tiến tới thiên đường cộng sản là một xã hội phi lý, phi nhân – nơi chỉ có cái thiện mà không có cái ác, chỉ có cái tốt mà không có cái xấu, chỉ có cái thật mà không có cái giả, tức là một xã hội phi biện chứng. Trong xã hội giả tưởng đó, người ta sống theo nguyên tắc vô cùng phi lý: làm theo năng lực (có  hạn) hưởng theo nhu cầu (vô hạn). Trong xã hội bịa đặt phi biện chứng đó, nhà nước bị triệt tiêu, biên giới Việt Nam và Trung Hoa bị xóa bỏ (tất nhiên Việt Nam sẽ thành quận huyện của Tàu, đó là xã hội cộng sản hay sao?). Ở Cái xã hội bịa đặt khủng khiếp có tên là xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản ấy, quyền tư hữu bị xóa sổ, cá nhân bị xóa sổ, nhân tính bị xóa sổ, gia đình bị xóa sổ, quốc gia bị xóa sổ, tôn giáo bị xóa sổ, cái riêng bị xóa sổ, đất nước bị xóa sổ, dân tộc bị xóa sổ… Liên Xô sau 74 năm đi tìm cái xã hội chủ nghĩa không tưởng mà tìm mãi không thấy, chỉ thấy cả đất nước rộng bằng một phần sáu địa cầu biến thành trại tập trung với máu và nước mắt, với gần 100 triệu người bị giết hại vì lý thuyết đấu tranh giai cấp duy ác Mác – Lê…  Nay Liên Xô đã quay lại con đường tư bản chủ nghĩa để đi cùng đường với nhân loại… Trung Quốc đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội dã man từ năm 1978 để xây dựng xã hội theo mô hình tư bản, mô hình thị trường; nhưng vẫn mạo danh xã hội chủ nghĩa để đỡ bẽ mặt vì Trần Độc Tú, Cù Thu Bạch, Mao Trạch Đông đã sai lầm vô hạn khi áp dụng chủ thuyết duy ác Mác-Lê vào Trung Quốc. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối năm 2012 đã không còn nhắc đến Mác-Lê-Mao… Đảng Cộng sản Pháp trong đợt đại hội cách đây mấy ngày, đã good bye cờ búa liềm là cờ của nước Liên Xô trước đây… Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo từ năm 1986 đã chôn chủ nghĩa xã hội để xây dựng chế độ tư bản nhưng vẫn còn giữ cái đuôi dối trá rất vô nghĩa là “ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”… Mùa tết năm nay, qua lời thú nhận của chủ tịch nước Trương Tấn Sang về hê thống xã hội cộng sản của ông và các ông vốn là một hệ thống dối trá “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT” chính là cuộc thay đổi tư duy đáng trân trọng của giới lãnh đạo Việt Nam… Khi cả thế giới đều biết chủ nghĩa xã hội kiểu quốc tế ba của Mác-Lê là một chủ nghĩa ảo, một học thuyết bịa đặt , dối trá từng giết hại hàng trăm triệu người trên thế giới thì khi đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta lại phải mang cả khối dối trá trên mình, liệu có trung thực, có đúng đắn hay không: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”. Chủ nghĩa xã hội = sự không có thật, chẳng lẽ quốc hiệu của ta lại ra thế này ư: CỘNG HÒA KHÔNG CÓ THẬT VIỆT NAM”? Từ sự nhận thức trên mang tính cách mạng của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, chúng tôi hy vọng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ nhanh chóng từ bỏ những khái niệm dối trá, chủ nghĩa dối trá để trở về cùng đường với dân tộc và nhân loại. Chúng tôi xin trích hai đoạn ngắn trong bài viết của mình năm 2010: “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước” (là tham luận của TMH trong đại hội nhà văn Việt Nam, nhưng không được phép đọc, đã post lên mạng trước đại hội) làm phần kết của bài viết này: “Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử…. ….Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi”. Từ nhận thức rằng hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống “KHÔNG DÁM NÓI LÊN SỰ THẬT”, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đi một bước cách mạng đột phá, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp cận dần sự thật để dám từ bỏ cái chủ nghĩa dối trá là chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi xin chép lại lời của đại văn hào Pháp V. Hugo để tặng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, những người đã dám dũng cảm cứu nguy dân tộc bằng cách chôn chủ nghĩa xã hội từ năm 1976 (chủ nghĩa Marx thực chất là một chủ thuyết về kinh tế) để xây dựng kinh tế thị trường- kinh tế tư bản : “CÁCH MẠNG LÀ CUỘC TRỞ VỀ TỪ CÁI GIẢ ĐẾN CÁI THẬT”. Sài Gòn 15-02-2013 Trần Mạnh Hảo http://quechoa.vn/2013/02/15/chu-tich-truong-tan-sang-khang-dinh-he-thon...
......

Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979

Những hành vi bị nhiều người cho là hung hãn của Trung Quốc trong vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông có thể dẫn tới chiến tranh. Đó là nhận định của một số các nhà quan sát khi họ nhìn lại cuộc chiến tranh cách nay hơn 30 năm giữa hai lân bang theo chủ nghĩa Cộng Sản có mối quan hệ khắng khít, thường được mô tả là “môi hở răng lạnh”. Những đòi hỏi chủ quyền chồng chéo nhau ở Biển Đông có nhiều tài nguyên thiên nhiên tiếp tục gây căng thẳng cho các mối quan hệ giữa Trung Quốc và một số các nước láng giềng của họ ở Á châu, trong đó có Việt Nam. Những vụ tranh chấp như vậy giữa Trung Quốc và Việt Nam đã diễn ra trong nhiều thế kỷ. Nhưng đến cuối thập niên 1970, sự hiềm khích giữa đôi bên đã bùng lên thành một cuộc xung đột vũ trang có nhiều chết chóc, với cuộc chiến tranh thường được gọi là cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979. Trung Quốc đã dùng yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa làm một trong các lý do để xâm lăng Việt Nam, tuy cuộc chiến tranh đó diễn ra sau một loạt những vụ đụng độ ở biên giới hai nước và những hành động quyết liệt của Việt Nam ở Campuchia. Tại Campuchia lúc đó, chế độ Khmer Đỏ tàn bạo đã phát động một chiến dịch khủng bố trên cả nước. Chiến dịch diệt chủng này rốt cuộc đã gây tử vong cho hơn 2 triệu người. Khmer Đỏ có được sự hậu thuẫn của Trung Quốc nhưng bị Liên Sô phản đối. Việt Nam có được sự hỗ trợ của cả Trung Quốc lẫn Liên Sô trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ, nhưng dần dần tránh xa Trung Quốc trong những năm giữa thập niên 1970 và nghiêng hẳn về phía Liên Sô. Việt Nam tiến quân sang Campuchia cuối năm 1978 và nhanh chóng lật đổ chế độ Khmer Đỏ. Ông Lý Tiểu Binh, Khoa trưởng Phân khoa Sử Địa của Đại học miền Trung Oaklahoma, cho biết lãnh tụ Trung Quốc lúc đó là ông Đặng Tiểu Bình đã tức giận trước hành động của Hà Nội và quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”. Giáo sư Lý: "Vì ảnh hưởng ngày càng tăng của Việt Nam trong khu vực, cộng với việc xâm lăng Campuchia và sự hợp tác với Liên Sô, nên ông Đặng Tiểu Bình và Trung Quốc e rằng Việt Nam có thể bành trướng thế lực của mình tới những khu vực khác, kể cả Biển Nam Trung Hoa." Trung Quốc cũng tố cáo Việt Nam bách hại Hoa Kiều và lên tiếng chống đối việc Việt Nam chiếm đóng những hòn đảo của quần đảo Trường Sa. Đầu năm 1979, ông Đặng Tiểu Bình đi thăm Hoa Kỳ và bày tỏ sự bất mãn đối với Việt Nam. Ông nói với các giới chức ở Washington rằng “những đưa trẻ không nghe lời cần phải đánh đòn.” Lính Trung Quốc bắt đầu tràn qua biên giới Việt Nam hồi tháng hai năm 1979. Phía Việt Nam gọi đây là cuộc chiến “chống bá quyền Trung Quốc” trong lúc Bắc Kinh gọi cuộc xung đột vũ trang này là “Cuộc phản kích tự vệ chống lại Việt Nam.” Giáo sư Lý Tiểu Binh nói rằng Trung Quốc muốn mô tả cuộc chiến này là một cuộc chiến tự vệ. Giáo sư Lý: "Trung Quốc muốn biện minh cho hành động của mình. Họ muốn mọi người tin rằng cuộc chiến tranh này có tính chất phản ứng tự vệ để đáp lại chính sách hung hãn của Việt Nam." Tiến sĩ Lý Tiểu Binh cho biết ông Đặng Tiểu Bình muốn dùng cuộc chiến tranh với Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của quân đội Trung Quốc. Giáo sư Lý: "Có vấn đề giữa hàng ngũ lãnh đạo mới của ông Đặng Tiểu Bình và quân đội. Quân đội than phiền là họ không được lợi lộc gì trong các nỗ lực cải cách. Họ nói rằng trong lúc tiến hành cải cách họ đã không nhận được các nguồn lực để phát triển. Thậm chí họ còn cho rằng họ là nạn nhân của phong trào cải cách." Ông Lý Tiểu Binh nói rằng ông Đặng Tiểu Bình đã để cho quân đội có được một cơ hội để chứng tỏ khả năng và cho phép họ tự soạn thảo kế hoạch xâm lăng Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng đó lại nêu bật sự yếu kém của quân đội Trung Quốc. Họ chỉ tiến được vào lãnh thổ Việt Nam khoảng 8 kilo mét, tuy đã gây thiệt hại nặng cho một số thành phố ở biên giới. Đà tiến của những toán quân Trung Quốc đã bị khựng lại khi gặp phải sự kháng cự kịch liệt của phía Việt Nam, những người đã tận dụng được các kỹ năng đánh du kích mà họ đã trui luyện trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. Trung Quốc đã gánh chịu tổn thất nhân mạng rất lớn và phải rút về nước sau 29 ngày. Giáo sư Lý: "Đó là một thảm họa nhục nhã đối với quân đội. Thương vong ở mức cao, không theo đúng kế hoạch, thông tin liên lạc tồi tệ, tính toán sai lầm, vân vân …" Về mặt công khai, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng. Nhưng phía Trung Quốc biết rõ là quân đội của họ có nhiều khiếm khuyết. Không lâu sau đó, Bắc Kinh đã thực hiện một chương trình để hiện đại hóa quân đội của mình. Giáo sư Lý: "Quân đội nhận ra rằng họ đã bị lỗi thời. Tinh thần chiến đấu binh sĩ rất thấp. Các hệ thống của Liên Sô không hoạt động có hiệu quả. Khi đó họ còn dùng các loại khí tài của Liên Sô. Vì vậy cho nên họ đã sẵn sàng chấp nhận đề nghị cải cách quân đội. Giáo sư Lý Tiểu Binh cho rằng qua cuộc chiến năm 1979 Trung Quốc lại một lần nữa chứng tỏ với các nước láng giềng là họ sẵn sàng sử dụng vũ lực để giải quyết những vụ tranh chấp lãnh thổ. Nhiều năm sau khi chiến tranh chấm dứt, những vụ đụng độ ở biên giới Việt-Trung vẫn tiếp diễn và quan hệ song phương tiếp tục bị căng thẳng. Mãi cho đến năm 1986, với bối cảnh của sự thay đổi hàng ngũ lãnh đạo ở Bắc Kinh và Hà Nội và các phong trào cải cách ở Nga, Trung Quốc và Việt Nam đã đồng ý gác qua một bên những vụ tranh chấp để tập trung nỗ lực vào công cuộc phát triển hòa bình. Công cuộc phát triển đó giờ đây đã bị đe dọa bởi những hành động có tính chất kịch liệt của Trung Quốc để chống lại điều mà họ cho là những mối đe dọa đối với lãnh thổ của họ ở Biển Đông. Các nhà quan sát cho rằng những hành vi gây nhiều sóng gió có thể làm cho Trung Quốc rơi vào một cuộc xung đột với các nước láng giềng cũng có yêu sách chủ quyền ở vùng biển rất quan trọng cho hoạt động thương mại của cả thế giới này.   http://www.voatiengviet.com/content/nhin-lai-cuoc-chien-viet-trung-nam-1979/1521720.html  
......

Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979

Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề. Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết. Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy? Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này?  Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện. Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN. Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là  không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua. Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ? Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới. Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979 - Ảnh: Tư liệuTù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể  lờ đi vấn đề lịch sử này được. Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”. Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước. Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm. Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh. Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ? Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia. http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130217/nhin-lai-chien-tranh-bien-gioi-1979.aspx  
......

Bắc Kinh: Đường rút an toàn của CSVN?

Từ hai năm qua, đặc biệt là từ sau Hội nghị 6 của Trung ương đảng CSVN vào tháng 10 năm 2012, lãnh đạo CSVN ở vào hai thế khó xử: Thứ nhất là không dám đưa ra bất cứ biện pháp kỷ luật nào đối với những cán bộ lãnh đạo bị đánh giá là “suy thoái đạo đức” sau khi có kết quả ‘phê và tự phê’ để ngăn chận tình trạng tham ô nhũng lạm. Đặc biệt là Bộ chính trị đã không kỷ luật được ông Nguyễn Tấn Dũng (mà còn che giấu gọi là đồng chí x) vì sợ tạo ra những cuộc “đấu đá” ngầm giữa phe ông Dũng với phe kình chống. Điều này đã được ông Nguyễn Phú Trọng nói xa gần trong cuộc tiếp xúc với cử tri ở Hà Nội hôm mồng 1 tháng 12, 2012 rằng: “kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù oán, đối phó, thành phe phái, rối nội bộ….” Thứ hai là không dám thỏa mãn những đòi hỏi tôn trọng nhân quyền của Hoa Kỳ để đổi lấy việc mua vũ khí chiến lược hầu tăng cường phòng thủ trước sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, vì vẫn mang nặng tư duy của thời Chiến Tranh Lạnh: coi Hoa Kỳ là thù địch và sợ Hoa Kỳ thúc đẩy diễn biến hòa bình làm sụp đổ đảng từ bên trong. Điều này đã được ông Phùng Quang Thanh viết trong Tạp chí quốc phòng số tháng 12/2012 rằng: “thế lực thù địch (ám chỉ Hoa Kỳ) tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng chiến lược ‘Diễn biến hòa bình’ sử dụng các chiêu bài ‘dân chủ’, ‘nhân quyền’, ‘dân tộc’, ‘tôn giáo’, thúc đẩy ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta; khi có cơ hội, chúng sẵn sàng phát động chiến tranh xâm lược.” Nỗi ám ảnh “diễn biến hòa bình” bỗng chốc trở nên nguy kịch hơn khi hiện tượng “tự diễn biến” xuất hiện ngày một nhiều với hàng loạt những phê phán, chỉ trích đảng nặng nề, thẳng thừng ngay từ những đảng viên kỳ cựu. Nhất là hiện tượng kêu gọi đảng “lột xác”, chấp nhận đa nguyên, đa đảng xảy ra dồn dập... khi đảng cho mở “hộp giun” hiến pháp. Mọi kế sách của CSVN, do đó, đã không nhằm giải quyết các vấn nạn trầm trọng của đất nước như kinh tế suy thoái, xã hội bất ổn, dân tình ta thán, nguy cơ xâm lược của phương Bắc, mà ưu tiên bảo vệ chế độ và chống “diễn biến hòa bình”. Ông Phùng Quang Thanh đã khẳng định rằng: Nhiệm vụ hàng đầu của CSVN trong thời gian tới là “chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược ‘diễn biến hòa bình’ của các thế lực thù địch”, rồi sau đó mới là “các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc.” Quan điểm nói trên của ông Phùng Quang Thanh đã phản ảnh rất rõ những suy nghĩ của 14 ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN trong tình hình hiện nay: để giữ chặt quyền lực độc tôn, CSVN không thể tách rời khỏi mối liên hệ với Bắc Kinh. Quan điểm này đã giải thích lý do vì sao CSVN đã để cho một số cán bộ cao cấp như ông Nguyễn Thế Kỷ (Phó trưởng ban tuyên giáo), Đại tá Trần Đăng Thanh (Viện nghiên cứu chiến lược Bộ quốc phòng), Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh (Thứ trưởng Bộ quốc phòng) công khai đề cập về “công ơn” và “đối xử hòa bình” với nước láng giềng Trung Quốc. Vừa qua, Thủ tướng Abe của Nhật Bản đã chọn Việt Nam là quốc gia đầu tiên ghé thăm trong chuyến công du ba nước Thái Lan, Nam Dương và Việt Nam sau khi được tái tín nhiệm chức Thủ tướng vào cuối năm 2012. Ông Abe chọn đến Việt Nam vào lúc này không gì khác hơn là muốn vận động Hà Nội “liên minh” với Nhật Bản và Phi Luật Tân để chống lại các hiểm họa bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông, đe dọa đường vận chuyển dầu thô và hàng hóa của Nhật Bản. Cộng sản Việt Nam đón tiếp ông Abe như một nghĩa cử “cảm ơn” về khoản viện trợ ODA dồi dào mà chính quyền đảng Tự Do Dân Chủ của ông Abe đã bỏ ra cho CSVN trong 20 năm vừa qua, hơn là đáp ứng các yêu cầu chống Trung Quốc của Nhật. Dù mang ơn giúp đỡ của Nhật Bản nhưng CSVN khó có thể quay lưng với Trung Quốc vào lúc này. CSVN không dám chống lại Trung Quốc không chỉ vì hai đảng và hai nước cùng nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa hay vì đang phải dựa vào đầu tư và tiền vay mượn từ Trung Quốc để cứu nguy nền kinh tế, mà còn một nguyên nhân quan trọng khác, phát sinh từ khoảng một năm nay, khi dấu hiệu “tự sụp đổ trong nội bộ” đang trở thành mối đe dọa nguy hiểm. Hàng loạt những thất bại về kế hoạch xây dựng các tập đoàn kinh tế để phát triển thành quốc gia công nghiệp hiện đại vào năm 2020 và những bất ổn xảy ra liên tục ở các huyện nông thôn về chính sách đất đai, đã khiến cho lãnh đạo CSVN thấy rõ là niềm tin của đảng viên vào họ không còn nữa. Ông Hữu Thọ từng là cựu Tổng biên tập báo Nhân Dân đã nói lên thực trạng này bằng nỗi ưu tư đầu năm 2013 rằng: “quan hệ giữa người Đảng viên bình thường và người lãnh đạo đang có xu hướng gia tăng khoảng cách, không còn được như thời chúng ta là những người đồng chí với nhau chung một chiến hào.” Trong bối cảnh đó, nội bộ đảng CSVN hiện chia làm hai xu hướng: Xu hướng thứ nhất là thành phần cán bộ giàu có tìm cách đưa con cái và gia đình đi ra nước ngoài dưới dạng du học hay làm ăn để qua đó tẩu tán tài sản nếu một mai ‘diễn biến hòa bình’ thật sự xảy ra. Theo số liệu của Ngân hàng nhà nước CSVN cho biết là hàng năm hiện có khoảng hơn 2 tỷ Mỹ Kim chuyển ra nước ngoài dưới dạng chuyển ngân tiền học, chưa kể hàng tỷ Mỹ Kim khác chuyển dưới dạng không chính thức. Xu hướng thứ hai là thành phần cán bộ đảng viên còn chút ràng buộc về lý tưởng cộng sản tìm cách vận động thành phần lãnh đạo chấp nhận một số thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội mà cụ thể là giảm bớt sự độc quyền của đảng, chấp nhận một hình thái đa nguyên về chính trị hầu tránh cho đảng không bị tan rã toàn diện trong bối cảnh xảy ra ‘diễn biến hòa bình’. Cả hai xu hướng nói trên đều đẩy lãnh đạo CSVN - đặc biệt là 200 ủy viên Trung ương đảng khóa VII hiện nay – rơi vào tình thế rất khó xử. Họ khó có thể lùi bước chấp nhận đa đảng vì đó là con đường dẫn đến tự sát như ông Nguyễn Minh Triết đã từng nói. Họ cũng không thể đưa con cháu và chuyển tài sản sang các nước Âu Mỹ như những cán bộ bình thường vì có ngày sẽ bị các nước này phong tỏa trắng tay như đã từng làm đối với thành phần quân phiệt Miến. Lãnh đạo CSVN chỉ còn phương cách duy nhất là tung ra những biện pháp thay đổi vá víu như hô hào góp ý cải sửa hiến pháp 1992 hay thổi phồng việc đưa Nguyễn Bá Thanh ra nắm ban nội chính trung ương chống tham nhũng…. để câu giờ. Trong khi đó họ cố chịu nhục, cúi đầu phục vụ các đòi hỏi của Bắc Kinh để khi đảng bị thoái trào thì dẫn vợ con và gia đình vượt biên giới sang tỵ nạn Trung Quốc. Con đường Bắc Kinh là giải pháp tự cứu của lãnh đạo CSVN khi có biến động. Điều đáng tiếc cho lãnh đạo CSVN là đã mù quáng không nhìn ra những thay đổi tất yếu của lịch sử nhân loại và tiếp tục nhắm mắt tin vào đàn anh Trung Quốc. Xã hội Trung Quốc hiện cũng có rất nhiều mầm mống mâu thuẫn chực chờ bùng nổ không thua gì ở Việt Nam từ kinh tế, xã hội, giáo dục, môi trường… Chính Trung Quốc đang phải trực diện với những đột biến chính trị có thể xảy ra bất cứ lúc nào, do đó không phải là nơi “an toàn” để dung thân cho thành phần đã và đang lãnh đạo đảng CSVN.
......

Cuộc Chiến Trong Yên Lặng

Trái với bề nổi có vẻ ổn định của thể chế chính trị và một sự "cân bằng lập lờ" của nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại, Việt Nam vẫn chất chứa những kho thuốc nổ đang được lên giây, định giờ, chờ nổ. -Những cuộc đấu tranh công khai của các nhân sỹ, trí thức, kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992. -Những cuộc bút chiến "tóe tâm huyết" của các Blogger, những nhân sỹ trí thức mà trong số đó, không hiếm những "hậu duệ, tự chối bỏ nguồn gốc đỏ" của mình, không quản an nguy, cho bản thân cũng như gia đình, để đòi hỏi những "thuộc quyền được mặc định" bởi tạo hóa, cho cả tiền đồ Dân Tộc. Những cuộc đấu tranh "sống mái" của những nông dân vấn vành tang trắng trên đầu để đòi hỏi sự công bằng, minh bạch trong vấn đề sở hữu đất đai trên những cánh đồng Dương Nội, Văn Giang, Vụ Bản mù mịt khói lửa và cả tiếng súng hoa cải Tiên Lãng của gia đình họ Đoàn   Những cuộc "trải chiếu, trải lều", "trải nổi thống khổ" trong các vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Lý Tự Trọng, trước Văn phòng Quốc Hội phố Ngô Thì Nhậm, Trụ sở Mặt trận Tổ Quốc phổ Tràng Thi, của Dân oan mất đất. Sát cánh với những cuộc đấu tranh trên, một cuộc chiến không tuyên bố, tuy âm thầm lặng lẽ nhưng không kém phần khốc liệt, trí tuệ  giữa những suối nguồn nhỏ nhoi cho đến dòng sông cuộn sóng của lòng dân với con thuyền ngạo mạn của "lớp người cộng sản" đi ngược con sóng tất yếu của dòng chẩy lịch sử Dân tộc đổ về biển lớn của tiến trình tiến hóa nhân loại. Đó là cuộc chiến đã được quy ước từ thưở hái lượm, theo thuyết tiến hóa Darwin, cuộc chiến để bảo vệ thành quả lao động của "chân và tay", của thiên nhiên và con người, của "máu và nước mắt", của "bạo lực cường quyền" và sự "thông thái dân gian".  Đó chính là cuộc chiến làm đau đầu những nhà "Max, ít - Lênin, ít -  Mao, tí -  Đặng, nhiều", trong nền"Kinh tế thị trường định hướng XHCN" hiện nay. Một bài toán phương trình "ý đảng, lòng dân" ẩn số "X", không có nghiệm cho sự tồn vong của kinh tế thị trường nửa mùa. Đó chính là tình trạng dân Việt Nam hiện tại coi trọng những thứ như: 1-Vàng, một thứ vô tổ quốc. 2-USD, quốc tịch Mỹ, 3-Tiền mặt VNĐ. Trong một nền kinh tế mà chỉ số tín nhiệm của người dân đối với các chính sách vĩ mô của nhà nước, đi ngược với chỉ số "lạc quan nhăn nhở" của Việt Nam, về dưới không, mà trong hai năm gần đây, tỷ giá song phương giữa USD và VNĐ hầu như không thay đổi. Mặc dù trong tương quan giá trị song phương giữa USD/VND, hiện đồng nội tệ đã bị đánh giá cao vượt so với thức tế 24%. Thế nhưng tỷ giá song phương này, vẫn xoay quanh trục 1USD/ 20.820-20828 VNĐ, nếu tính từ đợt điều chỉnh cuối cùng của NHNN 24/12/2012, vẫn nằm trong biên độ cho phép của NHNN 20.825-21036Đ/USD, là một điều quái dị?, mặc cho những"tư vấn phá giá VNĐ một cách giảm sốc 4%/năm" của các chuyên gia kinh tế - tiền tệ. Trong bối cảnh hiện tại, khi mà: -Những mục tiêu ngắn hạn vô vọng như trong lãnh vực chứng khoán vì thị trường cũng như thanh khoản lao dốc, đầu tư vào vàng bị NHNN ngăn cấm. -Những mục tiêu dài, hạn tuyệt vọng như Địa ốc vì đã bị đóng băng. -Chỉ một số ít ỏi, không quá 75.000 tỷ VNĐ vốn huy động được đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. -Trong cơ cấu vốn huy động, tiền gửi bằng ngoại tệ giảm hơn 13%, trong khi đó tiền gửi bằng VNĐ tăng 36% -Tăng trưởng tín dụng có mức tăng trưởng tấp kỷ lục 7%/ năm. -Mặc dù đã có quy định của NHNN, kéo lãi xuất huy động với thời hạn 1 - dưới 12 tháng, không được vượt 8%/năm. Thế nhưng có những lúc những nơi các Ngân hàng vẫn công khai trương bảng 11,2%/năm, chưa kể "lãi xuất thập thò" lên tới 13, 14%/năm, nhưng NHNN lại có một động thái "ngó lơ", trái ngược so với thời gian không lâu trước đó. -Tổng lượng tiền huy động trong toàn hệ thống Ngân hàng ước đạt 2.900.000 tỷ đồng (lấy tròn). Tổng lượng tiền mà các Ngân Hàng huy động, vượt hơn 10 lần tăng trưởng tín dụng (3). Nếu quy đổi ra USD thì trong tổng số vốn huy động gần 145 tỷ USD, toàn hệ thống Ngân Hàng chỉ cho vay và đầu tư vào trái phiếu chính phủ chưa tới 10 tỷ USD. Dễ dàng nhận ra rằng, tất cả vốn huy động chỉ dành cho mục tiêu cứu thanh khoản của toàn hệ thống. Đối chiếu với lời xác nhận đầy "lạc quan" của Phó Thống Đốc Ngân Hàng Lê Minh Hưng trong buổi họp mặt tổng kết cuối năm 2012 với các tổ chức tín dụng trong, ngoài nước, con số được cho là sát thực tế 10 tỷ USD của cán cân vãng lai thặng dư tổng thể. Có thể nhận ra rằng, hệ thống Ngân Hàng Việt Nam đang phạm một sai lầm chết người, đe dọa đến tính ổn định của toàn hệ thống về thanh khoản do sai lầm kép ở cơ cấu thời hạn và cơ cấu đồng tiền. Hầu hết các vốn huy động được của hệ thống Ngân Hàng đều ở mức ngắn - trung hạn, không quá 12 tháng. Hiện tại trong năm 2012 toàn hệ thống đã phải chi trả lợi tức cho số tiền huy động được trừ lùi gối đầu theo kỳ hạn tín dụng, một con số không nhỏ, gần gấp đôi số thâm hụt cán cân thương mại 2010 giữa VN - TQ, gần 25 tỷ USD (lấy tròn) (5). 10 tỷ USD chỉ như muối bỏ bể. Những lời bao biên như: lo sợ cán cân trong quan hệ USD/VND của nợ công, sợ nhập khẩu lạm phát mà không dám phá giá VNĐ của NHNN, chẳng qua chỉ là che dấu sự lo ngại một cuộc khủng hoảng thanh khoản tái phát do người gửi sẽ ồ ạt rút tiền để chuyển hóa thành USD, vàng, nếu NHNN VN chỉ cần phá giá VND trong biên độ 0,5 - 1%. Vì những người có tiền, hiện nay chẳng ai dại gì chỉ nắm giữ VNĐ. Công thức để bảo toàn đồng vốn phổ biến hiện tại: 1/2 vàng - 1/2 VND hoặc 1/3 vàng (hoặc thứ tương đương như kim cương) - 1/3 USD - 1/3 VND. Số lợi tức thu được từ VND gửi trong các tổ chức tín dụng sẽ được chuyển hóa lại thành vàng, USD. Lãi xuất và biến động tỷ giá, dĩ nhiên sẽ được người gửi tiền theo dõi, tính toán sát sao một cách "thông minh dân gian". Trong giai đoạn này, các Ngân Hàng để tự cứu tính thanh khoản của mình, chỉ còn nước chạy đua tăng lãi xuất. Hiện nay các Ngân hàng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài hầu như chỉ huy động được USD mặc dù lãi xuất cực thấp. Ngược lại hầu hết 35 Ngân hàng thương mại ngoài nhà nước cũng như 5 Ngân hàng nhà nước hầu như chỉ huy động được VNĐ. Trong cuộc chiến tiền tệ này, người dân là người "gửi tiền thông minh". Hệ thống Ngân Hàng VN, phải ngậm đắng nuốt cay, mỗi tháng phải chi ra không dưới 1,8 tỷ USD, cho người gửi tiền. Không có cách nào khác, nếu như NHNN, không muốn sụp đổ cả hệ thống. Hiện tại, NHNN VN đang lâm vào thế bị động, nếu không muốn nói đang lâm vào thế bí, trong cuộc chiến tiền tệ với người dân. Với lượng tiền huy động vượt quá mười lần tăng trưởng tín dụng để cứu thanh khoản và với lãi xuất phải trả cho người gửi đến mức không chịu đựng được, hệ thống Ngân Hàng VN nói riêng và nền Kinh tế VN, sự tồn vong của Đảng CS VN nói chung, đang trên miệng vực sâu. Đây chính là cuộc chiến giữa Bạo lực cách mạng và sự thông thái dân gian, giữa sự "giảo hoạt có tính toán" và "sự chịu đựng kiềm chế, ngắn hạn trong hiện tại và sự bất tín nhiệm vô hạn, trong tương lai". Một thể chế Chính trị không được sự ủy nhiệm đồng thuận của dân chúng sẽ chi phối nền Kinh tế của quốc gia đó ở một mức độ giới hạn, trong một giai đoạn ngắn hạn. Một hình thái kinh tế tương hợp với ý nguyện của Đất nước sẽ quyết định thể chế Chính trị tương thích, trong tương lai dài hạn. Với những kinh nghiệm đau xót trong quá khứ qua những chiến dịch "Đánh Tư sản mại bản", "Cải tạo Công thương nghiệp" X1, X2, X3, X4, X5...Người dân Việt Nam hiện nay quá đủ kinh nghiệm để bảo vệ tài sản của mình một cách thông minh nhất.+ Thử nghĩ xem. Đà Lạt 12/02/2012 (Mùng 2 Tết Đinh Tỵ) Oanh Yến Thị Phạm
......

Quân Đội, Những Người Lính Của Nhân Dân Các Anh Còn Ngủ Đến Bao Giờ ?

Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.  Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.  Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.  Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . . Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?  Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.  Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”. Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha. Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”. Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam , khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.  Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.  Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.  Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay: “Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . .”  Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.  Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”? Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.  Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi. Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.  Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó. Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây. Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.  Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu. Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.  Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng? Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”? Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở. Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!” Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng? Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng? Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước. Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.  1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.  2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt. Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình. Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.  Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.  Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”. Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh. Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà“  DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ. Tại sao lại là hổ và dê? Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn. Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó. Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên? Bauxite ư? Trò lừa đảo! Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?  Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều. Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.  Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ” Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà.Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, trụy lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.  Bác chúng em Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”. Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản. Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.  Tôi chứng minh:Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.  Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn! Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân. Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân. Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó? Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.  Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết. Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?  Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ? Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.  Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.  Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân. Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.  Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ. Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.  Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .  Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.  Dân Việt : Ai là dân Việt? Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia? Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều? Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.  Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được. Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.Đó là một nhận định sáng suốt. Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam . Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.  Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.  Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định? Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam , phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương? Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán? Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời. Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.  Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam . Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “ Nam tiến”! Nam tiến, nam tiến và nam tiến! Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.  Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta. Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu? Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.  Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.   Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.  Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình. Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi. Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc. Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương. Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ. Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ? Dương Thu Hương http://son-trung.blogspot.de/2013/02/duong-thu-huong-quan-oi-ngu-guc.html
......

Trí thức không thể quẩn quanh trong tháp ngà khoa học

Đáng buồn “trí thức trùm chăn” có vẻ nhiều lên, hoặc không thì cũng là “số đông im lặng”, thụ động. Nguyên nhân có cả ở tư cách “kẻ sĩ” của trí thức ngày nay yếu ớt và cả ở một xã hội dễ trùm chăn ru ngủ trí thức. Tạo Hóa cho con người ta không ai giống ai, khác nhau cả về hình dáng, tâm tính, suy nghĩ. Do vậy, trước mỗi sự kiện, hiện tượng, vấn đề có những cách nhìn nhận khác nhau, có những ý kiến khác nhau là chuyện thường, có thể nói đó là một bản tính tự nhiên. Tự nhiên mà giống nhau cả thì còn gì là tự nhiên. Và khi con người hợp thành xã hội thì lại lẽ tự nhiên là không có một vấn đề xã hội nào được đồng thuận tuyệt đối, được đồng thuận ngay từ đầu, mà luôn phải chịu sự tranh luận, xem xét, xoay ngang đảo ngược, tóm lại là phải chịu sự “phản biện” của mọi thành phần xã hội. Trí thức là thành phần xã hội có tri thức và hiểu biết, có năng lực nhận thức và xét đoán khoa học, có tính cách độc lập và tư cách phát ngôn. Hai chữ “phản biện” dùng cho trí thức là đúng lắm. Phản biện đây là theo tinh thần hoài nghi khoa học trước mọi vấn đề, là chỉ tin khi đã được thuyết phục bằng lý tính, là tranh luận bàn bạc trong không khí tự do dân chủ thực sự để cùng nhau tìm ra sự thật và chân lý. Phản biện là bác bỏ để chấp nhận, không phải là “nói ngược” cho sướng miệng, cho hả tức giận, càng không phải là để tạo cớ nổi tiếng. Phản biện đúng là một vai trò quan trọng, không thể thiếu của trí thức, cả trong lĩnh vực chuyên môn và cả trong các vấn đề xã hội. Tên gọi “trí thức trùm chăn” không phải bây giờ mới có. Nó là để chỉ một bộ phận trí thức quay lưng lại thực tại xã hội, nhắm mắt bịt tai trước những vấn đề bức xúc, cấp thiết của nhân quần, chỉ quẩn quanh trong tháp ngà khoa học, cho rằng mình chỉ cần làm tốt công việc chuyên môn là đủ, không cần dính dáng gì đến chính trị, thời sự. Loại trí thức này thường bộc lộ vào những thời điểm lịch sử có nhiều biến động lớn, trong các phong trào cách mạng xã hội sôi động, khi cần tiếng nói và hành động của tầng lớp trí thức như những phần tử tinh hoa của xã hội thúc đẩy sự vận động của đời sống theo hướng tích cực. Nhưng ngay cả vào những thời điểm quyết liệt, khủng hoảng nhất, bộ phận “trí thức trùm chăn” vẫn không phải là tiêu biểu, vẫn có nhiều trí thức dám dấn thân và xả thân cho đất nước. Thành công của cách mạng và kháng chiến ở nước ta hơn nửa thế kỷ qua là có phần đóng góp quan trọng của các trí thức dấn thân đó. Đáng buồn hiện nay “trí thức trùm chăn” như có vẻ nhiều lên, hoặc không thì cũng là “số đông im lặng”, thụ động. Nguyên nhân có cả ở tư cách “kẻ sĩ” của trí thức ngày nay yếu ớt và cả ở một xã hội dễ trùm chăn ru ngủ trí thức. Sự xuất hiện của hai từ “phản biện” không chỉ trong lời lẽ thông thường mà cả trong các văn kiện chính trị cho thấy giới trí thức, ở những đại diện dũng cảm của mình, đã không cam chịu đánh mất vai trò như đã nói trên của mình. Họ lên tiếng tại nhiều diễn đàn công khai và chính thức, họ viết các kiến nghị, các tâm thư, các yêu cầu gửi các cấp chính quyền, họ viết báo viết mạng bày tỏ ý kiến chính kiến của mình, tất cả đều căn cứ vào một điều hiến định là “tự do tư tưởng, tự do ngôn luận”. Xã hội đã quen dần và chính quyền đã chịu dần sự phản biện của trí thức. Tuy nhiên, để nói tới một phong trào phản biện sôi nổi, nghiêm túc, có người nói và người nghe, có phản và có biện, nói thẳng và nói thật, tiếp thu và trao đổi, bình đẳng và khách quan, thì quả thực những người trí thức dũng cảm vẫn đang là đơn độc. Trí thức thụ vốn tự bản chất không hèn, nhưng có một cái sợ khiến họ phải hèn, hoặc tự làm hèn. Kể ra trí thức bị hèn vì sợ thì không còn là trí thức đúng nghĩa nữa. Nhưng vậy thì đội ngũ trí thức bao năm qua xây dựng mà không đúng nghĩa là trí thức thì lỗi do đâu? Câu hỏi này tôi nghĩ cần phải được phản biện mạnh mẽ. Dịp này cả nước đang thảo luận góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, một điều tôi muốn đề xuất là: những gì đã được hiến định (như quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền tự do tư tưởng, ngôn luận) thì phải nhanh chóng cụ thể hóa thành luật để nhà nước và nhân dân thi hành, và không ai được có quyền vi hiến. Khi đó tôi tin phản biện xã hội của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là của giới trí thức, sẽ là một công cụ đắc lực phát triển xã hội.
......

Nguy cơ Trung Quốc

Lời người dịch: Nền kinh tế Vìệt Nam cũng như hệ thống tài chánh ngân hàng Việt Nam hiện nay là một „copy“ mang nhiều khiếm khuyết của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Trung quốc. Nhân đọc được bài viết có giá trị về sự rủi ro của hệ thống ngân hàng Trung quốc đăng trên trang nhất của nhật báo dành cho giới doanh nhân và kinh tế của Đức “Handelsblatt“ ngày 31.01.2013 tôi xin được dịch ra tiếng Việt để mọi người cùng tham khảo. Nguyễn Hội ***************************** Trung Quốc lừa cả thế giới: trong lĩnh vực nợ nần nhà nước là biểu tượng sáng chói. Tuy nhiên rủi ro bạc tỷ trong lĩnh vực ngân hàng dùng chi phí cho các dự án danh tiếng và chi phí cho các chương trình kích thích kinh tế. Bong bóng tín dụng rất nguy hiểm đã được hình thành (tại Trung quốc).   Niềm tự hào mới nhất của Trung Quốc là tuyến đường sắt cao tốc 2 300 km với xe lửa màu trắng thon gọn nối liền Quảng Châu và Bắc Kinh, trung tâm kinh tế phía Bắc và phía Nam của quốc gia. Tốc độ tối đa là 300 km mỗi giờ.   Dự án chỉ có một lỗi là không bao giờ có lợi nhuận.   Cho tới nay công ty đường sắt Trung Quốc đã mượn nợ của ngân hàng tổng cộng là 280 tỷ euro để chi phí cho dự án này cũng như cho các dự án khác. Ngân hàng chủ nợ có „thấy lại“ được số tiền cho vay nêu trên hay không là điều còn cao hơn là nghi ngờ.   Bong bóng nợ đã hình thành tại Trung Quốc, bong bóng này cũng như tất cả mọi thứ khác hiện diện trên Nước Cộng hòa Nhân dân là rất vĩ đại. Nhà nước luôn luôn chi phí hàng tỷ USD vào các dự án danh tiếng mới, chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay nợ ngân hàng ngắn hạn. Họ muốn phát triển bằng mọi giá – cho dù nợ ngập đầu.   Ở phương Tây, các ngân hàng phải bảo đảm rủi ro tín dụng mà họ cho vay bằng vốn của chính ngân hàng và tiền vốn bảo đảm này mỗi ngày mỗi tăng (bởi qui định của pháp luật) và các khoản nợ xấu phải được xử lý bằng cách đưa vào các ngân hàng xấu (bad debt bank), trong khi đó các ngân hàng Trung Quốc được thổi phồng to một cách không kiểm soát được. „Hàng chục nghìn quan chức cấp thấp của chính phủ và các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đã mượn nợ mà không cần phải kiểm tra, giám sát“, nhà kinh tế Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cho biết. Chính thức là nhà nước không thiếu nợ cao. Tuy nhiên tất cả các rủi ro được dồn vào bảng cân đối của các ngân hàng (bank balance sheet). Vì vậy, ngân hàng (tại Trung Quóc) là lĩnh vực nguy hiểm nhất cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Họ phải phục vụ một nền kinh tế lớn nhất trên thế giới sau Hoa kỳ, nhưng đồng thời cũng là nơi nhận chỉ thị của chính quyền xã hội chủ nghĩa trung ương. Các khoản cho vay mà không có bất kỳ một kiểm soát từ bên ngoài. Theo các chuyên gia, trên thực tế Trung quốc chỉ có đủ khả năng tăng trưởng từ 5% đến 6% mà thôi, nhưng họ đặt mục tiêu cho năm nay là hơn tám phần trăm. Cơn nghiện tín dụng đã phóng đại thực tế ở Trung Quốc.   Vòng luẩn quẩn của việc giảm tăng trưởng và gia tăng nợ nần có vẻ đe dọa nặng nề hơn là Trung Quốc có nhiều ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (Industrial & Commercial Bank of China), với mức vốn tổng cộng gần 186 tỷ euro là ngân hàng có giá trị nhất thế giới. Ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng gần như là độc quyền, tài trợ từ các ngân hàng khác cho tới nay không đáng kể.   Cơn đói tín dụng lên cao đến độ mà các doanh nghiệp (Trung quốc) phải kiếm ngày càng nhiều nguồn vốn từ các ngân hàng không chính thức. Tháng mười năm ngoái Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo sự phát triển bùng nổ của các ngân hàng trong bóng tối gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính của đất nước và tăng tính thiếu minh bạch của hệ thống (tài chính).   Chẳng có gì gọi là ngạc nhiên khi doanh nhân Đức ngày càng mất tin tưởng vào quốc gia đầy hy vọng trong quá khứ này là Trung Quốc. Tuy vẫn còn thu hút với doanh thu bán hàng hoá ngày càng tăng - nhưng nguy cơ cũng gia tăng.   Ở phương Tây cuộc khủng hoảng tài chính được lắng dịu, nhưng ở Trung Quốc lại đang ủ một thảm họa mới. Tin tức hôm qua được loan báo là nợ hàng tỷ của chính quyền cấp tỉnh đã được gia hạn tiếp. Rõ ràng là việc trả nợ không cần thiết phải nghĩ đến. Cựu giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Trung Quốc, Yukon Huang, đã viết trên báo Financial Times rằng, „các ngân hàng Trung Quốc quá lớn để quản lý, Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều cuộc vỡ nợ và những cuộc khủng hoảng tài chính nhỏ, một hoặc thậm chí hai ...“   Mặt trái của sự phát triển bùng nổ tại Trung Quốc. Trong khi châu Âu đang tiếp tục trông chờ một giải pháp thuyết phục nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ euro và Mỹ đang trên bờ vực thẳm của sự suy sụp ngân sách quốc gia, một nền kinh tế lớn khác tỏ vẻ không một chút ấn tượng về khủng hoảng là Trung Quốc. Tại Cộng hòa nhân dân hàng năm có trình báo số liệu thống kê về tình hình phát triển bùng nổ đặc biệt, năm 2013 các nhà kinh tế Trung quốc kỳ vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,5%.   Một phép lạ xảy ra nhờ sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản lèo lái nền kinh tế thị trường? Thưa không. Bởi vì phép lạ phải được chứng minh, kiểm tra chặt chẽ hơn là chỉ qua một cơ chế rất tầm thường - sự gia tăng GDP chủ yếu là do các tỉnh và địa phương Trung Quốc, thí dụ như chi phí cho các dự án lớn xây nhà ở theo phương châm: tiền không không quan trọng.   Với phương pháp trên, các tỉnh và địa phương làm suy yếu hệ thống tài chính Trung Quốc từ bên trong ra bên ngoài - mặc dù trung ương Bắc Kinh làm ăn thực sự vững chắc. „Hàng chục ngàn các quan chức chính phủ cấp thấp cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đều có thể thực hiện các dự án đầu tư mà không cần được kiểm soát, giám sát“, kinh tế gia Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cảnh báo. Kết quả là: nợ lên đến nhiều nghìn tỷ (ức) nhân dân tệ, việc trả được nợ là hoàn toàn không chắc chắn, như các chuyên gia từng cảnh báo. Thoạt nhìn, hệ thống ngân hàng có vẻ mạnh mẽ, theo ông Pettis. Trong trường hợp của một cuộc suy thoái kinh tế, các ngân hàng tin tưởng rằng sẽ được nhà nước để được cứu trợ. Các khoản nợ của chính phủ tỉnh và địa phương theo một cuộc kiểm tra đặc biệt của nhà nước ít nhất là 25% tổng sản lượng GDP - ở Đức, mặc dù tình hình tài chính các thành phố, địa phương không mấy sáng sủa nhưng khoản nợ của thành phố chỉ với 5% GDP. Thậm chí chính phủ trung ương Bắc Kinh không hề biết được là bao nhiêu các khoản vay này không thể trả lại được.   Chính thức ngân hàng khai báo ít khoản nợ xấu. Các nhà phân tích hoài nghi những con số được khai báo này. Mục tiêu lợi nhuận cho các dự án nhà ở thường được nêu không thực tế. Nhà cửa thường được xây dựng một cách nhanh chóng và chỉ hai năm sau khi xây hoàn tất đã cần phải được cải thiện. Chính quyền địa phương sau đó cần nhiều tiền hơn. Các tỉnh trưởng hành động theo phương châm: „Bắc Kinh sẽ giải quyết.“   Một vấn đề của nợ Trung Quốc nữa là thời gian đáo hạn khác biệt của các khoản vay và các dự án mà họ tài trợ. Thời gian xây dựng một hệ thống xử lý nước thải hoặc một tuyến đường sắt đòi hỏi phải mất nhiều năm. Thời gian có thể đạt được lợi nhuận thường lên tới nhiều thập niên.. Chi phí cho các dự án này thường bằng các khoản vay nợ ngân hàng có kỳ hạn một vài tháng hoặc vài năm. „kỳ hạn trả nợ thực tế và thời gian đáo hạn của các khoản vay nợ cách nhau quá xa“ kinh tế gia Qu Hongbin của ngân hàng lớn HSBC.cho biết. Tiền, không phải là một vấn đề, bởi vì tỷ lệ tiết kiệm của Trung quốc trên 50%. „vật thiếu thốn là những công cụ (quản lý) tài trợ dài hạn.“   Trung Quốc không có những công cụ đó. Tài trợ bằng trái phiếu đòi hỏi phải có một thị trường thực sự trưởng thành, với việc đánh giá trung thực và thông tin minh bạch về những doanh nghiệp và chính quyền liên quan. "Trung Quốc đã thực hiện được một số vấn đề, nhưng chưa đủ“ , một doanh nhân người Đức cho biết. Những người có trách nhiệm rõ ràng là thiếu tính nhận thức vấn đề.   Tuy nhiên, ngay cả trong một nền kinh tế mà nhà nước chiếm ưu thế, một nguyên tắc cũng phải tuân giữ là: nếu mượn nợ thì tiền vay nợ cuối cùng phải được hoàn trả lại cho chủ nợ. Tiền của các ngân hàng trên thực tế là tiền do người dân Trung quốc tiết kiệm. Một ví dụ là Bộ Đường sắt Trung Quốc là một trong những tổ chức mang nợ cao nhất thế giới: bộ vay mỗi năm thêm gần một nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với 118 tỷ euro. Theo nhà kinh tế Pettis là „một sự mất cân bằng to lớn“ và tiên đoán về trung hạn nước Cộng hòa nhân dân sẽ có „một thảm họa nợ nần“. Cứu trợ ngân hàng bởi nhà nước là điều không thể tránh khỏi.   Do đó, thống đốc ngân hàng trung ương Zhou Xiaochuan suy nghĩ phương cách làm thế nào qui trách nhiệm rủi ro này cho chính quyền cấp tỉnh. Đề nghị của ông là: phần lớn các khoản vay nợ của chính quyền tỉnh phải được bảo đảm bởi cư dân của tỉnh đó. Theo cách suy tính của Zhou Xiaochuan, chỉ khi nào có chủ nợ hoặc người bảo lãnh tại địa phương, thì chức năng kiểm soát mới thực sự được thực hiện.   Tựa: Das China-Risiko Tác giả: Finn Mayer-Kuckuk và Frank Sieren. Đăng trên trang nhất nhật báo Đức Handelsblatt ngày 31.01.2013 Chuyển ngữ: Nguyễn Hội  
......

Đại diện nhân sĩ trí thức trao Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992

Hồi 10h30’ sáng nay, thứ Hai 4-2-2013, một đoàn đại biểu gồm 16 nhân sĩ trí thức, đại diện cho 72 người đầu tiên trực tiếp ký tên và hàng ngàn đồng bào đã tham gia ký tên vào bản “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, đã đến Địa điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân tại 37 Hùng Vương, Hà Nội, để trao bản Kiến nghị cho Ủy ban. Thành phần Đoàn đại biểu gồm: 1- Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội 2- Phan Hồng Giang, TSKH ngành nghiên cứu văn học, Hà Nội 3- Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn TNCS HCM – TPHCM, TPHCM 4- Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ KH & CN, Hà Nội 5- Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, Hà Nội 6- Vũ Đức Khiển, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Hà Nội (vắng mặt đột xuất). 7- Tương Lai, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội 8- Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội 9- Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH & KTVN, Hà Nội 10- Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội (Trưởng đoàn) 11- Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, TPHCM 12- Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An 13- Hoàng Xuân Phú, GS, Viện Toán học, Hà Nội 14- Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa-Giáo dục & Thanh thiếu niên-Nhi đồng Quốc hội, Hà Nội 15- Nguyễn Trung, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội 16-  Tô Nhuận Vỹ, Nhà văn, Huế. Trước đó, Đoàn đã thông báo mời một số báo chí tới tham dự, đưa tin. http://anhbasam.wordpress.com/
......

Prozess in Vietnam

28. Januar 2013, 10:42 Uhr 22 Dissidenten droht die Todesstrafe http://www.spiegel.de/politik/ausland/vietnam-dissidenten-droht-todesstrafe-a-880026.html http://www.dw.de/quo-vadis-vietnam/a-16574254 Tòa án CS xét xử 22 thành viên của “Hội đồng công luật công án Bia Sơn”. Ngày 28.12013, Tòa án CS tỉnh Phú Yên đưa ra xét xử 22 thành viên của “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” với tội danh gán ghép “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79, khoản 1, Bộ Luật Hình sự. 22 bị cáo này gồm các ông Phan Văn Thu (SN 1948), Từ Thiện Lương (SN 1950), Trần Quân (SN 1984), Lê Đức Động (SN 1983), Nguyễn Thái Bình (SN 1986), Lê Duy Lộc (SN 1956), Lê Phúc (SN 1951), Võ Thành Lê (SN 1955), Nguyễn Kỳ Lạc (SN 1951), Vương Tấn Sơn (SN 1953), Võ Ngọc Cư (SN 1951), Đoàn Đình Nam (SN 1951), Võ Tiết (SN 1952), Nguyễn Dinh (SN 1968), Đoàn Văn Cư (SN 1962), Phan Thanh Ý (SN 1948), Đỗ Thị Hồng (SN 1957), Trần Phi Dũng (SN 1966), Lê Trọng Cư (SN 1966), Phan Thanh Tường (SN 1987), Tạ Khu (SN 1947 ) và Lương Nhật Quang (SN 1987). Theo cáo trạng của CSVN thì từ năm 2003 đến tháng 2-2012, tại Khu du lịch sinh thái Đá Bia thuộc địa phận đèo Cả (xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên), ông Phan Văn Thu cùng với 21 bị cáo nêu trên đã thành lập một tổ chức với tên gọi “Hội đồng công luật công án Bia Sơn.”, mà cáo trạng cho là tổ chức chính trị. Cũng theo cáo trạng thì Tổ chức này thành lập 12 ban, 26 pháp hội và 4 nhóm chưa đặt tên pháp hội ở các địa phương như Phú Yên, Khánh Hòa, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang với 293 người tham gia.  
......

Bên Thắng / Bên Thua & Những Bức Tường Lòng

“Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là… chó dại!” Khi còn bị phân chia bởi bức tường Bá Linh, dân Ðức hay kể câu chuyện hài này: Có một con chó chui tường từ Ðông sang Tây. Thấy khách lạ nên lũ chó bên Tây Ðức xúm xít và tíu tít hỏi thăm: - Bên ấy có hội bảo vệ súc vật không? - Có chứ. - Có bác sĩ thú y không? - Có luôn. - Có thẩm mỹ viện và nghĩa trang dành riêng cho chó không? - Có tuốt. - Thế thì việc gì đằng ấy phải vất vả chui tường sang đây? - Tại vì ở bển bị cấm được cho… sủa! Tháng 9 năm 1989, bức tường Bá Linh bị đập đổ. Ðông Ðức được giải phóng. Từ đây, người dân được quyền ăn nói tự do, và chó có quyền… được sủa. Sự thống nhất nước Ðức về thể chế, cũng như về nhân tâm, tuy không phải là một tiến trình toàn hảo nhưng có thể được coi như là ổn thỏa – ngoại trừ đối với một số người. Họ là những di dân đến từ Việt Nam, theo như tường thuật của Alisa Roth: “Người Việt vẫn đang là nhóm Á Châu lớn nhất tại thành phố Bá Linh. Những nguời được mệnh danh là Người Việt miền Tây là những người miền nam Việt Nam, hầu hết là thuyền nhân mà trong những năm tiếp theo chiến thắng 1975 của cộng sản, họ đã đổ đến những vùng bây giờ là Tây Ðức.” “Còn nguời Việt miền Ðông là những nguời đến Ðông Ðức vào thập niên 1960 và 1970 cùng với các công nhân xuất khẩu từ những quốc gia cộng sản đang phát triển tới làm việc trong các nhà máy…” “… Cái cộng đồng nhỏ bé này hãy còn duy trì sự chia cắt với hai thế giới, hai phương trời cách biệt. Những ý thức hệ – từng xé nát nước Ðức và nước Việt Nam ra làm đôi – hiện vẫn còn luân lưu mạnh mẽ tại nơi đây…” Nó “mạnh mẽ” tới độ khiến một người dân bản xứ phải thốt lên rằng: “Bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây còn cao hơn cả bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức.” (“Berlin’s Divide Lingers For Vietnamese Expatriates Capital’s East – West Gap Reflects Cold War Past,” San Jose Mercury News, 12 Jul. 2002:A1/ Việt Mercury 12 Jul. 2002: 1 + 69. Trans. Nguyễn Bá Trạc”). Nói như thế, nghe đã phũ phàng nhưng (vẫn) chưa …hết ý! Trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng – ấn bản 2001, Paris, nơi trang 70 – tác giả còn trích dẫn nhận xét của một người ngoại quốc khác về dân Việt, như thế này đây: “Ils ne s’aiment pas” (Chúng nó không ưa nhau đâu). Cha nội Parisien nào đó nói bậy bạ vậy mà… trúng phóc. Những phương tiện truyền thông và giao thông của thời hiện đại quả có làm cho trái đất nhỏ lại, và khiến cho loài người gần gũi với nhau hơn. Nhưng riêng với với dân Việt thì không. Nhất định là không. Người ngoài có vẻ “hơi” ngạc nhiên về thái độ “rất kém thân thiện” của dân Việt đối với nhau, trên bước đường lưu lạc. Họ sẽ ngạc nhiên chết (mẹ) luôn nếu biết rằng những “bức tường ô nhục” tương tự hiển hiện khắp chốn, kể cả ở Việt Nam, chứ chả riêng chi ở Berlin. Dù đất nước đã “thống nhất” hơn một phần tư thế kỷ, dân chúng giữa hai miền Nam/Bắc Việt Nam (rõ ràng) vẫn chưa gần nhau mấy. Đôi lúc, họ ăn ở cư xử với nhau cứ y như những kẻ phải sống trong một cuộc hôn nhân… cưỡng bách. Theo “truyền thống,” người Việt hay chia phe và họ thường nhìn nhau qua những “lỗ châu mai” từ những “pháo đài” của… phe mình. Họ hay gọi nhau là “tụi này” hay “tụi nọ” (tụi Công Giáo, tụi Phật Giáo, tụi Nam Kỳ, tụi Bắc Kỳ, tụi Trung Kỳ…). Gần đây, có thêm một “tụi mới” nữa – tụi thuộc… phe thắng cuộc! Và đó mới chỉ là những chuyện nhỏ, ở miền xuôi. Ở miền ngược, miền núi, hay còn gọi là miền cao, miền sơn cước (hoặc cao nguyên) thì còn nhiều chuyện… kỳ cục dữ nữa. Nơi đây, một phần dân tộc Việt vẫn chưa được nhìn nhận là người thường hay người Thượng. Họ bị coi là… “tụi mọi” và bị chính đồng bào mình (toa rập với cường quyền) cướp đoạt hết đất đai canh tác. Nghèo đói quá hoá “sảng” chăng? Khổ cực quá, cùng quẫn quá, bị chèn ép quá nên đâm ra gấu ó, cấu xé lẫn nhau chăng? Không hẳn đã thế đâu. Tại nước Ðức, ngay giữa một thành phố tự do và phú túc, “bức tường Bá Linh nằm trong đầu óc của người Việt miền Ðông với người Việt miền Tây (vẫn) còn cao hơn bức tường của người dân Ðức đối với người dân Ðức” mà. Hơn nữa, như đã thưa, những bức tường lòng (ô nhục) tương tự hiển hiện ở khắp nơi chứ đâu có riêng chi ở Berlin. Nơi đâu có người Việt quần tụ là tức khắc nẩy sinh những chuyện đố kỵ, chia cách, phân hoá, và đánh phá lẫn nhau túi bụi. Mỗi cộng đồng vẫn thường cần đến hơn một ban đại diện (dù tất cả những ban đại diện “dường như” không đại diện được cho bất cứ ai và cũng không mấy ai – thực sự- cần người đại diện). Tương tự, mỗi hội đoàn đều có tới hai hay ba ông (bà) chủ tịch, dù cả hội đoàn đều không mấy ai biết rõ là họ hội họp lại với nhau để làm gì. Mọi tổ chức (không chóng thì chầy) nếu không vỡ tan tành thì cũng bể thành vài mảnh! Người Nga có câu ngạn ngữ là nếu thiếu chó chăn, loài cừu không trở nên bầy đàn được. Cái khó của những cộng đồng người Việt hải ngoại là họ có dư loại chó này. Ðã thế, phần lớn, đều là … chó dại! “Sự kiện vô vàn phi lý, cực độ vô nghĩa, và bất lợi không lường này, đang diễn tiến kết thành hiện tượng phân hoá hỗn loạn, phân liệt khắc nghiệt, chia rẽ trầm trọng giữa những cá nhân, nhóm cá nhân, cộng đồng người Việt ” (Phan Nhật Nam, “Lời Khẩn Thiết Nhằm Chấm Dứt Hiện Tượng Phân Hoá“). Cũng theo tác giả bài báo vừa dẫn thì Cục Tình Báo Hải Ngoại, trực thuộc Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng Cộng Sản Hà Nội, là nguyên nhân gây ra những hiện tượng phân hoá tiêu cực kể trên. Những nhân viên của Cục Tình Báo Hải Ngoại e không tài ba đến thế. Chợ chiều rồi. Chúng nó (nếu có) cũng chỉ lo đánh quả mà thôi và chuẩn bị để chạy thôi. Thủ phạm không đến từ bên ngoài. Chúng phục sẵn trong “thâm tâm” của tất cả chúng ta. Khi còn nhỏ, tôi nhớ là đã đọc ở đâu đó – qua lời kể của Schopenhauer – một câu chuyện ngụ ngôn mà nội dung (đaị khái) như sau: Có một mùa Ðông lạnh đến độ muốn tồn tại muôn loài đều phải xích lại thật gần nhau để truyền cho nhau hơi ấm. Chỉ riêng có loài nhím vì lông quá nhiều, quá nhọn và không cách nào thu lại được nên đành… chờ chết! Dân Việt đang trải qua một mùa Ðông khắc nghiệt. Nếu chúng ta không vượt qua được những bức tường lòng hiện hữu, không xếp lại được những lông nhọn tua tủa tự mỗi người, và mọi phe nhóm đều nhất định “tử thủ” trong pháo đài của riêng mình thì (e) khó mà qua khỏi đuợc cơn quốc nạn này. Vấn đề không phải là mùa Ðông sẽ kéo dài vô tận mà vì đất nước (cũng như lòng người) sẽ bầm dập, te tua, tan nát, và tanh bành – sau đó. Nguồn : http://www.khoi8406hoaky.com/D_1-2_2-59_4-3653_5-20_6-1_17-1038_14-2_15-2/
......

Bản lên tiếng yêu cầu trả tự do cho 14 thanh niên yêu nước

  TỔNG SỐ CHỮ KÝ THU THẬP: 28480 chữ ký. http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/p/banlentieng.html Diễn tiến và kết quả luận tội, tuyên án của phiên tòa kéo dài 2 ngày, 8-9/1/2013, xét xử 14 thanh niên yêu nước tại toà án Vinh, Nghệ An của đảng Cộng Sản Việt Nam đã bị quốc tế lên án, nhân dân phẫn nộ. Những người bị mang ra kết án gồm có các anh chị: Hồ Đức Hòa, Nông Hùng Anh, Lê Văn Sơn, Đặng Ngọc Minh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Duyệt, Hồ Văn Oanh, Thái Văn Dung, Nguyễn Đình Cương, Nguyễn Xuân Anh, Trần Minh Nhật. Họ đều là những công dân đầy nhiệt huyết, tận tâm phục vụ con người và xã hội, tràn đầy tình yêu đối với đất nước. Các thanh niên yêu nước này đã can đảm và hy sinh đời sống riêng tư vì mong muốn đất nước thoát khỏi vòng kềm tỏa, thao túng của Trung Quốc, dẫn đến việc mất chủ quyền, độc lập của đất nước. Hành động của họ phải được xiển dương và là mô phạm cho tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm nay dấn thân cho Sự Thật, Công Lý và Hoà Bình. Chúng tôi ký tên dưới đây để: 1. Cực lực phản đối và phủ nhận bản án vừa được áp đặt đối với 14 thanh niên yêu nước này cũng như những bản án kết tội những người yêu nước khác; 2. Đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải thực thi pháp luật nghiêm chỉnh, chấm dứt việc bắt giữ tuỳ tiện phi pháp, đi ngược lại với công pháp quốc tế và trái với hiến pháp cũng như pháp luật Việt Nam; 3. Yêu cầu nhà nước trả tự do cho những người yêu nước đang bị bắt giữ về những tội danh gán ghép vô lý dựa trên công cụ là điều luật 79 và 88 của Bộ Luật Hình Sự, hai điều luật mơ hồ này đã đi ngược lại tinh thần của hiến pháp Việt Nam; 4. Xiển dương sự đóng góp của các nhà yêu nước. Thể hiện sự đồng cảm với những người bị đàn áp, bắt bớ và kết tội oan sai. Đồng thời quan ngại sâu sắc về cái gọi là một nhà nước pháp quyền. Việt Nam, ngày 27 tháng 1 năm 2013 Đồng ký tên:   THÂN NHÂN CỦA 14 THANH NIÊN YÊU NƯỚC 1. Ông Nguyễn Văn Chức – bố của Nguyễn Văn Duyệt 2. Bà Trần Thị Liệu – Mẹ của Nguyễn Văn Oai 3. Bà Hồ Thị Truyền – Chị gái của Hồ Văn Oanh 4. Ông Hồ Đức Hiền – Bố của Hồ Đức Hòa 5. Ông Trần Khắc Hiển – Anh trai của Trần Minh Nhật 6. Bà Nguyễn Thị Hóa – Mẹ của Phêrô Nguyễn Đình Cương 7. Bà Đinh Thị Oanh – Vợ của Phêrô Nguyễn Xuân Anh 8. Ông Đặng Xuân Hà – Anh trai của Đặng Xuân Diệu 9. Ông Thái Văn Hòa – Anh trai của Thái Văn Dung 10. Ông Đỗ Văn Phẩm – Cậu của Paulus Lê Sơn   CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN VINH 11. Linh Mục Giuse Trần Văn Phúc – Linh Mục Quản Xứ Ngọc Long- huyện Yên Thành -Nghệ An, Giáo Phận Vinh 12. Linh Mục JB. Nguyễn Đình Thục – Linh Mục Quản Nhiệm Đồng Lam – huyện Anh Sơn-NA, Giáo Phận Vinh 13. Linh Mục Phêrô Nguyễn Ngọc Giao – Linh Mục Quản Xứ Lãng Điền, huyện Anh Sơn – NA, Giáo Phận Vinh 14. Linh Mục Giuse Nguyễn Xuân Phương – Linh Mục Quản Xứ Yên Lĩnh – Anh Sơn-NA, Giáo Phận Vinh 15. Linh Mục Fx. Nguyễn Văn Lượng – Linh Mục Quản Xứ Sơn La – Đô Lương-NA, Giáo Phận Vinh 16. Linh mục Phêrô Hoàng Biên Cương – Linh Mục Quản Hạt Phủ Quì, huyện Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 17. Linh Mục GB Nguyễn Quyết Chiến – Linh Mục Quản Xứ Vĩnh Giang, Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 18. Linh Mục Giuse Nguyễn Ngọc Ngữ – Linh Mục Quản Xứ Đồng Lèn, Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 19. Linh Mục Pet Lê Đức Bắc – Linh Mục Quản Xứ Nghĩa Thành – Nghĩa Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 20. Linh Mục JB Đinh Công Đoàn – Linh Mục Quản Xứ Song Ngọc -Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 21. Linh Mục Antôn Nguyễn Văn Đính – Linh Mục Quản Hạt Thuận Nghĩa – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 22. Linh Mục Antôn Nguyễn Văn Thanh – Linh Mục Quản Xứ Cẩm Trường và Mành Sơn – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 23. Linh Mục Giuse Nguyễn Công Bình – Linh Mục Quản Xứ Thanh Đa – Quỳnh Thanh – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 24. Linh Mục Antôn Nguyễn Duy An – Linh Mục Quản Xứ Lộc Thủy và Phú Yên – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 25. Linh Mục Phêrô Nguyễn Văn Sơn – Linh Mục Quản Xứ Thuận Giang – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 26. Linh Mục Paul Nguyễn Xuân Tính – Linh Mục Quản Xứ Lập Thạch -Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh 27. Linh Mục Giuse Phan Sĩ Phương – Linh Mục Quản Hạt Cửa Lò – Thị xã Cửa Lò, NA, Giáo Phận Vinh 28. Linh Mục Antôn Trần Văn Niên – Linh Mục Quản Xứ Phù Long – Hưng Long – Hưng Nguyên, NA, Giáo Phận Vinh 29. Linh Mục Antôn Đặng Hữu Nam – Linh Mục Quản Xứ Bình Thuận, Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh 30. Linh Mục Giuse Nguyễn Anh Tuấn – Linh Mục Quản Xứ Kẻ Gai – Hưng Nguyên, NA, Giáo Phận Vinh 31. Linh Mục Luca Nguyễn Ngọc Nam – Linh Mục Quản Xứ Thượng Nậm – Nam Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 32. Linh Mục JB Hoàng Xuân Lập – Linh Mục Quản Xứ Vạn Lộc – Nam Lộc – Nam Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 33. Linh Mục Giuse Phạm Ngọc Quang – Linh Mục Quản Xứ Yên Lạc – Nam Lĩnh – Nam Đàn, NA, Giáo Phận Vinh 34. Linh Mục Giuse Nguyễn Đình Linh – Linh Mục Quản Xứ Phi Lộc – Diễn Quảng – Diễn Châu, NA, Giáo Phận Vinh 35. Linh Mục Phanxico X. Đinh Văn Minh – Linh Mục Quản Xứ Yên Hòa – Quỳnh Vinh – Quỳnh Lưu, NA, Giáo Phận Vinh 36. Linh Mục Giuse Nguyễn Đăng Điền – Linh Mục Quản Xứ Nghi Lộc – Diễn Hạnh – Diễn Châu, NA, Giáo Phận Vinh 37. Linh Mục Gioan Nguyễn Đức Quyến – Linh Mục Quản Xứ Yên Lý – Diễn Yên – Diễn Châu, NA, Giáo Phận Vinh 38. Linh Mục Phêrô Nguyễn Văn Hà – Linh Mục Quản Xứ Kẻ Dừa – Thọ Thành – Yên Thành, NA, Giáo Phận Vinh 39. Linh Mục Lu-y Nguyễn Văn Nga – Linh Mục Quản Xứ Kim Lâm – Can Lộc – Hà Tĩnh, Giáo Phận Vinh 40. Linh Mục Phanxicô X. Nguyễn Tất Đạt – Linh Mục Quản Xứ Làng Anh – Nghi Phong – Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh 41. Linh Mục Antôn Hoàng Trung Hoa – Linh Mục Quản Xứ Làng Nam – Nghi Trung – Nghi Lộc, NA, Giáo Phận Vinh   CÁC VỊ TU SĨ TÔN GIÁO KHẮP NƠI 42. Hòa Thượng Thích Không Tánh – Chùa Liên Trì, Sài Gòn – GHPGVNTN 43. Cụ Lê Quang Liêm – Hội Trưởng Giáo Hội Trung Ương PGHH Thuần Túy, Phú Nhuận Sài Gòn 44. Linh mục Phê-rô Nguyễn Hữu Giải – Tổng Giáo phận Huế 45. Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi – Giáo phận Bắc Ninh 46. Linh Mục Antôn Lê Ngọc Thanh – DCCT Sài Gòn 47. Mục Sư Nguyễn Mạnh Hùng – Quản Nhiệm Hội Thánh Mennonite Bình Tân (còn gọi là Hội Thánh Chuồng Bò), Sài Gòn 48. Mục Sư Thân Văn Trường, – Thủ Đức Sài Gòn 49. Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa – Giáo Hội LuTheran Việt Nam 50. Mục Sư Hồ Hữu Hoàng – Giáo Hội LuTheran, Đồng Nai 51. Mục sư Nguyễn Trung Tôn – Thanh Hóa   MỘT SỐ NHÀ DÂN CHỦ 52. Cô Phạm Thanh Nghiên – Hải Phòng 53. Bà Dương Thị Tân – vợ Blogger Điếu Cày, Saigon 54. Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Ban điều hành Khối 8406, Saigon 55. Ông Nguyễn Bắc Truyển – Sài Gòn 56. Ông Lê Thăng Long – Phong Trào Con Đường Việt Nam, Sài Gòn 57. Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston, Hoa Kỳ, Ban điều hành Khối 8406 58. Bà Lư Thị Thu Trang – Saigon, Thành viên Khối 8406 59. Ông Trần Quốc Hiền – Thành viên Khối 8406, Bangkok Thái Lan 60. Ông Phạm Ngọc Thạch – Sài Gòn 61. Anh Lê Thanh Tùng – Sài Gòn 62. Anh Đinh Văn Minh – Sài Gòn 63. Chị Hoàng Thị Ngọc Oanh – Sài Gòn 64. Anh Nguyễn Vĩnh – Đồng Nai 65. Anh Trần Văn Túc – Đồng Nai 66. Nhà báo Trương Minh Đức – Sài Gòn 67. Cựu tù nhân Cổng Trời Antôn Lê Phiến – Xã Long Sơn – Anh Sơn – Nghệ An, Giáo Phận Vinh http://www.chuacuuthe.com/?p=46057   Để cuộc vận động đạt được kết quả tốt đẹp và tạo thành một áp lực lên nhà cầm quyền CSVN, gia đình 14 thanh niên yêu nước rất mong mỏi quý đồng bào, quý đoàn thể, đảng phái và các cơ quan truyền thông góp phần phổ biến rộng rãi Bản Lên Tiếng và vận động mọi người vào ký tên tại địa chỉ : http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/p/banlentieng.html    
......

Vài nét về Hiến pháp Mỹ

Cách đây 230 năm, năm 1783, cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi – đây là thành công đầu tiên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn thể loài người bị áp bức trong thời đại tư bản chủ nghĩa!Một Hiến pháp có trước… nhà nước Điều “lạ kỳ” là sau thắng lợi đó, những nhà cách mạng Mỹ không thành lập một chính quyền cho tương xứng với công lao của những người đã khai sinh ra nền độc lập; hầu như họ không quan tâm đến việc ai sẽ giữ chiếc ghế nào, “ăn chia” ra sao chiếc bánh lợi quyền béo bở mà phải mất bao xương máu, suốt 10 năm trời mới giành được (17.12.1773-4.9.1783): Cách hành xử của những nhà cách mạng Mỹ chưa hề có tiền lệ – ai về nhà nấy, sau khi đã làm trọn bổn phận công dân, không cần biết đến chuyện nên (phải?) khen thưởng ai, như thế nào đối với sự “có công với cách mạng”! Ý định đó của sự ấu trĩ của lòng tốt nhanh chóng bị thực tế tàn nhẫn của xã hội sau chiến tranh giày xéo, tình trạng vô chính phủ nhanh chóng xảy ra, tiểu bang nào cũng muốn giành cho mình sự độc quyền cao nhất, có lợi nhất, khiến cho 13 tiểu bang gây ra bao cảnh huynh đệ tương tàn, và “nước” Mỹ, theo cách nhận xét của George Washington, “giống như một lâu đài được xây bằng cát”. Muốn khắc phục tình trạng đó, giải pháp duy nhất là phải thành lập một chính quyền, đây là điều mà đến năm 1787, hầu như ai cũng biết. Nhưng, chính quyền đó sẽ ra sao? Nó giống với mô hình Pháp hay Anh? Những bậc tiên tổ của nhà nước Mỹ tương lai giật mình bởi họ đoan quyết rằng phải thành lập một mô hình nhà nước hoàn toàn mới, không giống với bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó phải là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Sáu chữ đó là sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao trùm mọi nguyên tắc trong suốt quá trình soạn thảo Hiến pháp (HP). G. Washington, nguyên là Tổng Tư lệnh quân Cách mạng trước đây, được mời giữ ghế chủ tọa Hội nghị Lập Hiến. 55 con người trẻ tuổi (đa số dưới 40 tuổi, riêng A. Hamilton, vào năm 1787, chỉ mới 30 tuổi; J. Madison mới 36 tuổi – họ được coi là những cha đẻ của HP Mỹ) chính là các tinh hoa chính trị được tập hợp từ các tiểu bang, về sau được ca ngợi đó là những người tinh anh nhất, “gần như là thánh thần” của nhân loại vào cuối thế kỷ 18. Những gì lịch sử ca ngợi về tài năng của 55 người đó không hề quá lời: Chẳng hạn, Benjamin Franklin (1706-1790) là một người đa tài: thợ in, chủ tòa báo, thẩm phán, Chủ tịch Hội Triết học Mỹ, thống đốc tiểu bang, nhà ngoại giao, thương gia giàu có, người thành lập Đại học Pensylvania, người phát minh ra cột chống sét, ống thông tiểu, đàn harmonica, kính hai tròng, công ty cứu hỏa tư nhân và, ông nói thành thạo 5 ngoại ngữ… Tài năng, nhân cách và tầm nhìn vĩ đại đã được cộng hưởng để làm ra bản HP đầu tiên trong lịch sử loài người mà hầu như, không có bất kỳ một lỗi văn bản lớn nào! 55 “cha đẻ” của nhà nước Mỹ, trong đó nổi bật nhất là Alexander Hamilton (hình của ông được khắc trên tờ 10 USD), James Madison (người có hình trên tờ 50 USD) và Benjamin Franklin (trên tờ 100 USD)… Ngày 25.5.1787, Hội nghị Lập pháp được khai mạc tại Philadelphia– “thành phố của tình huynh đệ”. Gần bốn tháng ròng rã, những cuộc tranh luận quyết liệt đã nổ ra và tận cho đến lúc đặt bút ký (17.9), nhiều đại biểu vẫn còn chất chứa những bất đồng. Bản dự thảo và những bất đồng đó còn được 5 triệu người dân xem xét kỹ lưỡng trước khi được Quốc hội chính thức thông qua vào năm 1789. Nhìn chung, HP Mỹ đã được làm ra trên cơ sở những định hướng tìm tới sự hoàn hảo có thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc do nhiều đại biểu đề xuất, được A. Hamilton và J. Madison diễn đạt phần nào qua những bài báo rồi tập hợp thành tác phẩm Liên bang thư tập (The Federalist Papers).Những nguyên tắc lập phápChúng ta muốn tạo dựng một nền tảng (HP) sẽ trường tồn qua mọi thời đại, vậy thì, phải dự liệu đủ những thay đổi mà các thời đại đó sẽ tạo ra. Nguyên tắc này khẳng định rõ những điều không bao giờ thay đổi như quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và quyền kiếm tìm hạnh phúc như Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ ra; quyền người dân ủy nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu lên và bãi nhiệm chính quyền đó… Tất nhiên, có rất nhiều điều sẽ thay đổi nên HP dự liệu các khoản bổ sung – Tu Chính Án (Amendment, TCA), chẳng hạn, TCA 22, thông qua năm 1951, quy định tổng thống không được làm quá hai nhiệm kỳ.Việc thành lập một chính quyền thích hợp phải do chính người dân lựa chọn thông qua sự biểu quyết rộng rãi nhất. Không một ai có quyền áp đặt mô hình nhà nước không tương thích với mong muốn và lợi ích của người dân. Sau rất nhiều tranh cãi, nhân dân Mỹ đã chọn mô hình nhà nước tam quyền phân lập; theo đó, một trong ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, luôn bị hai cơ quan kia giám sát.Xu hướng sửa đổi HP để mưu đồ quyền lực nhiều hơn cho một vài cá nhân là xu hướng lạm quyền của mọi quyền lực; vì thế, phải thiết lập một cơ chế sao cho có thể ngăn ngừa mọi ý đồ thao túng và sửa đổi HP. Theo nguyên tắc này, quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu chỉ khi nào có trên 2/3 thượng nghị sĩ hoặc thống đốc bang yêu cầu thì việc xem xét sửa đổi HP mới được đặt ra. Quy định này có nghĩa là, nếu muốn xóa bỏ quyền được trang bị vũ khí, phải có ít nhất 67 TNS hoặc 34 thống đốc bang yêu cầu.Xu hướng lạm quyền và lộng quyền là thuộc tính tất nhiên của con người, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho đủ khả năng để ngăn chặn mọi ý đồ lạm quyền đó. Ngoài cơ cấu tam quyền phân lập, HP Mỹ còn định rõ cơ chế các thành viên của Tòa án Tối cao, các thẩm phán của tòa án khu vực trong toàn liên bang, được giữ quyền trọn đời, nếu không xin nghỉ hưu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo (tâm thần, bệnh suy giảm trí nhớ…). Như vậy, tòa án sẽ không phải chịu bất kỳ áp lực nào từ phía chính quyền hoặc cử tri!Đảng phái là cội nguồn của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa bè phái, đến lượt nó, chủ nghĩa bè phái là cội nguồn làm vẩn đục HP. Vì thế, cơ cấu tổ chức chính quyền không cho phép bất kỳ đảng phái nào có thể can thiệp vào bộ máy một cách trực tiếp. Mỗi đảng phái, trước HP, chỉ là một tổ chức công dân, chịu sự điều chỉnh, giới hạn của luật pháp.Đa số người dân là thờ ơ với chính trị, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho hạn chế đến mức thấp nhất sự vô trách nhiệm của người dân đối với việc bầu ra chức vụ lãnh đạo cao nhất. Nguyên tắc này khẳng định cách bầu cử, theo đó, tổng thống sẽ được quyết định bởi số đại cử tri tương đương với số lượng nghị sĩ của mỗi tiểu bang.Các tiểu bang lớn luôn có xu hướng chèn ép các tiểu bang nhỏ hơn, vì thế, cơ chế tổ chức nhà nước phải hạn chế đến mức thấp nhất sự chèn ép này. Đây là lý do để các tiểu bang dù lớn hay nhỏ đều có hai thượng nghị sĩ trong thượng viện. Bất kỳ một đạo luật nào dù Hạ viện đã thông qua (nơi các bang lớn có lợi thế) đều phải được Thượng viện chuẩn y, và ngược lại.Các cơ quan tư pháp dễ bị mua chuộc và lạm dụng, vì thế, phải có thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết định trực tiếp đến các phán quyết tối thượng của tòa án. Nguyên tắc này đề ra cơ chế thành lập bồi thẩm đoàn (The Jury), do người dân bầu ra. Các viên chức của ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp không được tham gia vào bồi thẩm đoàn. Phán quyết của bồi thẩm đoàn về có tội hay không, mức án, là tối thượng.Việc thay đổi hay ban hành các điều luật mới luôn ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người dân. Do đó, phải thiết lập cơ chế để hạn chế đến mức thấp nhất sự ban hành hay thay đổi một đạo luật, ngăn chặn mọi xu hướng tắc trách khi ban hành các văn bản luật pháp. Nguyên tắc này bảo đảm sai sót ít nhất (hầu như chưa xảy ra, cho đến thời điểm này) về việc ban hành đạo luật mới. Khi một đạo luật được khởi xướng ở Thượng viện chẳng hạn, nó sẽ được trình cho Tiểu ban Tư pháp xem xét, sau đó trình lên Thượng viện. Nếu được thông qua, sẽ tiếp tục được chuyển sang Tiểu ban Tư pháp Hạ viện, rồi toàn thể Hạ viện; cuối cùng mới được trình lên tổng thống. Đạo luật được thông qua, sẽ mang tên người đề xuất – vừa để vinh danh vừa để tăng tính trách nhiệm của dự luật. Nếu tổng thống phủ quyết, trình tự sẽ được làm lại từ đầu.Quân đội, cảnh sát là công cụ của chính quyền nên phải tuân thủ các mệnh lệnh của chính quyền. Và, để ngăn ngừa sự lộng quyền, độc tài hóa, các quân nhân và cảnh sát đang tại ngũ không được phép tham gia vào cơ quan lập pháp. Nguyên tắc này mặc nhiên khẳng định rằng quân đội hay cảnh sát nếu họ vào thượng viện hay hạ viện, không có quyền phản kháng chính quyền, không có quyền được luận “tội” chính quyền, tức là không bảo đảm được năng lực tác chiến, vì khi luận “tội”, họ đang chống lại chính quyền. Quân nhân hay viên chức cảnh sát, muốn vào nghị viện, phải ra khỏi quân ngũ… Trên đây là vài khái lược về sự hình thành và các nguyên tắc lập pháp của nhà nước Mỹ – nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người – một mô hình nhà nước chưa thể tìm thấy sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả hơn. Đó cũng là mô hình nhà nước chưa hề có tiền lệ với bản HP cho đến nay là độc nhất vô nhị, trường tồn, bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian. Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang chuẩn bị bước qua một thời khắc trọng đại bằng việc lấy ý kiến toàn dân để sửa đổi Hiến pháp 1992. Rất mong mỏi rằng việc lấy ý kiến đó không phải là chuyện hình thức, bởi một sự thật giản dị: Nếu ngay cả HP cũng chỉ là bàn để cho vui thì không có cái gì trên đời này có thể được coi trọng! Một bản Hiến pháp khoa học, nhân văn, phù hợp ý nguyện của toàn dân, xu thế của mọi thời đại, chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu tiên cho sự phát triển vững bền… Không phải ngẫu nhiên mà Lời Tuyên thệ của Tổng thống Mỹ chỉ có một ý ngắn gọn là BẢO VỆ HIẾN PHÁP. Một khi HP được soạn thảo hoàn chỉnh thì mọi cố gắng của công dân – kể cả TT, chỉ duy nhất một vấn đề là bảo vệ để thực thi đúng như HP đặt ra, không cần bất kỳ một sự thêm, bớt nào bởi những thêm hay bớt đó đều làm vẩn đục HP! Huế, 24.1.2013H. V. T.http://www.boxitvn.net/bai/44649            
......

Đọc “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức

Huy Đức, tên thật là Trương Huy San, sinh năm 1962 tại Hà Tĩnh, năm nay 51 tuổi. Khi những chiếc xe tăng đầu tiên của quân đội Cộng sản Bắc Việt xô sập cổng Dinh Độc Lập tại Sài gòn và chấm dứt cuộc nội chiến ông mới lên 13, một tuổi còn quá nhỏ để hiểu ý nghĩa lịch sử của nó. Ông nhập ngũ năm 17 tuổi và trở thành sĩ quan, công tác một thời gian tại chiến trường Cambodia, trước khi trở về làm báo. Năm 2005,  ông được chính quyền Hà Nội gởi đi tu nghiệp tại Maryland, Hoa Kỳ. Năm 2006 về nước, tiếp tục làm báo. Năm 2012 ông lại được gởi qua đại học Harvard, một đại học nổi tiếng tại Hoa Kỳ để nghiên cứu về “phân tích chính trị”.  Gởi học viên đi tu nghiệp tại các nước tư bản là một phần trong chương trình đào tạo chính quy các nhà lãnh đạo tương lai tại Trung quốc khi thế giới bước vào kỷ nguyên “toàn cầu hóa” (1). Ông Huy Đức đang ở Hoa Kỳ khi cho xuất bản bộ sách “Bên Thắng Cuộc”             Theo tác giả, khi có cơ hội tiếp cận với miền Nam, ông –cũng như bà Dương Thu Hương – nhận thấy miền Nam không giống gì với những điều đảng Cộng sản Việt Nam đã dạy dỗ ông. Từ năm 1980, vừa làm báo ông vừa để tâm thu thập tài liệu để viết một tài liệu về cuộc chiến Việt Nam để tự trả lời các thắc mắc của chính mình đối với các hiện tượng chính trị và xã hội trước mắt. Và công việc biên soạn này trở thành một thúc bách khi tình hình khối Cộng sản quốc tế biến chuyển một cách căn bản .             Tại Liên bang Xô viết, Gorbachev đề ra chương trình cởi mở chính trị “glasnost” và cải tổ hành chánh “perestroika” đưa đến sự sụp đổ của Đông Âu. Năm 1986 tại Đại Hội 6, đảng Cộng sản Việt Nam quyết định “đổi mới”. Và cuối thập niên 1980  Liên bang Xô viết sụp đổ, đảng Cộng sản Liên xô bị giải tán.             Huy Đức có cơ hội và được phép sưu tầm tài liệu cũng như tiếp xúc và phỏng vấn các nhân vật chính yếu của chế  độ cho thấy anh được khuyến khích và giúp đỡ. Một luồng tư tưởng mới hay một sáng kiến ở sau lưng dự án?             Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” hoàn tất năm 2012 được Huy Đức trình bày thành 2 cuốn. Cuốn I “Bên thắng Cuộc: Giải phóng”, cuốn II “Bên Thắng Cuộc: Quyền bính”. Hai cuốn sách gộp lại dày 1000 trang cỡ chữ 11, gồm 22 Chương, 195 Danh Mục Tác phẩm và 52 Hồi ký, Bản thảo truyền tay trong nước được dùng để tham khảo, với 1262 mục chú thích . Phần chú thích (Cuốn I 82 trang, cuốn II 66 trang) tổng cộng 148 trang là một phần không thể tách rời với bộ sách. Tác giả để riêng ra để cho phần trình bày có tính liên tục.             Bộ sách của Huy Đức là một tác phẩm đồ sộ. Đồ sộ ở bề dày của nó đã đành, nó còn “đồ sộ” ở chỗ tác giả  của nó là một người Cộng sản nhưng không viết để ca ngợi chiến thắng và tuyên truyền cho tính vô địch của chủ thuyết Mác- Lê Nin.             Cuốn sách là một tài liệu lịch sử mặc dù tác giả không trình bày dưới lăng kính của một nhà viết sử. Tác giả đóng vai một bác sĩ giải phẫu mổ xẻ một cơ thể, trình ra những sự kiện lịch sử có chứng liệu. Trong đó những nhân vật lịch sử suy nghĩ, hành xử và thao tác trước thực tế khách quan.             Cuốn sách trình bày một cuộc sống lịch sử có tính nhân sinh sống động. Qua đó người đọc đôi khi thấy quy luật của cuộc sống át hẵn quy luật lịch sử. Ông Võ Văn Kiệt, ông Đỗ Mười, ông Lê Duẫn …, ông Nguyễn  Văn Thiệu, ông Kissinger … , ông Võ Nguyên Giáp , ông Văn Tiến Dũng …  tuy vẫn còn là những Thủ tướng, những Tổng Bí thư, Tổng thống, Cố vấn chính tri. …, những ông Tướng … nhưng chính yếu dưới ngòi bút của Huy Đức là những con người bằng xương bằng thịt lấy những quyết định lịch sử của mình liên quan đến cái sống và cái chết của hằng trăm ngàn người khác như một con người trước thực tế sinh động và hạn chế của nó.             Những ai quan tâm đến những biến chuyển của lịch sử diễn ra trên đất nước chúng ta trong 60 năm qua tìm thấy qua bộ sách “Bên Thắng Cuộc” một bức tranh hậu trường trọn vẹn bên phe xã hội chủ nghĩa. Tác giả gạn lọc và trình bày một bức tranh nối kết  sự kiện này với sự kiện khác một cách nhân quả (causal). Đối với các nhà nghiên cứu, cuốn sách cung cấp những sử liệu về người và việc từ trước đến nay không có sẵn  sàng như vậy.             Cuốn “Bên Thắng Cuộc” là một cuốn sách nói về những cay đắng của người thắng cuộc. Thắng xong mới thấy mình mới là kẻ bại trận. Cuốn sách cũng chứa đựng những oái oăm của cuộc sống . Chỉ riêng mối tình của Lê Duẫn với bà Nguyễn Thụy Nga người vợ thứ do Đảng cưới cho ông tại Cà Mâu năm 1948 trong thời gian chống Pháp đã có đủ chất liệu cho một thiên tình sử. Ông Duẫn có những ngày hạnh phúc với bà Nga khi ông còn lãnh đạo phong trào Cộng sản ở miền Nam trước Hiệp Định Geneve năm 1954. Năm 1957 khi ông được điều ra Bắc trở thành Bí thư thứ nhất của đảng với quyền uy chính trị chỉ sau ông Hồ Chí Minh ông đã không bảo vệ nổi bà Nga trước lối sống công thức giữa một thủ đô vừa lấy lại trong tay người Pháp và áp lực của người con gái lớn của bà vợ cả. Bà Nga được gởi đi học và sống một mình ở Trung quốc 5 năm, sau đó trở lại miền Nam tham gia cuộc đấu tranh chống chính quyền miền Nam. Vợ ông Võ Văn Kiệt, bà Trần Kim Anh và hai con nhỏ bị bom chết năm 1966 trên đường di chuyển từ Bến Cát đến căn cứ Củ Chi ông Kiệt gặp khó khăn trong đời sống gia đình cho mãi đến năm 1984 khi cưới bà Phan Lương Cầm, con ghẻ tướng Phan Tử Lăng và vẫn không yên với dư luận vì bà Cầm quá mới! Tách chúng ra khỏi cuốn sách đó là những mối tình rất con người. Nó bị cọ xác và đầy đọa bởi chiến tranh, phân ly, ghen tuông, quyền lực và phong tục tập quán.             Tôi còn nhớ một bi kịch xẩy ra tại trại cải tạo Lam sơn, trong tỉnh  Khánh hòa khi tôi đang bị giam tại đó cuối năm 1975 giữa một cán bộ Cộng sản và một Trung úy quân đội Việt Nam Cộng Hòa trẻ tuổi. Trong một buổi lên lớp khi người cán bộ xỉ vả học viên là phản bội tổ quốc, viên Trung úy đứng lên nói, anh không phản bội ai cả. Anh nói: “Nếu Mẹ tôi sinh tôi ra trên vĩ tuyến 17 thì bây giờ tôi cũng đang đứng chỗ của anh và có thể đang mắng nhiếc anh là phản quốc.” (2)              Trong thời gian sau cuộc cách mạng tháng 8/1945, người Pháp trở lại, nhưng một số vùng như Thanh-Nghệ -Tỉnh, Bình Định-Phú Yên, Cà Mâu -Đồng Tháp vẫn nằm trong vòng kiểm soát của phe kháng chiến do đảng Cộng sản lãnh đạo, và nhiều thanh niên vì điều kiện địa lý này đã ở bên này hay bên kia và có khi anh em một nhà biến thành kẻ thù bắn giết nhau. Bên thắng hay bên thua chỉ là ngẫu nhiên của lịch sử và may mắn hay rủi ro của từng số phận. Cái còn lại là cái tâm.             Nhưng có cái tâm tốt chưa chắc vượt ra khỏi nghịch cảnh. Sau năm 1975 ông Võ Văn Kiệt giữ chức vụ lãnh đạo tại Sài gòn- Gia Định ông cũng phải ngăn sông cấm chợ để cho dân Sài gòn nằm trên vựa lúa mà đói. Guồng máy buộc ông làm vậy nếu ông không muốn bị kết án là phản cách mạng, phản bội nguyên tắc kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa! Nhưng ít nhất ông Kiệt còn trăn trở tìm lối thoát ra khỏi cái gông tự tròng vào cổ mình của đảng.  Bên cạnh còn biết bao kẻ tầm thường tin tưởng tuyệt đối chủ thuyết Mác Xít: Đỗ Mười, Võ Chí Công, Đào Duy Tùng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh … Thật khó mà định giá những nhân vật như Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Lê Đức Thọ … để biết họ muốn gì. Họ là những tay “ma nớp” quyền lực như một thú vui trong khung cảnh lịch sử mà họ đang sống?             Huy Đức vẽ con người rất con người và các sử gia nếu muốn  nghiên cứu các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam thì bộ sách của Huy Đức là một nguồn tài liệu phong phú muôn màu muôn vẻ.             Nhưng nét nổi bật nhất của bộ sách là đường nét ngây ngô của bộ máy Đảng. Cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, ngăn sông cấm chợ, sở hữu công của tư liệu sản xuất, đất đai thuộc về toàn dân là những nhát búa đảng Cộng sản tự đập vào chân mình.                  Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” cho thấy trong thập niên 1980 đảng Cộng sản Việt Nam đã vùng vẫy để thoát hiểm trước cơn giông tố đang làm lung lay tận gốc phong trào cộng sản thế giới. Gorbachev tại Liên xô. Đặng Tiểu Bình ở Trung quốc với “mèo trắng mèo đen mèo nào cũng tốt miễn là bắt được chuột”. Thắng cuộc, nhưng Việt Nam phải “đổi mới” để tồn tại. Nhưng “đổi mới” mà không có chính sách. Chỉ có những bước mò mẫm trong sương mù của “kinh tế thị trường” không định hướng,  ngoại trừ “định hướng xã hội chủ nghĩa” để níu kéo lĩnh vực quốc doanh cứu đảng.             Kết quả duy nhất của sự đổi  mới mà vẫn duy trì chế độ độc đảng là làm cho dân “có gạo ăn” nhưng không xây dựng được tiềm năng của quốc gia. Chính sách của quốc gia dựa vào trí tuệ giới hạn nếu không muốn nói là kém cỏi của “Bác”, của anh “Ba”, anh “Sáu”, anh “Mười” … một cách rất là tùy tiện.             Bộ sách của Huy Đức có một nét đặc thù là không những bày ra cái yếu kém của chủ nghĩa Mác, mà còn bày ra cái yếu kém của người Việt Nam. Người Việt Nam thông minh, nhưng thiếu cái nhìn lớn và vọng ngoại. Dân khổ triền miên vì vậy.             Nhìn bộ sách đồ sộ của Huy Đức khó mà nghĩ một cách đơn giản rằng đó là thành quả của một cá nhân. Anh Huy Đức dù xông xáo cũng khó tiếp cận với tài liệu nhất là tiếp cận phỏng vấn các nhân vật đang nắm quyền lực mà thói quen sinh hoạt của đảng là mật, cái gì cũng là mật.             Năm 1967 bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara trong khi điều hành cuộc chiến Việt Nam nhận ra sự phi lý của cuộc chiến mà quốc gia và cá nhân ông đang vướng vào, ông kín đáo cho lập một Ủy ban nghiên cứu các biến chuyển từ năm 1945 dẫn đến cuộc chiến tranh. Tài liệu nghiên cứu được gọi là “Hồ sơ của Lầu Năm Góc” (The Pentagon Papers). Bộ sách của Huy Đức có nét tương tự của Pentagon Papers. Phải chăng mục đích của bộ sách là thu thập dữ kiện một cách khách quan để tìm ra nguyên ủy của các mâu thuẫn ngự trị trên đất nước Việt Nam? Cái khác bề ngoài phải chăng là công việc truy tìm này được giao phó cho Huy Đức như một nghiên cứu cá nhân?             Bộ sách của Huy Đức phanh phui ra các dữ kiện tự nhiên từ việc này dẫn đến việc khác cho thấy tại sao chúng ta là nạn nhân. Nạn nhân của hoàn cảnh lịch sử, nạn nhân của các tranh chấp quốc tế, và trên hết là nạn nhân của chính tầm nhìn kém cỏi của chúng ta.             Nếu tài liệu “The Pentagon Papers” đã giúp cho nhân dân Hoa Kỳ  vượt qua “Hội chứng Việt Nam” để nhanh chóng hóa giải căng thẳng và sự chia rẽ trong xã hội do cuộc chiến Việt Nam gây ra thì bộ sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức cũng có thể là một liều thuốc hóa giải sự chia rẽ dân tộc Việt Nam giữa người thắng kẻ thua.             Câu hỏi then chốt là chúng ta đã sẵn sàng để hòa giải với nhau chưa?             Trong phần kết thúc cuốn sách tác giả kết luận: “Giá như không phải là ý thức hệ mà tự do và hạnh phúc của nhân dân là nền tảng hình thành chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, tránh được “Nhân Văn Giai Phẩm, tránh được biết bao cuộc binh đạo xung đột trong nội bộ gia đình”.             Và giờ đây đảng Cộng sảnViệt Nam vẫn còn duy trì Điều 4 Hiến pháp nắm trọn quyền lãnh đạo đất nước, đảng vẫn chưa trả quyền tự do ngôn luận cho dân, đảng vẫn còn ràng buộc với ý thức hệ Mác xít chưa chịu trả quyền tư hữu và quyền sở hữu đất đai lại cho dân thì rõ là chưa có cơ hội hòa giải dân tộc .             Nhưng con đường thiên lý nào cũng phải bắt đầu bằng dặm đầu tiên. Bộ sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là bước bắt đầu và là một  bước tích cực của quá trình hoà giải dân tộc.   Trần Bình Nam Jan 23, 2013binhnam@sbcglobal.netwww.tranbinhnam.com  Chú thích:  (1)  Theo The Life of the Party: The Post Democratic Future Begins in China của Eric X. Li – “Foreign Affairs” Jan-Feb. 2013(2)  Cán bộ trại đã phạt nhốt viên Trung úy vào thùng sắt, loại connex quân đội Mỹ dùng chuyên chở quân dụng.
......

Chính sách thực dân và nuốt biển của TQ

(VNC) Sau các thử nghiệm viện trợ vào Campuchia và Lào, cũng như ỏ nhiều nước châu Phi thành công. Nay Trung quốc áp dụng viện trợ kinh tế, đỏ tiền duới danh nghĩa các công ty, các doanh nghiệp đầu tư làm ăn vào các nước nghèo nhưng có vị trí quan trọng thực hiện chiến lược lâu dài là bành trướng lãnh thổ mà không tốn một viên đạn, một người lính mà lại chính danh. Tổng số tiền viện trợ không đặt điều kiện cho Campuchia đã lên tới 7 tỷ đô-la trong 10 năm qua và cho vay ưu đãi là 6 tỷ cùng với hơn 20 tỷ núp dưới các đại gia, các công ty đầu tư vào nước này. Nay Campuchia dần thành một tỉnh của Trung quốc. Lào cũng đang theo vết này và tổng số tiền viện trợ đã là 4 tỷ đô-la, đầu tư vào Lào là 6 tỷ. Với việc biến các nước này càng lệ thuộc sâu vào mình, giới lãnh đạo Trung quốc đã dẫn dắt các lãnh đạo quốc gia này theo cái gậy của mình rất dễ dàng. Như điều khiển Campuchia phá hoại các hội nghị quốc tế tại quốc gia này, dẫn dắt các hội nghị ở đây có lợi cho Trung quốc. gây chia rẽ các quốc gia Đông Nam Á. Người ta tổng kết thì thấy, chỉ có Miến điện là Trung quốc thất bại vì tinh thần dân tộc của nhân dân ở đây rất cao và lãnh đạo quốc gia này rất tỉnh táo. Việc áp dụng hình thức này cũng khó khăn hơn ở Việt nam sau khi vụ Bauxite Tây nguyên bị các nhà lãnh đạo lão thành quân đội và trí thức phanh phui nhưng họ vẫn chờ thời cơ mới. Sách lược này được vạch ra do ông Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền cách đây 35 năm khi thời cơ đến đó là tổng thống Richad Nixon Mỹ đã ký thông cáo chung Thượng hải với ông Mao và Chu Ân Lai. Chiến luợc đó đã được thực hiện thành công nhất ở thời kỳ ông Giang Trạch Dân lãnh đạo đất nước này. Theo chiến lược này còn đi xa hơn nữa đó là nuốt dần nước Mỹ bằng cách triệt để lợi dụng tình hình khủng khoảng kinh tế của quốc gia này mua các công ty, các hãng, các ngân hang đang bị phá sản. Như dư luận Trung quốc đang rộ lên chuyện giật gân là: Theo một số nhà kinh doanh có quan hệ gắn bó với lãnh lão chóp bu Trung quốc tiết lộ thì Trung quốc đã đề nghị Mỹ cho mua hẳn một tiểu bang ở phía Nam nước này và sẵn sàng xóa đi một phần nợ mà Mỹ đã vay của họ. Nếu Mỹ bán, họ sẽ áp dụng thử quản lý theo kiểu Hongkong và nếu thành công thì sau đó sẽ mua thêm nhiều tiểu bang khác. Tin này cần phải xem xét, kiểm chứng. Nhưng trên thực tế thì Trung quốc đã áp dụng kế hoạch này từ lâu rồi và nay thì bật đèn xanh cho các nhà tư bản nước này mua tất cả các công ty, các hãng, ngân hàng v.v… của Hoa kỳ, Canada và cả ở các nước châu Âu đang bị phá sản. Với cách này họ thực hiện làm ăn kiểu “ mua tận ngọn bán tận gốc”. Hiện chính sách này đang có hiệu quả tại Canada khi mà các hãng dầu hỏa đang rơi vào tay họ và châu Âu, còn ở Mỹ họ cũng đang tăng tốc. 2. Chiến lược về Biển: Một bài báo rất giá trị mà bạn Thái-An đã viết lại của báo Reuters đăng tải ngày 11 tháng 12, sau đây: “Hãy thử hình dung nếu Hawaii của Mỹ thông qua đạo luật cho phép cảnh sát biển lên tàu và nắm giữ các tàu thuyền nước ngoài hoạt động ở pham vi 1.000 km từ Honolulu. Nhưng đó lại là điều diễn ra ở Trung Quốc một tuần trước đây. Tại tỉnh Hải Nam – nơi có những khu nghỉ dưỡng bên bờ biển và cũng là nơi có một trong những căn cứ hải quân lớn nhất của Trung Quốc – chính quyền địa phương đã cho phép cảnh sát được tiếp cận, kiểm tra và thậm chí là bắt giữ các tàu nước ngoài mà họ gọi là “hoạt động trái phép ở vùng biển thuộc thẩm quyền của Trung Quốc”. Chính sách mập mờ Vào thời điểm cộng đồng quốc tế nhìn về nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và là một siêu cường đang trỗi dậy nhanh chóng với mong muốn sở hữu vị thế xứng đứng trên vũ đài quốc tế, thì chính sách ngoại giao mập mờ của Trung Quốc đang gây ra những sự hỗn loạn và leo thang căng thẳng trong khu vực. Việt Nam và Philippines – những nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông cùng với Brunei và Malaysia – đã phản đối mạnh mẽ những quy định mới mà tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) đưa ra.. Ấn Độ tuần trước tuyên bố đã sẵn sàng điều động tàu hải quân tới khu vực để đảm bảo các lợi ích của mình. Mỹ công khai yêu cầu Trung Quốc làm rõ phạm vi và ý nghĩa của quy định mới. “Nó thực sự không rõ ràng, tôi cho rằng với mọi quốc gia”, Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc Gary Locke nói. Giới phân tích cho rằng, thực tế là một chính quyền tỉnh có thể đơn phương làm xấu đi một trong những vấn đề ngoại giao nhạy cảm nhất của Trung Quốc, thậm chí có khả năng gây rủi ro lớn trong việc hoạch định chính sách cho khu vực này. “Nó thể hiện một chính sách đối ngoại hỗn độn thế nào của Trung Quốc khi đề cập tới Biển Đông”, một quan chức ngoại giao phương Tây tại Trung Quốc nói. Theo một báo cáo của Nhóm Nghiên cứu khủng hoảng quốc tế (ICG) hồi đầu năm nay, có không ít hơn 11 cơ quan chính phủ từ quản lý du lịch tới hải quân Trung Quốc – tham gia đóng vai trò ở Biển Đông. Tất cả, ICG cảnh báo, đều có khả năng hành động làm tổn hại nỗ lực ngoại giao. Tuyên bố chủ quyền Đó chính là những gì xảy ra trong trường hợp quy định mới của Hải Nam. Ngô Thế Xuân – quan chức cấp cao trong văn phòng đối ngoại tỉnh này nói, ông nghĩ quy định mới được hội đồng lập pháp địa phương thông qua và không chắc Bắc Kinh có nắm rõ điều này hay không. Phần lớn các nhà phân tích tin rằng, nỗ lực phối hợp giữa vô số cơ quan quản lý chính sách biển tại Trung Quốc đã thất bại trong khi ngày càng có nhiều thừa nhận trong tầng lớp quan chức Trung Quốc rằng, khi một vấn đề tồn tại thì khó có khả năng thay đổi nhanh chóng. Trong khi đó, cuộc tranh chấp trên Biển Đông tiếp tục gia tăng. Tuần trước, Việt Nam đã phản ứng việc 2 tàu cá Trung Quốc cố tình cản trở và gây đứt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam. Báo cáo của ICG nhấn mạnh, các tàu cá Trung Quốc trong một số trường hợp được chính quyền tỉnh “thúc ép” hoạt động xa hơn. Không lâu trước khi ban hành quy định mới, cả khu vực đã lên tiếng bất bình vì một bản đồ in trên hộ chiếu mới của Trung Quốc. Bản đồ này thể hiện yêu sách chủ quyền của Trung Quốc với hầu hết Biển Đông. Chu Phong, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế, Đại học Bắc Kinh cho hay, tấm hộ chiếu mới được Bộ Công an (MPS) Trung Quốc phát cho dân thường. “Tôi nghĩ rằng, MPS thấy họ cần làm gì đó để thể hiện sự ủng hộ với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, nhưng tôi không nghĩ họ có được sự ủng hộ từ bộ Ngoại giao”, ông nói. Trong khi đó, bộ Ngoại giao Trung Quốc cấp hộ chiếu cho quan chức chính phủ, và những tấm hộ chiếu ấy không mang hình bản đồ nói trên. Ở đây xuất hiện một phần lớn của vấn đề: bộ Ngoại giao Trung Quốc có nhiệm vụ phối hợp giữa các bên, nhưng ảnh hưởng lại chưa đủ lớn để làm việc này một cách hiệu quả. Trong cuộc họp báo gần đây, người phát ngôn của bộ này là Hồng Lỗi dường như không có nhiều thông tin về quy định mới của Hải Nam. Một phóng viên đã hỏi về trách nhiệm điều phối chính sách Biển Đông của bộ Ngoại giao Trung Quốc, người phát ngôn họ Hồng trả lời: “Trung Quốc quản lý biển theo quy định của pháp luật”. Đường 9 đoạn Một nhân tố phức tạp khác trong cuộc cạnh tranh chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông là việc Bắc Kinh tự mình thể hiện tham vọng trên cái gọi là “bản đồ 9 đoạn”. Bản đồ này lượn sát bờ biển các nước khác trong cái gọi là phân định chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng nó không đơn giản là như vậy. Carlyle Thayer, một chuyên gia về Biển Đông tại Đại học New South Wales ởi Australia, cho hay, trong 26 hội thảo ông tham dự suốt hai năm qua, các câu hỏi được lặp đi lặp lại với các học giả Trung Quốc chỉ là về đường 9 đoạn và không hề có câu trả lời rõ ràng. “Không một người nào ở Trung Quốc có thể nói cho bạn nó nghĩa là gì”, ông nhấn mạnh. Các cơ quan chính phủ Trung Quốc cũng có những quan điểm khác nhau. Một quan chức Đông Nam Á ở Bắc Kinh cho hay. “Trung Quốc thậm chí không có tọa độ chính xác về yêu sách mở rộng chủ quyền trong khu vực, khiến vấn đề trở nên khó khăn khi phải xác định nơi chủ quyền của họ bắt đầu và kết thúc”, ông nói. “Chúng tôi đã hỏi họ về tọa độ chính xác và họ không thể trình bày cho chúng tôi”. Một số nhà phân tích lập luận, sự mơ hồ đôi khi giúp Bắc Kinh “rảnh tay” trong việc thương thảo ở một số khu vực tranh chấp. Nhưng “mặt khác”, theo ông Thayer, “họ cũng đối mặt với áp lực to lớn” hiện tại để truyền tải rõ ràng và cụ thể về vị trí của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc thừa nhận cần có sự phối hợp tốt hơn giữa các cơ quan, nhưng có rất ít tiến triển. Trong tương lai gần, tầng lớp lãnh đạo mới dưới sự dẫn dắt của ông Tập Cận Bình sẽ tập trung nhiều vào các vấn đề trong nước. Stephanie Kleine-Ahlbrandt, tác giả – thuộc Nhóm Nghiên cứu khủng hoảng quốc tế – báo cáo chính sách Biển Đông của Trung Quốc nhận định. “Trong bối cảnh ấy, hầu như sẽ không có thay đổi đáng kể trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc”. Dư luận quốc tế đang rất quan tâm đến các cuộc biểu tình giận dữ của người dân Việt nam tại Hà nội và Sài gòn mấy ngày qua. Họ cho rằng Nhà nước Việt nam đã đánh mất vai trò lãnh đạo của chính mình khi không để các tổ chức quần chúng như Quốc hội, Mặt trận tổ quốc và Thanh niên, Phụ nữ, cựu chiến binh, sinh viên v.v… tham gia mà lại ra sức ngăn cản. Như vậy chỉ càng làm mất đi uy tin và làm cho tiếng vang của các cuộc biểu tình này thêm mạnh mẽ hơn mà thôi. Nếu không tìm ra các biện pháp tháo gỡ thì ngọn lửa yêu nước đó của nhân dân một khi bị cản ngăn nó có thể sẽ thổi ngược lại thiêu đốt chính họ. Âm mưu và thủ đạo của Trung quốc rất nham hiểm và lớn đang là thách thức to lớn của không chỉ Việt nam mà cả các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Nhật bản, Nam hàn, đồng thời thách thức cả chính với Hoa kỳ. Người ta không gì tốt hơn là phải cảnh giác, nắm vững vũ khí trong tay là lòng yêu nước, tính dân tộc cao của nhân dân mình và trang bị quốc phòng, đoàn kết liên minh với nhiều quốc gia tạo nên một mặt trận chung đối phó với một cường quốc mới lên nhưng mang dòng máu Bành trướng đại Hán. Ngày 11 tháng 12 năm 2012.
......

Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội và Sài Gòn ngày Chủ Nhật, 09.12.2012.

Bất kể tình trạng công an bao vây rất nhiều nhà yêu nước từ mấy ngày trước, cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược vẫn diễn ra tại Sài Gòn và Hà Nội. Tin từ Hà Nội:   9h30′: Đoàn biểu tình khoảng 300 người đang đi trên đường Tràng Thi hướng về sứ quán TQ. 8h55’: Nhiều người tham gia biểu tình, có blogger Nguyễn Tường Vy cùng nhiều blogger khác đang ở đối diện Nhà Hát lớn, trên sân khấu vẫn đang có ca nhạc, có vài chục người đứng xem. 8h45′: Độc giả Mongun cho biết trong comment, “Nhà riêng bà Lê Hiền Đức ở số 7 ngõ 56 phố Pháo Đài Láng, HN có chốt gác suốt đêm qua. Lúc 23h00 bà đi ra khỏi nhà thì bị chặn lại, khiến bà phải quay về. Hai lần bà gọi taxi đều đến đón nhưng sau đó bị CS khu vực không cho dừng đỗ để bà lên xe. Sau khi ngồi tạm ở nhà hàng xóm chờ yên ắng trở lại thì vẫn thấy lính canh. Lúc 03h00, sau nhiều lần gọi taxi không dừng, bà đã ở lại trong nhà. Cụ bà Lê Hiền Đức cho biết CAHN sẽ hội ý để đưa bà ra Nhà Hát lớn sáng nay, mà không để bà đi một mình. Bà lê Hiền Đức tuyên bố: Nếu 09h00 không thấy bà ra được NHL Tp HN, khi ấy đã có chuyện xảy ra tại tư gia nhà bà“. Một độc giả nhắn tin từ cụ Lê Hiền Đức: “Bà khóa cửa nhà từ 3h15’, nhưng bọn ‘chó săn’ theo bà từng bước, bà đi vòng vèo mãi đến 5h bà quay về nhà và gọi điện cho bọn lãnh đạo, bà tuyên bố: ‘tao không phải là tội phạm, tao không bị quản chế, vậy không thằng nào ngăn được tao đi… tao thà chết VINH còn hơn sống NHỤC. Tao sẵn sàng đổ máu với bọn chó săn… Đến giờ này thì an ninh đang trao đổi để cử người cùng bà đến Nhà Hát lớn và đề nghị bà về sớm. Nếu đến 8h mà không trả lời và có người đưa bà đi thì ‘Bà sẵn sàng đổ máu’ với bọn này. Chúng nó đang điều y tế đến hỗ trợ”. - Từ trong nhà cụ Lê Hiền Đức thông báo đến nhà báo Trần Quang Thành: “Bây giờ là 8h sáng Chủ nhật 9/12, công an đủ loại đang bao vây dầy đặc nơi ở của cụ Lê Hiền Đức, không cho  cụ ra khỏi nhà để dến nhà hát lơn  tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm lươc . Công an đã diều động cả xe cứu thương đến trước cửa nhà cụ Đức“. 8h15′: Có khoảng 10 xe CA bao quanh trước tượng Lý Thái Tổ, rất nhiều biển cấm quay phim, chụp ảnh. Khoảng 100 đoàn viên TN mặc đồng phục và hướng dẫn nhau tập thể dục trước tượng đài.  Trước tượng Cảm Tử cho TQ Quyết sinh, có 2 xe tải nhỏ của CS án ngữ. Có cả ông Cường, đội trưởng CA quận Hoàn Kiếm cùng hơn chục CA chìm, nổi. 8h05′: Nhà hát TP đã mở nhạc lớn, có hàng rào sắt bao quanh, vài chuc đoàn viên TN mặc thường phục lẫn với CA mặc sắc phục.  Một xe phát sóng truyền hình trực tiếp cho chỉ huy CAPT, 1 xe buýt đỗ ngay gần đấy có lẽ để bắt người. 7h55′: Quanh sứ quán TQ có đông CA và dân phòng nhưng chưa thấy CS cơ động. Có 2 xe buýt lớn đỗ trước tượng Lenin. Rất đông thanh niên tập trung ở Viện Bảo tàng Quân Đội, đối diện vườn hoa Lenin, có lẽ để phản biểu tình. 7h: “Có một vụ cháy rất lớn ở Dốc Đoàn kết, xe chữa cháy đang đổ dồn về”. Hy vọng không phải là một vụ “tự thiêu” tài sản để đổ thừa cho “các thế lực thù địch”, liên quan chuyện biểu tình hôm nay. 6h45′: “Tại Nhà hát lớn các kỹ thuật viên đã lắp loa thùng và đang thử nhạc.“ 5h55′: “Lúc 5h30 tại vườn hoa Lenin bà con vẫn tập thể dục, không có công an cảnh sát. Tại Nhà hát Lớn cũng không có công an ngoại trừ vài anh dân phòng ngồi gác cả đêm, không có rào chắn ở khu vực các ngã tư vào NHL.” 4h45′: 1 CTV cho biết, đã thấy xe ô tô chở đầy CSCĐ đủ trang phục đi qua ĐSQ Trung Quốc. 5h: Công an quận Hoàn Kiếm đã có những xe tải nhỏ chở hàng rào sắt. 4h15‘: CTV cho biết: “khu vực 46 Hoàng Diệu, không rào chắn. Trừ đầu Trần Phú vẫn có rào sắt như mọi khi”. by basamnews   Tin từ Sài Gòn: 9h: Có mặt GS Chu Hảo, Bùi Văn Nam Sơn, dịch giả Đôn Phước, Hoàng Dũng (boxit), Thế Thanh (SGTT), ông Huỳnh Tấn Mẫn lên diễn thuyết và hô khẩu hiệu, mọi người hô theo và hát theo. Lực lượng thanh niên áo xanh xông vào xô đẩy, và cuối cùng mọi người đã bị giải tán sau 10’. 8h55’: Hiện mọi người đã vào được trong hội trường, đang hát bài Tự Nguyện: “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng… Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương”. 8h49′: SG đã bắt đầu. Ông Huỳnh Tấn Mẫm dẫn đầu, đã vào được Nhà hát Thành phố. 8h45′: Không vô được nhà hát. Mọi người tách ra làm 2 nhóm, 1 nhóm hiện đang đi trên đường Đồng Khởi gồm có ông Lê Công Giàu, Đinh Kim Phúc. 8h05′: 1 CTV cho biết, “GS Tương Lai và vợ chồng ông Tống Văn Công bị bắt vào CA phường Tân Phong, Quận 7″. 7h25′: GS Tương Lai, một trong 5 người ký tên đại diện cho 42 nhân sĩ trí thức trong bản Thông báo vừa gửi “Cấp báo. Ngày hôm qua Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP HCM Lê Minh Trí tiếp chúng tôi với thái độ rất hòa nhã. Những tưởng sau cái bắt tay nồng nhiệt với người đại diện cho chính quyền Thành phố, chúng tôi sẽ được tự do biểu thị lòng yêu nước của mình trước những hành động láo xược của nhà cầm quyền Trung Quốc, vi phạm trắng trợn chủ quyền của đất nước ta. Nhưng sáng nay, ngay bây giờ, trên đường đi đến Nhà hát Thành phố, chúng tôi bị an ninh vây quanh xe taxi, không cho chuyển bánh. Chúng tôi được biết các anh Lê Công Giàu, Lê Hiếu Đằng cũng đang bị an ninh vây chặt, không cho ra khỏi nhà. Vậy xin cấp báo cho công luận trong và ngoài nước được biết. Tương Lai”. 7h20′: Nhà thơ Đỗ Trung Quân nhắn tin: “Toi bi tum roi”. Ôi! Quê hương có còn những chùm khế ngọt nữa không anh? 6h50′: “Trước quảng trường Nhà hát lớn TP, người ta đang sắp xếp ghế ngồi”. Để phục vụ cuộc mít tinh phản đối Trung Quốc? 6h40′: Nhà thơ Đỗ Trung Quân từ KS Continental-Saigon điện thoại cho biết: “Khắp khu vực quanh Nhà hát Lớn TP đã bị rào chắn, công an dày đặc. Ngoài 2 vị Lê Hiếu Đằng, Lê Công Giàu, còn có ông Cao Lập đã bị công an chặn lối ra khỏi nhà. Ông Huỳnh Tấn Mẫm có thể đã thoát, gọi điện thoại ông không nghe, có lẽ để tránh bị công an dùng kỹ thuật định vị”. 5h45′: Ông Lê Hiếu Đằng, cựu Phó Chủ tịch MTTQVN-TPHCM, một trong 5 vị đứng tên đại diện trong bản Thông báo mít tinh, bị thành ủy “mời’ chiều qua, vừa gửi Email: “Hiện nay công an đang gác nhà tôi và anh Lê Công Giàu, không cho ra. Sẽ tìm cách thoát vòng vây. Ha ha … vui quá!”   (Cầu Nhật Tân). Công an giật xé các biểu ngữ chống Trung Quốc xâm lược.  
......

Đối phó với Trung Quốc bằng cách nào

Trước những hành động khiêu khích của Trung Quốc đối với các nước trong khu vực, đã đến lúc phải nhìn vấn đề một cách cụ thể hơn, ngay cả tình huống chiến tranh sẽ được Trung Quốc tiến hành. Đài Á châu Tự do đưa ra hai câu hỏi cho ba nhân sĩ trí thức hải ngoại nhằm tìm hiểu thêm nguyện vọng của một số lớn người Việt trước tình hình căng thẳng và rất nguy hiểm cho đất nước hiện nay. Ba vị khách mời là Giáo sư Vũ Quốc Thúc hiện sống tại Pháp. Giáo sư đã giảng dạy tại Đại học Luật Khoa Sài Gòn và từng giữ chức Quốc Vụ Khanh từ năm 1968 cho tới 1972 dưới chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Khách mời thứ hai là TS Phùng Liên Đoàn chuyên viên về hạt nhân. Trước năm 1975 ông làm việc tại Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, sau năm 75 ông là Tổng giám đốc công ty tư vấn Professional Analysis có văn phòng tại Nevada và Tennessee chuyên tư vấn các vấn đề về nhà máy hạt nhân. Người thứ ba là ông Ngô Nhân Dụng, trước năm 1975 ông là giáo sư văn chương ở các trường Chu Văn An, Nguyễn Du. Sau năm 1975 ông giảng dạy tại các trường Võ Bị Hoàng Gia St. Jean, đại học Concordia, đại học McGill và đại học Québec tại Montréal (UQAM) về môn Tài chánh xí nghiệp. Hiện nay ông là cây bỉnh bút của Nhật báo Người Việt Tại California. Việt Nam cần làm gì? Mặc Lâm: Thưa giáo sư, theo ông thì Việt Nam cần tập trung vào điều gì nhất trong chiến lược lâu dài nhằm đối phó với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông? Giáo Sư Vũ Quốc Thúc: Theo tôi thì Việt Nam chúng ta phải tìm cách thay đổi thể chế của mình đã. Trước hết mình phải làm thế nào cho mỗi người Việt Nam trong hay ngoài nứơc đều hãnh diện mình là người Việt Nam. Chuyện làm tôi bận tâm nhất là một phần lớn người Việt ở hải ngoại không muốn về nước nữa. Trong khi đó lại có xu hướng người trong nước, nhất là người trẻ lại muốn được ra hải ngoại để sung sướng hơn. Chuyện Biển Đông một khi chúng ta thống nhất, đoàn kết, một lòng một dạ thì ta không sợ ai cả. Một khi nhất trí thì mình sẽ bảo vệ đất nước một cách dễ dàng còn nếu chia rẽ trong nội bộ thì ngoại quốc sẽ lợi dụng tình trạng đó để xâm chiếm lãnh thổ của mình. Phải thống nhất nhân tâm. Khi toàn dân đồng lòng và lúc đó các đường lối được áp dụng chỉ chú trọng tới quyền lợi tối thượng của dân tộc chứ không riêng cho ai cả. Mặc Lâm: Cũng câu hỏi này xin được dành cho nhà báo Ngô Nhân Dụng. Nhà báo Ngô Nhân Dụng: Đối với vần đề Biển Đông tôi nghĩ chính quyền Việt Nam ngay bây giờ nên tìm cách quốc tế hóa vấn đề này. Đưa vấn đề này ra trước nhất tại Đông Nam Á và thứ hai là đưa ra trên các diễn đàn và các tòa án quốc tế để yêu cầu Trung Quốc phải giảm bớt những hành động có tính cách xâm lược, đè nén đối với người dân Việt Nam chứ không phải đối với chính quyền Việt Nam. Đây là một việc cần làm ngay nhưng muốn cho công cuộc bảo vệ chủ quyền của nước ta ở Biển Đông hữu hiệu và lâu dài thì chuyện đầu tiên là Việt nam phải mạnh lên. Muốn mạnh lên thì Việt Nam cần phải đạt tới tỷ lệ tăng trưởng mỗi năm 9-10%. Việc phát triển kinh tế đó không phải là việc một chính quyền có thể một mình đứng ra làm đựơc mà cần phải có sự tham gia của toàn dân. Mà muốn toàn dân tham gia thì cần phải cải tổ không những cơ cấu kinh tế hiện nay quá chú trọng đến quốc doanh mà cần phải cải tổ cả chính trị để cho dân chúng có được tiếng nói về việc điều khiển công việc quốc gia thì lúc bấy giờ dân mới có thể giàu, nước mới có thể mạnh được. Mặc Lâm: Và xin TS Phùng Liên Đoàn cho ý kíến. TS Phùng Liên Đoàn: Theo tôi nghĩ mình là nước nhỏ, yếu mà lại gần Trung Quốc nhất nên họ sẽ đối xử với mình bằng nhiều chuyện như đã rồi. Giống như những trận đánh tại biên giới hay Hoàng Sa, Trường Sa thành ra mình phải hết sức mềm mỏng và phải tìm rất nhiều người bạn quốc tế. Phải biến vấn đề này thành vấn đề quốc tế chứ mình không thể cứng được bởi vì Việt Nam chỉ thiệt mà thôi bởi vì không có lợi gì trong cuộc đọ sức không cân xứng này. Nếu chiến tranh xảy ra... Mặc Lâm: Bằng kinh nghiệm của mình thì theo quý vị, người Việt hải ngoại có sẵn lòng để đóng góp tiền bạc, trí tuệ thậm chí xương máu khi có chiến tranh xảy ra với Trung Quốc hay không? TS Phùng Liên Đoàn: Cả hai ba triệu người Việt ở hải ngoại, bất kể làm việc bằng đầu óc hay chân tay họ luôn luôn có những bầu máu nóng yêu nước nhưng đóng góp bằng cách nào thì đó là một vấn đề khác. Vì đóng góp kể cả xương máu thì phải về Việt Nam đầu quân nhưng sự thực vấn đề liên lạc giữa chính phủ Việt Nam và người hải ngoại rất rời rạc không có một điều gì để thúc đẩy cho người Việt hải ngoại về Việt Nam thực hiện điều đó. Hai nữa đóng góp ở ngoại quốc thì bằng tiền bạc hay vận động những cơ quan bạn bè hay chính phủ của nước sở tại thì tôi nghĩ người Việt có thề làm được nhưng phải có tổ chức. Tổ chức ra sao, đóng góp cách nào thì cần phải có sự liên lạc rất là thân thiện giữa chính phủ và kiều bào. Nhưng hiện giờ chính phủ Việt Nam không màng gì tới ý nghĩ và sự đóng góp của người Việt trong nước. Một số nhỏ làm việc trong tư cách lãnh đạo nhưng quyết định tất cả các công việc hệ trọng của đất nước thành ra làm nản lòng những người muốn đóng góp trí tuệ cũng như sức lực, tiền bạc, xương máu cho đất nước. Mặc Lâm: Xin được quay lại với giáo sư Vũ Quốc Thúc. Giáo Sư Vũ Quốc Thúc: Đó là bổn phận chứ không phải chuyện sẵn lòng hay không sẵn lòng một khi đã coi mình là dân Việt Nam. Nếu có xảy ra chiến tranh với Trung Quốc thì bằng mọi cách phải chống lại kẻ ngoại xâm. Nhưng điều trước tiên là ở trong nước phải làm thế nào để đoàn kết toàn dân. Hơn tám chục triệu người trong nứơc sẽ bị trước tiên nếu Trung Quốc xâm lăng. Rồi những người ở hải ngoại cũng sẽ về đóng góp lúc đó sẽ có những người cho rằng tôi không phải là dân Việt Nam nữa thì những người đó phải có sự chọn lựa. Trái lại nếu bảo rằng Việt Nam không thay đổi nên tôi chẳng về, thế thì mình đã quên tư cách người Việt Nam của mình thì hà tất phải bàn về thái độ đó nữa vì người ta đã chọn lựa rồi. Mặc Lâm: Và nhà báo Ngô Nhân Dụng, ông nghĩ thế nào? Nhà báo Ngô Nhân Dụng: Bất cứ ai là người Việt Nam, phần lớn người Việt ở nước ngoài đểu có tấm lòng thiết tha đối với tổ quốc vì vậy họ lúc nào cũng sẵn sàng đóng góp. Họăc là hiểu biết, họăc là tiền bạc, sức lực vào việc bảo vệ chủ quyền của nứơc Việt Nam. Nhưng tất nhiên người ta cũng phải dè dặt và chỉ góp công vào nếu người ta thấy việc góp công đó đưa tới sự phồn thịnh thật sự cho đất nứơc. Đưa tới được một nước Việt nam trong đó người dân được tự do phát triển. Điều kiện để cho tất cả mọi người Việt Nam hải ngoại tham gia vào việc bảo vệ tổ quốc là phải có một nước Việt Nam thật sự tự do và độc lập. Mặc Lâm: Xin cảm ơn ba vị khách mời, cám ơn quý thính giả đã bỏ công theo dõi chương trình lấy ý kiến này. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/how-to-cope-w-cn-threat-ml-11282012152946.html
......

Bóng ma Cách Mạng Tháng 10 trên đất Việt

Khi nhìn lại thế kỷ trước, hầu hết các nhà bình luận và sử gia đều cho rằng, cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 ở nước Nga và 72 năm sau đó, sự xụp đổ của bức tường Bá Linh dẫn đến sự tan rã của khối Cộng Sản, là hai biến cố quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỷ 20. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga thành công vào ngày 24 tháng 10 theo lịch Julien được Sa Hoàng dùng ở nước Nga vào lúc đó, so với dương lịch thì chênh lệch nhau nửa tháng. Sau khi Cách Mạng Tháng 10 thành công thì nước Nga mới sửa lại lịch và lấy ngày 7/11 hàng năm là ngày kỷ niệm cách mạng đó. Sự thành công của Cách Mạng Tháng 10 đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội loài người, mở ra một kỷ nguyên mới của nhân loại với sự hình thành của khối các nước xã hội chủ nghĩa cùng với những nhà nước kiểu mới (theo như cách gọi của những người Cộng Sản) mà nhân loại chưa từng có trước đó. Những nhà nước “kiểu mới” này đã xiềng xích dân tộc của họ suốt mấy chục năm, cho đến khi khối các nước xã hội chủ nghĩa tan rã. Vì vậy sự tan rã này được coi là biến cố quan trọng ngang với cuộc cách mạng tháng 10. Trước khi đi sâu vào một số đặc điểm của cuộc Cách Mạng Tháng 10 cũng cần luợc qua các Quốc Tế Cộng Sản (QTCS), quan trọng nhất là đệ tam quốc tế (QTCS 3), vì được coi là đi song hành với sự hình thành của khối các nước xã hội chủ nghĩa; quan trọng hơn, nó còn có vai trò lãnh đạo các chế độ (và các phong trào) cộng sản. Các Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) Có 4 QTCS gồm: QTCS 1 do Marx và Engels thành lập tại Luân Đôn (Anh Quốc) ngày 28/9/1864 và giải tán năm 1876 tại Philadelphia, Hoa Kỳ. QTCS 2 (tức Liên Minh Quốc Tế Các Đảng Xã Hội và công nhân) thành lập tại Paris ngày 14/7/1889. QTCS 2 tan rã khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Sau đó, năm 1923 và 1951 có hồi phục lại được trong một thời gian ngắn rồi tự tàn lụi. QTCS 3 (Komintern, hay Comintern) do Lenin thành lập tại Mạc Tư Khoa (Moskva) vào tháng 03 năm 1919. Đến năm 1943 thì giải tán, được tái sinh năm 1947 và giải tán năm 1956. QTCS 4 do Trotsky thành lập sau khi Lê nin qua đời. QTCS này theo khuynh hướng chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Từ năm 1953, QTCS 4 phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ rồi tan rã. Như đã đề cập ở trên, QTCS 3 có vai trò chỉ đạo các chế độ và phong trào cộng sản, cho nên trong khoảng 33 năm QTCS này tồn tại các chế độ và phong trào cộng sản trên thế giới đều phải nhận chỉ thị từ Mạc Tư Khoa. Đối với Việt Nam, ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN là thành viên của QTCS 3 nên đương nhiên phải tuân theo các điều luật của QTCS này. Đây là điều quan trọng cần nhấn mạnh, vì trong 21 điều kiện gia nhập Đệ Tam Quốc Tế được ấn định trong Đại hội thế giới của Đệ Tam Quốc Tế năm 1920 có nhiều điều bắt buộc các thành viên phải thi hành, nếu không thì sẽ bị loại trừ. Chẳng hạn như: Điều 12: “Tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Điều 16: “Tất cả các quyết nghị của các Đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp Hành của Đệ Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng gia nhập Đệ Tam Quốc Tế”. Điều 21: “Đảng viên nào phủ nhận các điều kiện và cương lĩnh của Đệ Tam Quốc Tế sẽ bị loại ra khỏi đảng”. Điều 17: Các đảng thành phần của Đệ Tam Quốc Tế chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế “không phải là một tập hợp của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất”. Điều 13: Các quyết định của Ủy Ban Chấp Hành “có tính cách cưỡng bách đối với các chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế và phải được thi hành mau chóng”. Ngoài ra, điều 6 quy chế QTCS 3 quy định một đảng xin gia nhập phải “ khước từ mọi tinh thần ái quốc , và cả tinh thần chuộng hòa bình về mặt xã hội”. Người cộng sản phải từ chối “dân chủ tiểu tư sản” và phương thức không cách mạng (tức không bạo động). Một câu trong Tuyên Ngôn Cộng Sản xác định tinh thần vô tổ quốc của các đảng Cộng Sản như sau: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, KHÔNG phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc ”. (1) Trở lại với cuộc Cách Mạng Tháng 10 thì khi nói về cuộc cách mạng này không thể không đề cập đến học thuyết của Marx và nhất là Lenin, người lãnh đạo của cuộc cách mạng đó. Thực ra thì học thuyết Marx chỉ là một mớ lý thuyết suông, nếu không có Lenin hiệu đính, rồi tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng bạo động lật đổ chế độ Sa Hoàng thì đã không có cách mạng tháng 10 và như vậy cũng sẽ không có khối các nước XHCN. Vì vậy, khi nói về Cách Mạng Tháng 10 thì luôn luôn phải đi kèm với học thuyết Marx – Lenin. Có người cho rằng Lenin đã phản bội Marx, vì theo Marx thì sau khi đánh đổ được tư bản thể chế chính trị ở các nước vô sản phải là chế đội đại nghị. Lenin đã thực hiện đúng như vậy, nhưng chính quyền đầu tiên của Lenin chỉ chiếm được 24 phần trăm số ghế trong quốc hội. Vì thế ông ta phải dẹp bỏ nhà nước đó để thành lập nhà nước vô sản chuyên chính. Đây là khuôn mẫu nhà nước mà tất cả những quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây đều tổ chức và thực hiện rập khuôn như vậy. Và dưới đây là một số nét của nhà nước chuyên chính vô sản tại Nga sau cuộc Cách Mạng Tháng 10, mà nhiều điều chỉ được biết đến sau khi khối các nước cộng sản xụp đổ. Một số nét tiêu biểu về sự cai trị của nhà nước chuyên chính vô sản (hệ quả cuộc cách mạng tháng 10): Cách Mạng Tháng 10 được đảng CS Nga nhân danh là cuộc Cách mạng của quảng đại quần chúng lao động, cho tất cả giai cấp lao động và vì hoà bình, vì hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Nó được các sử gia thiên tả, cộng sản ca tụng là cuộc cách mạng vĩ đại, giải quyết tận gốc ách thống trị, nô dịch các dân tộc, chỉ đường cho việc tổ chức một xã hội mới công bằng văn minh, cao đẹp; là ánh sáng hoà bình, xua tan những mưu đồ tàn ác, bạo ngược, soi đường cho sự phát triển của nhân loại v.v. và v.v. Có thật cách mạng tháng 10 Nga đã đem lại cho người dân Nga nói riêng và các dân tộc bị ách thống trị của chế độ CS được những điều tốt đẹp như những tuyên truyền về mục tiêu của Cách Mạng Tháng 10 đã nêu ra? Sau khi khối cộng sản Liên xô và Đông Âu sụp đổ, dần dần những sự thật của cái gọi là Cuộc Cách Mạng Tháng 10 Nga đã được hé mở do sự bạch hoá các tài liệu trong kho thư mật. Người ta đọc được những thủ đoạn tàn bạo và tinh vi của các lãnh tụ đảng CS Nga từ những ngày đầu tiên khi thiết lập một chính quyền mang danh của nhân dân nhưng không được lòng dân nên luôn phải xử dụng các biện pháp khủng bố bằng bạo lực để duy trì quyền lực của mình. Một điểm nổi bật đặc biệt là lãnh tụ CS Nga chủ trương dùng cái đói như một vũ khí lợi hại để kiểm soát bao tử và khống chế ngươi dân. Chính quyền Bolsevik đã cưỡng bức trưng thu lương thực, khiến người nông dân Nga nổi lên chống đối và đã bị đàn áp tàn bạo. Chỉ riêng trong mùa hè năm 1918, có khoảng 140 cuộc nổi dậy, trong đó nông dân chiếm phần lớn, để chống lại lệnh cưỡng bức trưng thu. Chỉ trong hai tháng mùa thu năm đó, số người bị hành quyết lên đến 15 nghìn, tức là gấp từ 2 đến 3 lần số người bị hành quyết trong suốt 92 năm cai trị của chế độ Sa Hoàng. Từ sau Cách Mạng Tháng 10, cuộc sống của người dân Nga ngày càng cơ cực. Công nhân bị bòn rút hết sức lực qua các phong trào thi đua, chỉ để được hưởng những tấm giấy hoặc lời khen thưởng hão huyền. Nông dân mất hoàn toàn quyền sở hữu ruộng đất, bị buộc làm công không trong các nông trường quốc doanh và tập thể. Trí thức, văn nghệ sĩ, truyền thông báo chí không còn được tự do sáng tác mà phải chịu dưới sự chỉ đạo của nhà nước…Từ đó người dân Nga trở thành những nô lệ cho một thiểu số cầm quyền từ tinh thần đến vật chất. Người ta đã từng biết đến những hệ thống trại tập trung của Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ hai, nổi tiếng như Auschwitz, Dachau, Buchenwald, Sachsenhausen... Những nơi đày đọa và vắt kiệt sức con người cho đến chết, mà con số nạn nhân lên đến hơn sáu triệu dân Do Thái và hàng triệu người thuộc các chủng tộc thiểu số khác. Nếu may mắn còn sống thì cũng chỉ là những bộ xương biết cử động. Người ta cũng từng nghe đến hệ thống công an mật vụ khét tiếng Gestapo (Geheime Staatspolizei) do Đức quốc xã lập ra. Tổ chức này đã từng làm cho người dân khiếp đảm qua việc nắm chặt mọi ngõ ngách xã hội, vào tận từng gia đình, kiểm soát từng con người và cai trị bằng sự sợ hãi thường trực đến nỗi các sĩ quan cao cấp quân đội SS của Đức quốc xã cũng phải kiêng dè. Trong một thời gian khá lâu người ta vẫn tưởng rằng hai hệ thống trại tập trung và mật vụ nêu trên là do Hitler sáng chế. Nhưng thực ra đó là sáng kiến của Lê Nin ngay từ những ngày đầu khi thiết lập chính quyền chuyên chính tại Nga và sau này đã được Stalin áp dụng tới cực đỉnh, mà Hitler và đồng bọn chỉ là học trò. Ngoài hệ thống trại tập trung (Gulag) và hệ thống công an trị Lenin còn phát kiến hệ thống kiểm soát bao tử bằng tem phiếu để cai trị người dân. Từ đó lãnh đạo muốn trừng phạt ai thì trừng phạt. Trong lịch sử liên bang Xô Viết khoảng thời gian 1932 đến 1933, Stalin đã trừng phạt người dân tại Ukraina bằng cách bắt phải chết đói, vì họ chống lại việc cưỡng bức tập thể hóa và bị đe dọa tước quyền tư hữu ruộng đất. Số người chết vì nạn đói được ước tính khoảng từ 3 đến 10 triệu người. Về sự kinh hoàng của cuộc Cách Mạng Tháng 10 và sản phẩm của nó là các chế độ cộng sản, tác giả S.Courtois, cùng với mười tác giả khác như N.Werth, J.P. Panné, A. Paczkovski… trong cuốn sách tựa đề “Khủng Bố Đỏ“ đã đưa ra con số tổng kết là ít nhất đã có khoảng 100 triệu người bị các chế độ cộng sản tàn sát kể từ Cách Mạng Tháng 10 Nga đến 1989 ở Afghanistan; từ những cuộc thanh trừng của Stalin trong thập niên 1930, đến các cuộc cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, Việt nam; từ cuộc Cách mạng Đại Nhảy Vọt“, Cách mạng Văn hoá ở nước Tàu, đến Pol Pot ở Cambốt, Mengistu ở Ethopie, tàn sát Rwanda,... Trong đó riêng tại Nga, các nhà sử học ước tính có khoảng từ 20 đến 40 triệu người bị chế độ của Stalin giết chết trong các trại tập trung và các nhà tù thời Xô-Viết trước đây. Nếu so với chế độ Phátxít với 25 triệu người bị giết, thì nạn nhân bị chết dưới các chế độ cộng sản lớn hơn gấp 4 lần. Trong bảng “the Greatest Monsters“ (http://www.filibustercartoons.com/m...) xếp hạng thứ tự những nhà độc tài giết nhiều người nhất thì các lãnh tụ Cộng Sản nổi tiếng đều có tên. Như đã đề cập ở phần Quốc Tế Cộng Sản, khi Liên Xô xuất cảng Chủ nghĩa cộng sản sang các nước khác qua hình thức áp đặt (như ở Đông Âu) hoặc do một số cán bộ cộng sản địa phương mang về (như tại các nước Đông Nam Á, Trung và Nam Mỹ, Phi Châu), thì các đảng công sản tại các nơi đó đều rập khuôn theo mô thức của Lenin thực hành từ những ngày đầu cuộc Cách Mạng Tháng 10. Đó là:  Cướp chính quyền bằng bạo lực;  Đàn áp, khủng bố, giết chóc, thanh trừng,… để tóm thu quyền lực;  Bần cùng hóa, nô lệ hóa, công cụ hóa người dân để phục vụ cho một thiểu số cầm quyền nhân danh xây dựng một xã hội đại đồng không tưởng. Với Việt Nam thì ông Hồ Chí Minh khi vớ được ”Đề Cương về Các Nước Thuộc Điạ” của Lenin đã mừng như “người sắp chết khát trong sa mạc tìm được nước uống” và ông ta đã rước chủ nghĩa cộng sản về nước ta. Tính chất tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế của ông Hồ Chí Minh được thể hiện qua một câu của ông ta trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập nói về việc ông đã hoàn thành chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế khi đưa “cách mạng” về Đông Dương. Tương lai nào cho Cách Mạng Tháng 10? Sau khi các chế độ cộng sản Đông Âu và Liên xô sụp đổ vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, hàng trăm triệu người dân các nước Đông Âu và Liên xô cũ đã dần dần phục hồi lại vai trò làm chủ và quyền tự quyết cho vận mệnh của mình. Đến nay, sau 23 năm canh tân và xây dựng, tuy còn một số nước vẫn chưa thể tẩy xóa những dấu vết di hại sau mấy mươi năm dưới ách cộng sản độc tài, nhưng họ đã vượt qua được rất nhiều khó khăn mọi mặt, để từ một xã hội mà tất cả là công cụ của cổ máy nhà nước phục hồi trở lại xã hội công dân. Và nhờ có tự do ngôn luận, tự do thông tin v.v... người dân các nước Đông Âu đã từng bước gạn lọc được để có một chính quyền của dân và vì dân đúng nghĩa. Đây là giai đoạn học cách sống và sử dụng các phương tiện dân chủ phải đi qua của mọi dân tộc vừa thoát ách độc tài. Hầu hết các nước Đông Âu như Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Bulgary, Albania,... đều đã có nền dân chủ vững chắc, nền kinh tế chan hòa với Âu Châu và thế giới. Nhưng có lẽ thành công hơn cả là đã đem lại công bình và công lý cho mọi công dân qua những thay đổi xã hội một cách ôn hòa. Cộng Sản là tai họa kinh hoàng cho cả nhân loại trong thế kỷ qua! Đây là điều mà người ta không thể chối cãi. Chính vì thế mà nay nhân loại không chỉ bỏ vào đống rác lịch sử mà còn dạy các thế hệ tương lai về loại "tai họa giết người nhiều nhất" này của thế kỷ 20. Năm nay, trước những ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng 10 thì ngẫu nhiên lại xẩy ra những hiện tượng đáng suy ngẫm về tương lai của cuộc cách mạng này. Quan trọng nhất có lẽ phải kể đến việc đảng CS Trung Quốc đã vứt bỏ chủ nghĩa Marx – Lenin trong cương lĩnh của họ ngay trước những ngày đại hội đảng lần thứ 18 sắp diễn ra. Ở Bắc Hàn, người ta đã tháo gỡ bức chân dung vĩ đại của Marx và Lenin từng ngự trị ở công trường Kim Nhật Thành, Bình Nhưỡng, từ khi chế độ cộng sản lên cầm quyền đến nay. Tượng Lenin ở Ulan-Bator, thủ đô Mông Cổ, cũng vừa được kéo xuống vào tháng trước. Ở Nga, hôm 30 tháng 10 (ngày tù nhân chính trị dưới thời Sô Viết) các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền tại Nga đã đứng ra tổ chức lễ tưởng niệm cho hàng triệu nạn nhân dưới thời Liên Xô bị bắn, bị lưu đày hay bị đưa vào các trại cải tạo. Cũng ở Nga, tại thành phố Boulouvo, ngoại ô Mạc Tư Khoa, các buổi cầu nguyện chung đã được tổ chức cho 20.000 người đã bị xử tử và chôn tập thể chỉ riêng tại nhà tù của thành phố này. Trong khi chủ nghĩa Marx – Lenin bị chôn vùi ngay chính quê hương sản sinh ra nó, thì khốn khổ cho dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục phải ôm đống rác rưởi đó. Mặc dù chính Marx từng nói: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương cách phê phán thế giới cũ, để tìm được thế giới mới. Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi”. Và “Ngay khi viết học thuyết về chủ nghĩa tư bản, qui luật giá trị thặng dư, qui luật phản ứng của giai cấp công nhân bị bóc lột… ở đầu thế kỷ 19 Mác và cả Anghen đều cho công trình của mình chỉ như một thứ dự báo. Nó chỉ phù hợp với thời điểm ấy, chứ không thể phù hợp với tất cả mọi thời điểm trước và sau nó.” (2) Thế nhưng, lãnh đạo đảng CSVN lại vẫn coi học thuyết Mác là bất di bất dịch, là kinh điển … của mọi thời đại! Thậm chí tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng còn sang tận Cuba để rao giảng những thứ này, và tượng Lenin vẫn sừng sững ở vườn hoa Canh Nông cũ để dân gian có bài thơ mỉa mai: “Lênin ông ở nước Nga. Cớ sao ông đến vườn hoa nước này? Ông ngửng mặt, ông chỉ tay. Xã hội chủ nghĩa nước này còn lâu (3) Hai thập niên trước đây “tiến sĩ sinh học Hà Sĩ Phu viết tiểu luận "Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ". Bằng lý luận khoa học sắc sảo, ông đã vạch ra rằng động lực phát triển của xã hội là trí tuệ chứ không phải là đấu tranh giai cấp như luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin mà hàng triệu tín đồ cộng sản trên thế giới đang mê muội tôn sùng (4). Không lâu sau đó những khẩu hiệu “chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch”, “Cách Mạng Tháng 10 vĩ đại muôn năm”, v.v...suốt mấy chục năm được giăng đầy đường cùng với các lễ lạc hội hè đình đám kỷ niệm thật trọng thể Cách Mạng Tháng 10 đã âm thầm biến mất. Thế nhưng, ở đầu thập niên thứ 2 của thế kỷ 21, các lãnh đạo Việt Nam vẫn nhẫn tâm tiếp tục ra lệnh nhồi nhét chủ nghĩa Mác-Lê vào đầu thanh niên sinh viên; vẫn lạnh lùng xiềng bước tiến của đất nước bằng “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”; và vẫn nghiến răng bóp cổ cả dân tộc bằng “nhà nước chuyên chính”. ============= Tham khảo: 1. Minh Đức, “21 Điều Lệ để được gia nhập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản”, http://minhduc7.blogspot.ca/2012/08... 2. Hoàng Lại Giang, “Đừng tiếc nuối những gì mà loài người đã loại bỏ đi!” http://anhbasam.wordpress.com/2011/... 3. Bùi Tín, “Mặt Thật”. 4. Blog Huỳnh Ngọc Chênh, “Dắt Tay Nhau Đi...” http://huynhngocchenh.blogspot.ca/p...
......

Pages